Công tác thu quỹ bảo hiểm xã hội có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, nó đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, cám ơn đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Đống đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, giảm mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng đến người lao động, lập bảng đối chiếu nộp bảo hiểm xã hội.
+ Thông báo cho đơn vị về số tài khoản thu bảo hiểm xã hội, mức thu bảo hiểm xã hội. Số tài khoản thu bảo hiểm xã hội quận Đống Đa là : 994 - 03 - 040 tại Kho bạc Đống Đa, mức thu bảo hiểm xã hội: người sử dụng lao động góp 15% quỹ lương và người lao động góp 5% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
+ Thống nhất với đơn vị về lịch làm việc hàng tháng giữa cán bộ chuyên thu với đơn vị sử dụng lao động.
+ Kiểm tra số lượng đối chiếu với danh sách, với đơn vị đã đăng ký bảo hiểm xã hội để yêu cầu đơn vị đóng đủ bảo hiểm xã hội cho người lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Đôn đốc, theo dõi, ghi chép kêt quả đóng bảo hiểm xã hội:
+ Hàng tháng căn cứ vào danh sách lao động , quỹ tiền lương đơn vị đã đăng ký và phiếu tăng giảm mức đóng bảo hiểm xã hội để xác định số tiền bảo hiểm xã hội phải đóng, đôn đốc đơn vị đóng bảo hiểm xã hội theo đúng quy định tại thông tư số 58/TT - HCSN ngày 24 tháng 07 năm 1995 của Bộ Tài chính, thông báo kịp thời những đơn vị nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội từ hai tháng trở lên.
+ Ghi chép kết quả đóng bảo hiểm xã hội của từng cơ quan, đơn vị vào đầy đủ các mục, cột trong sổ, hàng tháng đối chiếu với cán bộ tổng hợp thu của Thành phố về kết quả đóng bảo hiểm xã hội của những đơn vị được phân công, theo dõi, quản lý.
+ Hàng tháng đối chiếu kết quả đóng của các cơ quan, đơn vị được phân công theo dõi, khi đối chiếu cần kiểm tra lại số lao động, quỹ tiền lương tham gia đóng bảo hiểm xã hội của các tháng trong kỳ đối chiếu và số đơn vị đã đóng trong kỳ đối chiếu từ ngày đầu tháng, đầu quý đến ngày cuối cùng của kỳ đối chiếu.
+ Hàng quý tổng hợp kết quả đóng bảo hiểm xã hội theo khối (nhóm) quản lý. Ngoài ra cán bộ thu bảo hiểm xã hội cũng phải xác nhận để thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức và hướng dẫn các đơn vị viết tờ khai cấp sổ bảo hiểm xã hội, ghi chép vào sổ bảo hiểm xã hội.
* Bên cạnh việc phân công cán bộ phụ trách quản lý số cơ sở nhất định thì bảo hiểm xã hội quận đã kiện toàn lại 4 nhóm, mỗi nhóm từ 2 đến 3 cán bộ viên chức đến từ cơ sở để đối chiếu phần đã đóng, số còn nợ đọng từ những năm trước đều được chuyển sang năm 2001 và được đôn đốc nhắc nhở bằng công văn hoặc trực tiếp làm việc với lãnh đạo đơn vị để có biện pháp thực hiện nghĩa vụ trích đóng quỹ bảo hiểm xã hội, làm cơ sở thực hiện giải quyết quyền lợi cho người lao động.
* Vào sổ cập nhật theo dõi đối chiếu việc thực hiện trích đóng bảo hiểm xã hội của từng đơn vị kịp thời.
* Có kế hoạch phối kết hợp với các ngành tổ chức kiểm tra việc thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội theo chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 17 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội về tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội với người lao động.
* Triển khai tổ chức vận động các doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, hướng dẫn các cơ sở tổ chức thực hiện tốt các quyền lợi cho người lao động theo luật định và điều lệ bảo hiểm xã hội.
Vì vậy, cùng với các biện pháp tổ chức triển khai thu bảo hiểm xã hội và sự nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cuả toàn bộ tập thể cán bộ viên chức bảo hiểm xã hội quận thì chỉ tiêu thu theo kế hoạch của bảo hiểm xã hội Thành phố luôn luôn được hoàn thành xuất sắc, năm sau luôn cao hơn năm trước với tốc độ phát triển cao, cụ thể:
Bảng 12: Số thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa qua các năm.
Năm
Số thu (triệu đồng)
Tốc độ phát triển liên hoàn (%)
1995
31096
1996
65462
201,5
1997
56463
86,25
1998
53167
94,20
1999
49990
94,02
2000
70888
141,8
2001
86000
121,32
2002 (dự kiến)
91,5
106,4
Chung
504566
(Nguồn: BHXH quận Đống Đa)
Như vậy, qua 7 năm hoạt động, từ tháng 10 năm 1995 tới tháng 12 năm 2001, bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã thu được 413, 066 tỷ đồng, bình quân mỗi năm thu được hơn 59,1 tỷ đồng. Mặc dù số thu bảo hiểm xã hội năm 1997 có giảm so với năm 1996 nhưng thực chất số thu vẫn tăng lên, bởi vì trong năm 1997, UBND Thành phố Hà Nội đã quyết định cắt một phần đất đai của quận Đống Đa chuyển sang quận Thanh Xuân. Năm 1998, 1999 số thu bảo hiểm xã hội có giảm nhẹ do thực hiện giảm biên chế nên số lượng lao động làm việc trong khối hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước giảm. Bắt đầu từ năm 2000, số thu bảo hiểm xã hội tăng vọt. Năm 2001 tăng 20% so với năm 2000 đó là do sự phát triển của số đơn vị, lao động khu vực ngoài quốc doanh. Điều đó cho thấy thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu bảo hiểm xã hội toàn quận Đống Đa.
Trong những năm tới, bảo hiểm xã hội đang cố gắng, nỗ lực mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nhất là khu vực ngoài quốc doanh, một khu vực với nhiều tiềm năng chưa khai thác. Thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh (với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, các cơ sở, trường công lập...) được xem là một trong những chiến lược lâu dài, quan trọng.
Cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa xác định thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh thực sụ là một vấn đề khó khăn và nan giải. Do đó, cần có sự nỗ lực không chỉ riêng mỗi cán bộ, tập thể cơ quan bảo hiểm xã hội quận mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành chức năng tạo điều kiện cho việc tổ chức thu bảo hiểm xã hội được tiến hành theo đúng luật, thu đầy đủ, kịp thời đảm bảo quyền lợi của người lao động, thực hiện an sinh xã hội.
4. Thực trạng thu và thất thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn quận Đống Đa.
Mặc dù trụ sở của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa còn chật, nhỏ hẹp, số lượng cán bộ của cơ quan là 20 người với 12 nữ và 6 nam phải giải quyết, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội choặc số lượng lớn người hưởng chế độ của 21 phường, hơn 4,2 vạn người hưởng lương hưu và quản lý hơn 700 đầu mối tham gia bảo hiểm xã hội. Khối lượng công việc quá nhiều nhưng bằng sự nỗ lực phán đấu của toàn thể cơ quan bảo hiểm xã hội quận để hoàn thành chỉ tiêu, giải quyết kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Bảng 13: Tình hình thu và nợ đọng thu BHXH Quận Đống đa năm 2001.
Khối
Tổng quỹ lương
(triệu đ)
Số phải
Thu
(triệu đ)
Nợ BHXH
2001
(triệu đ)
Tổng số
Phải thu
(triệu đ)
Số đã thu
(triệu đ)
Còn lại năm sau
(triệu đ)
DNNN
231,534
46,305
5,474
54,799
51,240
0,439
HC-SN
128,922
25,584
0,181
25,775
27,088
-0,298
Ngoài QD
16,527
3,3054
0,806
4,106
4,017
0,089
Tổng
375,973
75,195
6,461
81,656
82,345
-0,689
(Nguồn :BHXH quận Đống đa)
Ngay khi thành lập, bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã có nhiều cố gắng tổ chức khai thác, mở rộng các đối tượng thu bảo hiểm xã hội theo quy định đặc biệt không ngừng mở rộng thu bảo hiểm xã hội ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhưng kết quả bước đầu đạt được rất đáng khích lệ, số thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh năm sau cao hơn năm trước và năm nào cũng hoàn thành kế hoạch được giao, số đơn vị ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội cũng như số lao động tham gia bảo hiểm xã hội ngày một tăng, cụ thể:
a. Những khó khăn, tồn tại
Mặc dù đã có những thành tựu rất đáng khích lệ trong thời gian qua số thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh hàng năm có sự gia tăng, năm sau cao hơn năm trước cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối. Tuy nhiên so với tổng số thu cần khai thác thì kết quả này còn rất khiêm tốn. Thu bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, đó là:
* Tồn tại lớn nhất số lượng lớn các doanh nghiệp và người lao động thuộc khu vực ngoài quốc doanh chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Số đơn vị ngoài quốc doanh cũng như số lao động tham gia bảo hiểm xã hội chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Theo số liệu thống kê của chi cục thuế, tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, trên địa bàn quận Đống Đa có 268 đơn vị ngoài quốc doanh đăng ký thành lập với số lao động là 5460 người. Nhưng thực tế chỉ có 166 đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội đạt tỷ lệ 62% và 3259 lao động đạt tỷ lệ 59,7%.
Trên đăng ký kinh doanh là như vậy, nhưng trong thực tế vẫn còn một số lượng rất lớn doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên mà chưa cơ quan nào kiểm soát được. Sở dĩ có tình trạng này vì lợi dụng kẽ hở của pháp luật, một số doanh nghiệp tuy có tên (giây phép ngành nghề) nhưng hoạt động không ổn định, không thường xuyên hoạt động kinh doanh theo mùa vụ, luôn thay đổi địa điểm kinh doanh và phương thức kinh doanh. Đặc biệt, còn một số doanh nghiệp có giấy phép ngành nghề nhưng không có địa chỉ, hoặc địa chỉ không rõ ràng địa chỉ "ma", thậm chí chủ doanh nghiệp do người khác đứng lên hoặc tìm chủ doanh nghiệp cũng không có.
Việc buông lỏng trong quản lý và sử dụng kinh doanh của cơ quan chức năng dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có đăng ký thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký sử dụng lao động. Khi sử dụng lao động không có hợp đồng cụ thể, không đảm bảo các điều kiện quy định của Bộ Luật lao động. Do đó, cơ quan bảo hiểm xã hội không có cơ sở xác định hình thức hợp đồng lao động để khai thác đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Ngoài ra ở khu vực này, doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để tránh né việc thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động theo Điều lệ bảo hiểm xã hội. Tình trạng này ngày càng trở lên phổ biến. Cụ thể:
- Kê khai số lao động thấp hơn số thực tế đang làm việc.
- Duy trì những hợp đồng ngắn hạn dưới ba tháng nhiều lần, nếu cần thì tiếp tục gia hạn thêm.
- Nhiều chủ doanh nghiệp thực hiện hành vi lảng tránh nghĩa vụ thông qua "sáng kiến" chỉ tuyển lao động vào làm việc theo thời vụ, sau đó nếu cần mới tiếp tục gia hạn. Ngoài ra, chỉ ký hợp đồng lao động dài hạn với số lao động ít hơn 10 người và thường là bộ máy lãnh đạo, còn phần lớn số người lao động trực tiếp thì được ký kết hợp đồng theo mùa vụ bằng miệng.
- Biện minh lý do người lao động không muốn tham gia bảo hiểm xã hội vì dựa vào kẽ hở văn bản, nghị định của cơ quan bảo hiểm xã hội.
- Tự ban hành cho mình những quy chế riêng trái với luật lao động và Điều lệ bảo hiểm xã hội.
- Ngoài ra, một thủ đoạn để doanh nghiệp né tránh nghĩa vụ với người lao động là đưa hàng hoá ra ngoài gia công, áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, thực chất chuyển đổi quan hệ sản xuất, quan hệ lao động sang tay người khác, đó là thủ đoạn doanh nghiệp nhằm giảm chi phí tiền lương cho doanh nghiệp nhưng đồng thời đẩy hàng loạt người lao động vào cảnh sống bấp bênh.
- Khi chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội nhưng lại cố tình khai mức tiền công tham gia bảo hiểm xã hội nhỏ hơn tiền công thực tế trả và tiền công đưa vào tính thuế, khai giảm quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để sử dụng vào các mục đích khác.Trong thực tế một số doanh nghiệp luôn tối thiểu hoá quỹ lương , mức lương của người lao động chỉ xấp xỉ mức lương tối thiểu hoặc cao hơn một chút nhưng phụ cấp hay tiền thưởng thì có rất nhiều loại có khi chiếm 40-50% tổng thu nhập một ví dụ là Công ty công nghệ thông tin FIPT khi nộp BHXH thì lương chính bình quân một lao động trong công ty chỉ là 325.000 đồng trong khi thực tế thu nhập của một lao động trung bình là 820.000 đồng.
- Tình trạng sử dụng lao động ngoài quỹ lương đang là hiện tượng khá phổ biến được người sử dụng lao động áp dụng để né tránh nghĩa vụ với người lao động. Để giảm bớt chi phí, những doanh nghiệp tự hoạch toán thu, chi thường khoán cho người lao động việc tái sản xuất sức lao động.
Bằng nhiều cách, nhiều thủ đoạn chủ doanh nghiệp luôn tìn cách né tránh nghĩa vụ cho người lao động, quyền lợi của người lao động bị xâm phạm.
Trên địa bàn quận Đống Đa, nhiều doanh nghiệp biện minh khó khăn trong sản xuất để sử dụng 5% trích nộp của người lao động để phục vụ mục đích khác thì nhiều doanh nghiệp ăn nên làm ra vẫn cố tình lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Một trong những đơn vị đó là : Công ty Cổ phần Nam Thắng... 1 "lô cốt" điển hình, Công ty chuyên sản xuất giày thể thao xuất khẩu.
Thời kỳ hoàng kim Công ty sử dụng đến 1600 lao động, nhưng do sự cạnh tranh thị trường và khó khăn chung của ngành giày, hiện nay công ty sử dụng tới 922 lao động nhưng về số người được đóng bảo hiểm xã hội chỉ là 324 lao động, người phụ trách công tác bảo hiểm xã hội của Công ty giải thích do đặc thù sản xuất của ngành giày là sử dụng lao động trẻ, lao động từ nông thôn ra làm việc và có tới 80% là nữ, công việc không ổn định là làm theo thời vụ. Trong số 324 lao động tham gia bảo hiểm xã hội đa số là cán bộ làm công tác chuyên quản, bộ phận làm gián tiếp và những công nhân có từ 3 năm làm việc trở lên. Vậy đã rõ, quyền lợi bảo hiểm xã hội của người lao động làm việc trên 3 tháng và dưới ba năm bị lãng quên và ngay cả 324 công nhân đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì công ty cũng còn nợ bảo hiểm xã hội đến 250 triệu đồng. Làm ngơ việc đóng bảo hiểm xã hội cho 600 lao động (2/3 số lao động đang sử dụng), công ty đổ lỗi bởi đặc trưng của ngành giày, bởi tâm lý người lao động không ổn định, không gắn bó với công ty. Vậy, quyền lợi của người lao động ai lo? Họ biết trông cậy vào đâu?
Ngoài công ty cổ phần Nam Thắng, tại công ty xuất nhập khẩu may mặc, là đơn vị may gia công có sử dụng lao động 300 người nhưng chỉ đăng ký cho trên dưới 91 người tham gia bảo hiểm xã hội, theo ban giám đốc thì do lực lượng lao động biến động thường xuyên, do doanh nghiệp khó khăn về vốn nên không thể ký hợp đồng dài hạn mà chỉ ký hợp đồng 3 tháng và khoánbh xã hội cùng các chế độ khác. Trên thực tế, số lao động đều có thời gian công tác trên 5 năm nhưng vẫn ký hợp đồng theo mùa vụ cũng có người chỉ ký hợp đồng theo mùa vụ một lần nhưng đã làm việc trên 3 năm vẫn chưa ký hợp đồng mới.
Công ty xuất nhập khẩu Thuỷ sản sử dụng hơn 156 lao động nhưng cho đến nay hơn 100 lao động mùa vụ không được tham gia bảo hiểm xã hội, công ty giải thích do lao động chưa qua đào tạo bài bản, nên mọi khâu kỹ thuật đều do công ty hướng dẫn ít nhất sau 1 năm mới xác định được khả năng làm việc để ký hợp đồng dài hạn. Đã hơn 3 năm rồi, công ty đã kèm cặp nghề và thử việc lao động nhưng chỉ có 56 người được ký hợp đồng dài hạn còn đến 100 lao động phải thử việc chưa biết đến bao giờ?
* Về mức tiền công, tiền lương đăng ký trích nộp bảo hiểm xã hội cũng không đúng với thực tế. Các doanh nghiệp tìm mọi cách để khai giảm quỹ tiền lương, số tiền đóng bảo hiểm xã hội. Cách thông thường mà họ hay dùng là ghi mức lương trong hợp đồng thấp hơn mức thực tế. Đa số tiền lương, tiền công làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội thấp, thậm chí có trường hợp thấp hơn lương tối thiểu.
* Ngoài việc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thì tình trạng doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang là vấn đề hết sức nóng bỏng hiện nay. Đến cuối năm 2000, Hà Nội có 363 đơn vị nợ bảo hiểm xã hội trên 6 tháng với 30 tỷ 110 triệu đồng. Với sự nỗ lực của toàn ngành đến tháng 6 năm 2001 vẫn còn hơn 100 đơn vị nợ với số tiền 27 tỷ 561 triệu đồng. Trong số 27 tỷ 561 triệu đồng chủ yếu rơi vào doanh nghiệp Nhà nước: nợ 20 tỷ 37 triệu; đơn vị liên doanh văn phòng đại diện nước ngoài nợ: 6 tỷ 172 triệu đồng và khối ngoài quốc doanh (công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nợ 1 tỷ 352 triệu đồng).
Số nợ bảo hiểm xã hội có ở khắp 12 quận, huyện của Thành phố Hà Nội. Dẫn đầu là quận Hai Bà Trưng với số nợ 6,229 tỷ, tiếp đến là quận Thanh Xuân với 4,413 tỷ đồng và thứ ba là quận Đống Đa nợ 3,959 tỷ đồng.
Thống kê của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, tháng 6 năm 2001 có 3,959 tỷ đồng nợ bảo hiểm xã hội nằm ở 33 đơn vị, trong đó có 24 doanh nghiệp Nhà nước nợ 2 tỷ 191 triệu đồng, 6 doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 391 triệu đồng, 8 đơn vị liên doanh nợ 1 tỷ 377 triệu đồng.
Vậy trong 6 tháng đầu năm 2001 có 6 doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ với 391 triệu đồng thì đến 31 tháng 12 năm 2001 con số doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ bảo hiểm xã hội lên 10 đơn vị với 800 triệu đồng trong tổng số 166 doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 6%.
Như vậy, tình hình nợ đọng bảo hiểm xã hội có xu hướng gia tăng, đơn vị tăng 4, gấp 1,5 lần và số tiền tăng 2,2 lần. Trong 10 đơn vị nợ đọng bảo hiểm xã hội không phải 6 tháng, 1 năm mà kéo dài năm này qua năm khác, điển hình: Công ty may mặc xuất nhập khẩu thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty điện tử thuộc Bộ giao thông vận tải, Công ty Hanel, Công ty DaSimex,... Ngoài ra, còn một số công ty nợ bảo hiểm xã hội trên 6 tháng là: Công ty trách nhiệm hữu hạn công nghệ thông tin nợ với số tiền là 61,920 triệu đồng; Công ty Dịch vụ Đầu tư và Du lịch Nghi Tâm là 66,189 triệu đồng; Công ty Nhật Hà 45,150 triệu đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư xây dựng cơ khí nợ 53,471 triệu đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn Toàn Mỹ nợ 25,415 triệu đồng.
Và trong những thực trạng không thể không nhắc đến ảnh hưởng đến công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh của cơ quan bh xã hội quận Đống Đa là số tiền bảo hiểm xã hội thường hay bị nộp chậm, không đúng thời gian quy định. Hiện tại, vẫn còn một cán bộ thu của cơ quan chưa am hiểu hết quy trình quản lý của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, thường chậm trễ trong việc lập các danh sách lao động, quỹ tiền lương, biểu tăng, giảm số lượng lao động thậm chí cả trường hợp họ đã làm đầy đủ các giấy tờ cần thiết nhưng lại cố tình không chuyển vào tài khoản của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Số thu bảo hiểm xã hội của quý này thì phải đến quý sau mới thu được.
b. Nguyên nhân
Như vậy, nếu so sánh số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội so với các doanh nghiệp hoạt động trên thực tế sẽ là một con số rất nhỏ. Thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội quá ít như hiện nay, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau, cụ thể:
- Các văn bản của Nhà nước: Trước hết là NĐ 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ quy định đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc như:
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang,...nhưng lại không quy định đối với các đối tượng như: các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động, những người làm việc trong các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp.
Việc ban hành các văn bản, nghị định, quy định, thông tư thường chồng chéo và thiếu đồng bộ, cụ thể trong Luật lao động và Điều lệ bảo hiểm xã hội quy định doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên và có hợp đồng lao động dài hạn từ 3 tháng trở lên thì chủ doanh nghiệp phải có trách nhiệm và nghĩa vụ trích nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động. Chính quy định này đã tạo ra kẽ hở để một số chủ doanh nghiệp thực hiện hành vi lẩn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt Điều lệ bảo hiểm xã hội quy định các xác định thời gian tham gia bảo hiểm xã hội làm căn cứ tính các chế độ là đủ 12 tháng tính 1 năm không tính tháng lẻ, trong khi Luật lao động quy định người lao động làm việc trên 3 tháng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chính điểm này làm cho người lao động có hợp đồng ngắn hạn ngại tham gia bảo hiểm xã hội, còn người sử dụng lao động viện lý do cho là lao động biến động nên không tham gia bảo hiểm xã hội vì nếu tham gia bảo hiểm xã hội thì người lao động làm việc dưới 1 năm nghỉ việc cũng không được hưởng gì?
Luật pháp về bảo hiểm xã hội chưa đủ mạnh, nhất là trong việc ban hành các chế tài xử phạt vi phạm Luật lao động về bảo hiểm xã hội chưa hợp lý; chưa có một quy định cụ thể đối với khu vực ngoài quốc doanh về thanh tra và nộp phạt, quy định về xử phạt mới chỉ dừnglại ở hình thức cảnh cáo, phạt tiền 2 triệu đồng, mức nộp phạt quá thấp nên chưa có tính cưỡng chế và không mang lại hiệu quả cao. Có những doanh nghiệp sử dụng lao động rất đông (hàng trăm, hàng nghìn lao động), số tiền trích nộp bảo hiểm xã hội rất lớn so với số tiền bị phạt vài triệu đồng nên việc lảng tránh hoặc cố tình chịu phạt để không thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm xã hội cho người lao động đã được một số doanh nghiệp "áp dụng" gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan bảo hiểm xã hội trong quá trình thực hiện thu bảo hiểm xã hội.
Luật bảo hiểm xã hội chưa ban hành cũng gây trở ngại không nhỏ trong quá trình thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Bởi phần đông người lao động khi đã hiểu biết về chính sách bảo hiểm xã hội thì họ đều có mong muốn tham gia bảo hiểm xã hội để cuộc sống của họ được ổn định và đảm bảo hơn. Nhưng hiện nay, do tình trạng thừa người, việc thiếu nhất là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã buộc người lao động không có sự phản kháng nào đối với chủ sử dụng lao động của mình để đòi hỏi quyền lợi bảo hiểm xã hội vì họ cho rằng có việc làm có thu nhập ổn định là một điều tốt lắm rồi.
- Về phía chủ doanh nghiệp: Chủ sử dụng lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo luật định.
Hiện nay, hầu hết chủ sử dụng lao động với phương châm sản xuất kinh doanh chỉ "thích ứng" chứ không "lâu dài", do vậy, việc né tránh trốn đóng bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội vẫn thường xuyên xảy ra.
Lợi dụng kẽ hở pháp luật và sự kém hiểu biết của người lao động, chủ doanh nghiệp trốn đóng, không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động để sử dụng vào mục đích khác: đầu tư cho sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường và mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Bên cạnh những doanh nghiệp cố tình không đóng bảo hiểm xã hội thì có nhiều doanh nghiệp muốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động nhưng do gặp phải khó khăn trong sản xuất kinh doanh do thị trường biến động, cạnh tranh với các đối thủ khác, do nguồn vốn kinh doanh hạn hẹp, tình hình tài chính thường không ổn định nên không đủ đóng bảo hiểm xã hội liên tục cho người lao động.
- Về phía người lao động: người lao động còn hiểu biết rất mơ hồ về bảo hiểm xã hội, hiểu biết rất lơ mơ, đại khái, chung chung về Luật lao động, Điều lệ bảo hiểm xã hội còn lầm lẫn giữa bảo hiểm xã hội với loại hình bảo hiểm khác do đó, họ chưa có ý thức tự giác tham gia bảo hiểm xã hội. Do thu nhập thấp, đồng lương eo hẹp so với nhu cầu cuộc sống. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là lao động ngoại tỉnh nên ngoài nhu cầu chi tiêu sinh hoạt bản thân còn có nghĩa vụ, trách nhiệm giúp đỡ gia đình vì vậy bản thân họ không muốn đồng lương eo hẹp của mình bị "chia sẻ" để đóng bảo hiểm xã hội cho dù họ biết là như thế là cần thiết. Họ chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài.
Ngoài ra, do sức ép trong việc làm, do tâm lý sợ mất việc hoặc bị cắt bớt tiền lương nên không dám đấu tranh đòi hỏi chủ sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội cho mình.
- Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa: Chỉ tiêu thu bảo hiểm xã hội ở khu vực ngoài quốc doanh chưa được giao thành chỉ tiêu pháp lệnh nên ở bảo hiểm xã hội quận Đống Đa có thể triển khai hoặc chưa triển khai. Đơn vị nào có ý thức trách nhiệm với người lao động thì mới triển khai công tác này.
+ Hiện nay, cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa có 20 cán bộ nhưng chỉ có 8 cán bộ làm công tác chuyên thu, một số cán bộ khác vừa làm công tác thu lại vừa thực hiện một số công việc khác. Trong khi đó khối lượng cơ sở đơn vị thuộc diện quản lý lại rất lớn, năm 2001 có 638 đơn vị với tổng số lao động là 59.517 lao động. Đây là khối lượng rất lớn đối với 8 cán bộ chuyên thu, nên chưa có cán bộ chuyên thu và quản lý về mảng thu ngoài quốc doanh, cán bộ thu ở cơ quan được xé lẻ, mỗi người phụ trách một số đơn vị, một số địa bàn nhất định, bám sát cơ sở theo kiểu "nằm vùng" để đôn đốc thu, thực chất là vận động thu.
Vì đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thu nói chung còn thiếu, lại kiêm thêm nhiều việc khác dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc nhất là khi cơ quan bảo hiểm xã hội quận thực hiện khoán biên chế, khoán quỹ lương để nâng cao hiệu quả công việc. Do đó nảy sinh hiện tượng ngồi chờ doanh nghiệp đến đóng, hoặc gọi điện nhắc nhở,... nếu không đến thì không tập trung tìm hiểu điều tra thu thập số liệu, nắm bắt những thông tin cần thiết để xúc tiến thủ tục khai thác thu.
+ Chưa tập trung chỉ đạo và tiến hành điều tra, khảo sát, nắm tình hình thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên từng địa bàn cụ thể, trong quá trình thực hiện chưa thực sự coi trọng việc khai thác nguồn thu này, thiếu tập trung tìm ra các biện pháp hữu hiệu.
+ Chưa đầu tư lớn cho công tác tuyên truyền chính sách bảo hiểm xã hội, nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
+ Chưa chủ động phối hợp với các ban ngành chức năng đề xuất biện pháp tích cực yêu cầu chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp cố tình không tham gia bảo hiểm xã hội theo luật định vẫn không hề bị kiểm tra, xử phạt vì thế các doanh nghiệp thường dựa dẫm, nhìn nhau để trốn tránh không tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động một cách đầy đủ.
+ BHXH Thành phố Hà Nội phân cấp quản lý thu ngoài quốc doanh cho bảo hiểm xã hội các quận huyện nhưng chưa thể hiện hết vai trò quản lý định hướng cho cấp dưới, chưa kịp thời tìm ra những giải pháp đồng bộ để bảo hiểm xã hội quận tổ chức thực hiện tốt hơn.
+ BHXH quận còn phụ thuộc vào cơ chế tài chính của ngành, không có nguồn tài chính nhất định phục vụ cho công tác thu đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó không khuyến khích được sự hỗ trợ của các ngành chức năng và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thu.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác, như ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc các thành phần kinh tế khác thì nhiều nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn hoặc có thành lập nhưng không có chi bộ Đảng để lãnh đạo hoặc ở doanh nghiệp đó công đoàn cơ sở chưa dám đấu tranh, đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho người lao động cũng như cho cả chính mình với nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn do sức ép về việc làm ngày càng tăng gay gắt, cán bộ công đoàn cũng là người làm công ăn lương tại đó, kiêm nhiệm, thiên về công tác chuyên môn hơn công tác công đoàn vì đó là nguồn sống của họ, bị lệ thuộc vào chủ sử dụng lao động.
Nói tóm lại, mặc dù có nhiều hạn chế trong việc thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về chủ quan, nguyên nhân thuộc về khách quan. Do đó, để tăng cường, thúc đẩy công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh cần phải phân tích các nguyên nhân từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục hạn chế trong công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh.
c. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tế công tác thu bảo hiểm xã hội trong thời gian qua, đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ, có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích để từ đó tổ chức triển khai công tác thu bảo hiểm xã hội ở loại hình này càng đi vào nề nếp, và hiệu quả hơn. Cụ thể:
-Khen thưởng động viên đối với một số đơn vị làm tốt công tác BHXH như : Công ty khách sạn Kim liên, XN vận dụng toa xe khách , Trung tâm viễn thông khu vực I , Công ty tư vấn XD thuỷ lợi I , Bệnh viện Bạch mai,XN Dược phẩm TƯ I,…
- Người làm công tác thu bảo hiểm xã hội luôn đặt lợi ích chính đáng của người lao động lên hàng đầu, từ đó tạo được sự nhất trí của cấp Uỷ, chính quyền, đoàn thể cơ quan bảo hiểm xã hội và phối hợp chặt chẽ với các ngành triển khai chính sách bảo hiểm xã hội ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Mối quan hệ gắn bó với cấp uỷ Đảng, các ban ngành, Đoàn thể địa phương đặc biệt là các cơ quan Thuế, Viện kiểm soát, Liên đoàn lao động quận cung cấp thông tin, phối hợp kiểm tra, tổ chức tuyên truyền chế độ chính sách bảo hiểm xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp người lao động hiểu rõ quyền lợi trước người sử dụng lao động.
- Cơ quan bảo hiểm xã hội luôn cải tiến quy trình quản lý và thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội cho gọn nhẹ, hợp lý. Thường xuyên phối hợp với cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách bảo hiểm xã hội.
- Và một điều không thể thiếu nữa là: Trong công tác tổ chức người lãnh đạo đơn vị luôn xác định yếu tố con người là cơ bản nhất. Để phát huy được sức mạnh tổng hợp, mỗi người phải đặt đúng vị trí phù hợp với khả năng. Người lãnh đạo phải hết sức công minh gương mẫu trong chỉ đạo điều hành và tạo nên sự thống nhất cao trong nội bộ sẽ là động lực mạnh mẽ giúp cho đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chính vì vậy, trong năm 2000 - 2001 cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã nhận được bằng khen của bảo hiểm xã hội Việt Nam, tặng cờ đơn vị xuất sắc hoàn thành chỉ tiêu của Thành phố Hà Nội.
Để đạt được những thành tích trên là sự nỗ lực của tập thể cán bộ công chức, sự đoàn kết thống nhất trong công tác quản lý của ban giám đốc bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, đồng thời được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, ngành địa phương.
Chương III: Một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả công tác THU Và CHốNG THấT THU qua bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa.
1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội , xây dựng luật bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ở nước ta ra đời muộn, lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tổ chức bảo hiểm xã hội ở nước ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, kiểm soát các văn bản trên gặp nhiều khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động bảo hiểm xã hội kém hiệu quả, quỹ bảo hiểm xã hội trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Việc thay đổi thường xuyên các văn bản hướng dẫn với nội dung không rõ ràng, không thống nhất với nhau đã gây khó khăn cho các cán bộ bảo hiểm xã hội và phản ứng từ phía chủ sử dụng lao động và người lao động. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và rất cần thiết. Cụ thể:
- Để hình thành hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội đồng bộ và có hiệu lực, trước hết cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản bảo hiểm xã hội từ trước tới nay, xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để loại bỏ hoặc điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới của nền kinh tế thị trường. Các văn bản không phải mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía người tham gia để việc thực hiện đạt kết quản cao.
- Nâng cao chất lượng cũng như khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động bảo hiểm xã hội, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của bảo hiểm xã hội. Luật bảo hiểm xã hội phải đáp ứng được tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng được mục tiêu chiến lược về con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức của bảo hiểm xã hội , hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nguồn quỹ lớn mạnh.
- Chính phủ cần tăng cường sự điều hành với bảo hiểm xã hội, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội và đề ra các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp, tránh tình trạng những hậu quả xấu không biết quy trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế.
2. Có chương trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ
Đội ngũ cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội hiện nay được chuyển từ Liên đoàn Lao động và Phòng lao động thương binh và xã hội sang. Đại đa số các cán bộ chưa qua đào tạo đại học, thiếu kinh nghiệm quản lý. Một số cán bộ ở cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận với các văn bản của Nhà nước một cách thụ động thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất hành chính quan liêu. Vì vậy, việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành bảo hiểm xã hội là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây ở một số địa phương đã giải quyết cho cán bộ vừa làm vừa đi học tại chức để họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ cũng như quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hướng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của toàn ngành bảo hiểm xã hội:
- Hình thành trung tâm đào tạo về đại học tại chức, nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh. Cần phải có chương trình đào tạo phù hợp, đáp ứng được cả nhu cầu hiện tại và trong tương lai. Ngoài ra thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ bảo hiểm xã hội các quận, huyện.
- Đối với việc tuyển dụng cán bộ ngành bảo hiểm xã hội không chỉ chú ý đến số lượng mà phải quan tâm đến chất lượng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trưởng. Cần lựa chọn các có nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với người lao động.
- Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ:
Một phương án hữu hiệu đang được nhiều ngành mũi nhọn áp dụng đó là lực lượng sinh viên. Để thu hút nhân tài nên đi thẳng vào các trường đại học có chuyên ngành bảo hiểm, hỗ trợ tiền cho các sinh viên xuất sắc theo hợp đồng thoả thuận khi họ tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Tóm lại, muốn xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành này để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành bảo hiểm xã hội cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó.
3. Mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội
Xuât phát từ nguyện vọng của người lao động và phương hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế. Khi mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, Nhà nước ta cần ban hành các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Hình thức bảo hiểm xã hội này đã được Bộ luật Lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn chưa được thực hiện. Đây là hoạt động vừa mang tính chất thương mại vừa mang tính chất xã hội nên phải có đối tượng tham gia và phải hình thành nguồn quỹ có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. ậ nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lượng lao động ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng của các đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Đối tượng của bảo hiểm xã hội hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ... Các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế mới chỉ có khoảng 4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn hơn 30 triệu lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội. Do vậy, Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội. Có thể có các hướng giải quyết sau:
- Mức góp hiện nay dựa trên tiền lương cơ bản (gồm lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp thâm liên, chức vụ bầu cử, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ). Trong khi đó thu nhập thực tế của người lao động lại không ngừng tăng lên. Hiện tại nhiều doanh nghiệp có thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng/người. Do vậy, nên có hình thức bảo hiểm xã hội bổ sung, khuyến khích người lao động tự nguyện đóng góp cao hơn, ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức thưởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo có sự đảm bảo an toàn cho quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không có liên quan.
- ở nước ta hiện nay số lượng doanh nghiệp có quy mô nhỏ dưới 10 lao động tương đối lớn. Vì thế, nên mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến các doanh nghiệp này.
Để đẩy mạnh công tác thu cần ban hành ngay các văn bản pháp luật buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng bảo hiểm xã hội. Nên có quy định buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần được làm ngay. Đồng thời có các văn bản hướng dẫn công tác chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi.
- Đối với các đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì cần áp dụng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân. Hiện nay, nước ta có khoảng 28 triệu lao động nông thôn chiếm khoảng 71% tổng số lao động cả nước, hầu hết chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp bình quân 4,3% năm, đóng góp khoảng 40% GDP, 40% kim ngạch xuất khẩu, đời sống của người nông dân hơn 10 năm đổi mới đã được nâng lên rõ rệt. Theo tính toán của ESCAP, số người cao tuổi ở Việt Nam năm 1998 khoảng gần 5 triệu người, đến năm 2000 lên tới 5,4 triệu người và năm 2025 là 12,3 triệu người. Trong số người cao tuổi ở nông thôn chỉ có một tỷ lệ không đáng kể là cán bộ công nhân viên, bộ đội... về hưu hoặc nghỉ mất sức lao động có chế độ bảo hiểm xã hội. Một số khác thuộc đối tượng chính sách của Nhà nước, còn lại đại bộ phận là không có chế độ bảo hiểm xã hội. Qua điều tra khảo sát 50% người về hưu, mất sức lao động ở nông thôn có thu nhập từ bảo hiểm xã hội dưới mức lương tối thiểu, 90% số người cao tuổi ở nông thôn vẫn đang phải làm việc để tăng thu nhập (72% phải dựa vào con cháu, 28% phải có sự trợ giúp khẩn cấp của Nhà nước và cộng đồng). Vì vậy, mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn là tất yếu khách quan, là nguyện vọng của hàng triệu lao động nông thôn hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp cần phải được nghiên cứu kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sau đây là một vài kiến nghị về mô hình bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn:
+ Nên thực hiện ở vùng đồng bằng trước vì đây là nơi tập trung nhiều lao động nông thôn.
+ Các chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất cần được thực hiện trước.
+ Khuyến khích các hộ giàu tham gia trước sau đó giúp đỡ các hộ nghèo, gia đình chính sách tham gia.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu do người lao động tham gia đóng góp, Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.
Nhà nước cần phải thiết kế chính sách và hệ thống bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn nằm trong hệ thống quản lý thống nhất của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Đó là nâng cao nhận thức xã hội đối với bảo hiểm xã hội, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng được đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về bảo hiểm xã hội, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau:
- Về nội dung:
Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành... Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của bảo hiểm xã hội. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và có trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và giải quyết về bảo hiểm xã hội là chưa đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.
- Về hình thức tuyên truyền:
Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý bảo hiểm xã hội, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng, chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí bảo hiểm xã hội phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viêt với chất lượng cao. Bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đã đạt được mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chung (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí...) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động.
Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hoá, hội hoạ, nhạc kịch... Sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hoá nghệ thuật cao,có nội dung tuyên truyền được quần chúng ưa thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải được dàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các cuộc thi.
Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan bảo hiểm xã hội, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về bảo hiểm xã hội giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu nhập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyên vọng của họ.
Phấn đấu mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội .
Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền.
5. Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quỹ BHXH.
Công tác thu quỹ bảo hiểm xã hội có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, nó đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, cám ơn đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
6 . ứng dụng tin học vào trong công tác quản lý
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ "có máy vi tính". Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lạỉ việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa đuợc đồng bộ, chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thốn phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.
7. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Muốn công tác chi trả được thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khả năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Để bảo tồn được giá trị của quỹ cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quen thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mặc dù yếu tố rủi ro cũng tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư. Đây là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vừa đem lại lợi nhuận cao hơn vừa hạn chế được yếu tổ rủi ro.
8. Cải cách thủ tục hành chính
Đây là vấn đè cần phải được quan tâm ở bất kỳ cơ quan nhà nứơc nào.ở cơ quan BHXH quận Đống Đa cũng vậy ,rất nhiều người phàn nàn về thủ tục hành chính quá rườm rà (nhất là trong khâu tiếp nhận ,di chuyển hưu trí hoặc khâu giải quyết chế độ như tử tuất ...)
Cải cách thủ tụchành chính tức là giảm bớt những phần công việc, giấy tờ không cần thiết . Khách ở đây chủ yếu là các bác đã về hưu ( có tuổi ) rất ngại phải đi lại nên có thể linh động cho các bác tạm thiéu một số giấy tờ không quan trọng nào đó.
Tóm lại cơ quan BHXH Hà Nội nên tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng hưởng.
Kết luận
Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu cần thiết và khách quan của người lao động nói chung ở tất cả các quốc gia trên thế giới . Vì vậy nó đã trở thành một trong những quyền về con người và được Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua trong tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948. BHXH ngày nay là một trong những chính sách xã hội lớn của quốc gia , chính sách này thể hiện trình độ văn minh , tiềm lực và sức mạnh kinh tế , khả năng tổ chức và quản lý nhà nước.
Việc phân tích tình hình thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội của đề tài đã khẳng định được vai trò của chính sách BHXH .Để hoàn thiện công tác thu và chống thất thu hiện nay đề tài đã đưa ra một số vấn đề cơ bản . Để thực hiện vấn đề đó được tốt hơn cần thiết phải làm công tác tuyên truyền , phổ biến chính sách BHXH , đồng thời cần sự hỗ trợ tich cực của các ban ngành liên quan, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động BHXH , công tác thu và chống thất thu quỹ BHXH , góp phần ổn định và phát triển quỹ bhxh , ổn định kinh tế xã hội , trật tự và an toàn xã hội .
Qua quá trình thực hiện đề tài này, em xinh chânh thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cơ quan BHXH quận Đống đa và thầy giáo Nguyễn Cao Thường . Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên bản chuyên đề còn có những thiếu xót nhất định . Kính mong thầy giáo và cán bộ cơ quan BHXH Quận Đống đa tận tình chỉ bảo để em hoàn thành được tốt hơn.
Hà nội ,ngày 30-4-2002.
Sinh viên
Lê khánh Việt
TàI liệu tham khảo.
Giáo trình Kinh tế bảo hiểm , Trường đại học kinh tế quốc dân.
Tạp chí BHXH số 1,2 năm 2001.Số 1 năm 2002.
Báo cáo tổng kết năm 2001 của cơ quan bảo hiểm quận Đống đa.
Báo cáo tổng kết năm 2001 của BHXH Hà nội.
Các văn bản pháp luật của nhà nước về BHXH.
Tài liệu thu chi các năm của cơ qan BHXH Đống đa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0001.doc