- Cạnh tranh giành thị phần. Một trong những biện pháp marketing các hãng có thể sử dụng để cạnh tranh nhằm tăng thị phần trên một thị trường là bán với giá thấp hơn chi phí lề trong một thời gian ngắn với hy vọng lượng hàng bán tăng trong tương lai với giá bình thường sẽ bù đắp phần lỗ.
Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gọi là "bán phá giá" để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội.
69 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm các nước và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất khẩu khác.
Trường hợp số lượng nhà xuất khẩu quá lớn thì Ủy ban sẽ thỏa thuận với các nhà xuất khẩu để giới hạn chỉ điều tra một nhóm các nhà xuất khẩu.
Trường hợp nhà xuất khẩu bán hàng cho công ty liên kết ở thị trường trong nước thì Ủy ban sẽ tính GTTT trên cơ sở giá mà công ty liên kết bán hàng cho khách hàng trên thị trường nội địa.
b. Xác định giá xuất khẩu
EU qui định giá xuất khẩu (GXK) là giá bán thực tế của sản phẩm khi xuất khẩu vào EU. Cơ quan điều tra thường trừ bớt các chi phí để lấy GXK là mức giá xuất xưởng ở nước xuất khẩu. Khi nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm cho một công ty thương mại hoặc công ty môi giới không có mối liên kết với nhau thì GXK sẽ là giá mà công ty thương mại hoặc công ty môi giới trả cho nhà sản xuất.
Giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng GXK có thể tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại cho người mua độc lập đầu tiên sau khi đã điều chỉnh các chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lại trong những trường hợp sau:
không có giá xuất khẩu; hoặc
có một mối liên kết hoặc thỏa thuận đền bù giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba; hoặc
giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì một lý do nào đó.
Qui chế chống bán phá giá cũng qui định việc lấy giá xuất khẩu và giá trị thông thường ở cùng thời điểm để so sánh và cần điều chỉnh ở một mức độ nhất định khi so sánh hai loại giá này để đảm bảo kết quả so sánh phản ánh trung thực biên độ phá giá.
c. Biên độ phá giá
Cơ quan điều tra của EU xác định biên độ phá giá (BĐPG) như sau:
BĐPG = GTTT (bình quân gia quyền) - GXK (từng giao dịch)
Trước đây EU cũng tính bình quân gia quyền GXK để so sánh nhưng đến năm 1987 đã chuyển sang tính GXK của từng giao dịch.
d. Xác định thiệt hại
Giống như Hiệp định chống bán phá giá, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định 3 yếu tố sau để xác định "thiệt hại về vật chất":
thiệt hại về vật chất thực tế;
nguy cơ gây thiệt hại về vật chất;
gây trì trệ cho sự phát triển một ngành sản xuất của EU
Tuy nhiên Qui chế của EU lại không qui định thế nào là "thiệt hại về vật chất" mà chỉ qui định một số yếu tố cần xem xét, như là khối lượng hàng nhập khẩu, giá và tác động tới ngành sản xuất của EU. Cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định thiệt hại.
EU qui định chỉ được áp dụng thuế chống bán phá giá với một sản phẩm bị bán phá giá khi việc phân phối sản phẩm đó trong EU gây ra thiệt hại về vật chất cho ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự của EU. Khác với Hoa Kỳ, việc xác định phá giá và xác định thiệt hại ở EU đều do cùng một cơ quan tiến hành. Cơ chế này có thuận lợi là nếu xác định được một trong hai yếu tố: phá giá hoặc thiệt hại không tồn tại thì cuộc điều tra sẽ được chấm dứt ngay và như thế đỡ lãng phí nguồn lực điều tra một cách không cần thiết.
Một điểm đặc trưng của cơ chế đánh thuế chống bán phá giá của EU là nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá, nghĩa là trong mọi trường hợp, thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ phá giá và thậm chí sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. EU thường áp dụng nguyên tắc này trong những trường hợp biên độ phá giá tính được quá cao trong điều tra phá giá hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường.
e. Sản phẩm tương tự
Qui chế chống bán phá giá của EU qui định "sản phẩm tương tự" giống như qui định ở Hiệp định chống bán phá giá.
f. Ngành sản xuất trong nước
Theo qui định của EU, ngành sản xuất của EU gồm toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc nhóm các nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng sản phẩm tương tự trong EU. Trên thực tế EU vẫn coi nhóm các nhà sản xuất có sản lượng dưới 50% tổng sản lượng sản phẩm tương tự là ngành sản xuất của EU.
g. Điều tra phá giá từ các nước có nền kinh tế phi thị trường
Khoảng 50% các vụ điều tra phá giá do Ủy ban tiến hành có liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, EU không có qui định thế nào là nền kinh tế phi thị trường mà chỉ đưa ra một danh sách các nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường, bao gồm: Albani, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Bắc Triều tiên, Kyrgyz, Moldova, Mông cổ, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan, Trung quốc và Việt Nam. Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng trường hợp hàng hóa được nhập khẩu từ những nước áp dụng chính sách thương mại độc quyền và giá bán ở thị trường trong nước do nhà nước ấn định thì việc so sánh giá xuất khẩu và giá bán ở thị trường trong nước không phản ánh chân thực biên độ phá giá.
Hiện nay Ủy ban đang đề xuất công nhận tình trạng là nền kinh tế thị trường đối với các doanh nghiệp của Trung quốc, Kazakhstan, Ucraina và Việt Nam trong từng trường hợp cụ thể nếu các doanh nghiệp này chứng minh được hoạt động kinh doanh của họ tuân theo tiêu chí thị trường. Nếu như các nước thành viên EU đều đồng ý thì đề xuất này sẽ được thông qua vào tháng 9 tới.
Để xác định giá trị thông thường cho hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường, Ủy ban sẽ chọn một nước đại diện có nền kinh tế thị trường được EU coi là nước có trình độ phát triển tương tự, thường là một nước thứ ba. Việc chọn nước đại diện là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định GTTT của hàng nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường.
Các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường có thể chứng minh với Ủy ban rằng họ hoạt động theo tiêu chí của nền kinh tế thị trường và nếu được Ủy ban chấp nhận thì họ sẽ được đối xử như các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, CHLB Nga vừa mới được EU công nhận là nền kinh tế thị trường.
EU áp dụng biên độ phá giá trung bình với tất cả các nhà nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường.
2.3.4. Cách tính thuế và truy thu thuế
a. Hình thức đánh thuế
Nếu cuộc điều tra dẫn đến kết quả là có phá giá và thiệt hại và nếu xét thấy cần thiết thì EU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời nhưng không được áp dụng sớm hơn 60 ngày và quá 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra, trường hợp đặc biệt có thể áp dụng trong 9 tháng. EU đánh thuế chống bán phá giá theo 4 hình thức như sau:
thuế phần trăm;
thuế thay đổi trên cơ sở giá tối thiểu;
kết hợp giữa thuế phần trăm và thuế thay đổi;
thuế tuyệt đối.
EU quyết định hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở tính chất của sản phẩm, thuế thay đổi theo giá tối thiểu thường được áp dụng với hàng tiêu dùng. EU thường đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế riêng cho mỗi nhà sản xuất/xuất khẩu nếu biên độ phá giá khác nhau.
w Áp dụng thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm được sản xuất hoặc lắp ráp ở EU
Theo Qui chế chống bán phá giá sửa đổi năm 1987, EU có thể đánh thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm sản xuất hoặc lắp ráp trong EU với những điều kiện sau:
nhà sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm có mối liên hệ hoặc liên kết với bất kỳ nhà sản xuất nào xuất khẩu sản phẩm tương tự đang bị EU đánh thuế chống bán phá giá;
việc lắp ráp hoặc sản xuất được bắt đầu hoặc tăng trưởng đáng kể sau khi tiến hành điều tra phá giá;
giá trị linh kiện hoặc vật liệu sử dụng trong sản xuất hoặc lắp ráp có xuất xứ từ nước xuất khẩu sản phẩm đang bị đánh thuế chống bán phá giá chiếm ít nhất 60% tổng giá trị linh kiện và vật liệu.
Trường hợp này thuế suất áp dụng sẽ bằng thuế suất áp dụng với nhà sản xuất ở nước xuất xứ sản phẩm liên quan, giá tính thuế sẽ là giá CIF của linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu. Các nhà máy sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm trong EU, nếu thấy sản phẩm của mình rơi vào các điều kiện trên thì phải thông báo với cơ quan hải quan nước mình trước khi xuất xưởng để bán trên thị trường EU.
b. Biên độ thiệt hại
Cơ chế chống bán phá giá của EU thường hay đề cập đến yếu tố “biên độ thiệt hại”. Theo nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá thì cơ quan điều tra của EU sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. Vì vậy, cơ quan điều tra thường tính mức độ sụt giá của sản phẩm nội địa tương tự do tác động của hàng nhập khẩu hoặc mức giá nội địa phải tăng lên để đủ thu hồi chi phí cộng với một khoản lợi nhuận nhất định cho nhà sản xuất trong nước. Mức giá đó gọi là “biên độ thiệt hại”, nếu biên độ này nhỏ hơn biên độ phá giá thì EU sẽ đánh thuế chống bán phá giá đúng bằng biên độ thiệt hại.
c. Truy thu thuế
Quy chế chống bán phá giá của EU cho phép truy thu thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng nhập khẩu không quá 90 ngày trước khi đánh thuế tạm thời với những điều kiện như sau:
có một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã biết rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại;
lượng hàng nhập khẩu rất lớn bị bán phá giá trong thời gian ngắn gây ra thiệt hại đến mức cần phải truy thu thuế chống bán phá giá thì mới ngăn ngừa được việc tiếp tục phá giá; hoặc
việc cam kết giá bị vi phạm.
Mặc dù trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra của EU đã xem xét đến khả năng truy thu thuế nhưng thực tế cho đến nay EU chưa truy thu thuế lần nào.
Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định trong suốt thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu liên quan bất kể có bị bán phá giá hay không. Vì vậy có thể có mặt hàng sẽ bị đánh thuế vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền và Qui chế của EU cho phép hoàn thuế trong trường hợp như vậy. Đơn xin hoàn thuế phải được nộp cho cơ quan điều tra của EU thông qua nước thành viên nhập khẩu sản phẩm liên quan trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhập khẩu.
Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra ít trường hợp hoàn thuế vì thủ tục hoàn thuế tốn rất nhiều thời gian, có thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá.
d. Rà soát
Rà soát thông thường
Các bên liên quan (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có thể đề nghị cơ quan điều tra của EU tiến hành rà soát sớm nhất là 1 năm sau khi kết thúc cuộc điều tra ban đầu. Một nước thành viên EU hoặc cơ quan điều tra của EU cũng có thể kiến nghị tiến hành rà soát, nhưng trường hợp này hiếm khi xảy ra.
Khi có yêu cầu rà soát, cơ quan điều tra của EU sẽ kiểm tra xem có đủ bằng chứng, bao gồm các yếu tố: việc bán phá giá tăng hay giảm, vi phạm cam kết giá, thiệt hại gia tăng, v.v..., về việc bối cảnh thay đổi không. Tùy thuộc bối cảnh cụ thể của từng trường hợp, việc rà soát có thể dẫn đến một cuộc điều tra mới với qui mô như cuộc điều tra ban đầu.
Mặc dù có qui định về việc rà soát, nhưng trên thực tế các nhà xuất khẩu trong cơ chế chống bán phá giá của EU vẫn bị phụ thuộc nhiều vào kết quả của cuộc điều tra đầu tiên, vì cuộc điều tra này quyết định mức thuế mà các nhà xuất khẩu phải chịu chừng nào biện pháp chống bán phá giá chưa được hủy bỏ hoặc sửa đổi. Khi biên độ phá giá giảm hoặc triệt tiêu thì họ có thể đề nghị rà soát. Nhưng rà soát có thể tốn nhiều thời gian như cuộc điều tra đầu tiên và sau khi rà soát, nếu biện pháp chống bán phá giá được sửa đổi thì cũng sẽ chỉ áp dụng với hàng nhập khẩu trong tương lai chứ không áp dụng với hàng đã nhập khẩu.
Rà soát cuối kỳ
Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng thuế chống bán phá giá và cam kết giá chỉ được áp dụng trong vòng 5 năm kể từ ngày các biện pháp này có hiệu lực hoặc kể từ lần sửa đổi gần nhất. Trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc giai đoạn 5 năm, cơ quan điều tra của EU sẽ thông báo cho các nhà sản xuất có liên quan của EU về việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi trao đổi với Ủy ban chống bán phá giá của WTO. Nếu các bên liên quan kiến nghị rằng việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá có thể lại gây hoặc có nguy cơ gây thiệt hại thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành rà soát, nếu không thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tự động chấm dứt.
CHƯƠNG 3: CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC
ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM
3.1. Đánh giá về khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp bán phá giá
Đối phó với biện pháp chống bán phá giá của các đối tác thương mại khác thường là rất khó khăn, phức tạp. Trong những trường hợp gặp phải các đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, có kinh nghiệm trong thương mại quốc tế và có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và cộng đồng doanh nghiệp, thì cơ hội thắng cuộc một cách chủ động không cao mà nhiều khi phụ thuộc vào chính sự cân bằng quyền lợi của các nhóm lợi ích khác nhau trong nội bộ đối tác đó. Vai trò của ta trong những trường hợp này đôi khi chỉ là hậu thuẫn cho những nhóm bị thiệt hại do các biện pháp chống bán phá giá gây ra mà thôi.
Những khó khăn chủ yếu của Việt nam khi phải đối phó với tranh chấp phá giá là:
Khó khăn lớn nhất là chúng ta hầu như chưa biết gì về luật thương mại quốc tế liên quan tới bán phá giá.
Hầu như tất cả các cán bộ nhà nước chịu trách nhiệm về vấn đề này đều chưa có kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay Việt nam chưa lần nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với hàng xuất khẩu của ta bị điều tra phá giá còn ít. Hơn thế nữa, giới nghiên cứu khoa học cũng chưa quan tâm đến vấn đề bán phá giá. Hệ thống đào tạo về luật và thương mại cũng chưa có chương trình và đội ngũ giảng dạy về bán phá giá. Trong bối cảnh như vậy nên chúng ta cũng không có luật sư hay nhà tư vấn nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong phú về phá giá cả, trong khi đó thì để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá giá đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan. Chẳng hạn, phải có một cơ quan đầu mối về các tranh chấp liên quan tới bán phá giá. Cơ quan này phải làm việc chặt chẽ với các bộ ngành liên quan. Hơn thế nữa phải phối hợp hành động với các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng, v.v... Mặc dù chúng ta đang cải cách nền hành chính quốc gia, chính phủ nhiệm kỳ mới vừa được thành lập nhưng rõ ràng là sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thích hợp để giải quyết tranh chấp phá giá. Đó là chưa tính tới sự liên kết của các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu với nhau còn tỏ ra yếu kém. Có thể thấy nếu sự thiếu kiến thức và kinh nghiệm là khó khăn lớn nhất thì khó khăn tiếp theo chính là sự phối hợp của ta còn thấp.
Khó khăn lớn thứ ba là hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại của Việt Nam còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường chưa được hai thập kỷ. Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại của chúng ta đã được xây dựng mới và bổ sung, sửa đổi liên tục nhưng rõ ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp luật của chúng ta không thể đầy đủ và phù hợp với luật thương mại quốc tế ngay được. Trong lĩnh vực chống bán phá giá, chúng ta chưa có luật để đối phó với hàng nhập khẩu vào Việt nam bị bán phá giá cũng như những qui định cần thiết để đối phó với việc hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác thương mại khác áp dụng biện pháp này.
Trong việc đối phó với biện pháp chống phá giá thì ngoài luật về chống bán phá giá chúng ta còn cần hoàn chỉnh các luật liên quan khác phù hợp với chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, điều tra xác định biên độ phá giá là vấn đề rất phức tạp về kỹ thuật, những quy định về kế toán có tầm quan trọng lớn trong những tính toán cụ thể về chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, v.v... Nếu không có hệ thống kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế thì rất khó có thể điều tra và có kết luật thích hợp được.
Trong việc đối phó với biện pháp chống bán phá giá cũng cần cải tổ hệ thống toà án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra toà các quyết định liên quan tới biện pháp chống phá giá của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Trong trường hợp ta chủ động áp dụng biện pháp chống bán phá giá thì hệ thống toà án của ta có lẽ chưa đủ điều kiện để giải quyết khiếu kiện kiểu này, còn trong trường hợp ta phải đối phó với biện pháp chống phá giá của các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm sử dụng cơ chế kiện ra toà chống lại quyết định của các cơ quan hành chính có thẩm quyền của họ.
Trên thực tế chính sách thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng lớn bởi quan hệ chính trị giữa các đối tác. Các biện pháp chống bán phá giá cũng không năm ngoài qui luật chung đó. Trong trường hợp hàng xuất khẩu của Việt nam bị nước ngoài điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chúng ta có thể gây áp lực chính trị với họ. Nhưng với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, khoa học kỹ thuật, v.v... của chúng ta hiện nay, chúng ta cần thấy rõ áp lực của chúng ta không đủ mạnh. Ngược lại, trong trường hợp chúng ta chủ động tiến hành điều tra áp dụng biện pháp này với hàng nhập khẩu thì có thể dự đoán rằng một số nước có thể dùng sức mạnh chính trị để ép chúng ta nhân nhượng họ, chẳng hạn họ có thể dùng những lá bài như viện trợ phát triển chính thức (ODA), gia hạn qui chế đối xử tối huệ quốc (MFN) v.v... để đem ra mặc cả với ta.
Trong việc áp dụng hay đối phó với biện pháp chống bán phá giá, chúng ta cũng không thể không tính đến nhiều chi phí cần thiết kể cả ngoại tệ. Thật vậy, nhiều khi chúng ta cần phải cử các nhóm công tác ra nước ngoài để điều tra, thu thập các thông tin cần thiết, hoặc chúng ta phải tham dự các cuộc gặp do các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để giải trình, cung cấp thông tin hoặc thuyết phục họ chấm dứt điều tra, chấp nhận biện pháp cam kết giá hay áp dụng mức thuế chống bán phá giá ở mức càng thấp càng tốt.
Khó khăn khác liên quan tới giải quyết tranh chấp. Cho tới nay và vài năm tới chúng ta chỉ có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan tới chống bán phá giá trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương
Đặc điểm chung của các hiệp định này là không có quy định đầy đủ về giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc không có cơ chế hoặc cơ quan có chức năng để giải quyết các tranh chấp đó một cách có hiệu quả. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và chống bán phá giá nói riêng có uy tín và hiệu quả nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đây cũng là một nhân tố chúng ta phải tính đến trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan tới chống bán phá giá.
Cuối cùng không thể không lưu ý đến thực tế là một số nước chưa công nhận nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường (KTTT). Cần phải nhìn nhận vấn đề này từ hai khía cạnh. Thứ nhất, không có những tiêu chí rõ ràng khách quan để phân biệt đâu là nền KTTT và đâu là nền kinh tế phi thị trường. Do đó, việc thừa nhận một nền kinh tế là thị trường hay không nhiều khi phụ thuộc vào đánh giá mang tính chủ quan của từng đối tác thương mại và việc đánh giá này có thể chịu ảnh hưởng bởi quan hệ chính trị. Thứ hai, chúng ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta cũng chưa có đánh giá tổng kết nào xem chúng ta đang ở đâu trong quá trình này, hay nói cách khác nền kinh tế của chúng ta đã thực sự là nền kinh tế thị trường hay chưa.
Nếu trong quá trình điều tra phá giá đối với hàng nhập khẩu từ Việt nam mà đối tác chưa công nhận nền kinh tế nước ta là nền KTTT thì chúng ta sẽ gặp bất lợi trong việc chứng minh chúng ta không bán phá giá hoặc bán phá giá với biên độ thấp.
3.2. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam
3.2.1. Các qui định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, ta cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống bán phá giá, tự vệ, hạn ngạch thuế quan.
Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001.
3.2.2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước
Áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới, v.v nhân với thuế nhập khẩu.
Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn,việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất.
Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu, tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội.
Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hóa khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa Kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép.
Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy, thuế này chỉ được áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, v.v... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự của nước xuất khẩu.
Các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt.
3.2.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá
Việt nam đang xây dựng nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn một thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2020 Việt nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hóa lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngành này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tư vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hóa học, v.v... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu, v.v... Trong lĩnh vực thủy sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt nam có lợi thế so sánh cao như lúa gạo hay nuôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã bán phá giá vào Việt nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng, nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện.
Trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với qui mô sản xuất hàng hóa như công nghiệp hóa dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản, v.v... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, Việt nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn.
Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt nam là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hóa, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như qui mô.
Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh chính trị đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân, thì sức mạnh chính trị của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này.
3.2.4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam
Như đã phân tích ở trên, khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chung về mặt kinh tế của toàn xã hội có thể bị giảm.
Vấn đề đầu tiên đặt ra là có nên áp dụng thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này đã được tuân thủ.
Nói cách khác, ngay cả khi đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá theo các qui định của Hiệp định về thuế chống bán phá giá của WTO, cơ quan chức năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt chính phủ thấy rằng hiệu quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông dân đó nuôi dê, mặt khác chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch, trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó không nhất thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá với thịt cừu nhập khẩu từ New Zealand.
Thứ hai, hiện nay Việt nam vẫn chưa có văn bản pháp lý làm cơ sở áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong bối cảnh nhiều ngành xản xuất hàng hoá đang phát triển khá nhanh, việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể là cần thiết để bảo hộ một số nhà sản xuất nhất định. Do đó, Việt nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá dựa trên Hiệp định tương ứng của WTO. Để có thể triển khai được công cụ này trên thực tế, văn bản pháp lý cần phải có những qui định rất cụ thể về các cơ quan thực thi, đặc biệt là các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá thiệt hại.
Thứ ba, song song với việc ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới áp dụng thuế này. Chẳng hạn, cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để họ có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng thuế này. Thật vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của WTO. Do đó có nhiều tình huống Việt nam phải đương đầu với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Nếu không có sự đào tạo các luật sư có đủ năng lực thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thứ tư, Việt nam cũng cần củng cố và khuyến khích các nhà sản xuất thành lập các hiệp hội. Thông qua hiệp hội các nhà sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng khởi đầu điều tra phá giá. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu, v.v... Nhà nước cần có kế hoạch phổ biến cho các hiệp hội về các vấn đề liên quan tới thuế chống bán phá giá.
Cuối cùng, Việt nam cần tích cực theo dõi những diễn biễn của Vòng đàm phán Doha về “Các qui tắc mới” (New Rules), trong đó có khả năng các thành viên WTO sẽ xem xét, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiệp định về thuế chống bán phá giá. Đồng thời Việt nam cũng cần nghiên cứu về xu hướng áp dụng thuế này trên thế giới để có thể có những quyết định thích hợp với các đối tác thương mại, vừa cân bằng được lợi ích của nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng trong nước, vừa không gây căng thẳng trong quan hệ thương mại, ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.3. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực. Chính sách thương mại của Việt Nam đang có những thay đổi sâu sắc theo đúng đường lối đó, cụ thể là chính sách thương mại ngày càng tự do hóa và phù hợp dần với các nguyên tắc và quy định của luật thương mại quốc tế.
Về thuế quan, thuế suất với hầu hết các mặt hàng sẽ giảm dần. Đồng thời, Việt Nam cũng phải cam kết ràng buộc với phần lớn biểu thuế nhập khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam không thể tăng thuế suất một cách tùy tiện.
Về các hàng rào phi thuế quan, Việt Nam có thể duy trì các hàng rào phi thuế quan không phù hợp với thông lệ quốc tế trong vòng vài năm nữa. Nhưng chắc chắn sau đó các hàng rào này sẽ phải loại bỏ. Khi đó, chỉ có thuế quan là công cụ bảo hộ trực tiếp cho một số ngành sản xuất hàng hóa trong nước hiện nay sức cạnh tranh còn kém.
Ngoài ra, Việt Nam đang tham gia khá chủ động và tích cực vào các khu vực thương mại quốc tế và khu vực, kể cả các khu vực mậu dịch tự do (FTA). Việt Nam đã là thành viên của Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM). Sự tham gia các tổ chức thương mại này sẽ gắn nền kinh tế Việt Nam ngày càng chặt chẽ với các nền kinh tế khác.
Việt Nam cũng đang cùng các nước ASEAN khác đàm phán thành lập hai khu vực thương mại tự do mới. Đó là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – CER giữa ASEAN với Australia và New Zealand và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung quốc.
Song song với việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực hoặc đàm phán để thành lập các khu vực thương mại tự do mới, Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Như vậy có thể thấy rằng trong vòng năm đến mười năm nữa chính sách thương mại của Việt Nam tương đối tự do và phù hợp với các chuẩn mực của luật thương mại quốc tế.
Rõ ràng là từ nay trở đi các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, cả thuế quan lẫn phi thuế quan - đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu không tự động, sẽ ngày càng giảm. Việt Nam cần phải áp dụng các công cụ mới vừa có tác động bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng vừa phù hợp với luật thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá là một công cụ như vậy.
Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường, không bị cấm theo qui định của luật thương mại quốc tế. Khi mà Việt Nam phải cắt giảm các biện pháp hạn chế định lượng thì khả năng hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam sẽ càng tăng. Vì vậy, Việt Nam cần phải nhanh chóng áp dụng thuế chống bán phá giá. Đây vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước, vừa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài.
3.4. Giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
Như phần trên đã phân tích, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần cân nhắc tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá phù hợp với các qui định liên quan của WTO. Muốn vậy, Việt Nam cần nhanh chóng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá, xây dựng bộ máy thực thi có hiệu quả và đặc biệt là phải làm tốt công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp nắm rõ về biện pháp này.
3.4.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá
Thuế chống bán phá giá đã được áp dụng trên thế giới cách đây gần 100 năm và ngày càng được áp dụng nhiều hơn không những ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển.
Việt Nam đã cân nhắc tới việc áp dụng thuế này. Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 đã cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001.
Mặc dù vậy, những qui định tại hai văn bản pháp quy này còn quá sơ sài. Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá phù hợp với qui định của WTO Việt Nam cần sớm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá trên cơ sở các quy định của Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO, có tham khảo tới luật và thực tiễn áp dụng của một số thành viên WTO.
3.4.2. Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá
Trên thực tế ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã khó nhưng thực thi nó còn khó hơn. Cần phải có bộ máy thực thi hiệu quả thì mới đạt được mục tiêu của Pháp lệnh cũng như tránh được các tranh chấp quốc tế do việc áp dụng thuế chống bán phá giá không phù hợp với Hiệp định về Chống bán phá giá.
Tháng 6 năm 2002 Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Song song với xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, Việt Nam cũng đang xây dựng Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp. Đây là những biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo hộ nhà sản xuất trong nước với điều kiện chung là hàng nhập khẩu gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự trong nước.
Do đó cần cân nhắc tới bộ máy duy nhất thực thi cả ba biện pháp này. Trong hoàn cảnh Việt Nam đang cải cách hành chính, tinh giản bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, có lẽ khó có thể thành lập một cơ quan chuyên trách. Hơn nữa, kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Việt Nam cũng chưa quá lớn nên nếu lập một cơ quan chuyên trách có thể không hiệu quả.
Như vậy có thể thành lập một bộ phận không chuyên trách phụ trách cả ba biện pháp. Các thành viên của bộ phận này là các cán bộ có chuyên môn sâu về thương mại quốc tế, luật quốc tế, kế toán, v.v...
3.4.3. Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp
Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự tham gia phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương và doanh nghiệp.
* Các cơ quan quản lý nhà nước
Cần nhanh chóng tổ chức các khóa đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo cán bộ các bộ ngành. Nội dung của các khóa đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những qui định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá.
* Các cơ quan nghiên cứu
Các cơ quan nghiên cứu cần triển khai nghiên cứu các đề tài về chống bán phá giá và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá.
Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc đưa ra các khuyến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra.
* Các doanh nghiệp
Cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra, v.v...
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần biết rõ nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng có thể bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm biện pháp đối phó khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá.
KẾT LUẬN
Trong thương mại quốc tế bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường. Tuy nhiên những năm gần đây song song với thương mại toàn cầu ngày càng tự do hoá thì các biện pháp chống bán phá giá được áp dụng ngày càng tăng. Đã có những ý kiến cho rằng biện pháp này đã bị lạm dụng như một hàng rào phi thuế quan để bảo hộ cho sản xuất trong nước.
Nhìn chung qui định của các nước về chống bán phá giá đều dựa trên Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cụ thể khi nào hàng nhập khẩu bị coi là bán phá giá dựa trên hai tiêu chí là giá xuất khẩu thấp hơn giá bán trong nước hoặc thấp hơn chi phí sản xuất. Hiệp định cũng qui định chặt chẽ về điều tra thiệt hại của ngành sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Mỗi thành viên của WTO chỉ có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước.
Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá cần phải cân nhắc cẩn thận tới ý nghĩa kinh tế của hiện tượng bán phá giá để có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong văn bản luật phải coi lợi ích toàn xã hội cao hơn lợi ích riêng của các nhà sản xuất. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước khác trong lĩnh vực này thì mức thuế chống bán phá giá tốt sẽ là mức thuế cân bằng được lợi ích của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Chính sách thương mại của Việt nam đã tiến một bước dài theo hướng tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chính sách này đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của Việt nam trong những năm qua. Song song với việc tiếp tục cải cách chính sách thương mại theo hướng tự do hoá hơn nữa để có thể trở thành thành viên WTO trong vài năm tới, Việt nam cũng cần nhanh chóng ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá để có cơ sở pháp lý áp dụng công cụ này như một công cụ bảo hộ mới có hiệu quả và phù hợp với luật thương mại quốc tế. Ngoài ra Việt Nam cũng cần đẩy mạnh hoạt động đào tạo cán bộ có kiến thức vững vàng về biện pháp này và tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về các vấn đề liên quan tới bán phá giá. Điều này vừa là tiền đề cần thiết để sử dụng tốt biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ cho nền sản xuất trong nước, vừa để tăng khả năng đối phó một cách có hiệu quả với những tình huống khi hàng xuất khẩu của Việt Nam bị các nước khác điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá trên thị trường các quốc gia này.
PHỤ LỤC I
CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU TỪ VIỆT NAM BỊ ĐIỀU TRA VÀ ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Năm
Nước
Mặt hàng
Tiến trình điều tra
1.
1994
Colombia
Gạo
Không đánh thuế vì mặc dù có bán phá giá ở mức 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa gạo của Colombia.
2.
1998
EU
Mì chính
Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 16,8%.
3.
1998
EU
Giầy dép
Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung quốc, Indonesia và Thái lan.
4.
2000
Ba lan
Bật lửa
Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 0,09 Euro/chiếc.
5.
2001
Canada
Tỏi
Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 1,48 dollar Canada/Kg.
6.
2002
Canada
Giày không thấm nước
Bắt điều tra từ tháng 26/4/2002
7.
2002
EU
Bật lửa
Bắt đầu điều tra từ 28/6/2002
8.
2002
Hoa Kỳ
Cá da trơn
Bắt đầu điều tra từ 19/7/2002
PHỤ LỤC II
CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM CÓ THỂ BỊ BÁN PHÁ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG TỚI SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
I. Khả năng bán phá giá hàng hóa vào thị trường Việt Nam
Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và không bị cấm theo qui định của WTO. Theo thống kê, các mặt hàng bị bán phá giá trên thị trường quốc tế chủ yếu là hàng phi nông sản như: sắt thép, xi măng, hóa chất, hàng điện tử, hàng dệt.
Việt Nam chưa ban hành văn bản pháp quy về chống bán phá giá nên chưa tiến hành cuộc điều tra phá giá nào. Trên thực tế, trong 10 năm vừa qua, Việt Nam đã áp dụng khá chặt chẽ các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, đồng thời quyền kinh doanh nhập khẩu cũng chưa được tự do hóa nên hàng nhập khẩu cho dù được bán phá giá vào thị trường Việt Nam cũng khó gây ra thiệt hại lớn cho sản xuất hàng hóa tương tự trong nước.
Việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế như: tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa kỳ, cam kết với IMF/World Bank, và đàm phán gia nhập WTO sẽ dẫn đến kết quả là Việt Nam dần dần thực hiện mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Khi đó nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá chắc sẽ gây ra nhiều thiệt hại lớn cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước.
II. Các mặt hàng nhập khẩu có khả năng bị bán phá giá vào thị trường Việt Nam và tác động tới sản xuất trong nước
Vì Việt Nam chưa bao giờ điều tra phá giá nên không có số liệu chính thức về hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Trên thực tế những mặt hàng sau đây có khả năng bị bán phá giá:
Xi măng
Các nước trong khu vực như Thái lan, Trung quốc là những nước sản xuất xi măng rất mạnh. Sản lượng xi măng của các nước này tại một thời điểm nào đó có thể bị dư thừa so với nhu cầu trong nước do khủng hoảng kinh tế hoặc bất hợp lý trong khâu lập kế hoạch sản xuất, v.v, khi đó rất có khả năng Thái lan hoặc Trung quốc sẽ bán phá giá xi măng sang Việt Nam vì Việt Nam là thị trường tương đối lớn trong khu vực và có tốc độ xây dựng phát triển mạnh.
Việc bán phá giá xi măng vào thị trường Việt Nam trước hết sẽ có lợi cho người tiêu dùng và ngành xây dựng. Tuy nhiên, đối với ngành công nghiệp xi măng của ta, vốn là một ngành được bảo hộ cao, thì đây lại là một khó khăn lớn.
Sắt thép
Ở Hoa Kỳ thì sắt thép là mặt hàng nhập khẩu bị điều tra phá giá nhiều nhất (chiếm một nửa số vụ điều tra phá giá). Từ năm 2001 trở về trước, Việt Nam duy trì giấy phép nhập khẩu đối với thép xây dựng nên ta chưa quan tâm tới việc sắt thép nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Tuy nhiên có nhiều khả năng một số sắt thép nhập khẩu từ Nga, Hàn quốc đã bị bán phá giá vào Việt Nam. Ngành thép của các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản hiện nay đều đang gặp khó khăn. Khi Việt Nam đã bỏ giấy phép nhập khẩu và các nước có nền công nghiệp thép mạnh như Hàn quốc, Nhật bản, các nước thuộc khối SNG bán phá giá sắt thép vào Việt Nam thì thiệt hại cho ngành sắt thép trong nước sẽ rất lớn.
Tuy nhiên khi đó các ngành công nghiệp sử dụng sắt thép làm nguyên vật liệu đầu vào sẽ có lợi.
Giấy
Trong 6 tháng đầu năm 2002, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn vì có khả năng giấy nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam: giá giấy nhập khẩu là 380 USD/tấn, trong khi giá bột giấy nhập khẩu đã là 400 USD/tấn. Tuy nhiên muốn khẳng định điều này đúng hay không cần phải tiến hành điều tra vì các giá trên có thể chưa được so sánh một cách xác đáng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO
Pháp luật Chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam và hướng dẫn thi hành
TS. Đinh Thị Mỹ Loan – “Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” – NXB Lao động xã hội – 2006
TS. Đinh Thị Mỹ Loan – “Các vụ kiện chống bán phá giá, các đặc điểm cần lưu ý đối với doanh nghiệp Việt Nam” – www.tapchicongsan. org.vn
Đoàn Văn Trường – “Bán phá giá và các biện pháp chính sách chông bán phá giá hàng nhập khẩu” – NXB Thống kê – 1998
Đoàn Văn Trường – “Bán phá giá - Phương pháp xác định mức phá giá và mức độ thiệt hại” – NXB Khoa học kỹ thuật – 2006
Đoàn Văn Trường – “Chống bán phá giá đã trở thành trở ngại hàng đầu trong thương mại quốc tế” - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 6/2006
GS. TS Đỗ Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng – Giáo trình Kinh tế quốc tế – NXB Lao động xã hội - 2005
TS. Nguyễn Hữu Khải – “Hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế” – NXB Lao động xã hội – 2005
Hà Anh - “Số lượng điều tra các vụ bán phá giá gia tăng” – www.viettrade.gov.vn
TS. Hà Thị Ngọc Oanh – “Kinh tế đối ngoại, những nguyên lý và vận dụng tại Việt Nam” – NXB Tài chính – 2007
GS.TS. Võ Thanh Thu – “Quan hệ kinh tế quốc tế” – NXB Thống kê – 2008
ThS. Nguyễn Tiến Vinh – “Chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” – www.chongbanphagia.vn
ThS. Nguyễn Trần Duy – “Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” - Luận văn ThS - 2008
“Số liệu các vụ kiện chống phá giá và trợ cấp của EU” – www.ec. europa.eu
“Kiện bán phá giá” – www.chongbanphagia.vn
“Cơ chế chống bán phá giá và tự vệ - Kinh nghiệm của Canada và Thái Lan” – www.chongbanphagia.vn
“Thái Lan – thông tin về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ” – www.chongbanphagia.vn
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT
Chữ cái viết tăt
Nghĩa của từ
Tiếng Anh
Tiếng Việt
01
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
02
APEC
ASIA Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương
03
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
04
ASEM
Asia Europe Meeting
Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
05
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
06
ĐPT
Đang phát triển
07
FTA
Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do
08
Mutrap
Multilateral Trade Assistance Project
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên
09
NĐ
Nghị định
10
PGS
Phó giáo sư
11
PT
Phát triển
12
RFC
Reference Centre
Trung tâm dữ liệu thông tin
13
TS
Tiến sĩ
14
TTg
Thủ tướng chính phủ
15
UBND
Uỷ ban nhân dân
16
UBQG
Ủy ban quốc gia
17
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3
1.1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá 3
1.1.1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá 3
1.1.2. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá 3
1.1.3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất 7
1.2. Giới thiệu hiệp định chống bán phá giá của WTO 8
1.2.1. Xác định việc bán phá giá 8
1.2.2. Xác định thiệt hại 11
1.2.3. Ngành sản xuất trong nước 12
1.2.4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá 12
1.2.5. Thu thập thông tin 14
1.2.6. Áp dụng biện pháp tạm thời 15
1.2.7. Cam kết giá 16
1.2.8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 17
1.2.9. Truy thu thuế 18
1.2.10. Rà soát 19
1.2.11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận 20
1.2.12. Cơ chế khiếu kiện độc lập 21
1.2.13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba 21
1.2.14. Thành viên đang phát triển 21
1.2.15. Ủy ban chống bán phá giá 22
1.2.16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp 22
1.2.17. Điều khoản cuối cùng 22
1.3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22
1.3.1. Cam kết trong ASEAN 24
1.3.2. Cam kết trong APEC 24
1.3.3. Cam kết với IMF/World Bank 25
1.3.4. Đàm phán gia nhập WTO 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 27
2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 27
2.1.1. Tổng quan 27
2.1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển 28
2.1.3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển 29
2.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30
2.2.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30
2.2.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 30
2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu 32
2.2.4. Áp dụng thuế chống bán phá giá 33
2.2.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 34
2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trong EU 34
2.3.1. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu Âu 34
2.3.2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra 35
CHƯƠNG 3: CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 46
3.1. Đánh giá về khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp bán phá giá 46
3.2. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam 49
3.2.1. Các qui định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá 49
3.2.2.Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 50
3.2.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 51
3.2.4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam 52
3.3. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 54
3.4. Giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 55
3.4.1.Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá 56
3.4.2. Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá 56
3.4.3. Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp 57
KẾT LUẬN 58
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7350.doc