Đề tài Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp thương mại

Chống bán phá giá có hơn 100 năm lịch sử phát triển và đến nay đã là một trong những hiện tượng cơ bản của thương mại quốc tế. Các nước không ngừng sử dụng rộng rãi chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ chính thức khi các rào cản truyền thống như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu ngày càng giảm đi. Các quy tắc chống bán phá giá có xu hướng ngày càng chặt chẽ, đồng bộ hơn giữa luật pháp của các nước và quy định chung của quốc tế. Mọi nước thành viên WTO định kì đều chịu sự thẩm tra tính minh bạch của các chính sách thương mại, qua đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Sau các vụ kiện về bán phá giá, các nhà xuất khẩu đã sử dụng một số biện pháp nhằm giảm bớt hoặc tránh được thuế chống bán phá giá. Tiêu biểu như biện pháp xuất khẩu linh kiện của hàng hóa bị đánh thuế vào nước nhập khẩu rồi mới lắp ráp và bán thành phẩm tại nước nhập khẩu. Do sự khác biệt về chính sách thuế đối với linh kiện và thành phẩm nên các nhà xuất khẩu có thể tránh được thuế chống bán phá giá. Hoặc sử dụng biện pháp lắp ráp tại nước thứ ba rồi mới xuất khẩu vào thị trường nước nhập khẩu, thì hàng hóa sẽ mang xuất xứ từ nước thứ ba từ đó cũng tránh được thuế chống bán phá giá. Các nhà xuất khẩu còn có thể thay đổi một số đặc tính bên ngoài hoặc cải tạo sản phẩm thành sản phẩm mới, làm cho sản phẩm khác biệt với miêu tả về hàng hóa bị áp thuế CBPG thì vẫn tránh được việc phải nộp thuế. Để đối phó với các hiện tượng này, các biện pháp chống bán phá giá đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển mới. Mỹ và EU là 2 khu vực đi đầu trong việc tăng cường, bổ sung liên tục các quy định này. Ngay trong luật cạnh tranh và thương mại tổng hợp của Mỹ từ năm 1988, đối với những trường hợp lắp ráp tại Mỹ để trốn thuế thì giá trị thành phẩm và giá trị NVL sẽ bị so sánh, khi chênh lệch nhỏ thì thuế chống bán phá giá vẫn sẽ được áp dụng. Hay đối với hàng hóa lắp ráp tại nước thứ ba vẫn có những quy định và kiểm tra để áp thuế CBPG với sản phẩm từ các nước thứ ba này. Ngoài ra bộ luật cũng quy định điều kiện thay đổi kĩ thuật của sản phẩm mà vẫn phải chịu thuế CBPG. Luật chống bán phá giá đã mở rộng phạm vi áp dụng, không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn liên quan đến đầu tư và sản xuất. Đối tượng bị áp thuế không chỉ là thành phẩm mà còn bao gồm cả linh kiện, phụ kiện, phạm vi áp thuế mở rộng đến cả lãnh thổ nước thứ ba. Công cụ chống bán phá giá đang phát triển ngày càng tinh vi, hiện đại hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo hộ nền sản xuất trong nước.

doc35 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 966 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là mang sản phẩm ở nước này sang bán ở nước khác với một mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó khi bán ở thị trường nội địa của nước xuất khẩu” Cụ thể hơn, theo luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ thì một hàng hoá được xem là bán phá giá khi giá xuất khẩu trung bình được điều chỉnh thấp hơn giá bán trung bình được điều chỉnh của hàng hoá tương tự hoặc cùng loại tại thị trường trong nước hoặc thị trường nước thứ ba. Theo luật chống bán phá giá của liên minh Châu Âu thì một sản phẩm được coi là phá giá nếu giá xuất khẩu của nó vào cộng đồng thấp hơn giá so sánh của sản phẩm tương tự trong quá trình kinh doanh thông thường trong phạm vi nước xuất khẩu. Nhìn chung các luật chống bán phá giá đều có quy định dựa trên sự so sánh giữa giá xuất khẩu và giá thông thường. Một hàng hoá có thể bán giá rẻ hơn giá của hàng tương tự trên thị trường nước nhập khẩu nhưng không thấp hơn giá bán thông thường tại thị trường nội địa thì vẫn được coi là không bán phá giá. Tuy nhiên trong mỗi trường hợp cụ thể, việc xác định giá trị thông thường thường phức tạp. 1.2 Giá trị thông thường, giá trị xuất khẩu và biên độ phá giá a/ Giá trị thông thường Luật chống bán phá giá năm 1994 của WTO quy định “Giá trị thông thường nói chung là giá của sản phẩm tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu đến người tiêu dùng trong quá trình thương mại thông thường”. Có thể thấy khi điều tra bán phá giá thì vấn đề về quá trình thương mại thông thường luôn được khai thác. Trong đó, luật định cũng nêu rõ những trường hợp mà tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội địa với giá thấp hơn chi phí của quá trình sản xuất sẽ không được coi là thực hiện trong quá trình thương mại bình thường. Khi dựa vào thị trường nước xuất khẩu không thể xác định chính xác giá trị thông thường của sản phẩm thì nó sẽ được căn cứ vào giá mà sản phẩm được bán cho nước thứ ba, và trị giá cấu thành của sản phẩm. Bên cạnh đó với những nền kinh tế phi thị trường thì giá nội địa tại thị trường nước xuất khẩu không được coi là thích hợp, do đó các nước nhập khẩu trong quá trình điều tra chống bán phá giá thường lấy giá của sản phẩm cùng loại sản xuất tại nước thứ ba làm giá trị thông thường. b/ Giá trị xuất khẩu Luật chống bán phá giá của WTO đưa ra các các phương pháp tính giá trị xuất khẩu khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Giá xuất khẩu là giá trong giao dịch mua bán giữa nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu của nước xuất khẩu với nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu. Trong một số trường hợp, giá trên không đáng tin cậy thì giá xuất khẩu lại được tính theo giá trị tính toán. Luật chống bán phá giá của liên minh Châu Âu quy định, giá xuất khẩu là mức giá thực sự được trả hay phải trả cho sản phẩm khi sản phẩm được xuất khẩu từ nước xuất khẩu vào khối cộng đồng. Tương tự Hoa Kỳ quy định giá xuất khẩu là giá mà mỗi nhà nhập khẩu bán cho bên mua không liên kết đầu tiên tại Hoa Kỳ. c/ Biên độ phá giá Sau khi xác định được giá trị thông thường và giá trị xuất khẩu, các giá trị này sẽ được so sánh để xác định biên độ phá giá. Đây là mức độ mà giá trị thông thường vượt qua giá xuất khẩu và được thể hiện bằng phần trăn hoặc một lượng cụ thể. Nếu biên độ phá giá vượt ra ngoài chuẩn quy định của quốc gia thì hàng hoá nhập khẩu này được xác định đã có hiện tượng bán phá giá. Biên độ phá giá được tính cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan. Nếu số lượng nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan quá lớn khiến cho việc tính toán biên độ phá giá đơn lẻ không thể thực hiện được thì cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu có thể chỉ lựa chọn một số lượng thích hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu để điều tra (sẽ có biên độ đơn lẻ cho các nhà sản xuất, xuất khẩu này) và tính một biên độ bán phá giá chung cho nhóm các nhà sản xuất, xuất khẩu (biên độ cho nhóm) không tham gia điều tra theo nguyên tắc lấy bình quân các biên độ đơn lẻ. Theo quy định của WTO thì biên độ phá giá không đáng kể nếu thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Khối lượng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá sẽ được coi là không đáng kể nếu khối lượng đó chiếm ít hơn 3% tổng lượng nhập khẩu các sản phẩm tương tự vào nước đó. 2. Cơ sở lý luận của chống bán phá giá 2.1 Mục đích của chống bán phá giá Chống bán phá giá là một trong ba nội dung chính trong các biện pháp khắc phục thương mại được WTO công nhận và cho phép các nước thành viên sử dụng nhằm đối phó với sự cạnh tranh không lành mạnh, gây ra thiệt hại với ngành sản xuất nội địa của quốc gia nhập khẩu. Về nguyên tắc, chống bán phá giá chỉ được sử dụng để chống lại hiện tượng cố ý bán phá giá nhằm loại bỏ đối thủ, chiếm lĩnh thị trường và sau đó nâng giá gây thiệt hại cho nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy ngoài tác dụng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, các nước đang có xu hướng sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ mới. Khi hàng rào thuế quan và hạn ngạch không thể sử dụng rộng rãi thì chống bán phá giá là hình thức phát triển tinh vi của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, hợp thức hóa được các rào cản kĩ thuật để bảo vệ sản xuất trong nước khi vẫn giữ được danh tiếng chấp hành nghiêm túc các nguyên tắc mở cửa thị trường, giảm dần hàng rào thuế quan, bảo đảm khả năng tự do cạnh tranh lành mạnh theo đà hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Các chuyên gia phân tích kinh tế thế giới cho rằng, trong các biện pháp chống bán phá giá mà nhiều nước ắp đặt vừa qua, chỉ có 5% mang ý nghĩa đích thực bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, còn lại 95% là lạm dụng để bảo vệ sản xuất trong nước. Ngoài một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ đã sử dụng nhiều đến công cụ chống bán phá giá, chủ yếu các nước khởi kiện vẫn là các nước phát triển kiện các nước đang phát triển. Giai đoạn từ 1980 đến 1985 chỉ có 12% tổng số biện pháp CBPG nhằm vào những nước có thu nhập trung bình và thấp thì đến giai đoạn 1995 – 2000, 5 năm sau khi hiệp định chống bán phá giá được thông qua, tỉ lệ này đã tăng lên đến 40%. Riêng với EU và Hoa Kỳ áp dụng đến 90% và 60% các biện pháp chống bán phá giá nhằm vào các nước đang phát triển. Như một công cụ phân biệt đối xử giữa các quốc gia, nước càng có thế lực càng có cơ hội sử dụng CBPG để hạn chế hàng hóa từ các nước yếu thế hơn trên thị trường quốc tế. Ngay trong khuôn khổ hiệp định chống bán phá giá ADA, quy định xem xét hành vi BPG cũng phân biệt giữa các nền kinh tế thị trường và phi thị trường. Đối với những nền kinh tế chưa được thừa nhận là kinh tế thị trường như Việt Nam thì giá trị thông thường của hàng hóa thường được lấy từ giá thành sản phẩm của một nước thứ ba có điều kiện tương tự và việc lựa chọn nước nào thay thế thường không chính xác, gây bất lợi cho nước bị kiện. Tiêu biểu là vụ kiện tôm xuất khẩu của Trung Quốc thì giá nhập của tôm Bồ Đào Nha vào Tây Ban Nha được coi là tương đương với giá bán tôm đồng tại Trung Quốc, bất kể sự khác biệt giữa Trung Quốc và hai quốc gia này. Các quy chế về nền kinh tế phi thị trường thậm chí còn được quy định sâu sắc và khắt khe hơn ở EU và Hoa Kỳ khiến rất nhiều nước vẫn phải chịu sự phân biệt đối xử trong quá trình thương mại quốc tế. Bán phá giá là một hành động thương mại không lành mạnh, gây ra tổn hại vật chất đối với ngành sản xuất của nước xuất khẩu. CBPG ngoài mục đích ban đầu để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thời gian qua đã bị lạm dụng gây thiệt hại cho nền thương mại toàn cầu, làm giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, gây chệch hướng thương mại, sau nhiều vụ kiện CBPG nhiều doanh nghiệp đã đi đến phá sản, thặng dư tiêu dùng giảm sút. Khi một cuộc điều tra bán phá giá được tiến hành dù chưa có kết luận chính thức cũng gây ảnh hưởng tới dòng thương mại hiện có. Lượng xuất nhập khẩu của hàng hóa đó sẽ giảm hoặc dòng thương mại sẽ chuyển dịch sang các thị trường khác. Ngoài ra quá trình giải quyết vụ kiện cũng gây tốn kém một lượng chi phí lớn cho các nhà sản xuất, xuất khẩu. Theo Messerlin khi phân tích về chống bán phá giá thì số lượng hàng hóa nhập khẩu vào EU sau một năm tiến hành điều tra bán phá giá trung bình đã giảm 18% và sau 5 năm áp dụng thuế CBPG thì kim ngạch hàng nhập khẩu trung bình giảm xuống 50%. Tương tự ở Hoa Kỳ, thuế CBPG cao làm giảm kim ngạch nhập khẩu tới 73%. Nghiên cứu của Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế cũng cho thấy thị phần của hàng xuất khẩu bị điều tra bán phá giá đã giảm từ 15-20% dù sau vụ việc có kết luận là không cần áp dụng các biện pháp CBPG. Có những vụ kiện còn làm cho các nhà xuất khẩu mất hẳn thị trường do không còn đơn đặt hàng từ các nhà nhập khẩu hoặc do mức thuế CBPG quá cao khiến hàng hóa không còn năng lực cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu theo đuổi vụ kiện phải tốn kém rất nhiều thời gian và chi phí. Trong trường hợp rủi ro cao nhất, doanh nghiệp có thể bị phá sản, lao động mất việc làm. Các nhà nhập khẩu, phân phối, bán lẻ hoặc các ngành nhập sản phẩm làm đầu vào của quá trình sản xuất ở nước nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng kéo theo do các vụ kiện. Nếu các biện pháp CBPG được áp dụng thì giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng lên, làm giảm kim ngạch nhập khẩu, tăng sản xuất trong nước. Sự chệch hướng thương mại này ảnh hường tiêu cực với nước xuất khẩu lại có tác dụng đem lại thu nhập từ một khoản thuế cho các nước nhập khẩu. Các biện pháp CBPG sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được sử dụng đúng mức, công bằng, minh bạch và khách quan. Bất kì sự lạm dụng nào đối với biện pháp này cũng đều có tác dụng tiêu cực đối với thương mại quốc tế nói chung và người tiêu dùng nói riêng. 2.2 Thuế chống bán phá giá và các điều kiện áp dụng Trong các vụ kiện CBPG, khi nước khởi kiện giành thắng lợi thì kết quả là hàng hóa nước xuất khẩu khi thâm nhập vào thị trường nước nhập khẩu sẽ bị áp dụng các biện pháp CBPG, tiêu biểu là thuế CBPG. Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra. Thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ ba điều kiện sau đây: (i) Hàng nhập khẩu bị bán phá giá; (ii) Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể. (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên. Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá sẽ chấm dứt sau 5 năm kể từ thời điểm quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nếu cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu, sau khi tiến hành rà soát, đi đến kết luận là việc bán phá giá gây thiệt hại có nhiều khả năng tiếp tục duy trì hoặc tái diễn nếu thuế chống bán phá giá chấm dứt hiệu lực thì thuế này sẽ tiếp tục được áp dụng thêm 5 năm nữa. 2.3 Các biện pháp lựa chọn khi giải quyết các vụ kiện CBPG Theo hiệp định chống bán phá giá ADA của WTO trong quá trình xử lý điều tra vụ việc bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền, các nhà sản xuất, xuất khẩu đang bị điều tra có thể thỏa thuận với nhau về cam kết giá sau khi cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra kết luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá. Cam kết giá là việc nhà xuất khẩu cam kết sửa đổi mức giá bán hoặc cam kết ngừng xuất khẩu phá giá hàng hóa. Đây là thỏa thuận tự nguyện giữa các nhà xuất khẩu và ngành công nghiệp nước nhập khẩu. Thông thường cam kết giá này sẽ được chấp thuận ở nước nhập khẩu nếu các nhà xuất khẩu chứng minh được rằng cam kết đó đủ để loại bỏ các thiệt hại do việc bán phá giá gây ra. Khi một cam kết giá được thông qua thì quá trình điều tra sẽ chấm dứt trừ khi các nhà xuất khẩu có yêu cầu tiếp tục điều tra hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định như vậy. Nếu việc điều tra tiếp tục mà kết luận là không có bán phá giá thì cam kết giá tự động hết hiệu lực và ngược lại nó được thực hiện bình thường. Theo luật pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ, để thay thế cho việc áp thuế CBPG có thể sử dụng biện pháp thỏa thuận đình chỉ. Đây là thỏa thuận do Bộ Thương mại Hoa Kỳ đàm phán với chính phủ hoặc các nhà sản xuất nước xuất khẩu để đình chỉ cuộc điều tra bán phá giá đổi lấy những cam kết nhất định liên quan tới giá hoặc số lượng hàng hóa xuất khẩu tới Hoa Kỳ : có thể thỏa thuận để hạn chế số lượng nhập khẩu, thỏa thuận để loại trừ hoàn toàn việc bán hàng dưới giá trị hợp lý, thỏa thuận loại trừ các ảnh hưởng gây thiệt hại. 3. Khuynh hướng phát triển của các biện pháp chống bán phá giá Chống bán phá giá có hơn 100 năm lịch sử phát triển và đến nay đã là một trong những hiện tượng cơ bản của thương mại quốc tế. Các nước không ngừng sử dụng rộng rãi chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ chính thức khi các rào cản truyền thống như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu ngày càng giảm đi. Các quy tắc chống bán phá giá có xu hướng ngày càng chặt chẽ, đồng bộ hơn giữa luật pháp của các nước và quy định chung của quốc tế. Mọi nước thành viên WTO định kì đều chịu sự thẩm tra tính minh bạch của các chính sách thương mại, qua đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Sau các vụ kiện về bán phá giá, các nhà xuất khẩu đã sử dụng một số biện pháp nhằm giảm bớt hoặc tránh được thuế chống bán phá giá. Tiêu biểu như biện pháp xuất khẩu linh kiện của hàng hóa bị đánh thuế vào nước nhập khẩu rồi mới lắp ráp và bán thành phẩm tại nước nhập khẩu. Do sự khác biệt về chính sách thuế đối với linh kiện và thành phẩm nên các nhà xuất khẩu có thể tránh được thuế chống bán phá giá. Hoặc sử dụng biện pháp lắp ráp tại nước thứ ba rồi mới xuất khẩu vào thị trường nước nhập khẩu, thì hàng hóa sẽ mang xuất xứ từ nước thứ ba từ đó cũng tránh được thuế chống bán phá giá. Các nhà xuất khẩu còn có thể thay đổi một số đặc tính bên ngoài hoặc cải tạo sản phẩm thành sản phẩm mới, làm cho sản phẩm khác biệt với miêu tả về hàng hóa bị áp thuế CBPG thì vẫn tránh được việc phải nộp thuế. Để đối phó với các hiện tượng này, các biện pháp chống bán phá giá đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển mới. Mỹ và EU là 2 khu vực đi đầu trong việc tăng cường, bổ sung liên tục các quy định này. Ngay trong luật cạnh tranh và thương mại tổng hợp của Mỹ từ năm 1988, đối với những trường hợp lắp ráp tại Mỹ để trốn thuế thì giá trị thành phẩm và giá trị NVL sẽ bị so sánh, khi chênh lệch nhỏ thì thuế chống bán phá giá vẫn sẽ được áp dụng. Hay đối với hàng hóa lắp ráp tại nước thứ ba vẫn có những quy định và kiểm tra để áp thuế CBPG với sản phẩm từ các nước thứ ba này. Ngoài ra bộ luật cũng quy định điều kiện thay đổi kĩ thuật của sản phẩm mà vẫn phải chịu thuế CBPG. Luật chống bán phá giá đã mở rộng phạm vi áp dụng, không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn liên quan đến đầu tư và sản xuất. Đối tượng bị áp thuế không chỉ là thành phẩm mà còn bao gồm cả linh kiện, phụ kiện, phạm vi áp thuế mở rộng đến cả lãnh thổ nước thứ ba. Công cụ chống bán phá giá đang phát triển ngày càng tinh vi, hiện đại hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo hộ nền sản xuất trong nước. Chương II Thực trạng và kinh nghiệm ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá của Trung Quốc 1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc Theo số liệu thống kê thì từ năm 1995 đến 2005, Trung Quốc đứng đầu danh sách các quốc gia bị kiện chống bán phá giá với 469 vụ kiện (chiếm 28,13% tổng số vụ). Số quốc gia thi hành các biện pháp CBPG với Trung Quốc tăng dần theo thời gian. Những năm 70, 80 chỉ có gần 10 nước và khu vực thi hành biện pháp này với Trung Quốc trong đó EU là một trong những khu vực đầu tiên. Đến những năm 1990 và 2000 con số các quốc gia này đã lên tới 28 quốc gia. Trong đó các thị trường lớn của Trung Quốc như EU đến năm 2000 đã kiện TQ 90 vụ, Hoa Kỳ 77 vụ, Hàn Quốc 14 vụ, Ấn Độ 37 vụ Có thể thấy không chỉ các nước phát triển tiến hành các biện pháp với hàng xuất khẩu Trung Quốc mà ngay cả những quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, Peru, Chile... cũng có số lượng lớn các vụ kiện hàng hóa Trung Quốc khi thâm nhập vào thị trường các nước này. Hàng hóa Trung Quốc bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá không chỉ tăng lên về số vụ, số nước khởi kiện mà phạm vi sản phẩm bị kiện và tổn thất cũng ngày càng lớn. Trung bình trong giai đoạn 1995-2000 mỗi năm Trung Quốc phải chịu 34,5 vụ kiện và sau hơn 5 năm gia nhập WTO đã lên tới 51,2 vụ/ năm. Các ngành hàng bị áp dụng chủ yếu vẫn là các hàng công nghiệp nhẹ, mang lợi thế cạnh tranh cao như hóa chất, dệt may, giầy da, kim loại cơ bản Đa số các vụ kiện hàng hóa Trung Quốc đều có kết quả là áp dụng các biện pháp CBPG, trong đó chủ yếu là đánh thuế chống bán phá giá, yêu cầu cam kết về giá cả, chủ động phân bổ hạn ngạch. Thời gian thi hành các biện pháp này là 5 năm hoặc lâu hơn. Các biện pháp được áp dụng với Trung Quốc đã gây thiệt hại trực tiếp cho Trung Quốc 10 tỷ đồng. Riêng các nước EU đã chiếm tới 3 tỷ USD, với 9 vụ trị giá 100 triệu USD/vụ, 32 vụ trị giá 10 triệu USD/vụ. Một số vụ kiện bán phá giá của hàng hóa TQ có giá trị kim ngạch cao Nguồn : Tạp chí kinh tế đối ngoại Trung Quốc Nước khởi kiện Năm Tên sản phẩm Kim ngạch (trăm triệu ECU) EU 1991 Xe đạp và phụ kiện 165 1995 Giày 342 1996 Túi du lịch 646 1996 Túi xách tay 274 1997 Đĩa hát 303 1999 Than cốc 230 Mỹ 1990 Quạt điện 200 1995 Xe đạp 200 1996 Thép cacbon 150 Tuy là quốc gia bị áp dụng các biện pháp CBPG nhiều nhất trên thế giới song so với kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thì giá trị hàng hóa bị kiện CBPG vẫn chưa đáng kể. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 438,37 tỉ USD thì khối lượng hàng hóa xuất khẩu bị kiện bán phá giá chỉ có 2,2 tỉ USD, chiếm khoảng 0,51% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Là một trong những quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn trên thế giới, hàng hóa phong phú có sức cạnh tranh cao, nguy cơ bị kiện CBPG với hàng hóa Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá trên thế giới có thể thấy qua các bảng sau Các quốc gia bị kiện bán phá giá (1995-2005) Quốc gia Số vụ bị kiện Tỷ lệ Trung Quốc 469 28,13% Hàn Quốc 218 13,08% Hoa Kỳ 162 9,72% Đài Loan 160 9,60% Nhật Bản 125 7,50% Indonesia 121 7,26% Ấn Độ 120 7,20% Thái Lan 111 6,60% Nga 97 5,82% Brazil 84 5.03% Các quốc gia tiến hành các vụ kiện CBPG (1995-2005) Quốc gia Số vụ kiện Tỷ lệ Ấn Độ 425 19,51% Hoa Kỳ 366 16,80% EU 327 15,01% Argentina 204 9,37% Nam Phi 197 9,04% Úc 179 8,22% Canada 134 6,15% Trung Quốc 123 5,65% Brazil 122 5,60% Thổ Nhĩ Kì 101 4,64% Theo số liệu trong bàng, Trung Quốc đứng đầu danh sách với số vụ bị kiện nhiều nhất (469 vụ) và Brazil là nước có số lần bị kiện thấp nhất (84 vụ). Đa số các nước bị kiện vẫn là các nước đang phát triển, tuy nhiên riêng Hoa Kỳ và Nhật Bản dù là nước phát triển song vẫn thuộc 10 nước có số vụ bị kiện cao nhất. Về phía các nước khởi kiện, Ấn Độ tuy là một quốc gia đang phát triển nhưng lại đứng đầu về số vụ khởi kiện (425 vụ). Hoa Kỳ và EU chỉ đứng thứ 2 và 3 với số vụ lần lượt là 366 và 327. Có thể thấy, chống bán phá giá không chỉ là công cụ bảo hộ của các nước phát triển mà giờ đây cũng được các nước đang phát triển sử dụng ngày càng nhiều. 2. Nguyên nhân của các vụ kiện 2.1 Nguyên nhân khách quan Chống bán phá giá trở thành công cụ bảo hộ hợp pháp đang được sử dụng ngày càng nhiều trong quan hệ thương mại quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại ngày càng phát triển khiến cạnh tranh trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Các biện pháp bảo hộ truyền thống như thuế quan, hạn ngạch dần dần bị vô hiệu hóa với sự ra đời của GATT, WTO. Song chống bán phá giá lại được WTO cho phép sử dụng để bảo vệ môi trường cạnh tranh và sản xuất trong nước nên chính quyền các nước nhập khẩu đã tận dụng triệt để công cụ hợp pháp này. Thông qua kiện bán phá giá có thể thu hẹp thị phần của hàng nhập khẩu, tăng giá hoặc giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu, nếu áp dụng thuế còn có thể tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Như vậy, chống bán phá giá đã trở thành biện pháp vô cùng hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước. Các nước thực thi chính sách phân biệt đối xử với hàng hóa Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trưởng cao trong nhiều năm. Không chỉ trờ thành một trong những thị trường tiềm năng của các nhà xuất khẩu hướng tới mà các doanh nghiệp của Trung Quốc cũng thâm nhập sâu vào thị trường các nước khác. Ngân hàng thế giới dự báo năm 2020 tỉ lệ kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc trong tổng kim ngạch thương mại thế giới sẽ gấp hơn 3 lần tỉ lệ này năm 1992 (đạt khoảng 10%) và có hi vọng trở thành nước có nền thương mại lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mỹ (chiếm 12%). Lo ngại hàng hóa Trung Quốc sẽ chiếm lĩnh thị trường, tạo áp lực với các nước nhập khẩu, các quốc gia lần lượt đưa Trung Quốc vào danh sách đối tượng chủ yếu của chống bán phá giá, và áp dụng chính sách phân biệt đối xử. 2.2 Nguyên nhân chủ quan Các doanh nghiệp Trung Quốc chưa có chiến lược tập trung chú ý toàn diện khi tham gia thị trường thương mại quốc tế. Khi bị khiếu kiện vẫn thiếu sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, liên minh liên kết giữa các doanh nghiệp để bảo vệ sản phẩm xuất khẩu. Thiếu hiểu biết về thị trường, luật pháp, phong tục tập quán các nước nhập khẩu, cũng như chỉ dùng giá cả làm chiến lược duy nhất đều là những nguyên nhân khiến hàng hóa Trung Quốc càng dễ dàng trở thành mục tiêu trong các vụ kiện chống bán phá giá. Cơ cấu kinh tế và hình thức kinh doanh phân tán, quản lý điều hòa ngành nghề yếu kém, các doanh nghiệp đua nhau cạnh tranh với mức giá thấp thì nguy cơ xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá tất yếu cũng sẽ tăng lên. Bên cạnh đó để gia nhập WTO, Trung Quốc đã chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong vòng 15 năm (2001-2016), điều này khiến Trung Quốc ở vị thế bất lợi hơn trong các vụ kiện, do đó các nước có cơ hội giành thắng lợi cao càng có động cơ tiến hành điều tra BPG với hàng hóa Trung Quốc. Khi tiến hành điều tra, Trung Quốc cũng bị thua thiệt vì doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ không tham gia kháng kiện, không hiểu rõ về luật pháp quốc tế. Vụ kiện chỉ dựa vào một phía nước khởi kiện càng dễ dàng thành công hơn, để áp dụng các biện pháp với hàng hóa Trung Quốc. Và khi một nước khiếu kiện thành công, kéo theo các nước nhập khẩu khác cũng lần lượt kiện hàng hóa Trung Quốc. Qua một số vụ kiện thực tế có thể thấy nếu doanh nghiệp Trung Quốc tích cực kháng kiện thì có thể tránh được hoặc giảm bớt số thuế chống bán phá giá phải nộp. 3. Một số đối sách của Trung Quốc với các vụ kiện chống bán phá giá 3.1 Dưới góc độ chính phủ Chính phủ Trung Quốc đóng vai trò to lớn và tích cực trong suốt quá trình ứng phó với các vụ kiện CBPG. Ngay từ năm 2001, Ủy ban kiểm soát công bằng trong ngoại thương đã được thành lập, là bộ phận chuyên trách của chính phủ giám sát và hỗ trợ các vụ kiện hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, đồng thời cũng điều tra hành vi phá giá của các nhà nhập khẩu nước ngoài trên thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, chính phủ cũng tăng cường, củng cố quan hệ ngoại giao, đàm phán, hợp tác với các nước trên thế giới, thúc đẩy các nước nhanh chóng điều chỉnh chính sách chống bán phá giá với Trung Quốc, tạo môi trường thương mại thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong hầu hết các vụ kiện, Bộ trưởng Bộ Thương Mại Trung Quốc thường đích thân viết thư cho Bộ trưởng Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, Thương vụ Trung Quốc tại Hoa Kỳ cũng thay mặt chính phủ gặp phía Hoa Kỳ, bày tỏ thái độ hết sức quan tâm và hợp tác. Trong vụ kiện hàng tơ lụa xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Ấn Độ, đàm phán của chính phủ đã giúp kéo dài thêm thời gian điều tra để doanh nghiệp có điều kiện chuẩn bị sẵn sàng ứng phó. Đàm phán tuy không thể đạt mục tiêu đình chỉ vụ kiện tuy nhiên vẫn có những ảnh hưởng tích cực tới kết quả vụ kiện. Nỗ lực của chính phủ bước đầu đã mang lại thành công đáng kể. Một số quốc gia đã công nhận vị thế kinh tế thị trường của Trung Quốc như Brazil, Argentina, Chile trong đó Canada và Australia là hai quốc gia phương tây đầu tiên xác nhận vị thế kinh tế thị trường cho một ngành công nghiệp của Trung Quốc. Riêng EU và Hoa Kỳ vẫn là những đối tác rất khó đàm phán. Chính phủ tăng cường công tác quản lý hoạt động ngoại thương, đẩy mạnh vai trò hướng dẫn, tuyên truyền về CBPG với các doanh nghiệp. Hàng loạt các biện pháp, luật định được đưa ra nhằm giám sát hoạt động xuất khẩu đảm bảo tính thống nhất, khoa học. Chính phủ tích cực chủ động cung cấp thông tin, hướng dẫn về tình hình thị trường, luật pháp thương mại nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nắm bắt tình hình thực tế, hạn chế rủi ro ở thị trường nước ngoài. Sau mỗi vụ kiện, chính phủ và hiệp hội các ngành hàng đều tổ chức đúc rút kinh nghiệm, tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp xuất khẩu, qua đó nâng cao nhận thức, và khả năng ứng phó của các doanh nghiệp. Ngoài trợ giúp về thông tin, kĩ năng, Chính phủ còn lập các quỹ tài chính hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp theo đuổi các vụ kiện, nâng cao cơ hội giành thắng lợi. Là một thành viên của WTO, Trung Quốc tận dụng tối đa các nguyên tắc và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ hàng hóa xuất khẩu. Theo quy định của WTO, Trung Quốc có thể nêu ý kiến nếu phát hiện thấy luật CBPG của nước khởi kiện đi ngược lại với ý chí của hiệp định chống bán phá giá WTO, đề nghị Ủy ban chống bán phá giá WTO yêu cầu nước khởi kiện sửa đổi luật CBPG của họ, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO bảo vệ quyền lợi chính đáng của nước mình. Tiêu biểu có vụ việc vào 3/2002 Trung Quốc cùng một số nước khác kiện lên WTO việc Hoa Kỳ áp thuế CBPG với mặt hàng thép. Đến 9/2007 Trung Quốc lại chính thức gửi đơn lên WTO kiện Hoa Kỳ vi phạm quy định của WTO trong việc kiện CBPG và chống trợ cấp với mặt hàng giấy tráng cao cấp của Trung Quốc Hiện nay Trung Quốc đã tích cực và chủ động hơn, sử dụng các công cụ, quyền lợi là thành viên WTO để bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. 3.2 Dưới góc độ doanh nghiệp Các doanh nghiệp ngày càng có thái độ sẵn sàng hợp tác điều tra bán phá giá với nước ngoài, tích cực theo đuổi các vụ kiện hơn. Thực tiễn các vụ kiện cho thấy, khi doanh nghiệp tích cực kháng kiện thì cơ hội giữ lại thị trường là rất lớn. Tùy theo từng trường hợp cụ thể sẽ điều chỉnh mức thuế suất, hoặc có thể sử dụng biện pháp cam kết giá, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, thậm chí thắng kiện chứng minh được không hề có tình trạng bán phá giá, nhưng ngược lại khi các doanh nghiệp không theo kiện thì chắc chắn bị áp thuế suất cao, thậm chí mất hoàn toàn thị trường, giảm uy tín của hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động trích một phần kinh phí để thuê các công ty luật hoặc công ty phân tích thị trường để thu thập thông tin, đánh giá sớm nguy cơ xảy ra vụ kiện. Một số doanh nghiệp còn đặt quan hệ đối tác lâu dài với các công ty luật chuyên về CBPG. Đã có tới 60 – 70% các doanh nghiệp sẵn sàng ứng phó kể cả các vụ kiện liên quan tới EU hay Hoa Kỳ. Nỗ lực này cũng giúp Trung Quốc giành được nhiều thắng lợi, với 36% doanh nghiệp đã thắng kiện. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc theo đuổi vụ kiện vẫn còn rất nhiều. Các doanh nghiệp đã đổi mới quản lý, hoạt động, đảm bảo tiêu chuẩn về doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Từ 1/7/2000 Trung Quốc bắt đầu thực hiện luật kế toán mới và từ 1/1/2001 thực hiện điều lệ báo cáo tài chính kế toán doanh nghiệp phù hợp với tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Đây là một trong nỗ lực để đưa doanh nghiệp tiến gần tới các tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi về khoản đầy đủ giấy tờ tài chính công khai, minh bạch khi tham gia các vụ kiện CBPG. Bên cạnh đó, chiến lược kinh doanh quốc tế lâu dài cũng được các doanh nghiệp xây dựng, trang bị kiến thức về luật pháp quốc tế, nắm rõ đặc trưng của thị trường quốc tế, tận dụng ưu thế về những nguồn lực sẵn có như lao động, nguyên liệu đầu vào giá rẻ nhưng cũng hướng tới các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật và vốn cao hơn. Doanh nghiệp linh hoạt điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu, điều chỉnh giá xuất khẩu hạn chế tình trạng giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường. Liên kết của các doanh nghiệp trong các hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng tới kết quả của các vụ kiện. Do đặc thù của Trung Quốc là số lượng lớn các doanh nghiệp nằm rải rác trên toàn quốc, công tác tập hợp, thống nhất chiến lược kháng kiện là cực kỳ khó khăn thì thương hội đã trở thành diễn đàn quan trọng gắn kết các doanh nghiệp với nhau. Thương hội vừa cung cấp thông tin, tư vấn chuẩn bị hồ sơ kiện, thuê luật sư đồng thời trong suốt quá trình theo kiện cũng tiếp tục theo dõi, phối hợp ủng hộ doanh nghiệp. Kênh thông tin dự báo sớm, cung cấp thêm thời gian cho doanh nghiệp chuẩn bị và tổ chức kháng kiện cũng do các thương hội ngành hàng đảm nhận. 4. Vụ việc tiêu biểu : Cộng đồng Châu Âu điều tra chống bán phá giá với chất para-cresol của Trung Quốc 4.1 Diễn biến vụ kiện và các vấn đề liên quan Ngày 13/5/2002, Công ty TNHH Degussa Knottingley, một công ty của Anh và là nhà sản xuất duy nhất đại diện 100% sản lượng của toàn ngành sản xuất para-cresol của EC đã nộp đơn kiện Trung Quốc chống bán phá giá. Ngày 27/6/2002, Ủy ban châu Âu ra Thông báo Khởi xướng vụ điều tra trên Công báo của Liên minh Châu âu theo đó các sản phẩm para-cresol có xuất xứ từ Trung Quốc được nhập khẩu vào EC sẽ bị điều tra chống bán phá giá. Số lượng các nhà sản xuất Trung Quốc nêu trong đơn kiện là rất nhiều nhưng chỉ có 2 nhà sản xuất hợp tác và cung cấp thông tin theo yêu cầu. Hai công ty trên đã điền đầy đủ các mẫu đơn để xin được “đối xử riêng biệt”. Các chuyến điều tra thực địa được tiến hành tại 2 cơ sở sản xuất Trung Quốc, 1 nhà sản xuất tại nước thứ ba, 1 nhà sản xuất EC, và 1 đơn vị sử dụng sản phẩm liên quan tại EC. Sau quá trình điều tra thiệt hại, Ủy ban Châu Âu nhận thấy rằng mặc dù thực tế mức tiêu thụ của Cộng đồng đã tăng thêm 45% kể từ năm 1998 đến hết giai đoạn điều tra nhưng ngành sản xuất của Cộng đồng không thể hưởng lợi trọn vẹn từ sự phát triển này: lượng bán hàng của ngành chỉ tăng bằng một nửa so với mức tăng trưởng về tiêu thụ của Cộng đồng, trong khi đó lượng nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng đột biến, đặc biệt là kể từ năm 2000. Về xu hướng tăng giá, Ủy ban cũng nhận thấy ngành sản xuất của Cộng đồng cũng đã tăng giá bán hàng ở mức vừa phải trong khoảng thời gian từ 1998 đến hết giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, mức tăng giá đó thậm chí không đủ để bù đắp mức tăng giá của các nguyên liệu sản xuất chính. Trong cùng giai đoạn đó, giá hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đã giảm 30%. Thêm nữa, trong giai đoạn điều tra, hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc được bán với mức giá thấp hơn nhiều so với giá của ngành sản xuất của Cộng đồng vốn khi đó đã ở mức thua lỗ kể từ năm 2001 trở đi. Ủy ban nhận thấy rằng tình hình của ngành sản xuất của Cộng đồng đã bị suy sụp trong năm 2001 và 12 tháng của giai đoạn điều tra, đặc biệt là suy giảm về sản lượng, mức khai thác năng lực sản xuất, lượng bán hàng, thị phần, mức sinh lợi, lợi nhuận trên vốn đầu tư và ngân lưu. Vì các lý do này, Ủy ban cho rằng ngành sản xuất của EC đã phải chịu thiệt hại đáng kể. Hai nhà sản xuất của Trung Quốc có thái độ hợp tác tốt, cung cấp thông tin nhanh gọn, điền đầy đủ các mẫu đơn yêu cầu đã được EC công nhận hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường. Giá trị thông thường của sản phẩm do đó được tính theo giá trị thông thường “xây dựng”, dựa trên chi phí sản xuất, và các chi phí hợp lý khác. Còn đối với các nhà sản xuất không được công nhận quy chế kinh tế thị trường thì GTTT lại được tính theo giá hoặc giá trị tính toán của Nhật Bản là nước thay thế. Đến khi Nhật Bản từ chối hợp tác trong vụ kiện này, EC đã quyết định chọn Hoa Kỳ là nước thay thế. Khi tính giá xuất khẩu và xác định biên độ phá giá, với 2 nhà sản xuất hợp tác, GXK được xác định trên cơ sở các mức giá đã thanh toán, và khi so sánh với GTTT các loại khấu trừ phù hợp đã được điều chỉnh, với nhà sản xuất không hợp tác, GXK được tính dựa trên GXK bình quân gia quyền của các nhà sản xuất hợp tác tại Hoa Kỳ, sau đó biên độ phá giá lại được so sánh giữa GXK trung bình của 2 nhà sản xuất hợp tác và GTTT tính cho các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Ngày 21/3/2003, EC tuyên bố quyết định áp dụng các mức thuế tạm thời và ngày 20/9/2003 công bố quyết định áp dụng các mức thuế CBPG chính thức với mặt hàng chất para-cresol nhập khẩu từ Trung Quốc. Ngày 14/12/2003 nhà sản xuất Trung Quốc đệ đơn kháng cáo lên Tòa Sơ thẩm Châu âu yêu cầu hủy quyết định của EC về việc áp dụng thuế CBPG và thu chính thức các khoản thuế tạm thời với lý do EC đã mở rộng phạm vi điều tra ra cả 2 sản phẩm phụ và gộp vào để tính GTTT là vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, quản trị tốt công việc và điều 2 quy tắc CBPG của EC. Trong đơn kháng kiện phía Trung Quốc đã trình bày rất rõ ràng và chi tiết các tài liệu chứng cứ mà phía Trung Quốc đã nỗ lực thu thập được. Tòa đã quyết định điều tra lại quá trình EC thực hiện vụ việc và phát hiện ra rằng EC đã vi phạm nghĩa vụ kiểm tra cẩn trọng. Tòa đã kết luận EC không thực hiện nghĩa vụ đầy đủ để xây dựng GTTT hợp lý. Cuối cùng tòa đã hủy một phần quyết định bị kháng cáo, phần liên quan tới nhà sản xuất đã kháng cáo. Sáu tháng sau phán quyết này của Tòa, EC đã đăng một thông báo liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá đối với para-cresol nhập khẩu có xuất xứ từ Trung Quốc nêu rõ rằng theo phán quyết của Tòa, các khoản thuế chống bán phá giá chính thức đã thu theo Quyết định nêu ở phần trên đối với hàng para-cresol nhập khẩu, bao gồm cả các khoản thuế tạm thời đã bị thu chính thức theo Điều 2 của Quyết định, sẽ được hoàn lại. Hệ quả là các nhà sản xuất liên quan sẽ không còn chịu các biện pháp CBPG theo quyết định của EC nữa. 4.2 Nhận xét Vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng para-cresol là vụ việc đáng chú ý bởi nó đã nêu lên một số vấn đề quan trọng mà các nhà sản xuất xuất khẩu của các nước mà EC coi là có nền kinh tế phi thị trường (như Trung Quốc và Việt Nam) trong các điều tra chống bán phá giá phải đối mặt. Ngay cả trong trường hợp các nhà sản xuất xuất khẩu có thể bị được hưởng sự đối xử theo quy chế nền kinh tế thị trường, việc xác định giá thông thường vẫn có thể là một vấn đề khó khăn và nếu không được thực hiện một cách đúng đắn thì những kết quả có thể sai lệch đáng kể theo hướng bất lợi cho nhà sản xuất xuất khẩu. nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các nhà sản xuất xuất khẩu phải luôn thận trọng đối với những tính toán mà cơ quan điều tra thực hiện và phải có hệ thống sổ sách kế toán được lưu giữ đúng cách, cho phép xác định rõ ràng tất cả các hạng mục chi phí được bao gồm trong (hoặc được khấu trừ khỏi) chi phí sản xuất của sản phẩm đang bị điều tra. Trên thực tế, mọi yêu cầu điều chỉnh hoặc khấu trừ đối với chi phí sản xuất đều phải được chứng minh trên cơ sở những số liệu ghi trong sổ sách kế toán của công ty. Vụ việc cũng cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc điều tra thực địa đối với thành công cuối cùng của một vụ kiện và sự cần thiết của việc công ty phải chứng minh được tất cả những khiếu nại của mình một cách thỏa đáng trong thời gian diễn ra việc điều tra thực địa nếu công ty muốn có cơ hội thấy những khiếu nại đó của mình được EC chấp thuận. Vì vậy, tất cả các nhà sản xuất xuất khẩu liên quan trong các cuộc điều tra chống bán phá giá của EC nên nhớ đến khả năng yêu cầu tòa án xem xét lại khi gặp phải những vấn đề như thiếu cẩn trọng hoặc vi phạm các nghĩa vụ tố tụng rõ ràng của Ủy ban và/hoặc vi phạm quyền tự bảo vệ của công ty. Chương III Bài học kinh nghiệm với Việt Nam 1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam liên tục được cải thiện, quan hệ thương mại phát triển với số lượng lớn các quốc gia trên thị trường thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường thế giới. Và cũng từ đó, Việt Nam phải đối mặt với các tranh chấp thương mại, và các vụ kiện CBPG của nước ngoài. Từ năm 1994 đến nay, Việt Nam đã có 28 vụ bị kiện CBPG với kết quả là 16 vụ bị áp dụng các biện pháp CBPG (chiếm 57,14%) và một số vụ đơn kiện bị rút lại hoặc vụ kiện chấm dứt do bên khởi kiện không chứng minh được thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa. Thuế suất cao nhất từng có lên tới 81% đối với mặt hàng nan hoa xe đạp, xe máy vào thị trường Argentina, liền ngay sau đó là mức thuế suất 78,8% với mặt hàng vòng khuyên kim loại vào thị trường EU. Thuế suất thấp nhất có thể kể đến là 7,7% đánh vào mặt hàng chốt cài inox khi vào thị trường EU, bên cạnh đó có thể kể đến mặt hàng tôm khi vào thị trường Mỹ với thuế suất dao động từ 4,13% đến 25,76%. Về các quốc gia khởi kiện Việt Nam thì đa số vẫn là các quốc gia phát triển, trong đó EU đứng đầu tiên với tổng cộng 10 vụ từ năm 1994 đến nay. Các mặt hàng bị kiện đều là hàng công nghiệp nhẹ, nông sản mang lợi thế cạnh tranh cao của Việt Nam. Vụ việc bật lửa gas của Việt Nam bị EU khởi kiện bán phá giá Ngày 27/6/2002 EU chính thức ra quyết định tiến hành điều tra chống bán phá giá bật lửa gas bỏ túi có xuất xứ từ Việt Nam, Trung Quốc, Malyasia. Theo thống kê của EU, năm 2001, Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU hơn 120 triệu chiếc bật lửa gas, chiếm 15,4% tổng lượng mặt hàng này nhập khẩu và chiếm 6,63% thị trường bật lửa gas tại EU đứng sau Trung Quốc. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra trong 6 doanh nghiệp mà EU liệt kê thì chỉ có 3 doanh nghiệp thực sự có xuất khẩu bật lửa gas vào EU. Đến đầu tháng 7/2003 EU đã bác bỏ vụ kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá bật lửa gas vào thị trường này. Vụ việc giày và đế giày không thấm nước của Việt Nam bị Canada kiện bán phá giá Trong quá trình điều tra Cục Hải quan và thuế vụ Canada CCRA đã gửi tới chính phủ VN 92 câu hỏi liên quan tới các chính sách của Việt Nam và vai trò của cơ quan quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu của ngành da giầy. Bộ Thương mại phối hợp với Bộ Công nghiệp và các bộ ngành liên quan đã trả lời đầy đủ 92 câu hỏi, đồng thời gửi kèm 1000 trang tài liệu chứng minh. 9/9/2002 CCRA đã ra quyết định sơ bộ xác định một số loại giày và đế giày không thấm nước của Việt Nam đã bán phá giá trên thị trường Canada. Sau ngày 9/9/2002 thuế nhập khẩu vào mặt hàng này tạm thời cộng thêm 72% với những công ty thuộc diện điều tra và cộng thêm 187% với các công ty xuất khẩu khác. Sau đó Canada đã cử phái đoàn kiểm tra tới làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp Việt Nam có liên quan và Bộ thương mại. Ngày 9/12/2002 CCRA đã ra kết luận VN không có độc quyền và trợ cấp trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giầy nên mức thuế sơ bộ được giảm xuống 25,7%. Ngày 7/1/2003 phán quyết cuối cùng đã được đưa ra : giày và đế giày VN không gây tổn hại hay đe dọa ngành sản xuất giày Canada. Như vậy các mức thuế đã nêu ở trên sẽ được dỡ bỏ. 2. Những khó khăn của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp về bán phá giá Việt Nam tích cực tham gia hội nhập thương mại quốc tế trong hơn 10 năm trở lại đây, tiềm lực kinh tế của đất nước đang trên đà phát triển, tuy nhiên khi tham gia vào sân chơi quốc tế, Việt Nam vẫn thiếu kinh nghiệm và kiến thức để giải quyết các tranh chấp thương mại gặp phải. Đội ngũ nhân lực nắm rõ về luật thương mại quốc tế còn rất hạn chế, kinh nghiệm ứng phó trong các vụ kiện có rất ít. Các doanh nghiệp hoặc chưa hiểu rõ về luật pháp quốc tế, quy trình hoạt động kinh doanh chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế hoặc vẫn chưa nắm rõ về bán phá giá, quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình, không muốn tốn kém chi phí nên khi bị kiện CBPG vẫn chưa thực sự tham gia tích cực, chủ động. Đặc biệt hệ thống kế toán và hồ sơ chứng từ tài chính là nội dung cực kì quan trọng trong các vụ kiện thì phần lớn các doanh nghiệp VN chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, hồ sơ thường không đầy đủ, thiếu minh bạch, công khai; khả năng thu thập thông tin, đánh giá, phân tích để trả lời bảng câu hỏi còn yếu; hoặc ngay cả khi bảng câu hỏi đã trả lời được tốt thì quá trình điều tra tại chỗ lại gặp nhiều vấn đề gây bất lợi cho doanh nghiệp. Giữa các doanh nghiệp vẫn thiếu tính đoàn kết, các hiệp hội ngành hàng chưa phát huy được sức mạnh để phòng chống các vụ kiện CBPG. Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp của Việt Nam còn đang được bổ sung, hoàn thiện. Luật kinh tế thương mại chưa đầy đủ, để bắt kịp với thế giới. Khi đối phó với các biện pháp chống bán phá giá, ngoài luật về chống bán phá giá thì rất nhiều bộ luật liên quan khác cũng cần được bổ sung, sửa đổi. Với tiềm lực kinh tế chính trị quốc phòng còn yếu, Việt Nam vẫn là nước chịu thiệt thòi nhiều trong các vụ kiện chống bán phá giá. Đặc biệt khi được coi là nền kinh tế phi thị trường nên khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế Việt Nam thường xuyên bị các nước tận dụng cơ hội này để tiến hành khởi kiện. 3. Một số bài học kinh nghiệm để ứng phó thành công trong các tranh chấp về bán phá giá 3.1 Dưới góc độ chính phủ Là một quốc gia xuất phát từ nền kinh tế tập trung bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, tổng kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng từ 1990 đến năm 2006 đã đạt 84015 triệu USD (Xuất khẩu là 39605 triệu USD, nhập khẩu là 44410 triệu USD). Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt khá và tăng nhiều hơn so với các năm trước. Có thể thấy chính phủ đóng vai trò rất tích cực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Để hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với tranh chấp thương mại nói chung cũng như các vụ kiện CBPG nói riêng, chính phủ cần nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý, tăng cường công tác thị trường, cung cấp thông tin, triển khai các công tác vận động hành lang, quan hệ công chúng, thúc đẩy sự phối hợp giữa các bộ ban ngành khi cần giải trình về nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Trong đó, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong quá trình ngoại giao, đàm phán quốc tế song phương và đa phương. Khi quan hệ ngoại giao được thúc đẩy, VN gia nhập vào các tổ chức quốc tế chính là cơ hội để tận dụng các cơ chế quốc tế nhằm bảo vệ các doanh nghiệp, được đối xử công bằng hơn trong các vụ kiện. Quan hệ ngoại giao hợp tác giữa các chính phủ còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, tài liệu, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cố gắng tranh thủ làm dịu bớt hoặc giảm những tranh chấp trong thương mại quốc tế. Đối với chiến lược xuất nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách khi xây dựng cần nghiên cứu, xem xét tới khả năng nguy cơ đe dọa từ các vụ kiện CBPG. Từng ngành hàng nên đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường nào đó. Đa dạng hóa sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng, để tránh sự tập trung quá nóng, quá cao vào một chủng loại hàng hóa nào đó. Hệ thống pháp luật Việt Nam nên được bổ sung, hoàn thiện theo hướng hài hòa với các quy định quốc tế, đặc biệt là hệ thống luật tài chính, kế toán, kiểm toán. Đây là một trong những yếu tố góp phần chứng minh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các chuyên gia nước ngoài về luật pháp quốc tế để giúp đỡ ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng đầy đủ và hợp lý các tiêu chí đánh giá của cơ quan điều tra. Đối với hệ thống thông tin, cần xây dựng chiến lược tốt, tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến kiến thức về pháp luật, quy định quốc tế tới đông đảo cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng Xây dựng hệ thống nghiên cứu thị trường, cảnh báo sớm trước các nguy cơ của các vụ kiện. Trong mỗi vụ kiện, có thể sử dụng các phương tiện tương thích để chuyển tải những thông điệp có lợi cho ta, tạo ra hiệu quả tích cực. 3.2 Dưới góc độ doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần tăng cường hơn nữa vai trò tích cực chủ động ngay từ việc nâng cao nhận thức về chống bán phá giá cũng như các kĩ năng ứng phó trong các tranh chấp thương mại quốc tế; nên chủ động tìm hiểu, nghiên cứu hệ thống luật pháp quốc tế, luật ở mỗi quốc gia vì chỉ có nắm rõ hệ thống luật pháp mới có thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nước nhập khẩu, và phòng tránh được các nguy cơ bị kiện bán phá giá. Ngoài ra các quy trình thủ tục, yêu cầu thông tin, tài liệu chứng minh, quá trình điều tra của mỗi vụ kiện doanh nghiệp nên nắm rõ từ ban đầu để có thể phòng và kháng kiện hiệu quả. Xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo sớm trong đó doanh nghiệp có thể tự phân tích tình hình, thu thập thông tin từ đối tác, thương xuyên cập nhật tin tức từ cơ quan thương vụ tại các nước nhập khẩu, đặc biệt học tập kinh nghiệm từ các vụ kiện đã xảy ra . Xây dựng chiến lược xuất khẩu lâu dài cũng là một trong những biện pháp hiệu quả để phòng tránh các vụ kiện bán phá giá, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không tập trung vào một vài thị trường, sẽ giúp giảm thiểu được các vụ kiện và nguy cơ rủi ro nếu thị trường chính có biến động. Bên cạnh đó cũng cần chú ý là chiến lược về giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp cần đầu tư nghiên cứu công nghệ cải tiến sản phẩm để nâng cao hàm lượng chất xám, qua đó nâng cao giá thành sản phẩm. Mỗi quy trình hoạt động, sản xuất kinh doanh cần được đổi mới dần theo các tiêu chuẩn quốc tế. Để ứng phó tốt trong các vụ kiện, doanh nghiệp cần nhận thức rõ tác dụng tích cực khi tham gia vụ kiện qua đó chủ động hơn trong quá trình chuẩn bị, điều tra cũng như khi tiến hành vụ kiện. Tích cực chuẩn bị hồ sơ, sổ sách chứng từ kế toán, tài liệu chứng minh bảo vệ cho doanh nghiệp, tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan thương vụ và đại sứ quán tại nước đó, liên kết chặt chẽ với các đối tác nhập khẩu, các tổ chức, cá nhân có quyền lợi liên quan để tìm ra biện pháp giải quyết vụ kiện, có thể thuê công ty tư vấn, phối hợp cả công ty luật của nước ngoài và công ty luật trong nước, dự trù kinh phí để giải quyết vụ kiện... Các doanh nghiệp nên tăng cường tính đoàn kết, liên kết trong các hiệp hội ngành hàng vừa để thống nhất chiến lược, biện pháp ứng phó trong các vụ kiện, vừa tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình thu thập thông tin, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm. Các hiệp hội ngành hàng có thể thiết lập các trung tâm xúc tiến thương mại nghiên cứu, định hướng phát triển thị trường, tham mưu và tư vấn cho doanh nghiệp khi phải ứng phó với các tranh chấp thương mại. Hiệp hội còn đóng vai trò điều hòa sản xuất kinh doanh, tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt tràn lan, giữ gìn trật tự xuất khẩu, thúc đẩy việc chấp hành các quy chế về xuất khẩu. Kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức với tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện thương mại phát triển, cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn, các biện pháp bảo hộ truyền thống như thuế quan, hạn ngạch xuất nhập khẩu không còn phổ biến thì chống bán phá giá đã trở thành công cụ bảo hộ hợp pháp đang được các quốc gia sử dụng ngày càng nhiều. Trung Quốc, một trong những quốc gia có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn trên thế giới, đã áp dụng thành công biện pháp chống bán phá giá trong nước cũng như ứng phó thành công với các vụ kiện bán phá giá hàng hóa Trung Quốc ở nước ngoài. Những chính sách và biện pháp này của Trung Quốc thực sự là bài học kinh nghiệm quý giá mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi qua đó nâng cao kiến thức và kĩ năng ứng phó với các tranh chấp thương mại. Song với tình hình kinh tế thế giới luôn biến động từng ngày, các doanh nghiệp nên tích cực nắm bắt thông tin đổi mới, tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt động đạt yêu cầu quốc tế, góp phần thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đối ngoại – GS.TS Bùi Xuân Lưu – NXB Giáo dục (1997) Tạp chí Thương mại – số 1,2/2006 www.mot.gov.vn www.chongbanphagia.vn www.wto.org MỤC LỤC THỐNG KÊ CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ MÀ VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN TÍNH ĐẾN THÁNG 5/2008 Nguồn: Cục quán lý cạnh tranh – Bộ Công thương Năm Tổng số vụ kiện Thứ tự (theo năm) Mặt hàng Nước kiện Quá trình điều tra Thời gian khởi kiện Biện pháp tạm thời Biện pháp cuối cùng Ghi chú Ngày Tỉ l ệ Thời gian Ngày Tỉ lệ Thời gian 2008 28 1 Sợi vải Ấn Độ 06/05/2008 27 2 lò xo không bọc M ĩ 25/01/2008 2007 26 1 Đĩa ghi Ấn Độ 12/09/2007 Ritek: (3.04 Rupi/ cái). Các công ty khác (3.23 Rupi/cái) 25 2 Đèn huỳnh quang Ấn Độ 30/08/2007 24 3 Bật lửa ga Thổ Nhĩ Kỳ 13/5/2007 Điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá 2006 23 2 Giày mũ vải Peru 23/5/2006 Không áp thuế vì không có bằng chứng về thiệt hại 22 1 Dây curoa Thổ Nhĩ Kỳ 13/5/2006 31/3/2007 4,55 US$/kg 5 năm 2005 21 3 Nan hoa xe đạp, xe máy Argentina 21/12/2005 81% 24/6/2007 81% 5 năm 20 2 Đèn huỳnh quang Ai Cập 31/10/2005 0,36-0,43 USD/cái 22/8/2006 0,32 USD/cái 5 năm 19 1 Giày mũ da EU 7/7/2005 14,2-16,8% 5/10/2006 10% 2 năm 2004 18 1 Ván l ướt sóng Peru 20/9/2004 5,2 USD/ chiếc 17 2 Đèn huỳnh quang EU 10/9/2004 66,1 % Hàng hóa được chuyển tư Trung Quốc sang Việt Nam rồi xuất khẩu vào EU để trốn thuế chống bán phá giá 16 3 Chốt cài inox EU 24/8/2004 7,7 % 15 4 Ống tuýt thép EU 11/8/2004 Đơn kiện bị rút lại 14 5 Xe đạp EU 29/4/2004 15,8 %- 34,5 % 13 6 Lốp xe Thổ Nhĩ Kỳ 27/9/2004 29- 49% 12 7 Vòng khuyên kim loại EU 28/4/2004 51,2 %- 78,8 % Hàng hóa được chuyển tư Trung Quốc sang Việt Nam rồi xuất khẩu sang EU để trốn thuế chống bán phá giá 2003 11 1 Tôm M ỹ 31/12/2003 12,11- 93,13% 4,13- 25,76% Rà soát hành chính (POR1) 10 2 Ô xít kẽm EU 2003 28% Hàng hóa được chuyển tư Trung Quốc sang Việt Nam rồi xuất khẩu sang EU để trốn thuế chống bán phá giá 2002 9 1 Cá da trơn US 2002 36,84%- 63,88% Kêt quả rà soát lần 1: CATACO (80,88%); các công ty Việt Nam khác (63,88%); Vinh Hoan (6,81%) Hiện đang trong giai đoạn rà soát lần 2 8 2 Bật lửa ga Hàn Quốc 2002 Đơn kiện bị rút lại 7 3 Bật lửa ga EU 2002 Đơn kiện bị rút lại 6 4 Giày và đế giày không thấm nước Canada 2002 Vụ kiện chấm dứt do không có bằng chứng về thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của EU 2001 5 1 Tỏi Canada 2001 1,48 CAD/kg 2000 4 1 B ật l ửa ga BaLan 2000 0,09 Euro/cái 1998 3 1 Giày dép EU 1998 Vụ kiện chấm dứt do không có bằng chứng về thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của EU 2 2 Mì chính EU 1998 16,8% 1994 1 1 G ạo Columbia 1994 Vụ kiện chấm dứt do không có thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6015.doc
Tài liệu liên quan