Qua một số phân tích và thực trạng trên cho thấy đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hết sức quan trọng. Đó là vấn đề đặt ra không những cho doanh nghiệp bảo hiểm mà còn cho các cơ quan nhà nước có liên quan nhằm có chiến lược và biện pháp thích hợp trong quản lý hoạt động đầu tư của các DNBH nhân thọ.
Hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ chịu tác động của nhiều nhân tố và cũng bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hình thức đầu tư cần phải được đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro và đảm bảo những nguyên tắc đầu tư vốn của DNBH. Các DNBH nhân thọ nên chú trọng đến việc đầu tư nhưng không phải vì thế mà chạy theo lợi nhuận, vi phạm những nguyên tắc đầu tư làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm và uy tín của doanh nghiệp.
Theo kinh nghiệm tổ chức và tiến hành hoạt động đầu tư ở nhiều nước trên thế giới đồng thời xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam nên tập trung và quan tâm hơn nữa đến hoạt động đầu tư tài chính của mình. Đồng thời cần củng cố và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư thông qua các chiến lược và biện pháp đầu tư thích hợp.
43 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp có thể đầu tư vào những lĩnh vực dài hạn. Nhưng việc đánh giá hiệu quả đầu tư trong bảo hiểm nhân thọ là phức tạp và khắt khe hơn nhiều so với bảo hiểm nhân thọ. Đánh giá hiệu quả đầu tư trong bảo hiểm nhân thọ phải đưa chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận lên hàng đầu . DNBH nhân thọ không chỉ đơn giản cần đầu tư có lời mà còn phải lớn hơn lãi suất kỹ thuật dùng để tính phí . Có như vậy DNBH mới đảm bảo có đủ tiền để trả cho khách hàng tham gia bảo hiểm.
Vấn đề này được xem xét qua ví dụ:
DNBH x có sản phẩm BHNT hỗn hợp thời hạn 5 năm,số tiền bảo hiểm 50 tr đ.tuổi của NĐBH là 50 tr.Bảng tỷ lệ tử vong tính phí như sau:
Độ tuổi
Tỷ lệ tử vong
Số người sống
Số người chết
50
2,0
100.000
200
51
2,3
99.800
230
52
2,4
99.570
239
53
2,7
99.331
268
54
3,1
99.063
307
55
3,7
98.756
365
Phí thuần đóng 1 lần trong bảo hiểm hỗn hợp tính như sau:
f=
Trong đó: x :độ tuổi tham gia bảo hiểm
i :lãi suất kỹ thuật
Giả sử lãi suất kỹ thuật DNBH áp dụng tính phí là 5% thì
f =39.000.000đ .như vậy DNBH có thể dùng 39 tr khai thác từ hợp đồng để đem đầu tư.Giả sử tất cả phí được đem đầu tư thời hạn 5 năm thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư phí bảo hiểm i2 là:
i2=
trong đó S:giá trị tương lai đưa việc đầu tư phí thuần
Nếu i2= i1 =5% => S= 49.774.980,94đ à DNBH chỉ đủ tiền trả cho NĐBH
Nếu i2 S< 49.774.980,94đ àDNBH không đủ dự phòng toán học để trả cho người được bảo hiểm
Như vậy chỉ khi tỷ suât lợi nhuận đầu tư lớn hơn 5% thì DNBHNT mới đảm bảo đủ tiền chi trả cho người được bảo hiểm và trang trải các chi phí phát sinh.
6.3.3.Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đầy đủ khoản đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thuần thu được.
Công thức: T =
Trong đó Wpv là lợi nhuận thuần thu được
T là thời gian thu hồi vốn đầu tư
Ivo là tổng số vốn đầu tư tính đến thời điểm các kết quả đầu tư
bắt đầu phát huy tác dụng.
Theo phương pháp đánh giá thời gian hoàn vốn, càng rút ngắn được thời gian hoàn vốn sẽ càng tốt hơn.
Mặt khác để đánh giá hiệu quả đầu tư bằng chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, các nhà quản trị còn thiết lập chỉ tiêu thời gian hoàn vốn cần thiết và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được.Nếu thời gian hoàn vốn dài hơn thời gian tối đa cho phép thì dự án đầu tư sẽ bị loại bỏ.
Phần hai
thực trạng hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở việt nam.
I. Khái quát thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Là một trong những quốc gia đông dân thứ 12 trên thế giới, Việt Nam rất có tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ bắt đầu được nghiên cứu để triển khai ở Việt Nam vào năm 1987 tổng công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành. Lúc đó thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư , chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và người tham gia và công ty bảo hiểm cũng chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
Hiện nay, Quốc hội đã thông qua luật kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ ban hành NĐ42, 43. Môi trường kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi.
Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đã có sự góp mặt của 20 công ty, trong đó có 5 công ty bảo hiểm nhân thọ, còn lại là các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảng 1: Danh sách các DNBH nhân thọ hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam:
STT
Tên doanh nghiệp
Năm thành lập
Hình thức sở hữu
Vốn điều lệ hiện nay
1
Tổng công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam( Bảo Việt )
1964
Nhà nước
586 tỷ VND
2
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential UK
1999
100% vốn nước ngoài
71 triệu USD
3
Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA)
2000
100% vốn nước ngoài
25 triệu USD
4
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh- CMG
1999
Liên doanh
10 triệu USD
5
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Manulife
1999
100% vốn nước ngoài
10 triệu USD
(Nguồn: Tạp chí bảo hiểm năm 2003)
Thị trường bảo hiểm nhân thọ với sự góp mặt của 5 công ty cả dưới hình thức công ty nhà nước và công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Trước kia Bảo Việt luôn là công ty chiếm vị trí độc quyền nhưng hiện nay thị phần của các công ty bảo hiểm như sau:
Biểu 1: Thị phần của các công ty bảo hiểm nhân thọ theo doanh thu phí bảo hiểm năm2002
(Nguồn: Vinare)
Doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 23%/ năm, trong đó doanh thu bảo hiểm nhân thọ từ 0,05 tỷ đồng năm 1996 lên đến 2778 tỷ đồng năm 2001.
Tỷ trọng phí bảo hiểm trên GDP của Việt Nam cũng tăng, nhất là trong vòng 3 năm trở lại đây: năm 2000 là 0,68%, năm 2001 lên 0,97%, và năm 2002 lên đến 1,4%GDP.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ có doanh thu phí khá cao. Năm 2002 là năm có mức tăng trưởng kỷ lục về số lượng hợp đồng khai thác mới với 1.300.000 hợp đồng, tăng 58% so với năm 2001. Các công ty bảo hiểm nhân thọ tiếp tục coi đại lý là kênh phân phối sản phẩm chính. Bên cạnh đó các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng chú trọng đến kênh phân phối qua ngân hàng. Cho đến nay các ngân hàng nước ngoài như ACB và HSBC là những ngân hàng đi đầu trong việc liên kết bán bảo hiểm nhân thọ.
Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường giai đoạn 1998 - 2002
được thể hiện ở biểu đồ sau:
Biểu 2: Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ của toàn
thị trường 1998 - 2002
(Nguồn: Thông tin thị trường bảo hiểm-tái bảo hiểm - Vinare)
.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước tiếp tục ổn định và phát triển với mức tăng trưởng GDP 7,04%, thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao: Tổng phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ ước tính đạt 7685 tỷ VND, tăng 55% so với năm 2001 và chiếm 1,4% GDP trong đó tổng phí bảo hiểm nhân thọ đạt 4.615 tỷ VND, tăng trên 66% so với năm 2001.
Kết quả nói trên của thị trường bảo hiểm Việt Nam đạt được trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động, kết quả kinh doanh của nhiều tập đoàn bảo hiểm trên thế giới đều giảm do tình hình tổn thất xấu và kết quả đầu tư yếu kém. Trong tình hình đó, các DNBH Việt Nam một mặt vẫn tiếp tục mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng phục vụ; mặt khác vẫn đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động kinh doanh của mình.
Vốn của toàn thị trường trong vòng 6 năm qua cũng có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Năm 1999 có 979 tỷ đồng, đến năm 2001 đạt 1754 tỷ đồng trong đó bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò không nhỏ. Phân tích tỷ trọng vốn của toàn thị trường cho thấy vốn của các DNBH nhà nước hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tiếp theo là các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, tiếp theo là các công ty bảo hiểm liên doanh và cuối cùng mới là các công ty cổ phần bảo hiểm . Nguồn dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cũng tăng mạnh từ 198 tỷ đồng năm1994 lên đến 4130 tỷ đồng năm 2001.
Với sự tăng trưởng doanh thu mạnh mẽ như vậy, các DNBH nhân thọ Việt Nam đã và đang có vai trò quan trọng trong việc đầu tư trở lại nền kinh tế đất nước. Với nguồn vốn tích luỹ được, trong những năm tới đây, các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ tập trung vào việc đầu tư trở lại nền kinh tế trong các dự án lớn trung và dài hạn. Từ đây trở đi, các ưu thế về tiềm lực tài chính của các công ty bảo hiểm sẽ được thể hiện rõ trong nền kinh tế Việt Nam
Bảng 2: Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 1996-2002:
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Giá trị đầu tư trở lại (tỷ đ)
74
137
977
1.446
1.672
2.704
4.482
7397
Tốc độ tăng trưởng(%)
-
85,14
613,14
48,00
15,63
61,72
65,775
64,91
(Nguồn: Bộ tài chính)
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển ngoạn mục, đặc biệt là ở khu vực các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng trong năm 2002, các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường đồng loạt gia tăng vốn hoạt động : Prudential hiện đã tăng vốn điều lệ lên đến 71 triệu USD, Bảo Minh_CMG và Manulife có mức vốn 10 triệu USD, AIA có mức vốn điều lệ 25 triệu USD. Tổng số vốn đăng ký thêm của các công ty so với mức vốn đăng ký ban đầu đã lên đến 57,3 triệu USD. Sự gia tăng vốn hoạt động này một mặt để đáp ứng theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, mặt khác thể hiện tiềm năng to lớn của thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam. Việc gia tăng vốn đã giúp cho các công ty bảo hiểm có thêm tiềm lực tài chính, mở rộng hoạt động, quan hệ khách hàng và mở rộng đầu tư. Tuy nhiên cũng đặt các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước vào tình trạng cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn.
Trong những năm gần đây, các DNBH Việt Nam đã chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: Một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như: góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần, tham gia các dự án đầu tư , cho vay, gửi tiết kiệm tại ngân hàng,đầu tư chứng khoán...
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng được đa dạng hoá hơn so với trước. Các công ty bảo hiểm nhân thọ không chỉ dừng lại ở đầu tư trái phiếu Chính phủ dài hạn mà đã mở rộng sang lĩnh vực chứng khoán, xây dựng cơ bản,dịch vụ( khách sạn, ngân hàng, vui chơi giải trí , xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, giao thông vận tải) v.v
Tuy nhiên cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam vẫn còn đơn điệu, đầu tư tập trung chủ yếu vào những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán thường xuyên. Do vậy mà hiệu quả đầu tư còn khiêm tốn. Hình thức đầu tư chủ yếu là gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để hưởng lãi ( chiếm trên 50%). Trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức chỉ chiếm từ 1,1 - 1,9%. Kinh doanh chứng khoán được coi là công cụ đầu tư quan trọng thứ hai của các DNBH ở Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ trọng trên 20%. Trong khi đó, ở hầu hết các nước, đây là công cụ đầu tư một cách rộng rãi nhất, ví như ở Pháp chiếm tới 92,4%, ở Anh chiếm 84,7% tổng giá trị đầu tư của các DNBH.
Biểu 3: Cơ cấu đầu tư của các DNBH nhân thọ phân theo
loại hình đầu tư năm 2002
(Nguồn : Tạp chí tài chính )
Xu hướng đầu tư chung của các DNBH nhân thọ trong những năm gần đây vẫn là đầu tư gián tiếp thông qua gửi ngân hàng, đầu tư vào chững khoán. Hoạt động đầu tư trực tiếp của các DNBH dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư bất động sản còn khá khiêm tốn.
Sự phát triển sôi động của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong những năm qua tiếp tục dự báo một tương lai phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm nhân thọ. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, thu nhập của người dân cũng sẽ tăng lên, nhận thức về BHNT ngày càng trở nên rõ ràng và cần thiết.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bảo hiểm còn tồn tại rất nhiều vấn đề. Đó là phạm vi và quy mô của thị trường vẫn còn nhỏ ,chưa tương xứng với tiềm năng và khả năng phát triển của nền kinh tế xã hội; mức độ đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nền kinh tế xã hội còn hạn chế; một số lĩnh vực có nhu cầu bảo hiểm cao nhưng chưa được triển khai hoặc chỉ đạt tỷ lệ khai thác thấp. Ví dụ như bảo hiểm nông nghiệp mới chỉ triển khai thực hiện được trên 0,08% diện tích cây trồng và 0,1% vật nuôi; bảo hiểm tai nạn con người ,bảo hiểm học sinh -sinh viên mới chỉ đạt có 39%. Bảo hiểm nhân thọ tuy tăng trưởng nhảy vọt nhưng cũng mới chỉ tiếp cận có 2% dân số .
Tuy nhiên là một quốc gia đông dân, Việt Nam rất có tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ. Tính đến năm 2001, dân số Việt Nam có khoảng 80 triệu người nhưng mới chỉ có khoảng 1 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay có khoảng 2% dân số tham gia bảo hiểm nhân thọ, tập trụng chủ yếu ở Hà Nội và TP HCM- Đây là một tiềm năng rất lớn cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.
Đến năm 2010, thị trường bảo hiểm sẽ được phát triển nhanh và có hiệu quả với đầy đủ các yếu tố của thị trường để đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Dự báo, số DNBH sẽ còn tăng thêm thích hợp theo thời gian và điều kiện tình hình, doanh thu bảo hiểm sẽ tăng từ 0,95%GDP lên khoảng 2%GDP năm 2005 và từ 2,8%-3% vào năm 2010. Mức tăng trưởng bình quân chung khoảng 20 -25% một năm,trong đó bảo hiểm nhân thọ trong những năm 2001-2005 sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ được dự đoán từ 25-40% và sẽ ổn định dần vào những năm sau ở mức 27-29% /năm. Mục tiêu này chính là nhằm nhanh chóng tăng tỷ lệ đóng góp của ngành bảo hiểm vào GDP, nâng cao vai trò của ngành trong việc ổn định đời sống xã hội, phát triển kinh tế đất nước.
Bảng 3: Một số chỉ tiêu dự báo tăng mức phí bảo hiểm giai đoạn 2001 - 2010
Dự báo tăng mức phí bảo hiểm giai đoạn 2001-2010.
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2010
BH phi nhân thọ(tỷ đ)
2158
2470
2860
3300
3800
7500
Tốc độ (%)
21,0
14,7
15,0
15,0
15,0
-
Tỷ trọng/ tổng phí(%)
43,72
39,44
36,38
32,00
28,57
28,3
BH nhân thọ(tỷ đ)
2778
3800
5000
7000
9500
19000
Tốc độ tăng trưởng (%)
116,2
36,78
31,58
40,0
35,7
-
Tỷ trọng/tổng phí(%)
56,28
60,56
63,62
68,0
71,43
71,7
Tổng phí bảo hiểm(tỷ đ)
4936
6270
7860
10300
13300
26500
Tốc độ tăng trưởng(%)
61,78
27
25,35
31
29,13
-
Tỷ trọng/GDP(%)
0,97
-
-
-
2,0
3,0
(Nguồn:Vinare)
II.Thực trạng đầu tư vốn của một số doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ việt nam
1.Thực trạng đầu tư vốn của công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt
Do hiện nay Bảo Việt là DNBH chiếm thị phần lớn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, hơn nữa trong phạm vi bài viết còn nhỏ và nguồn số liệu hạn chế, em xin được tập trung trình bày về thực trạng đầu tư của công ty bảo hiểm nhà nước Bảo Việt.
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam viết tắt là Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm được Nhà nước xếp hạng đặc biệt. Hoạt động trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ, Bảo Việt có phạm vi hoạt động rộng khắp trên toàn quốc. Bảo Việt có trên 40 triệu lượt khách hàng mỗi năm, có gần 5000 nhân viên và có hàng chục ngàn đại lý. Hiện nay Bảo Việt có 126 chi nhánh đơn vị thành viên, trong đó có 56 công ty bảo hiểm nhân thọ.
Năm 2002 hoạt động đầu tư tài chính chiếm 376 tỷ trên tổng số 2165 tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt .
Các lĩnh vực đầu tư vốn Bảo Việt cũng tương đối đa dạng, với những tỷ lệ bỏ vốn khác nhau vào từng lĩnh vực. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí là sự tăng trưởng cao của nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật -một trong những nguồn vốn đầu tư chính của các DNBH .
Tốc độ tăng các quỹ dự phòng kỹ thuật của Bảo Việt xấp xỉ 19% qua các năm. Các quỹ dự phòng kỹ thuật chiếm đến khoảng 60% nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp này.
Danh mục đầu tư của Bảo Việt
Bảng 4: Một số danh mục đầu tư chính của Bảo Việt
Danh mục
1997
1998
1999
1.Chứng khoán
2.Bất động sản
3.Cho vay
4.Gửi tiền
5.Góp vốn liên doanh
6.Đầu tư khác
231.600
1.800
30.200
335.800
46.200
5000
306.100
1.800
28.200
450.000
50.700
6.000
320.900
1.800
69.300
1.001.600
119.900
7.500
Tổng cộng
871.100
837.400
1.521.000
(Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế)
Danh mục đầu tư trên cho thấy : đầu tư vào gửi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư. Năm 1997 chiếm 38,5%, năm 1998 chiếm 54% và đến năm 1999 đã tăng lên đến 66%. Đầu tư chứng khoán mà chủ yếu là mua trái phiếu,kỳ phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái nhà nước, kỳ phiếu của các ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng vốn lớn. Lĩnh vực đầu tư ít được Bảo Việt quan tâm chú ý và thực tế bỏ vốn rất nhỏ là kinh doanh bất động sản:
Các DNBH nhân thọ ít đầu tư vào bất động sản là vì thị trường bất động sản ở nước ta hiện nay có quá nhiều rủi ro và rất bất ổn định. Thêm nữa chính sách và luật pháp của Nhà nước cũng chưa thực sự ổn định.
ở các nước có ngành bảo hiểm nhân thọ phát triển thì các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng là những chuyên gia về đầu tư. Danh mục đầu tư của các công ty này rất đa dạng và thường thì lãi suất thu được từ các hoạt động đầu tư cao hơn lãi suất ngân hàng. Lãi suất đầu tư thực tế của của các công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản trong năm 1995 là 3,36%, năm 1997 là 2,48%; trong khi đó lãi suất trái phiếu dài hạn của chính phủ chỉ là 2,56%/ năm. Ơ Việt Nam, do thị trường vốn chưa phát triển (Trung tâm giao dịch chứng khoán mới chỉ chính thức khai trương từ ngày 20/7/2000 ) do vậy các khoản đầu tư của Bảo Việt tập trung chủ yếu ở loại hình tiền gửi ngân hàng, còn các lĩnh vực đầu tư khác chiếm tỷ trọng thấp hơn.
Một số hoạt động đầu tư của Bảo Việt:
* Sự tham gia của Bảo Việt vào thị trường chứng khoán.
Xu hướng chung của các công ty bảo hiểm là phát triển các dịch vụ về tài chính - tín dụng để sử dụng có hiệu quả các quỹ bảo hiểm nhàn rỗi tập trung và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì tính ưu việt của thị trường chứng khoán và các dịch vụ của nó nên phát triển dịch vụ tài chính -tín dụng thông qua thị trường chứng khoán được coi là phổ biến nhất đối với các công ty bảo hiểm. Đối với Bảo Việt, việc đầu tư vào chứng khoán đã được chú trọng. Ngày 19/5/2000, công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt đã khai trương tại Hà Nội; và khai trương chi nhánh ở TP HCM vào ngày 22/5/2000 và trở thành một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động tại Việt Nam.
Bảo Việt tham gia vào thị trường chứng khoán với nhiều lợi thế, thể hiện ở nguồn vốn cần thiết để thành lập công ty chứng khoán cũng như nguồn vốn để đầu tư thông qua thị trường chứng khoán; ngoài những lợi thế về vốn, Bảo Việt còn có lợi thế về mạnglưới và hệ thống khách hàng bảo hiểm, về kinh nghiệm, uy tín hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Với những lợi thế đó Công ty chứng khoán Bảo Việt đã tiến hành kinh doanh cả 5 nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, đó là:
Môi giới chứng khoán
Là hoạt động giúp khách hàng đầu tư và giao dịch chứng khoán. Thực hiện các lệnh giao dịch cho khách hàng trên sàn giao dịch hay Sở giao dịch.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Công ty chứng khoán chấp nhận rủi ro, cam kết bao mua chứng khoán của công ty phát hành, sau đó bán cho các nhà giao dịch và công chúng.
Quản lý danh mục đầu tư vào chứng khoán
Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Công ty chứng khoán sẽ được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư của khách hàng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán
Là việc công ty chứng khoán tư vấn cho các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư về việc thiết kế chứng khoán phù hợp với mục tiêu tăng vốn của doanh nghiệp, về thời điểm phát hành thuận lợi, hoặc tư vấn cho doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn thay thế khi không thuận lợi. Công ty chứng khoán đưa ra những lời khuyên về đầu tư hợp lý cho khách hàng xuất phát từ sự phân tích và nhận định về sự biến động của chứng khoán.
Tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán trực tiếp tham gia giao dịch chứng khoán cho bản thân của công ty trên thị trường chứng khoán.
Ngay từ đầu, công ty chứng khoán Bảo Việt đã ký kết hợp đồng hợp tác với một số công ty tư vấn trong và ngoài nước; triển khai một số hoạt động kinh doanh như thu mua công trái, tham gia tư vấn cổ phần hóa cho một vài doanh nghiệp nhà nước; thu thập thông tin của các công ty phát hành cổ phiếu, ký hợp đồng làm thủ tục niêm yết và bảo lãnh phát hành, mở tài khoản đầu tư chứng khoán cho một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.
Bảo Việt từ lâu đã là một trong những thành viên tham gia khá tích cực vào đầu tư trái phiếu Chính phủ thông qua các phiên đấu thầu. Trong phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ ngày 2/5/2002, Bảo Việt đã trúng thầu 30 tỷ đồng. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là sự lựa chọn tốt vì nó khá chắc chắn,thời hạn 5-10 năm, hơn nữa trái phiếu chính phủ tuy có lãi suất chưa cao nhưng có thể bù đắp được tốc độ mất giá của đồng tiền.
* Các hoạt động đầu tư khác của Bảo Việt
- Góp vốn kinh doanh: Hiện nay, Bảo Việt đang tham gia góp vốn với 15 công ty, trong đó có các công ty như:
Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế (VIA)
Công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Việt (AIB)
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC)
Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng(Bảo Long)
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
Năm 2002, Bảo Việt tham gia đầu tư vào dự án nhà máy xi măng Thăng Long tại Hoành Bồ - Quảng Ninh với tổng số vốn đầu tư xấp xỉ 350 triệu.
Với sự cố gắng cao, năm 2002 kết quả kinh doanh của Bảo Việt rất đáng khích lệ : Tổng doanh thu đạt 3790 tỷ đồng, tăng trưởng 40% so với năm 2001; hoạt động bảo hiểm nhân thọ có tỷ lệ tăng trưởng 42,5% so với năm 2001. Gần 6000 tỷ đồng đã được Bảo Việt đầu tư trở lại nền kinh tế với doanh thu từ hoạt động này đạt trên 387 tỷ đồng, tăng trưởng 84%.
Đến tháng 08 năm 2002 tổng nguồn vốn đầu tư của Bảo Việt kể cả USD quy đổi là 4876 tỷ đồng. Trong đó nguồn Bảo hiểm nhân thọ là 3904 tỷ đồng. Vốn đầu tư trung-dài hạn chiếm 64% tổng nguồn vốn đầu tư trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ.
Năm 2003, nền kinh tế đất nước vẫn duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao tạo môi trường đầu tư và khả năng phát triển; tuy nhiên thị trường bảo hiểm tiếp tục cạnh tranh quyết liệt. Dự kiến năm 2003, Bảo Việt sẽ tăng trưởng 15% doanh thu so với năm 2002, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 25% so với năm 2002.
Bảo Việt là một tổ chức tài chính hùng mạnh với số vốn đầu tư lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Bảo Việt đang tham gia góp vốn cổ phần và đầu tư vào hàng loạt các dự án lớn, góp phần vào quá trình CNH-HĐH đất nước như: nhà máy xi măng Thăng Long, Công viên nước Hồ Tây, Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, dự án xây dựng và kinh doanh khách sạn Sài Gòn- Hạ Long, dự án xây dựng làng quốc tế Thăng Long, chuẩn bị cho Seagame 22 năm 2003 được tổ chức tại Việt Nam.
Tính đến 31/3/2003, doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt đã đạt được 1089 tỷ đồng, trong đó phí thu từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ đạt 604 tỷ đồng, tăng 29,76%, thu từ hoạt động đầu tư đạt 80,2 tỷ đồng, tăng 43,98% so với năm 2002.
Mục tiêu của Bảo Việt đến năm 2010 là trở thành tập đoàn kinh doanh tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính. Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt để hỗ trợ và định hướng phát triển cho Bảo Việt .
Quyết định đầu tiờn mang số169/2003/Qé-BTC về việc tăng vốn điều lệ cho Bảo Việt lờn 3.000 tỷ đồng, trong đú cũng nờu rừ nhiệm vụ và trọng trỏch của Bảo Việt cho đến năm 2010 là phải phấn đấu giữ vững vị trớ là tập đoàn tài chớnh - bảo hiểm lớn mạnh nhất Việt Nam.
Theo Quyết định này, lộ trỡnh tổ chức hoạt động kinh doanh của Bảo Việt sẽ theo một số bước, cụ thể: trong năm 2003, thành lập Bảo Việt nhõn thọ, hạch toỏn độc lập và trực thuộc Bảo Việt, do Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ. Trong năm 2004, thành lập Bảo Việt phi nhõn thọ, hạch toỏn độc lập, trực thuộc Bảo Việt và cũng do Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ.
Cũng theo Quyết định, sẽ nghiờn cứu hoàn thiện mụ hỡnh Trung tõm đầu tư Bảo Việt theo hướng thành lập Cụng ty đầu tư tài chớnh để nõng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của Tổng cụng ty bảo hiểm Việt Nam. Đồng thời, nghiờn cứu trỡnh Bộ Tài chớnh đề ỏn chuyển đổi Bảo Việt thành mụ hỡnh tập đoàn tài chớnh - bảo hiểm sau năm 2005.
Quyết định thứ 2 của Bộ Tài chớnh được ký và ban hành cựng ngày mang số 170/2003/Qé-BTC về vốn điều lệ và cấp vốn kinh doanh cho Bảo Việt. Theo quyết định này, vốn điều lệ của Bảo Việt là 3.000 tỷ đồng. Trước tiờn, Bộ Tài chớnh sẽ cấp bổ sung cho Bảo Việt 464 tỷ đồng để tăng thờm vốn chủ sở hữu của Tổng cụng ty. Từ nay đến 31/12/2003, Bảo Việt cú trỏch nhiệm đỏnh giỏ lại tài sản của Tổng cụng ty và trỡnh Bộ Tài chớnh phương ỏn bổ sung vốn điều lệ.
éõy là lần điều chỉnh và bổ sung vốn điều lệ đầu tiờn của Bảo Việt kể từ năm 1996, sau khi Bảo Việt được Chớnh phủ quyết định thành lập lại là Tổng cụng ty bảo hiểm Việt Nam, được xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt với số vốn điều lệ lỳc đú là 776 tỷ đồng.
Theo đại diện của Bảo Việt, tới thời điểm cuối thỏng 10/2003, Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp bảo hiểm cú quy mụ hoạt động, vốn và doanh thu lớn nhất trờn thị trường bảo hiểm Việt Nam.
*Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động đầu tư của BảoViệt nhân thọ:
Thuận lợi:
+ Chính phủ tăng cường huy động vốn dài hạn thông qua phát hành Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển với các kỳ hạn đa dạng hơn (từ 5-10 năm), tạo nhiều sự lựa chọn hơn cho việc ra quyết định đầu tư của Bảo Việt.
+ Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng cơ chế lãi suất tín dụng thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay đặc biệt là đối với khối doanh nghiệp tư nhân.
+ Kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt đạt quả tốt trong 08 tháng đầu năm 2002, tạo nguồn vốn đầu tư ổn định và phát triển.
+ Với uy tín qua nhiều năm hoạt động và có mạng lưới rộng rãi trên khắp các tỉnh -thành phố, Bảo Việt có điều kiện thuận lợi khai thác được nhiều nguồn thông tin và dự án tốt để đầu tư. Đây là lợi thế hơn hẳn các công ty bảo hiểm khác đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
+ Thông qua quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, Bảo Việt đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác trên cả lĩnh vực đầu tư và bảo hiểm với nhiều Ngân hàng, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, Bảo Việt đã được biết đến không chỉ là một nhà bảo hiểm mà còn là một nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp tại Việt Nam.
Khó khăn:
- Thiếu những dự án có hiệu quả và độ an toàn cao gây khó khăn cho hoạt động đầu dài hạn.
- Thị trường tiền tệ không ổn định, phụ thuộc vào nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng và tổ chức tài chính, tạo khó khăn nhất định cho nghiệp vụ tiền gửi của Bảo Việt.
- Ngân hàng Nhà nước chưa cho phép các tổ chức tài chính phi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay, gây khó khăn cho Bảo Việt trong việc tham gia vào các dự án cho vay đồng tài trợ, nhất là cho vay bằng USD.
- Lãi suất các đợt phát hành Trái phiếu Chính phủ vẫn khá thấp do chịu sự chỉ đạo của Bộ Tài chính, chưa mang tính thương mại trên cơ sở cung cầu của thị trường vốn. Ngoài ra, do tính thanh khoản thấp nên TPCP không thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư .
2.Tình hình đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài.
Prudential đã từng tham gia các phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ và đã từng trúng thầu khoảng hơn 100 tỷ đồng. Cũng trong phiên đấu thầu ngày 2/5/2002 Prudential đã trúng thầu 30 tỷ .
Ngày 6/5/2002, công ty AIA đã trở thành thành viên chính thức tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ. Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài này đã trúng thầu 20 tỷ đồng.
Cùng với Prudential và AIA, Manulife cũng bắt đầu triển khai việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
Lượng trái phiếu Chính phủ nằm trong tay các công ty bảo hiểm nhân thọ hiện nay vẫn còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên toàn thị trường( tính đến hết tháng 2/2002 khoảng 3.400 tỷ đồng, trong đó 89%là trái phiếu Chính phủ, 11% là trái phiếu ngân hàng). Tuy nhiên có thể hi vọng trong tương lai tiền mua trái phiếu Chính phủ của các công ty bảo hiểm sẽ tiếp tục gia tăng.
Theo ý kiến của các nhà phân tích chứng khoán thì trái phiếu Chính phủ vẫn còn một số điểm chưa hấp dẫn. Lãi suất của loại trái phiếu này chưa đáp ứng được mong mỏi của các nhà đầu tư và lượng trái phiếu Chính phủ niêm yết trên thị trường chứng khoán tại trung tâm giao dịch TP HCM còn ít. Hầu hết các công ty đã đấu thầu trái phiếu Chính phủ xong là để đó cho đến khi đáo hạn mới thu hồi vốn và lãi chứ không biết đầu tư vào đâu. Có thể nói, trái phiếu Chính phủ mới được các nhà quản lý quan tâm ở khía cạnh huy động vốn chứ chưa quan tâm ở khía cạnh luân chuyển trên thị trường. Nhưng dù sao thì các công ty bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu vẫn còn tốt hơn cách đầu tư chủ yếu qua gửi tiền tiết kiệm. Vì nhìn vào thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện chưa có nhiều các hình thức đầu tư hấp dẫn và tỷ suất lợi nhuận đầu tư tại Việt Nam theo đánh giá của các công ty bảo hiểm là còn thấp hơn so với những thị trường khác .
2.2. Các hình thức đầu tư khác
Prudential là công ty đi tiên phong trong việc đầu tư vào cổ phần, cổ phiếu tại một số công ty cổ phần đã niêm yết có hiệu quả.
Manulife khá quan tâm đến các lĩnh vực đĩa ốc và hạ tầng cơ sở. Còn AIA thì tiết lộ họ rất muốn đầu tư vào phát triển các khu công nghiệp và hạ tầng... Tuy nhiên, cho đến nay thì hoạt động đầu tư của công ty này còn dừng ở mức khiêm tốn,thận trọng cao.
Bài toán đặt ra ở đây là với tốc độ tăng trưởng nhanh như hiện nay, các công ty bảo hiểm, nhất là các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngày càng phải tập trung sâu hơn nữa vào vấn đề đầu tư ở Việt Nam và thậm chí để có thể lựa chọn được các dự án tốt họ sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với nhau.
Sự cạnh tranh này sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn khi ngoài các công ty bảo hiểm còn có rất nhiều các công ty tài chính, các nhà đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước cùng các quỹ đầu tư rủi ro của nước ngoài đang ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam.
Phần ba :
Một số kiến nghị và giải pháp
I.Giải pháp từ phía nhà nước
Để tạo điều kiện cần thiết về mặt chính sách cho sự phát triển mạnh mẽ và chuyên môn hóa các hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm, Nhà nước cần có các quan điểm và giải pháp phù hợp.
Thành lập và mở rộng qui mô của các công ty bảo hiểm nhân thọ
để tạo kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế .
Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với một số lĩnh vực đang cần phải khuyến khích đầu tư như đầu tư vào thị trường chứng khoán, tham gia bảo lãnh phát hành và kinh doanh chứng khoán, mua trái phiếu Chính phủ...
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và hợp tác kinh tế quốc tế, xu
hướng chung hiện nay là phi điều tiết và nới lỏng các quy định chặt chẽ về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm, nhất là các công ty bảo hiểm nhân thọ. Mặt khác, sớm ban hành các văn bản để điều chỉnh các hoạt động đầu tư bằng pháp luật bảo hiểm và các quy định có liên quan khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNBH nhân thọ đầu tư tốt nguồn vốn nhàn rỗi của mình.
Xuất phát từ đặc thù của kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, cho nên để hạn chế những tổn thất to lớn có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, hoạt động đầu tư của các DNBH phải được quản lý chặt chẽ thông qua các quy định của pháp luật và cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý. Tuy nhiên những quy định của pháp luật cần hết sức linh hoạt và mềm dẻo, nhằm không gây ảnh hưởng lớn đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư của DNBH. Có thể thấy việc Luật kinh doanh bảo hiểm quy định về nguyên tắc đầu tư và quy định danh mục cũng như giới hạn lĩnh vực đầu tư cho phép là hợp lý và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
Nhưng trong những giai đoạn tới cần có những thay đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình mới và điều kiện thực tiễn của thị trường Việt Nam.
Phát triển thị trường chứng khoán tạo thêm môi trường thuận lợi cho các DNBH đầu tư. Các biện pháp nhà nước có thể làm là: đa dạng hóa các tiêu chuẩn niêm yết theo lĩnh vực để tăng cường hàng hoá cho thị trường về cả chất lượng, số lượng cũng như chủng loại. Chính phủ có thể phát hành thêm các trái phiếu có kỳ hạn dài 15 năm, 20, 25 năm để các DNBH có nhiều cơ hội lựa chọn đầu tư hơn.
Nhà nước có thể sử dụng công cụ tài chính thích hợp để khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra thị trường như thực hiện chính sách thuế ưu việt đối với những tổ chức phát hành.
Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm thông qua cơ chế báo cáo định kỳ và cho phép trong trường hợp cần thiết.
Tiến hành đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác đầu tư trong các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, dài hạn và chuyên sâu với sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài.
Nhà nước ta cần coi việc điều chỉnh để đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của điều chỉnh Luật bảo hiểm vì vấn đề khả năng thanh toán của ngành bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng. Điều chỉnh khả năng thanh toán thực chất là điều chỉnh về mặt tài chính của các công ty bảo hiểm; bao gồm cơ chế kiểm tra, giám đốc nhu cầu về vốn, các quỹ dự phòng đầu tư, kiểm toán, báo cáo tài chính và những biện pháp sử lý các trường hợp bị phá sản.
Ơ đa số các nước phát triển, điều chỉnh hoạt động bảo hiểm là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách cấp quốc gia.
Ví dụ như ở Thụy Điển, kiểm tra hoạt động bảo hiểm là nhiệm vụ của thanh tra bảo hiểm. Đây là cơ quan hoạt động độc lập; song phán quyết cuối cùng các vấn đề phức tạp lại thuộc thẩm quyền của các quan chức cao cấp Chính phủ sau khi tiếp thu những khuyến nghị của cán bộ thanh tra.
Ơ Đức, kiểm tra hoạt động bảo hiểm lại do Cục thanh tra bảo hiểm tiến hành. Cục thanh tra có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân và chỉ định tại các địa phương người thay mặt mình có toàn quyền điều chỉnh các DNBH nhỏ, không có ý nghiã lớn trong nền kinh tế. Do vậy ở Đức hiện nay, trong số trên 7000 công ty bảo hiểm lớn nhỏ các loại thì cấp Bang điều chỉnh khoảng 800 công ty, chiếm khoảng 95% thị phần bảo hiểm của cả nước.
Việc điều chỉnh để đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm là cần thiết nhằm mục đích ngăn ngừa tình trạng không có khả năng thanh toán của những công ty bảo hiểm đang gặp khó khăn về tài chính và áp dụng các biện pháp chống lại những công ty không có khả năng thanh toán.
Với những công ty bảo hiểm đã làm hết cách mà vẫn không khôi phục được khả năng thanh toán thì cơ quan điều chỉnh luật pháp có thể phải tạm giữ tài sản của doanh nghiệp này và áp dụng các biện pháp giải thể hay lành mạnh hóa công ty.
Các cơ quan điều chỉnh có thể có thẩm quyền như sau:
-Kiểm tra hoạt động của các cơ quan bảo hiểm bất kỳ lúc nào thấy cần thiết
-Quy định những yêu cầu tối thiểu về vốn và các yêu cầu bổ sung tuỳ thuộc vào khối lượng và loại hoạt động của công ty bảo hiểm.
-Xây dựng các tiêu chuẩn trách nhiệm và vốn dự trữ tối thiểu, kể cả dự phòng phí chưa dùng đến và các trách nhiệm về những tổn thất chưa có người nhận.
-áp dụng những biện pháp cần thiết đối với những công ty bảo hiểm đang gặp khó khăn về tài chính.
-Đánh giá chứng khoán cho các công ty bảo hiểm mua.
-Thực hiện kiểm tra hàng năm đối với cả những công ty bảo hiểm đã được cơ quan kiểm toán độc lập cấp giấy chứng nhận đã kiểm tra tài chính.
-Yêu cầu phân biệt lượng vốn đầu tư cho các công ty bảo hiểm lớn tuỳ thuộc loại hình đầu tư và loại hình bảo hiểm cũng như quy định các yêu cầu thanh toán.
II.Giải pháp từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm
Từ những thuận lợi và khó khăn của mình, các DNBH muốn đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính của mình cần xây dựng chiến lược đâù tư thích hợp; đồng thời cần phải tiến hành nhiều giải pháp , hoàn thiện cả qui trình từ kinh doanh thu hút phí bảo hiểm đến việc xác định nguồn,lựa chọn danh mục đầu tư , phân tích đánh gía rủi ro và hiệu quả của từng lĩnh vực đầu tư.
Trước hết, việc đầu tư của DNBH cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản như : an toàn, sinh lời, đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cũng như phải đa dạng hóa các danh mục đầu tư để phân tán rủi ro.
Do đó các DNBH có thể xem xét thực hiện một số giải pháp sau :
Thứ nhất: Cần xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp.
Chiến lược đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong điều kiện các thị trường vốn, thị trường tài chính luôn luôn vận động và thay đổi. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong dự phòng nghiệp vụ trong DNBH nhân thọ. Một chiến lược đầu tư đúng đắn sẽ có tác dụng làm tăng khả năng mang lại lợi nhuận của đồng vốn bỏ ra, góp phần tăng khả năng chi trả cho người được bảo hiểm, nâng cao phúc lợi cho xã hội.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xây dựng các chiến lược đầu tư tài chính trong mỗi giai đoạn, cho từng loại tài sản đầu tư, đồng thời thực hiện chuyển dịch đầu tư một cách linh hoạt giữa các tài sản đầu tư cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; phù hợp với sự phát triển kinh tế và sư phát triển của thị trường vốn trong mỗi giai đoạn.
Thứ hai, các DNBH nhà nước cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư , mở rộng và tăng cường đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Đồng thời phải có chiến lược đầu tư linh hoạt, chắc chắn trên thị trường chứng khoán và coi đây là chiến lược cơ bản, lâu dài. Theo kinh nghiệm của những công ty bảo hiểm ở các nước phát triển thì đầu tư vào chứng khoán là danh mục đầu tư phù hợp nhất với các công ty bảo hiểm . Có thể thấy điều này qua một vài số liệu về vấn đề đầu tư của các công ty bảo hiểm Châu Âu năm 1997 như sau:
Bảng 5 : Cơ cấu đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ châu Âu
( Đơn vị: %)
Các nước
Cổ phiếu
Trái phiếu
Bất động sản
Gửi tiền vào các tổ chức tín dụng
Đầu tư khác
Tổng nguồn vốn đầu tư
CHLB Đức
Bỉ
Đan Mạch
Pháp
Anh
Thụy Điển
Thụy Sỹ
4,1
3,4
2,5
5,7
5,6
4,7
10,2
27,1
22,4
34,1
16,0
51,2
48,3
24,6
67,6
70,1
58,2
73,9
33,6
46,2
58,4
1,1
2,9
0,5
1,8
1,9
0,5
3,6
0,1
1,2
4,7
2,6
7,7
0,3
3,2
100
100
100
100
100
100
100
( Nguồn:Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 276)
Thứ ba: Chú trọng đến việc đầu tư chứng khoán.
Để thâm nhập vào thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện chuyên môn hóa đầu tư vốn như mô hình đầu tư mà Bảo Việt đã tiến hành- tức là thành lập công ty quản lý đầu tư vốn hay còn gọi là công ty quản lý tài sản có. Các công ty quản lý này không thể thiếu đối với các tập đoàn bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường.
Trong việc mua bán chứng khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nên tập trung chủ yếu vào các loại chứng khoán nhà nước như trái phiếu, kỳ phiếu kho bạc nhà nước, công trái nhà nước... Đây là các chứng khoán lãi suất không thấp mà được coi là có rủi ro thấp nhất.
Với ưu thế về thông tin, các DNBH nhà nước cần tìm mua được các loại cổ phiếu, trái phiếu công nghệ cao. Theo kinh nghiệm của các nhà đầu tư chứng khoán ở các nước thì việc đầu tư vào chứng khoán công nghệ cao là chiến lược đầu tư hiệu quả cao. Tuy nhiên cần xác định nguồn vốn đầu tư vào các loại chứng khoán này phải là nguồn vốn dài hạn.
Thứ tư : Các DNBH cần mạnh dạn nghiên cứu chiến lược đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Mặc dù trong những năm gần đây,thị trường bất động sản có những biến động không lường, nhất là đất đai. Nhưng trong làn sóng di dân và tốc độ đô thị hóa như hiện nay, đầu tư vào lĩnh vực này cũng là một hướng đầu tư hiệu quả. Đầu tư bất động sản không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp mà còn mang lại những lợi ích về quảng cáo rất quan trọng.
Đầu tư bất động sản luôn chiếm tỷ lệ lớn trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm trên thế giới. Nhưng với điều kiện Việt Nam khi mà Nhà nước không công nhận quyền sở hữu về đất, thủ tục chuyển nhượng rất phức tạp thì đầu tư vào lĩnh vực này sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Để tham gia vào lĩnh vực này thì các công ty bảo hiểm có thể liên doanh với một công ty có kinh nghiệm, có tư cách pháp nhân về xây dựng và kinh doanh bất động sản.
ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển,các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn có tên trong các đô thị lớn. Đây là sự quảng cáo tốt nhất cho hình ảnh và sức mạnh tài chính của công ty bảo hiểm .Đồng thời, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản cũng là một lĩnh vực đầu tư cho phép các công ty bảo hiểm chống lại rủi ro một cách hiệu quả nhất .
Thứ năm: Mở rộng hình thức cho vay đối với các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ , hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nhất định nộp phí bảo hiểm sẽ có dự phòng toán học - khoản tiền trên là thuộc sở hữu của chủ hợp đồng. Nếu DNBH cho chủ hợp đồng vay thì khoản tiền dự phòng được coi là tài sản thế chấp. Như vậy sẽ rất hiệu quả , vừa đảm bảo cho DNBH thu lãi cao hơn lãi kỹ thuật, vừa giúp các chủ hợp đồng vay được vốn trong thời gian khó khăn. Điều này sẽ tăng khả năng duy trì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Thứ sáu : Các DNBH cần nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả đầu tư thông qua các công ty quản lý tài sản có theo mô hình được xem xét như sau:
Sơ đồ 2: Mô hình đầu tư giả định của các DNBH.
Quỹ đầu tư của Công ty
(Fund famuly)
hội đồng quản lý quỹ s1
công ty quản lý quỹ(trực tiếp hoặc liên doanh)
hội đồng quản lý quỹ s3
hội đồng quản lý quỹ s2
Hợp đồng Hợp đồng Hợp đồng
Mô hình quỹ này có thể vừa đảm bảo yêu cầu về hoà hợp giữa tài sản nợ và tài sản có, vừa nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư và tiếp thu kỹ năng tiên tiến về đầu tư.
Bên cạnh đó nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư bằng cách đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài chính để thực hiện các hoạt động đầu tư là rất cần thiết. Nó góp phần đảm bảo thực hiện các hoạt động đầu tư an toàn và hiệu quả hơn trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính trong và ngoài nước như hiện nay.
Thứ bảy : Phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm nhân thọ để thu hút vốn đầu tư dài hạn. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, ngoài Bảo Việt còn có 4 công ty bảo hiểm liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt. Các công ty bảo hiểm nước ngoài đã mang đến những thay đổi cơ bản về phương thức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Để đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhà nước, một mặt phải thay đổi những chính sách về thương mại đặc biệt là chính sách về Marketing, làm cho sản phẩm bảo hiểm hấp dẫn hơn. Mặt khác cần phải đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng. Thành công trong thu hút phí bảo hiểm sẽ là bước khởi đầu quan trọng cho chiến lược đầu tư của DNBH nhà nước.
Thứ tám: Xu thế hiện nay lãi suất ngân hàng ngày càng giảm, so với cùng thời điểm này năm 1995, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn đã giảm khoảng 30%. Đây chính là định hướng của Nhà nước nhằm thúc đẩy đầu tư, kích thích sản xuất. Trong thời gian tới, theo chủ trương của Nhà nước, lãi suất sẽ được giảm thấp hơn nữa. Với xu thế như vậy, đầu tư vào tiền gửi ngân hàng sẽ được hưởng lãi suất thấp hơn các lĩnh vực đầu tư khác.
Cùng với tiền gửi, lãi suất đầu tư vào các trái phiếu của Chính phủ cũng sẽ giảm thấp. Thực tế trong thời gian qua, nguồn mua trái phiếu kho bạc trực tiếp từ kho bạc đã bị dừng lại. Nguồn trái phiếu kho bạc hiện nay chỉ qua đấu thầu tại NHNN, các NHTM do bị hạn chế nợ nên họ tập trung nguồn đấu thầu tại thị trường này để giải quyết nguồn vốn đã huy động của họ. Điều đó dẫn đến lãi suất trúng thầu giảm liên tục và xuống tới mức10,65% trong những đợt đầu thầu gần đây so với năm 1995 là 17%.
Trước tình hình đó việc chuyển hướng đầu tư của các DNBH nhân thọ vào dài hạn là cần thiết. Nhưng các doanh nghiệp phải xác định được tỷ lệ đầu tư như thế nào cho phù hợp. Tuy nhiên dù có hiệu quả hơn cũng không thể dồn toàn bộ vốn vào đầu tư dài hạn mà cần phải đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Nên chăng các DNBH cần phải đồng thời giữa cho vay, gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng, mua trái phiếu Chính phủ , mua cổ phần của các Công ty, góp vốn liên doanh với các công ty khác ; trong đó việc đầu tư vào liên doanh và cổ phần nên được đẩy mạnh, nhất là đối với các DNBH nhà nước.
Tuy nhiên,việc gửi tiền tại các ngân hàng vẫn là hạng mục đầu tư cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của các công ty bảo hiểm khi có nhu cầu về thanh toán. Ngoài ra các trái phiếu Chính phủ cũng không thể thiếu trong danh mục đầu tư. Hoạt động cho vay các DNBH có thể xem xét tăng các khoản cho vay trung và dài hạn; cũng có thể xem xét việc cho vay bằng ngoại tệ đối với các tổ chức trong nước.
Kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm các nước thì để đa dạng hoá đầu tư họ đầu tư vào cho vay khoảng 20%, bất động sản khoảng 25%, đầu tư chứng khoán khoảng 30% và còn lại là các lĩnh vực khác.
Thứ chín: Những chính sách kiểm soát rủi ro lãi suất cho DNBHNT :
Như đã nghiên cứu ở trên rủi ro lãi suất có tác động rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả đầu tư của DNBHNT . Do đó các DNBHNT phải có những chính sách hợp lí để kiểm soát những rủi ro này.
Định phí bảo hiểm an toàn và thương mại hoá tối đa sản phẩm bảo hiểm . Lãi suất và phí bảo hiểm tương quan nghịch :
Lãi suất kỹ thuật được giả định cao sẽ làm phí bảo hiểm thấp, trường hợp này DNBHNT sẽ gặp nguy cơ lãi suất thị trường giảm.
Ngược lại lãi suất kỹ thuật được giả định thấp sẽ làm phí bảo hiểm cao, điều này làm giảm tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm . Như vậy lãi suất kỹ thuật bao nhiêu thì hợp lý? Đó là một câu hỏi không dễ có thể trả lời.
DNBHNT có thể sử dụng một số phương pháp khác nhau để dự kiến lãi suất kỹ thuật . Theo kinh nghiệm của nhiều công ty bảo hiểm , lãi suất được xác định bằng cách phổ biến sau:
ấn định lãi suất kỹ thuật bằng tỷ lệ sinh lời bình quân của danh mục đầu tư hiện tại đây là cách mà các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ sử dụng để tính phí bảo hiểm cho các sản phẩm mới .
ấn định lãi suất kỹ thuật theo lãi suất tín dụng nhà nước. Đây là phương pháp của các công ty BHNT Pháp . Các công ty này ấn định lãI suất kỹ thuật băng 60% lãI suất bình quân các khoản tín dụng Nhà nước .
Trong điều kiện đầu tư môI trường Việt Nam , cách xác định lãi suất kỹ thuật thứ hai tỏ ra phù hợp hơn vì lãi suất này không quá thấp và DNBH có thể lựa chọn đầu tư ít rủi ro nhất , nhỏ hơn các trái phiếu chính phủ .Tuy nhiên cũng không cần quá thận trọng . Lãi suất kỹ thuật bằng lãi suất trái phiếu chính phủ khi đảm bảo sự an toàn cho các DNBHNT.
Định phí với lãI suất kỹ thuật an toàn sẽ cho phép DNBHNT phòng ngừa được rủ ro lãi suất giảm, nhưng lại làm cho tính hấp dẫn của sản phẩm mất đi do phí bảo hiểm cao.
Để đảm bảo tính hấp dẫn của sản phẩm BHNT, doanh nghiệp BHNT phải đưa ra các cơ chế : chia lãi chỉ số hoá số tiền bảo hiểm , lãi suất bảo đảm , tuy nhiên những cơ chế này là khó hiểu đối với NĐBH vì vậy DNBHNT phải thực hiện tốt các chính sách thương mại quan trọng nhất là chính sách marketing để tư vấn tốt nhất cho khách hàng . Bằng những chính sách này DNBHNT có thể thu hút NĐBH bằng những khía cạnh khác của sản phẩm BHNT ngoài yếu tố giá cả .
Tóm lại, để có thể thực hiện tốt các chiến lược, giải pháp đầu tư, DNBH cần phải xây dựng chiến lược đầu tư thích hợp; đa dạng hoá các hạng mục đầu tư ; chú trọng đến đầu tư chứng khoán và mạnh dạn nghiên cứu chiến lược đầu tư bất động sản. Đồng thời cần có sự đầu tư nhất định vào việc đào tạo đội ngũ nhân viên đầu tư ; phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm nhân thọ, đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng, tăng doanh thu phí, tạo nguồn vốn đầu tư . Đầu tư chỉ có thể có hiệu quả khi có những người đầu tư sáng tạo, kinh nghiệm và bản lĩnh, hệ thống sản phẩm đa dạng. Bên cạnh đó, việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cũng là điều kiện không thể thiếu cho việc nâng cao khả năng đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
Xu thế hội nhập và tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế cũng khiến các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn nhiều với trình độ nghiệp vụ cao và kinh nghiệm kinh doanh được tích luỹ lâu đời hơn thông qua hoạt động trên thị trường quốc tế và khu vực. áp lực cạnh tranh thể hiện trên nhiều mặt như chất lượng phục vụ, sản phẩm bảo hiểm, giá cả dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm...Hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn phải chịu sự cạnh tranh từ các hình thức dịch vụ khác như ngân hàng, chứng khoán. Các hình thức tiết kiệm ngân hàng, đầu tư chứng khoán... đang tỏ ra chiếm ưu thế và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Do đó việc quan tâm và nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hết sức cần thiết để đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường.
Kết luận
Qua một số phân tích và thực trạng trên cho thấy đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hết sức quan trọng. Đó là vấn đề đặt ra không những cho doanh nghiệp bảo hiểm mà còn cho các cơ quan nhà nước có liên quan nhằm có chiến lược và biện pháp thích hợp trong quản lý hoạt động đầu tư của các DNBH nhân thọ.
Hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ chịu tác động của nhiều nhân tố và cũng bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hình thức đầu tư cần phải được đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro và đảm bảo những nguyên tắc đầu tư vốn của DNBH. Các DNBH nhân thọ nên chú trọng đến việc đầu tư nhưng không phải vì thế mà chạy theo lợi nhuận, vi phạm những nguyên tắc đầu tư làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm và uy tín của doanh nghiệp.
Theo kinh nghiệm tổ chức và tiến hành hoạt động đầu tư ở nhiều nước trên thế giới đồng thời xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam nên tập trung và quan tâm hơn nữa đến hoạt động đầu tư tài chính của mình. Đồng thời cần củng cố và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư thông qua các chiến lược và biện pháp đầu tư thích hợp.
Khác với các loại hình kinh doanh khác, bảo hiểm nhân thọ là loại hình dịch vụ tư vấn tài chính rất nhạy cảm và còn mới mẻ ở Việt Nam. Nền kinh tế nước ta đang đứng trước những tín hiệu lạc quan trong đổi mới và phát triển, do đó sẽ mở ra những cơ hội mới cho các DNBH nhân thọ trong việc khẳng định vai trò và vị trí của mình trên thị trường. Và kết quả của hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định.
Trong khuôn khổ bài viết em xin trình bày một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu từc của DNBH nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đây là bài viết đầu tiên nên còn nhiều sai sót. Em rất mong cô chỉ bảo thêm để những bài viết sau được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô đã nhiệt tình hướng dẫn để em hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
Thông tin thị trường bảo hiểm - tái bảo hiểm
Tạp chí bảo hiểm
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Giáo trình kinh tế bảo hiểm
5. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm
6. Nghị định 43/ 2001/NĐ- CP ngày 01/08/2001
7.Luật kinh doanh bảo hiểm
8.Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành.
9. Tạp chí tài chính.
10.Quy trình thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng đầu tư và phát triển
11. Báo đầu tư
12. Thời báo kinh tế Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0656.doc