Đề tài Bàn về chế độ tài chính và kế toán thu nhập và phân phối thu nhập hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết, cơ sở kinh tế và pháp lí quyết định nội dung phân phối lợi nhuận sau thuế của một doanh nghiệp chính là quan hệ sở hữu đối với vốn của doanh nghiệp đó. Người bỏ vốn vào kinh doanh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước và bù đắp các chi phí sản xuất kinh doanh từ doanh thu sẽ được hưởng toàn bộ phần lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp. Nói cách khác chủ sở hữu của doanh nghiệp được quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì việc phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp cần phải giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích người lao động trong doanh nghiệp, vừa nuôi dưỡng tạo nguồn thu cho Ngân sách, vừa phát huy quyền tự chủ tài chính của doanh nghiệp cũng như chăm lo lợi ích vật chất của người lao động trong doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là việc phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp Nhà nước cần giải quyết một cách tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra trong hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, nếu cơ chế Tài chính - Kế toán về thu nhập và phân phối thu nhập hợp lí sẽ tạo nên động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo tiền đề cho doanh nghiệp tăng khả năng tự tích luỹ vốn, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trong điều kiện có sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, tiến tới hội nhập với kinh tế thế giới. Đồng thời, nó đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách hợp lí, đầy đủ, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước trên con đường CNH - HĐH đất nước.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về chế độ tài chính và kế toán thu nhập và phân phối thu nhập hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tức là sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận (cả về chất lượng và giá cả), từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất - kinh doanh đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng toàn bộ nền KTQD. Bởi vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập của ngân sách Nhà nước, thông qua việc thu thuế lợi tức, trên cơ sở đó giúp cho Nhà nước phát triển nền kinh tế - xã hội. Một bộ phận lợi nhuận khác, được để lại xí nghiệp thành lập các quỹ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, lợi nhuận có trở thành mục tiêu, động lực của các doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc vào chính sách phân phối thu nhập của Nhà nước. Đây là một chính sách tài chính quan trọng, nó giải quyết mối quan hệ và lợi ích kinh tế của Nhà nước, chủ sở hữu và người lao động trong việc phân phối kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, chính sách phân phối thu nhập hợp lí sẽ là một đòn bẩy kinh tế quan trọng khuyến khích người lao động và các doanh nghiệp ra sức phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất thúc đẩy quá trình CNH - HĐH. Đồng thời việc thực hiện tốt công tác tài chính - kế toán thu nhập và phân phối thu nhập tại các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước trong việc quản lý ngân sách, điều tiết thu nhập, đảm bảo cho sự phát triển và tăng trưởng bền vững. Trong quá trình đi theo định hướng XHCN, Nhà nước không ngừng tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chế độ tài chính kế toán thu nhập và phân phối thu nhập cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng phát sinh không ít vấn đề cần quan tâm giải quyết và hoàn thiện thêm. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận và chế độ phân phối lợi nhuận đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo - TS. Nguyễn Văn Công - em xin mạnh dạn chọn đề tài: Bàn về chế độ tài chính và kế toán thu nhập và phân phối thu nhập hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. B. Nội dung I. Cơ sở lí luận: 1. Thu nhập doanh nghiệp: 1.1 Khái niệm: Thu nhập doanh nghiệp là kết quả tài chính của một kì sản xuất - kinh doanh được biểu hiện bằng chỉ tiêu lợi nhuận (lãi hoặc lỗ). 1.2 Vai trò và ý nghĩa của lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập của ngân sách Nhà nước, thông qua việc thu thuế, trên cơ sở đó giúp cho Nhà nước phát triển nền kinh tế - xã hội. Một bộ phận khác được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống người lao động. Lợi nhuận là một đòn bẩy kinh tế quan trọng khuyến khích người lao động và các doanh nghiệp ra sức phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn. 1.3 Nội dung của thu nhập: Theo Thông Tư số 64/1999 TT- BTC ngày 7/6/1999 lợi nhuận thực hiện cả năm là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận hoạt động khác. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là kết quả của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Kết quả đó được đo bằng phần chênh lệch giữa doanh thu thuần về tiêu thụ hàng hoá với các khoản chi phí kinh doanh và được xác định bằng công thức: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần về tiêu thụ - Giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lí doanh nghiệp Doanh thu thuần về tiêu thụ = Tổng số Doanh thu thực tế - Giảm giá hàng bán - Doanh thu hàng bán bị trả lại - Thuế tiêu thụ đăc biệt, thuế xuất khẩu Kết quả hoạt động tài chính (lợi nhuận thuần hoạt động tài chính) là kết quả được hình thành từ các hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh, kinh doanh bất động sản, cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn... và được xác định bằng công thức: Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính = Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính - Chi phí hoạt động tài chính Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính = Thu nhập từ hoạt động tài chính - Các khoản giảm trừ thu nhập hoạt động tài chính Trong đó, thu nhập từ hoạt động tài chính bao gồm: Lãi do buôn bán chứng khoán đầu tư. Lợi tức cổ phần, lãi trái phiếu, tín phiếu. Chiết khấu thanh toán hàng mua được hưởng. Thu lãi cho vay vốn. Thu nhập do bán bất động sản. Thu nhập được chia từ hoạt động tham gia liên doanh. Lãi mua bán ngoại tệ. Thu các hoạt động đầu tư khác... Hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư. Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: Lỗ do buôn bán chứng khoán đầu tư. Chi phí kinh doanh chứng khoán. Lỗ từ hoạt động liên doanh. Chi phí hoạt động đầu tư tài chính khác. Chiết khấu thanh toán khi bán hàng. Chi phí dự phòng giảm giá đầu tư. v.v... Kết quả hoạt động bất thường (lợi nhuận bất thường) là khoản chênh lệch giữa thu và chi bất thường phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức: Lợi nhuận bất thường = Thu nhập bất thường - Chi phí bất thường Thu nhập bất thường là những khoản thu nhập từ các nghiệp vụ không thường xuyên ở doanh nghiệp, nằm ngoài dự tính của doanh nghiệp. Các khoản bất thường bao gồm: Thu do nhượng bán, thanh lí tài sản cố định, bán phế liệu. Thu các khoản được phạt được bồi thường. Thu về các khoản nợ không có chủ. Tài sản thừa... Hoàn nhập dự phòng giảm giá tồn kho và khoản thu khó đòi. Thu nhập bất thường sau khi trừ đi các khoản giảm thu nhập bất thường (giảm giá hàng bán và thu nhập của hàng bán bị trả lại thuộc hoạt động bất thường) sẽ tạo nên chỉ tiêu thu nhập thuần bất thường. Chi phí bất thường là khoản chi phí do các sự kiện hay các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông thường mà doanh nghiệp không thể tính toán trước được. Các khoản chi phí bất thường bao gồm: Chi phí thanh lí, nhượng bán tài sản cố định, giá trị còn lại của tài sản cố định thanh lí, nhượng bán. Các khoản bị phạt, bị bồi thường. Các khoản chi phí bất thường khác. 2. Phân phối thu nhập: 2.1 Tổng quát về chính sách phân phối thu nhập: Trên bình diện tổng thể, thu nhập của doanh nghiệp được phân phối theo hai nội dung cơ bản, đó là: Nộp thuế cho Nhà nước theo luật định. Theo nội dung phân phối này, một phần tài sản của doanh nghiệp sẽ tách ra khỏi quá trình luân chuyển vốn ở doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Phân chia cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo nội dung phân phối này thì phần tài sản của doanh nghiệp tương ứng với thu nhập mà chủ sở hữu được hưởng, được sử dụng theo quyết định của chủ sở hữu, như bổ sung vốn kinh doanh cho doanh nghiệp, chủ sở hữu nhận thu nhập để chi dùng vào việc khác. 2.2 Nội dung phân phối thu nhập: Theo nghị định 27/CP ngày 20/4/1999 Nội dung phân phối Thu nhập của các doanh nghiệp Nhà nước như sau: I. Nộp thuế lợi tức theo luật định (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp). II. Lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: 1. Bù khoản của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. 2. Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. 3. Trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp. 4. Lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản 1, 2, 3 được phân phối theo quy định dưới đây: a/ Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư quỹ bằng 25% vốn điều lệ thì không trích nữa. b/ Trích 50% vào quỹ đầu tư phát triển. c/ Trích 5% vào quỹ dự phòng mất việc làm; khi số dư quỹ này bằng 6 tháng lương thực hiện thì không trích nữa. d/ Đối với một số ngành đặc thù mà pháp luật cho phép trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế thì doanh nghiệp được trích lập theo các quy định đó. đ/ Chia lãi cổ phần trong trường hợp phát hành cổ phiếu. e/ Số lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản a, b, c, d, đ được trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi. Mức trích tối đa cho cả hai quỹ này được căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận (tính trên vốn Nhà nước) như sau: + 3 tháng lương thực hiện nếu tỉ suất lợi nhuận năm nay không thấp hơn năm trước. Trường hợp doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng kinh doanh đang trong thời gian được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, nếu có tỉ suất lợi nhuận thấp hơn năm trước khi đầu tư thì cũng được trích tối đa 3 tháng lương thực hiện. + 2 tháng lương thực hiện nếu tỉ suất lợi nhuận năm nay thấp hơn tỉ suất lợi nhuận năm trước. Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có hội đồng quản trị) sau khi tham khảo ý kiến công đoàn quyết định tỉ lệ phân chia vào mỗi quỹ. Số lợi nhuận còn lại sau khi trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi như trên được bổ sung toàn bộ vào quỹ đầu tư phát triển. 3. Hạch toán thu nhập và phân phối thu nhập: 3.1 Đặc điểm và nhiệm vụ hạch toán: 3.1.1 Đặc điểm hạch toán: Thu nhập của doanh nghiệp thể hiện bằng chỉ tiêu lãi hoặc lỗ, là chỉ tiêu gắn với kỳ hạch toán. Người ta chỉ có thể xác định được kết quả kinh doanh của một kỳ hạch toán khi kết thúc kì hạch toán đó. Theo chế độ kế toán của Việt Nam, kỳ hạch toán là theo năm dương lịch. Muốn phân phối thu nhập doanh nghiệp thì phải xác định được thu nhập trong năm, vì vậy việc phân phối tn thực tế của một năm nào đó tất yếu phải thực hiện ở năm tiếp theo. Trong thực tế, cac doanh nghiệp phải xác định được thu nhập theo kế hoạch (tạm phân phối), số phân phối theo kế hoạch sẽ được tất toán khi báo cáo tài chính của doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền công nhận. 3.1.2 Nhiệm vụ hạch toán: Phản ánh chính xác doanh thu, chi phí; từ đó xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường khác. Cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về kết quả của các hoạt động kinh doanh để làm cơ sở đề ra quyết định quản lý. Ghi nhận kết quả các hoạt động kinh doanh một cách chi tiết theo từng nghiệp vụ kinh doanh, theo từng đơn vị trực thuộc, hoặc theo từng ngành hàng, nhóm hàng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh tế nội bộ. Xác định số thu nhập chịu thuế một cách chính xác. Xác định số lợi nhuận phân phối cho các lĩnh vực được chính xác, đồng thời phản ánh kịp thời tình hình phân phối lợi nhuận. Đôn đốc tình hình thanh toán với Ngân sách Nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp, về thu trên vốn, tránh tình trạng chây ì, dây dưa, chiếm dụng thuế. 3.2 Tài khoản sử dụng: Để hạch toán kết quả hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác, kế toán sử dụng các tài khoản sau: + Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”: Tài khoản này dùng để xác định kết quả của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kì hạch toán, chi tiết theo từng hoạt động (hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường). Bên Nợ: - Chi phí thuộc hoạt động kinh doanh trừ vào kết quả trong kỳ (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp). - Chi phí thuộc hoạt động tài chính. - Chi phí thuộc hoạt động bất thường. - Kết chuyển kết quả (lợi nhuận) của các hoạt động kinh doanh. Bên Có: - Doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ. - Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính. - Thu nhập thuần bất thường. - Kết chuyển kết quả (lỗ) của các hoạt động kinh doanh. Tài khoản 911 cuối kỳ không có số dư. + Tài khoản 421 “Lợi nhuận chưa phân phối”: Nội dung của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Số lỗ từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các hoạt động khác. - Phân phối lợi nhuận. Bên Có: - Số lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các hoạt động khác. - Xử lí lỗ. Tài khoản 421 phải chi tiết thành 2 tài khoản cấp 2: TK 4211 “Lợi nhuận năm trước”: phản ánh lợi nhuận chưa phân phối của năm trước chuyển sang năm nay để phân phối theo quyết toán khi được duyệt, hoặc lỗ của năm trước chuyển sang năm nay để xử lý. TK 4212 “Lợi nhuận năm nay”: Phản ánh lợi nhuận hình thành trong năm nay và tình hình tạm phân phối lợi nhuận theo kế hoạch của năm nay. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chi tiết các tài khoản trên thành các tài khoản cấp 3 để theo dõi riêng lợi nhuận thực hiện và tình hình tạm phân phối thu nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quyết toán lợi nhuận của doanh nghiệp. + Tài khoản 414 “Quỹ đầu tư phát triển”: Quỹ này được sử dụng cho các mục đích mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, mua sắm, xây dựng tài sản cố định, cải tiến và đổi mới dây chuyền sản xuất, đổi mới công nghệ, bổ sung vốn lưu động, tham gia liên doanh, mua cổ phiếu, góp cổ phần, trích nộp lên cấp trên để hình thành quỹ phát triển kinh doanh... + Tài khoản 415 “Quỹ dự phòng tài chính”: Được dùng để bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp được bình thường khi gặp rủi ro, thua lỗ trong kinh doanh hay thiên tai, hoả hoạn, trích nộp lên cấp trên... + Tài khoản 431 “Quỹ khen thưởng, phúc lợi”: Tài khoản 431 được mở chi tiết thành 3 tài khoản cấp 2: - Tài khoản 4311 “Quỹ khen thưởng”: Dùng khen thưởng cho tập thể, cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp có đóng góp nhiều thành tích đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (khen thưởng thi đua cuối quý, cuối năm...), trích nộp lên cấp trên... - Tài khoản 4312 “Quỹ phúc lợi”: Dùng chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi công cộng, trợ cấp khó khăn, mục đích từ thiện, trích quỹ nộp lên cấp trên... - Tài khoản 4313 “Quỹ phúc lợi đã hình thành tài sản cố định”: Dùng để theo dõi số quỹ phúc lợi đã đầu tư mua sắm tài sản cố định sử dụng cho mục đích phúc lợi công cộng. Về thực chất, tài khoản này phản ánh giá trị còn lại của những tài sản cố định hình thành bằng quỹ phúc lợi sử dụng cho phúc lợi công cộng. + Tài khoản 416 “Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm”: Quỹ này dùng để chi cho việc đào tạo công nhân viên do thay đổi cơ cấu hoặc đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ và bồi thường tay nghề cho người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ 1 năm trở lên; trích nộp cấp trên. Các tài khoản phản ánh quỹ xí nghiệp có kết cấu chung như sau: Bên Nợ: Các nghiệp vụ phát sinh làm giảm quỹ xí nghiệp. Bên Có: Các nghiệp vụ phát sinh làm tăng quỹ xí nghiệp. Dư Có: Số quỹ xí nghiệp hiện có. 3.3 Phương pháp hạch toán: - Kết chuyển giá vốn hàng bán, chi phí cho các hoạt động trong kì: Nợ TK 911: Kết chuyển chi phí. Có TK 632: Giá vốn hàng bán. Có TK 641: Chi phí bán hàng. Có TK 642: Chi phí quản lí doanh nghiệp. Có TK 811: Chi phí hoạt động tài chính. Có TK 821: Chi phí hoạt động bất thường. - Kết chuyển thu nhập các hoạt động trong kì: Nợ TK 511: Doanh thu thuần tiêu thụ bên ngoài. Nợ TK 512: Doanh thu thuần tiêu thụ nội bộ. Nợ TK 711: Thu nhập hoạt động tài chính. Nợ TK 721: Thu nhập hoạt động bất thường. Có TK 911: Kết chuyển thu nhập. - Phản ánh lợi nhuận hình thành từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các hoạt động khác trong kì, kế toán ghi: Nợ TK 911. Có TK 421 (4212). - Phản ánh các khoản lỗ của các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các hoạt động khác trong kì, kế toán ghi: Nợ TK 421(4212). Có TK 911. * Hạch toán phân phối lãi: Trong năm N khi phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp cho từng nội dung theo kế hoạch, kế toán ghi: Nợ TK 4212 “Lợi nhuận năm nay”. Có TK 333 (3334): Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Có TK 333 (3335): Tiền thu trên vốn phải nộp. Có TK 414: Trích quỹ đầu tư phát triển. Có TK 415: Trích quỹ dự phòng tài chính. Có TK 416: Trích quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Có TK 431: Trích quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Có TK 111, 112, 338: Trả thu nhập cho cổ đông hoặc các đối tác tham gia liên doanh. v.v... Cuối năm N kế toán xác định số dư cuối kì của TK 4212 “Lợi nhuận năm nay” để chuyển thành số dư đầu kì của TK 4211 “Lợi nhuận năm trước” trên sổ của năm N + 1. Nợ TK 421 (4212): Ghi giảm số lợi nhuận năm nay. Có TK 421 (4211): Ghi tăng số lợi nhuận năm trước. Khi báo cáo quyết toán lãi của doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền công nhận, kế toán tính toán thu nhập thực tế được phân phối theo từng nội dung và so sánh với số tạm phân phối trong năm trước để phân phối bổ sung (nếu số thực tế > số đã phân phối theo kế hoạch) hoặc thu hồi lại (nếu số tạm phân phối theo kế hoạch > số thực tế). - Nếu phải phân phối bổ sung kế toán ghi: Nợ TK 4211: Lãi năm trước được phân phối. Có TK 333 (3334, 3335): Phải nộp Nhà nước bổ sung. Có TK 414: Bổ sung quỹ đầu tư phát triển. Có TK 4212: Bổ sung quỹ dự phòng tài chính. Có TK 4212: Bổ sung quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm. Có TK 431: Bổ sung quỹ khen thưởng, phúc lợi. Có TK 111, 112, 338: Bổ sung thu nhập cho cổ đông hoặc các đối tác tham gia liên doanh. - Nếu phân phối thừa phải thu lại, kế toán ghi: Nợ TK 333 (3334, 3335): Số nộp thừa cho Nhà nước. Nợ TK 414, 415, 416, 431: Số trích vào các quỹ thừa. Nợ TK 138, 111, 112: Trả thừa cho cổ đông hoặc các đối tác liên doanh. v.v... Có TK 4211. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ, căn cứ vào quyết định xử lý của các cấp có thẩm quyền, kế toán ghi: Nợ TK 411: Ghi giảm vốn kinh doanh của chủ sở hữu. Nợ TK 415: Bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính. Nợ TK 138: Phải thu ở các bên tham gia liên doanh. v.v... Có TK 421 (4211): Lỗ đã xử lý. 3.4 Sơ đồ hạch toán: TK 911 TK 511 TK 512 TK 711 TK 721 TK 421 (4212) TK 421 (4212) TK 632 TK 641 TK 642 TK 811 TK 421 (4212) TK 421 (3334, 3335) TK 414, 411 TK 415 TK 416 TK 431 TK 111, 112, 338... TK 421(4211) TK 821 1a 1b 1c 1d 3a 1e 2a 2b 2c 2d 3b 5b 4a 4b 4c 4d 4e 4f 5a Giải thích: 1a, 1b, 1c, 1d, 1e: Kết chuyển chi phí. 2a, 2b, 2c, 2d: Kết chuyển thu nhập. 3a, 3b: Kết chuyển lợi nhuận (lãi, lỗ) năm nay. 4a, 4b, 4c, 4d, 4e, 4f: Phân phối thu nhập năm nay (tạm trích nộp và bổ sung). 5a, 5b: Chuyển lợi nhuận (lãi, lỗ) năm nay sang năm sau. 3.5 Chứng từ, sổ sách kế toán: - Chứng từ: Quyết toán thu nhập. - Sổ sách: Các sổ chi tiết, Nhật kí chứng từ số 8, số 10. II. Thực trạng, kiến nghị và giải pháp: Kế toán là một trong những công cụ quan trọng để quản lí nền kinh tế nói chung và quản lí doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời là khoa học thu nhận, xử lí và cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính một cách thường xuyên, liên tục, phục vụ cho nhà quản lí ra các quyết định tài chính tối ưu. Kế toán Việt Nam đã hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và cơ chế quản lí kinh tế trong từng thời kì trên khuôn khổ và môi trường pháp lí nhất định. Thực tế trong những năm gần đây, công tác kế toán trong các ngành, các cấp, các lĩnh vực và mọi thành phần kinh tế đã có nhiều tiến bộ trên cơ sở môi trường pháp lí ngày càng được hoàn thiện. Việc Nhà nước mạnh dạn sửa đổi, bổ sung hệ thống các văn bản pháp quy và kế toán tạo hành lang pháp lí đamr bảo cho hoạt động kế toán phát triển, ổn định nhằm phát huy vai trò công cụ đắc lực trong quản lí cũng là những đổi mới căn bản trong tư duy. Bên cạnh những văn bản trực tiếp hướng dẫn công tác kế toán, Nhà nước còn ban hành nhiều văn bản pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đối với hệ thống kế toán Việt Nam. Một trong những nét đặc thù ở nước ta là mối liên hệ chặt chẽ giữa các quy định kế toán đối với chính sách thuế, chính sách tài chính doanh nghiệp. Do đó báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu thông tin cho nhiều đối tượng, trong đó các cơ quan quản lí tài chính và cơ quan thuế của Nhà nước. Các quy định về kế toán thường mang tính nguyên tắc về các phương pháp kế toán áp dụng cho việc lập báo cáo tài chính nhằm phản ánh và cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về việc thực hiện các chính sách tài chính, chính sách thuế của Nhà nước tại doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường với nhiều biến động phức tạp đòi hỏi các cơ chế chính sách cũng phải có những điều chỉnh kịp thời cho phù hợp. Tuy nhiên, để mỗi cơ chế, chính sách kinh tế - tài chính đi vào hoạt động thực tiễn cần có một thời gian nhất định để nghiên cứu, áp dụng, từ đó thấy được những ưu điểm, hạn chế nhằm tiến hành sửa đổi bổ sung. Chế độ tài chính - kế toán cũng đang trong quá trình hoàn thiện để tiến tới hội nhập với kế toán khu vực và thế giới. Trong đó, quá trình áp dụng chế độ tài chính - kế toán thu nhập và phân phối thu nhập đã cho ta thấy có một vài vấn đề cần nghiên cứu. 2.1 Có bình đẳng trong kết cấu của chi phí bất thường và thu nhập bất thường. Cơ sở của việc xác định kết quả (hay thu nhập) của doanh nghiệp là doanh thu và chi phí. Song trong thời gian qua việc quy định phạm vi doanh thu và phạm vi chi phí thiếu nhất quán, không phù hợp với tình hình thực tế của cơ chế thị trường như các khoản chi nộp phạt do vi phạm hợp đồng, lãi vay vượt mức trần của Ngân hàng... không được tính vào chi phí. Nhưng những khoản thu thuộc nội dung này lại tính vào doanh thu (thu nhập bất thường) để tính thu nhập chịu thuế. Theo cơ chế tài chính hiện hành, các khoản chi thuộc về khuyết điểm chủ quan của doanh nghiệp như các khoản tiền phạt về vi phạm kĩ thuật, thanh toán, vi phạm hợp đồng... không được phép tính vào chi phí hợp lí hợp lệ của doanh nghiệp, những khoản này buộc doanh nghiệp phải dùng thu nhập sau thuế để bù đắp. Theo em, trong quá trình sản xuất - kinh doanh việc mắc phải những vi phạm đó không thể tránh được tuyệt đối, không phải lúc nào cũng do lỗi chủ quan của bản thân doanh nghiệp mà có thể do rất nhiều nguyên nhân bên ngoài mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động và quan hệ rất đa dạng, phức tạp, thường xuyên biến đổi. Hơn nữa, bản thân doanh nghiệp cũng không muốn bị phạt vì ngoài chi phí phải trả cho việc vi phạm, nó còn ảnh hưởng không tốt đến uy tín cũng như các mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường (ngoại trừ các khoản phạt về trốn thuế, chậm nộp thuế...). Mặt khác, khoản tiền thu được do các đơn vị khác bị phạt phải trả cho doanh nghiệp lại được tính vào thu nhập bất thường để xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp trong việc xác định thu nhập, đồng thời khuyến khích họ mạnh dạn mở rộng sản xuất, đầu tư vào những lĩnh vực mới thì những khoản chi do vi phạm nói trên được phép tính vào chi phí hợp lí hợp lệ của doanh nghiệp, tức hạch toán vào tài khoản 821 chi phí hoạt động bất thường. Như vậy sẽ đảm bảo phù hợp việc hạch toán khoản chi và thu tiền phạt vào chi phí và thu nhập hoạt động bất thường. So sánh với kế toán Pháp ta thấy trong tài khoản 67: “Chi phí đặc biệt” bao gồm cả tiền phạt do doanh nghiệp vi phạm luật, vi phạm hợp đồng kinh tế... Đồng thời tài khoản 77 “Thu nhập đặc biệt” cũng gồm các khoản do thu tiền nộp phạt. Điều này hoàn toàn hợp lí mà chế độ tài chính - kế toán của chúng ta cần xem xét để tiếp tục hoàn thiện. 2.2 Phân biệt thu nhập từ hoạt động thông thường và bất thường ảnh hưởng đến việc đánh giá năng lực sinh lợi của doanh nghiệp: Trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp được phân loại theo 3 loại: lợi tức từ hoạt động kinh doanh, lợi tức từ hoạt động tài chính và lợi tức hoạt động bất thường, trong đó việc xác định lợi tứcbất thường lại chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc phân chia kết quả hoạt động trên báo cáo thu nhập như hiện nay sẽ không cung cấp thông tin cho người sử dụng phân biệt giữa thu nhập thông thường của doanh nghiệp và thu nhập (hay thiệt hại) bất thường là khoản không thể dự báo trước. Từ đó ảnh hưởng đến việc đánh giá không chính xác kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vì, chính thu nhập từ hoạt động thông thường mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi đánh giá năng lực sinh lợi cơ bản của doanh nghiệp. Việc phân chia kết quả hoạt động của doanh nghiệp thành 2 phần: lãi (lỗ) từ hoạt động thông thường và lãi (lỗ) từ hoạt động bất thường, sẽ cung cấp thông tin hữu ích hơn cho người sử dụng. Thực chất hầu hết các khoản mục của thu nhập và chi phí được bao gồm trong việc xác định lãi (lỗ) thuần trong kì đều phát sinh từ các hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Vì vậy, có rất ít trường hợp trong đó một sự kiện hay giao dịch làm phát sinh các khoản mục bất thường. Hoạt động thông thường là hoạt động được doanh nghiệp thực hiện gắn liền với các nhiệm vụ được xác định trong hoạt động kinh doanh của mình và các hoạt động liên quan mà doanh nghiệp tham gia vào như các hoạt động phụ trợ, kèm theo hay phát sinh từ các hoạt động trên. Chuẩn mực kế toán quốc tế số 8 (đoạn 16) đã hướng dẫn “Khi các khoản mục thu nhập và chi phí trong lãi hoặc lỗ của hoạt động bình thường có quy mô, tính chất hoặc mức độ mà việc trình bày chúng sẽ diễn giải tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ, thì tính chất và giá trị các khoản như vậy cần được trình bày riêng biệt”. Các trường hợp có thể làm nảy sinh việc trình bày các khoản mục thu nhập và chi phí đã được chuẩn mực kế toán quốc tế số 8 (đoạn 18) đưa ra như sau: - Ghi giảm hàng tồn kho xuống bằng giá trị thực hiện thuần tuý hoặc ghi giảm giá trị nhà xưởng, máy móc thiết bị xuống bằng giá trị có thể thu hồi. - Tổ chức lại cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp và hoàn lại các khoản dự phòng cho chi phí tổ chức lại cơ cấu. - Thanh lí nhà xưởng, máy móc thiết bị. - Thanh lí các khoản đầu tư dài hạn. - Giải quyết các vụ kiện tụng. - Hoàn nhập các khoản dự phòng. Như vậy theo chuẩn mực kế toán quốc tế, lãi (lỗ) từ hoạt động thông thường không những chỉ phát sinh từ những hoạt động mang tính chất thường xuyên, mà còn phát sinh từ những hoạt động không thường xuyên. Thông lệ quốc tế không dựa vào tính không thường xuyên của hoạt động, để coi đó là hoạt động bất thường như của Việt Nam. Theo thông lệ quốc tế, hoạt động bất thường trong thực tế được mô tả như sau: “Các sự kiện và nghiệp vụ kinh tế được coi là bất thường khi kết quả sẽ được lợi hoặc bị thiệt hại cần phải có bản chất bất thường hoặc xảy ra bất thường”. Có bản chất bất thường, nghĩa là hiện tượng có mức độ cao khác thường và không có liên quan, hoặc chỉ ngẫu nhiên có liên quan tới hoạt động của chủ thể hoạt động. Xảy ra bất thường là hiện tượng bất hợp lí được dự đoán có thể xảy ra trong tương lai có liên quan đến môi trường mà chủ thể đang hoạt động. Hiện tượng có thể được xem là bất thường đối với chủ thể này mà không bất thường đối với chủ thể khác. Nên trình bày kết cấu kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên báo cáo thu nhập sau: 1. Lãi (lỗ) thuần từ hoạt động kinh doanh. 2. Lãi (lỗ) hoạt động tài chính. 3. Lãi (lỗ) hoạt động không thường xuyên. 4. Lãi (lỗ) hoạt động thông thường (1+2+3). 5. Lãi (lỗ) hoạt động bất thường. 6. Tổng lãi (lỗ) trước thuế (4+5). Như vậy, chỉ tiêu lợi tức bất thường theo chế độ quy định hiện nay sẽ được chia làm hai phần, phản ánh các sự kiện có bản chất bất thường được chuyển sang mục “lãi (lỗ) bất thường”. Còn phần phản ánh các nghiệp vụ xảy ra không thường xuyên được chuyển sang mục “lãi (lỗ) hoạt động không thường xuyên”. 2.3 Tài khoản 421 phản ánh nhiều nội dung: Xét quá trình phân phối lợi nhuận năm N: Trong năm kế toán tiến hành tạm phân phối theo kế hoạch: Nợ TK 421 (4312). Có TK 333, 414, 415, 416, 431... Cuối năm N kế toán xác định số dư cuối kì của TK 4212 “Lợi nhuận năm nay” để chuyển thành số dư đầu kì của TK 4211 “Lợi nhuận năm trước” trên sổ của năm N+1: Nợ TK 421 (4212): Ghi giảm số lợi nhuận năm nay. Có TK 421 (4211): Ghi tăng số lợi nhuận năm trước. Khi báo cáo quyết toán lãi của doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền công nhận, kế toán tính toán thu nhập thực tế được phân phối theo từng nội dung và so sánh với số tạm phân phối trong năm trước để phân phối bổ sung hoặc thu hồi lại. Nếu phải phân phối bổ sung kế toán ghi: Nợ TK 4211 Có TK 333, 414, 415, 416, 431, ... Nếu phân phối thừa phải thu lại kế toán ghi: Nợ TK 333, 414, 415, ... Có TK 4211 Khi đó sẽ có hai trường hợp xảy ra: + Trường hợp 1: Tổng số tạm phân phối < Lợi nhuận thực hiện. Ta có sơ đồ phân phối: x Số tạm phân phối TK 333, 414, 415, 416, 431, ... TK 4212 Phân phối bổ sung Chuyển năm sau xxx x xx xxxxx ồPS Nợ ồPS Có Phân phối thừa, thu lại ồPS Nợ ồPS Có Dư có TK 4211 x x xx xxx Lợi nhuận thực hiện Trong trường hợp này ta tính được tổng lợi nhuận thực hiện năm N, ồPS Có TK 4212, số lợi nhuận chưa phân phối năm N = Dư Có TK 4211. + Trường hợp 2: Tổng số tạm phân phối < Lợi nhuận thực hiện. Ta có sơ đồ phân phối: Số tạm phân phối TK 333, 414, 415, ... TK 4211 Phân phối bổ sung Chuyển năm sau xx Phân phối thừa, thu lại Dư có TK 4212 Lợi nhuận thực hiện ồPS Nợ ồPS Có ồPS Nợ ồPS Có Trong trường hợp này từ TK 4212 ta không thể xác định được lợi nhuận thực hiện của năm N là bao nhiêu vì ồPS Có TK4212 bao gồm cả lợi nhuận thực hiện năm N và tổng số phân phối thừa do tạm phân phối theo kế hoạch. Ta chỉ xác định được số lợi nhuận chưa phân phối năm N bằng Dư Có TK 4211. Đây chính là hạn chế của TK 421 do kết cấu của tài khoản này vừa phản ánh tổng số lợi nhuận thực hiện từ hoạt động sản xuất - kinh doanh và các hoạt động khác, lại vừa phản ánh tình hình phân phối lợi nhuận. Do đó ở trường hợp 2 nếu nhìn vào TK 4212 ta không thể thấy được lợi nhuận thực hiện của năm N. Như chúng ta đã biết việc xác định được số lợi nhuận thực hiện mỗi năm sẽ tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc báo cáo với Nhà nước và các cơ quan quản lí cấp trên về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho công tác thanh tra kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và cấp trên đã trung thực hay chưa, đông thời kiểm tra việc trích lập các quỹ có đúng chế độ hay không. Không những thế việc xác định thu nhập (lợi nhuận thực hiện mỗi năm) còn giúp các nhà quản lí doanh nghiệp tiến hành so sánh kết quả hoạt động thực tế với kế hoạch, giữa kì này với kì trước và giữa các doanh nghiệp khác cùng ngành. Việc so sánh này là rất cần thiết và vô cùng quan trọng vì nó giúp doanh nghiệp đánh giá được vị thế của doanh nghiệp mình trong từng thời kì. Từ đó phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả trên và xây dựng những kế hoạch, chiến lược phát triển cho năm tới nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực. Hơn nữa, thông tin về thu nhập của doanh nghiệp cũng củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư, giúp họ có những định hướng ra quyết định trong quá trình đầu tư, liên doanh, góp vốn vào doanh nghiệp. Để mở rộng hơn ta sẽ xem xét về tình hình phản ánh thu nhập trên các TK của kế toán Pháp: Theo chế độ kế toán Pháp, sau khi kết chuyển các chi phí và thu nhập vào TK 128 “Xác định kết quả của niên độ”. Nếu tổng chi phí > tổng thu nhập đ lỗ, kết chuyển vào TK 129 “lỗ”, nếu tổng chi phí < tổng thu nhập đ lãi, kết chuyển vào TK 120 “lãi”. Sau đó việc thực hiện phân phối lãi sẽ diễn ra trên TK 88 “Kết quả chỗ phân phối”. Tiến hành phân phối TK Thuế phải nộp, các quỹ TK 129 Kết chuyển lãi TK 88 Chuyển để phân phối ồPS Nợ ồPS Có TK 120 TK 128 Kết chuyển lỗ ở đây do có TK 88 nên việc phân phối thu nhập đã được tách ra khỏi TK 120 “lãi”, ta dễ dàng xác định tổng lợi nhuận thực hiện bằng ồPS Có TK 120. Việc tách bạch hai nội dung công việc trên hai tài khoản này đã tạo nhiều thuận lợi cho công tác kế toán, giúp cho tốc độ công việc đạt nhanh hơn, dễ hiểu hơn. Do vậy, xét về trình độ công tác kế toán nước ta hiện nay thì việc thiết kế tài khoản kế toán sao cho phù hợp, bảo đảm tốc độ năng suất và chất lượng kế toán ngày càng cao là một mục tiêu quan trọng không chỉ mỗi doanh nghiệp mà cả Nhà nước cũng phải quan tâm, coi trọng. Cho nên để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quyết toán lợi nhuận của doanh nghiệp, theo em các doanh nghiệp nên chi tiết thêm TK 4212 thành 42121: lợi nhuận thực hiện và TK 42122: lợi nhuận đã phân phối để theo dõi riêng lợi nhuận thực hiện và tình hình tạm phân phối thu nhập. Khi đó ta có trình tự hạch toán như sau: Trong năm N, kế toán tạm phân phối thu nhập cho từng nội dung theo kế hoạch: Nợ TK 42122: Lợi nhuận tạm phân phối. Có TK 333, 414, 415, 416, 431... Cuối năm N, kế toán xác định số dư cuối kì của TK 42121 “Lợi nhuận thực hiện” để chuyển vào TK 42122, số còn lại chuyển thành số dư đầu kì của TK 4211 “Lợi nhuận năm trước” trên sổ của năm N+1. Nợ TK 42121: Lợi nhuận thực hiện. Có TK 42122: Lợi nhuận tạm phân phối. Có TK 4211: Lợi nhuận năm trước. Khi báo cáo quyết toán lãi của doanh nghiệp được công nhận, kế toán tính toán thu nhập thực tế được phân phối theo từng nội dung và so sánh với số tạm phân phối năm trước để phân phối bổ sung hoặc thu hồi lại. Tóm lại, việc hạch toán thu nhập và phân phối thu nhập sẽ được thể hiện trên sơ đồ sau: TK 333, 414, 415, 416... Số tạm phân phối TK 42121 Phân phối bổ sung Chuyển năm sau Phân phối thừa, thu hồi Lợi nhuận thực hiện TK 42122 Chuyển bằng số dư Nợ TK 4211 2.4 Thuế thu nhập doanh nghiệp _ Thuế suất và thuế bổ sung: 2.4.1 Thuế thu nhập với thuế suất cao 32% có tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng tích luỹ vốn...? Một thực trạng đáng lo ngại là các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vốn quá nhỏ. Tại thời điểm đầu năm 2000, theo số liệu của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương, số doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm 64,45%, trên 10 tỉ đồng chiếm 20,89%, 30% số doanh nghiệp Nhà nước có số vốn dưới 1 tỉ đồng. Trong khi đó quy mô bình quân của một dự án liên doanh với nước ngoài ở Việt Nam khoảng 18 triệu USD (trên 260 tỉ đồng). Do đó khả năng cạnh tranh ở trong nước cũng đã khó, chưa nói tới tầm khu vực và quốc tế. Hơn nữa trình độ kĩ thuật và công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp. Nhiều mặt hàng sản xuất trong nước có mức giá cao hơn giá mặt hàng cùng loại nhập khẩu từ 20 á 40%. Nhiều mặt hàng tồn tại được là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua thuế nhập khẩu cao. Để thoát khỏi tình trạng này các doanh nghiệp cần bổ sung thêm vốn đầu tư, trong đó một trong những nguồn vốn chủ yếu là từ tích luỹ nội bộ của doanh nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp hiện nay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất cao hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (32% so với 25%), cộng với thuế vốn. Như vậy, tỉ lệ động viên thu nhập từ các doanh nghiệp vào Ngân sách Nhà nước ở mức khá cao. Điều này đã vô tình thu hẹp khả năng tự tích luỹ vốn của các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp Nhà nước lâm vào vòng luẩn quẩn: vốn ít - kĩ thuật công nghệ lạc hậu - sức cạnh tranh yếu - hiệu quả thấp - tích luỹ ít - vốn ít ... Như vậy, Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa đến các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù chúng ta biết rằng sở dĩ có sự phân biệt như vậy là do Nhà nước muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước nhưng trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hiện nay, để doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì cũng cần có sự quan tâm, đầu tư thích đáng. Nên chăng Nhà nước xem xét, điều chỉnh lại mức thuế để giúp các doanh nghiệp Nhà nước tăng tích luỹ vốn, đổi mới kĩ thuật công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. 2.4.2 Thuế thu nhập bổ sung - thêm một gánh nặng đối với các doanh nghiệp: Theo NĐ 30/1998/ND - CP ban hành ngày 13-2-1998 có quy định: “Các cơ sở kinh doanh có thu nhập cao thì ngoài việc phải nộp thuế thu nhập theo thuế suất 32%, phần thu nhập còn lại nếu cao hơn 12% giá trị vốn chủ sở hữu có tại thời điểm quyết toán năm thì phần thu nhập cao hơn đó phải nộp thuế thu nhập bổ sung với thuế suất 25%.” đã tạo nên nhiều điểm bất hợp lí. Lợi nhuận nhiều hay ít không hẳn chỉ là do lợi thế khách quan mà còn có thể do lãnh đạo doanh nghiệp tổ chức quản lí tốt, biết vận dụng tốt công cụ nợ để nâng cao tỉ suất lợi nhuận sau thuế. Như vậy, theo cơ chế thì mới chỉ giải quyết nguồn thu hiện tại cho Ngân sách mà chưa tính đến thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nguồn tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước rất hạn hẹp, khả năng tạo vốn gặp nhiều khó khăn, trong điều kiện không được bao cấp về vốn như trước thì việc mở ra cơ hội để các doanh nghiệp tự tích luỹ vốn từ kết quả kinh doanh của mình đổi mới kĩ thuật công nghệ vươn lên là một yêu cầu bức xúc đặt ra cho các nhà hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp. Do đó một trong hai giải pháp nên được nghiên cứu là: Một là tăng tỉ lệ thu nhập còn lại so với giá trị vốn chủ sở hữu để tính thuế thu nhập bổ sung lên mức cao hơn 12%; Hai là giảm mức thuế suất thuế thu nhập bổ sung thấp hơn 25%. Cơ sở của kiến nghị trên là: sự tồn tại, phát triển và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tương lai gắn liền với việc bảo toàn vốn của Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, cũng như ổn định và tăng thu một cách vững chắc cho Ngân sách nhà nước trong tương lai. 2.5 Khoản tiền phải nộp do sử dụng vốn Ngân sách - Những đổi mới và tồn tại: Chính sách thu trên vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước cũng đang là vấn đề tranh cãi. Trước đây, Nghị định số 22 - HĐBT ngày 24-1-1991 quy định: Các xí nghiệp sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước dù kinh doanh có lãi hay không vẫn phải nộp tiền thu về sử dụng vốn là 0,2 á 0,5%/tháng trên số vốn doanh nghiệp sử dụng tuỳ loại doanh nghiệp. Mức quy định trên được coi là một khoản thu bắt buộc mang tính chất thuế được tính vào chi phí sản xuất, nên một số doanh nghiệp không có lãi, thậm chí lỗ cũng đành phải lấy bớt một phần vốn được giao nộp vào Ngân sách Nhà nước. Điều này theo em là chưa phù hợp vì điều kiện và lợi thế kinh doanh của các doanh nghiệp là rất khác nhau. Do đó tỉ lệ trích nộp thu sử dụng vốn Nhà nước từ lợi nhuận không nên chỉ căn cứ vào vốn Ngân sách được cấp mà còn phải căn cứ vào lợi thế kinh doanh của từng loại ngành nghề, từng loại doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh, trị giá “vốn vô hình” do Nhà nước tạo ra cho doanh nghiệp sẽ đóng góp rất lớn, đôi khi có vai trò quyết định trong việc tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Theo quy chế quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo NĐ 59/CP ngày 3-10-1996 của Chính Phủ thì tiền thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước được trích từ lợi nhuận là “Nộp tiền thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước” quy định: “Trường hợp doanh nghiệp bị lỗ thì không phải nộp tiền thu về sử dụng vốn. Trường hợp lợi tức sau thuế không đủ để nộp tiền thu sử dụng vốn theo mức quy định thì doanh nghiệp phải nộp toàn bộ lợi tức sau thuế”. Như vậy giờ đây chỉ khi doanh nghiệp có lãi mới phải nộp tiền thu về sử dụng vốn. Về thực chất ta đã chuyển đổi tính chất khoản thu này từ chỗ là khoản thu bắt buộc sang khoản chia lãi giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Song đã là chia lãi thì dù lãi nhiều hay lãi ít cũng nên chia chứ không nên buộc doanh nghiệp phải nộp toàn bộ lợi nhuận sau thuế nếu lợi nhuận sau thuế không đủ nộp tiền thuê sử dụng vốn. Có cách giải thích thu trên vốn Ngân sách là nhằm đảm bảo công bằng trong việc sử dụng các nguồn vốn, thúc đẩy các tổ chức kinh tế sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn Ngân sách, đồng thời cũng thu cho Nhà nước trước một phần lợi tức cổ phần, tăng thu cho Ngân sách.Nhưng khoản thu này là chưa hợp lí cả về cách thu và mức thu vì nó không tạo cơ hội cho các doanh nghiệp. Lãi ít lại phải nộp hết vào Ngân sách so lãi không đủ nộp tiền sử dụng vốn Ngân sách, nên không còn để bù đắp vào các quỹ của doanh nghiệp, làm cho khả năng đầu tư phát triển, khả năng dự phòng tài chính, khả năng dự phòng trợ cấp mất việc làm... giảm. Điều này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đầu tư, đổi mớim mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Mới đây, theo Nghị định 27/CP ngày 20/4/1999 đã có một số sửa đổi so với thông tư 70TC/TCDN: thực hiện của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: Khoản mục đầu tiên là “bù khoản lỗ của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế”. Khoản mục thứ hai là “Nộp tiền sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước” và khoản mục thứ ba là “Trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp”. Việc chuyển khoản “bù lỗ của các năm trước... lên trước khoản nộp sử dụng vốn Ngân sách và tiền phạt vi phạm pháp luật” này thể hiện sự nhìn nhận đánh giá đúng mức hơn quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối lợi nhuận sau thuế. Như các doanh nghiệp khác, khi tiến hành hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể bị lỗ. Số lỗ này cần phải được bù đắp để bảo toàn vốn, duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trước khi phân chia cho chủ sở hữu của doanh nghiệp. Với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước cũng phải gánh chịu những rủi ro từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tức là có thể được hoặc không được nhận phần lợi nhuận sau thuế dưới hình thức “tiền thu sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước” tuỳ vào kết quả kinh doanh năm của doanh nghiệp Nhà nước. Đặc biệt theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng thì kinh tế Nhà nước phải phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, và là nhân tố mở đường cho sự phát triển, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do đó Nhà nước nên tạo điều kiện để doanh nghiệp Nhà nước phát huy được vị trí then chốt của mình. Khoản thu này là chưa hợp lí cả về cách thu và mức thu nên em có kiến nghị sau: Một là xoá bỏ tỉ lệ quy định thu trên vốn nội tại NĐ22 - HĐBT và thay bằng tỉ lệ phải nộp trên số lợi nhuận còn lại sau thuế (VD 10 á 20% tuỳ loại doanh nghiệp). Khi đó dù doanh nghiệp có lãi nhiều hay ít, Nhà nước và doanh nghiệp đều có phần. Hai là thu nhập doanh nghiệp đạt được sẽ phân phối như sau: + Nộp thuế thu nhập theo luật định. + Trích lập các quỹ doanh nghiệp: quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng phúc lợi. + Phân phối cổ tức giữa Nhà nước và công nhân viên doanh nghiệp. Sau khi đã trích các khoản trên số còn lại này xem như 100%, trong số này nộp 60 á 80% (tuỳ theo vi thế doanh nghiệp, mức lãi và số lượng công nhân viên trong doanh nghiệp) vào Ngân sách Nhà nước với tư cách là cổ đông thu lợi tức cổ phần _ điều này sẽ làm tăng thu hợp lí cho Nhà nước. Phần 20 á 40% còn lại phân phối cho công nhân viên của doanh nghiệp (xem như phần tiền lương mềm) nhằm kích thích người lao động hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Với cơ chế này thì không cần phải xác định lợi thế khách quan để tính thuế thu nhập bổ sung và khoản thu trên vốn Ngân sách. 2.6 Về quỹ khen thưởng, phúc lợi _ Trình tự và mức phân phối: 2.6.1 Trình tự phân phối quỹ khen thưởng phúc lợi có tác dụng khuyến khích vật chất đối với người lao động hay chưa? Cơ chế phân phối lợi nhuận sau thuế hiện hành chưa gắn chặt quyền lợi của doanh nghiệp và tập thể lao động trong doanh nghiệp với kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có nguồn để trích lập các quỹ (quỹ dự phòng tài chính, quỹ đào tạo phát triển, quỹ dự phòng tài chính mất việc làm...) sau khi đã nộp đủ tiền sử dụng vốn Ngân sách và chi đủ các nội dung khác (bù lỗ năm trước chưa được trừ, nộp tiền phạt vi phạm pháp luật...) nếu vẫn còn. Người lao động chỉ được nhận thu nhập bổ sung từ quỹ khen thưởng phúc lợi nếu phần lợi nhuận còn lại sau khi đã chi các nội dung trên và đã chia lãi cổ phần (trong trường hợp doanh nghiệp phát hành cổ phiếu) vẫn còn dư. Điều này ít có tác dụng khuyến khích vật chất đối với người lao động doanh nghiệp phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bởi lợi ích mà họ được hưởng không gắn bó chặt chẽ với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc không ít doanh nghiệp cố tình hạch toán không trung thực, làm sai lệch kết quả kinh doanh thực tế “lãi không thật, lỗ không thật” để tránh bớt nghĩa vụ nộp Ngân sách, gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Để khắc phục tồn tại trên, theo em hướng hoàn thiện cơ chế phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp Nhà nước có thể thực hiện theo trình tự sau: 1. Bù khoản lỗ năm trước chưa được bù. 2. Trả tiền phạt do vi phạm luật pháp và các chi phí khác chưa được trừ. 3. Chia lãi cho các chủ đầu tư, hợp tác kinh doanh. 4. Trích lập các quỹ của doanh nghiệp theo quy định. 5. Phần lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ hết các khoản 1, 2, 3, 4 được dùng: + Chia lãi cổ phần trong trường hợp doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. + Nộp tiền sử dụng vốn Ngân sách. 6. Số lợi nhuận còn lại được bổ sung vào quỹ đầu tư và phát triển. 2.6.2 Mức trích vào quỹ khen thưởng phúc lợi hiện nay có đảm bảo mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống cho người lao động không. Trước đây, hai quỹ khen thưởng, phúc lợi được khống chế tối đa mỗi quỹ không quá 6 tháng lương thực hiện. Giờ đây theo Nghị định 27/CP ngày 20/4/1999 doanh nghiệp được trích vào hai quỹ này tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện với điều kiện tỉ suất lợi nhuận thực hiện trên số vốn Nhà nước không thấp hơn năm trước. Còn nếu tỉ suất này thực hiện thấp hơn năm trước thì trích vào hai quỹ tối đa chỉ bằng hai tháng lương thực hiện. Như vậy cả hai quỹ này tỉ lệ được trích đều thấp hơn so với trước trong khi chế độ tiền lương mặc dù đã qua nhiều lần cải cách, nhưng mức lương mà Nhà nước ban hành còn rất thấp so với nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và thấp so với thu nhập thực tế trên thị trường. Chính vì thế cán bộ công nhân viên chưa thực sự toàn tâm toàn ý vào việc hoàn thành nhiệm vụ của mình nên chất lượng và năng suất lao động chưa đạt cao nhất. Để nâng cao chất lượng và năng suất trong công tác, kích thích người lao động, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp phải pá rào, phải nghĩ ra nhiều khoản chi khác gian lận trong báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh để nâng cao thu nhập cho người lao động nhằm tạo điều kiện cho mọi người an tâm công tác. Như vậy4, vô tình Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp vi phạm pháp luật, tạo thói quan không tốt cho các doanh nghiệp. Từ thực tiễn trên em xin có kiến nghị là phần lợi nhuận còn lại nên sử dụng 50% tăng thêm cho hai quỹ này, còn 50% nữa đưa vào quỹ đầu tư phát triển. Mặt khác, trong quỹ phúc lợi cũng nên chia làm hai phần: Một phần theo quy định tại Thông tư 70TC/TCDN; Một phần nên tuỳ theo mức độ thu hưởng phúc lợi công cộng của công nhân viên tại doanh nghiệp nhiều, ít hay không thụ hưởng để chia cho cá nhân. Sở dĩ cần có phần này vì trên thực tế có nhiều công nhân viên không thụ hưởng phúc lợi công cộng như: không ăn ở nhà tập thể, không nghỉ tại nhf nghỉ của doanh nghiệp, không gửi con tại nhà trẻ của doanh nghiệp... Họ cũng nên có phần để trang trải khi hưởng thụ những dịch vụ ở nơi khác. Tóm lại, hoạt động kế toán ở nước ta được Nhà nước quan tâm, các văn bản pháp quy liên quan đến kế toán tài chính được ban hành phù hợp với từng giai đoạn phát triển của dất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây với chính sách “mở cửa” nề kinh tế, đa phưong hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, hội nhập với kinh tế thế giới và các nước trong khu vực hoạt động kế toán càng trở nên quan trọng và cần thiết. Các văn bản pháp quy về kế toán, tài chính được sửa đổi, bổ sung và hoản thiện dần nhằm thực sự đi vào thực tế cuộc sống và trở thành cơ sở vững chắc cho các hoạt động kế toán - tài chính phát triển. C. Kết luận Như chúng ta đã biết, cơ sở kinh tế và pháp lí quyết định nội dung phân phối lợi nhuận sau thuế của một doanh nghiệp chính là quan hệ sở hữu đối với vốn của doanh nghiệp đó. Người bỏ vốn vào kinh doanh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước và bù đắp các chi phí sản xuất kinh doanh từ doanh thu sẽ được hưởng toàn bộ phần lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp. Nói cách khác chủ sở hữu của doanh nghiệp được quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì việc phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp cần phải giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích người lao động trong doanh nghiệp, vừa nuôi dưỡng tạo nguồn thu cho Ngân sách, vừa phát huy quyền tự chủ tài chính của doanh nghiệp cũng như chăm lo lợi ích vật chất của người lao động trong doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là việc phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp Nhà nước cần giải quyết một cách tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra trong hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, nếu cơ chế Tài chính - Kế toán về thu nhập và phân phối thu nhập hợp lí sẽ tạo nên động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo tiền đề cho doanh nghiệp tăng khả năng tự tích luỹ vốn, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trong điều kiện có sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, tiến tới hội nhập với kinh tế thế giới. Đồng thời, nó đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách hợp lí, đầy đủ, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước trên con đường CNH - HĐH đất nước. Trong mỗi quốc gia, việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách quản lí để điều tiết các hoạt động, các mối quan hệ Kinh tế - Chính trị - Xã hội... là vô cùng quan trọng. Việc sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách cho phù hợp với thực tiễn cũng rất cần thiết. Những kiến nghị, giải pháp trên đây của em không năm ngoài mục đích góp phần hoàn thiện chế độ tài chính kế toán về thu nhập và phân phối thu nhập ở Việt Nam. Tuy nhiên do nhận thức và trình độ nghiên cứu còn hạn chế, nên em mong rằng sẽ nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo để bài đề án của em đạt kết quả tốt hơn. Mục lục A. Lời mở đầu 2 B. Nội dung 3 I. Cơ sở lý luận 3 1. Thu nhập doanh nghiệp 3 1.1. Khái niệm 3 1.2. Vai trò và ý nghĩa của lợi nhuận 3 1.3. Nội dung của thu nhập 3 2. Phân phối thu nhập 5 2.1. Tổng quát về chính sách phân phối thu nhập 5 2.2. Nội dung phân phối thu nhập 5 3. Hạch toán thu nhập và phân phối thu nhập 6 3.1. Đặc điểm và nhiệm vụ của hạch toán 6 3.2. Tài khoản sử dụng 7 3.3. Phương pháp hạch toán 8 3.4. Sơ đồ hạch toán 11 3.5. Chứng từ sổ sách kế toán 11 II. Thực trạng kiến nghị và giải pháp 11 2.1. Có bình đẳng trong kết cấu của chi phí bất thường và thu nhập bất thường 12 2.2. Phân biệt thu nhập từ hoạt động thông thường và bất thường ảnh hưởng đến việc đánh giá năng lực sinh lợi của doanh nghiệp 13 2.3. Tài khoản 421 phản ánh nhiều nội dung 14 2.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp - thuế suất và thuế bổ sung 18 2.5. Khoản tiền phải nộp do sử dụng vốn ngân sách - những đổi mới và tồn tại 19 2.6. Về quỹ khen thưởng, phúc lợi - trình tự và mức phân phối 20 C. Kết luận 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29321.doc
Tài liệu liên quan