Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003)

Mặc dù, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mới triển khai chưa lâu nhưng những kết quả mà Bảo Việt Hà Nội thu được từ nghiệp vụ này trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. Doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở một thị trường giầu tiềm năng như ở thị trường Hà Nội với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định so với tốc độ phát triển chung của cả nước thỡ Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa thể hài lũng với kết quả đạt được Bảo Việt Hà Nội cần phải năng động hơn nữa trong công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhăm đưa nghiệp vụ này sánh ngang tầm với các nghiệp vụ bảo hiểm “đàn anh đàn chị” khác. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đó gia nhập cỏc tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ toàn diện hơn thỡ tiềm năng của thị trường cũn lớn hơn rất nhiều đồng thời các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có thêm cơ hội gia nhập sâu hơn vào thị trường bảo hiểm Việt Nam làm cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.

doc77 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thấy trong các năm thì khoản dự phòng khoản chi chiếm tỷ lệ chủ yếu. Định mức chi cho trích lập dự phòng là vào khoảng 20- 25% tổng phí thu của nghiệp vụ. Qua bảng ta thấy mức trích lập dự phòng có xu hướng tăng dần qua tương ứng với sự tăng lên của doanh thu phí. Riêng năm 2000 do chi bồi thường tăng mạnh, do phát sinh hai vụ bồi thường gián đoạn kinh doanh cho người tham gia bảo hiểm, do vậy khoản chi này tăng mạnh lên, đưa khoản trích lập dự phòng xuống hàng thứ hai ở mức 20,25% so với tổng chi trong khi năm 1999 khoản chi này chiếm tới 47,18% so với tổng thu. Sang tới năm 2002 và năm 2003 khoản chi này tăng mạnh, tỷ lệ trích lập dự phòng là 22% so với tổng phí thu, có điều này là do trong hai năm 2000 và 2001 đặc biệt là trong năm 2000 phát sinh những vụ khiếu nại bồi thường lớn. Không giống như các rủi ro được bảo hiểm khác rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là rủi ro có tần suất không đều, không xảy ra thường xuyên như các rủi ro khác nhưng khi xảy ra thì tổn thất thường là tổn thất lớn, mang tính thảm hoạ. Do vậy công ty đặc biệt chú trọng tới công tác trích lập dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai. Khoản chi hoa hồng là khoản chi lớn thứ hai, khoản chi này thường chiếm trên dưới 25% trong tổng chi của công ty trừ năm 2000 khoản chi này chỉ chiếm 12,15% do năm 2000 là năm có số chi bồi thường lớn. Tỷ lệ chi hoa hồng chiếm tỷ lệ cao như vậy chứng tỏ công ty rất quan tâm đến quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý những người trực tiếp tiến hành khai thác. Số chi hoa hồng tăng đều đặn hàng năm, đồng thời như kết quả khai thác chúng ta đã phân tích ở trên cho thâý số hợp đồng khai thác được hàng năm cũng tăng lên tương ứng, điều này cho thấy việc tăng khoản chi hoa hồng là hợp lý so với tốc độ tăng doanh thu. Song như chúng ta đã biết, theo thực tế triển khai nghiệp vụ, thì trong một vài năm trở lại đây, phần lớn các hợp đồng bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy khai thác được là do khách hàng tự yêu cầu bảo hiểm. Vậy số chi hoa hồng tăng tương ứng với doanh thu liệu có phải là dấu hiệu cho thấy Bảo Việt Hà Nội đã chi hoa hồng cho chính những người tham gia bảo hiểm? Về khoản chi bồi thường ta dễ thấy, nhìn chung tỷ trọng số chi bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm này trong tổng chi là không cao nếu ta so sánh với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm cháy, tỷ trọng số chi bồi thường 5 năm gần đây chiếm khoảng trên dưới 30% trong tổng chi, trong khi đó tỷ lệ chi trung bình của bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy trong giai đoạn 1999-2003 tỷ lệ này chỉ chiếm 16,676% trong tổng chi. Riêng năm 2000 là năm có tỷ lệ chi bồi thường lớn nhất từ khi triển khai đến nay thì tỷ trọng này cũng chỉ là 59,6% , khá nhỏ khi so với tỷ lệ chi bồi thường cao nhất trong 5 năm gần đây của bảo hiểm cháy là vào khoảng 65%. Điều này chứng tỏ đây là nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng mang đến lợi nhuận cao cho công ty. Ngoài ra, trong các khoản chi thì khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua các năm và có tỷ lệ nhỏ nhất trong tất cả các khoản chi thường chiếm chưa tới 1% trong tổng chi cụ thể như: 1999 chiếm 0,88%, 2002, 2003 chiếm 0,84 % đặc biệt năm 2000 khoản chi này chiểm chưa tới 0.5% so với tổng chi. Các khoản chi quản lý và chi khác cũng có mức tăng tương ứng với mức tăng của doanh thu. Định mức chi của chi quản lý là 2% chi khác là không vượt quá 9% doanh thu phí thu được. Nhưng sẽ là khiếm khuyết nếu đánh giá hiệu quả hoạt động của cả một nghiệp vụ bảo hiểm mà không đi so sánh phân tích thu và chi của nghiệp vụ đó. Do vậy, cần phải có một bảng so sánh sau. Bảng 7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội( 1999-2003). Năm Doanh thu phí (tr.đ) Tổng chi (tr.đ) Lợi nhuận (tr.đ) Doanh thu/ chi phí (tr.đ /tr.đ) Lợi nhuận/ doanh thu (tr.đ / tr.đ) Lợi nhuận /chi phí (tr.đ/ tr.đ) 1999 505 214,07 290,93 2,359 0,574 1,35 2000 650 642,00 8,00 1,012 0.012 0,012 2001 824 401,75 440,25 2,051 0.534 1,096 2002 952 418,45 533,55 2,274 0,560 1,275 2003 1224 536,68 687,32 2,281 0,562 1,280 (Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt Hà Nội) Qua bảng số liệu chúng ta thấy: - Nhìn chung qua các năm doanh thu và chi phí đều tăng nhưng chi phí tăng chậm hơn dẫn đến lợi nhuận có xu hướng tăng trừ năm 2000 do phát sinh chi bồi thường lớn lên lợi nhuận của nghiệp vụ giảm mạnh. Trong khi lợi nhuận thu được năm 1999 là 290,93 triệu thì tới năm 2000 lợi nhuận giảm chỉ còn 8 triệu. Sang tới năm 2002, 2003 do không phát sinh khiếu nại bồi thường nên lợi nhuận tăng mạnh, lợi nhuận thu được qua các năm lần lượt là: 533,55 và 687,32 triệu đồng, lợi nhuận năm 2003 tăng gấp hơn hai lần lợi nhuận đạt được năm 1999. - Ta thấy chỉ tiêu doanh thu / chi phí qua các năm đều lớn hơn 1, như vậy chỉ tiêu này đạt hiệu quả. - Năm 1999 thì cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,359 đồng doanh thu. - Năm 2001 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,051 đồng doanh thu. - Năm 2002, 2003 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,274 và 2,280 đồng doanh thu. Nhưng vào năm 2000 chỉ tiêu này giảm mạnh chỉ là 1,012 tức cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,1012 đồng doanh thu. Xét về chỉ tiêu này thì năm 1999 là năm hiệu quả nhất, năm 2000 là năm kém hiệu quả nhất. - Về chỉ tiêu lợi nhuận / chi phí thì năm 1999 là năm có hiệu quả nhất cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1.35 đồng lợi nhuận, đứng thứ hai là năm 2003 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,28 đồng lợi nhuận. Mặc dù năm 2002 và năm 2003 là hai năm không phát sinh khiếu nại bồi thường nhưng chỉ tiêu này lại kém hơn so với năm 1999 năm phát sinh vụ khiếu nại bồi thường đầu tiên là do đặc điểm riêng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Không giống như các doanh nghiệp khác lợi nhuận của hoạt động kinh doanh được tính bằng tổng thu trừ tổng chi mà doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tiến hành trích lập dự phòng cho tổn thất có thể xảy ra trong tương lai. Vì thế, mặc dù năm 2002 và 2003 không phát sinh khiếu nại bồi thường, doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được đều tăng nhưng chỉ tiêu lợi nhuận lại không cao hơn năm 1999. Năm 2000 là năm chỉ tiêu này kém hiệu quả nhất. Một đồng chi phí bỏ ra chỉ tạo ra 0,12 đồng doanh thu. Xét về hiệu quả xã hội, ta biết số lượng khách hàng được phục vụ ngày càng nhiều, uy tín của công ty cũng ngày một được nâng cao, đó thực sự là một lợi thế lớn của công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Còn xét về góc độ kinh tế thì doanh thu phí cũng như lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm này ngày càng tăng thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho một nghiệp vụ non trẻ như nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy. Qua phân tích bốn khâu như trên chúng ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ đầy tiềm năng để phát triển và có khả năng mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Và vấn đề nổi cộm hiện nay của nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội tập chung chủ yếu ở khâu khai thác. Vì vậy, trong quá trình được tiếp xúc với thực tế triển khai khai nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội, với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tại công ty, chương III của chuyên đề thực tập này sẽ đề cập tới một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm này. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂ NG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI. I. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI. 3.1. Một số thuận lợi. Bắt đầu từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986 ) , chúng ta thực hiện mở cửa giao lưu với bên ngoài trên nguyên tắc: “Tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau và đảm bảo hai bên cùng có lợi”, trong nước thì thực hiện CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế chuyển từ tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và sở hữu đa dạng đã tạo điều kiện cho chúng ta nhanh chóng xoá bỏ tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, sự kiện Mỹ xoá bỏ cấm vận kinh tế vào Việt Nam (1/1/1995) cùng với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của khối ASEAN (28/7/1995) đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế khá cao, đặc biệt là Hà Nội có tốc độ tăng trưởng khá, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, tốc độ đầu tư tăng nhanh đặc biệt là đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, cùng với quá trình đô thị hoá ngày càng nhanh, Hà Nội đã đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng lớn … giá cả khá ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức hai con số, đời sống nhân dân thủ đô được nâng cao cả về mặt vật chất và tinh thần. Đây thực sự là môi trường thuận lợi để ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng phát triển . Bên cạnh đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp nên công tác bảo toàn và phát triển vốn nặng nề hơn trước. Để làm tốt công tác này thì theo thông tư số 82/TCCN ngày 31/12/1991 của bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 332/HĐBT về bảo tồn vốn với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “Các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại. Khoản chi phí mua bảo hiểm sẽ được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình bảo hiểm tương tự ..”. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm mới và khó như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Việc đổi mới cơ chế quản lý khiến nhiệm vụ bảo toàn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước trở nên khó khăn hơn.Trước kia các doanh nghiệp Nhà nước thường nhận được sự trợ giúp của nhà nước nên không có nhu cầu mua bảo hiểm, nhưng giờ đây sự sự bảo trợ của nhà nước không còn tất yếu dẫn tới nhu cầu mua bảo hiểm tăng. Thêm vào đó, nhận thức của khách hàng ngày càng được nâng cao, họ đã thấy được rõ hơn tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm nên tham gia nhiều hơn, mạnh dạn tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới. Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức có hiệu lực là một thuận lợi lớn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm nói chung và Bảo Việt Hà Nội nói riêng. Sự kiện này không chỉ đưa ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của các công ty bảo hiểm, chấm dứt thời kì hoạt động không có cơ sở pháp lý rõ ràng, mà còn có tác dụng xoá bỏ các hoạt động khai thác, môi giới tái bảo hiểm trái phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Tạo sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các công ty bảo hiểm. Nghị định 100/CP của chính phủ ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997 đã cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã tạo ra sự cạnh tranh mãnh mẽ giữa các công ty bảo hiểm thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển. 3.2. Một số khó khăn. Trình độ dân trí còn thấp, nhân dân chưa có tập quán mua bảo hiểm cho mọi đối tượng cần thiết phải tham gia bảo hiểm như: con người, tài sản, trách nhiệm. Rất nhiều người còn hiểu sai lệch về bảo hiểm coi bảo hiểm là lừa đảo, một số người do bất bình với bảo hiểm y tế nên đã quay lưng lại với bảo hiểm thương mại. Hơn nữa, đời sống kinh tế xã hội nói chung còn thấp nên hoạt động bảo hiểm cá nhân đặc biệt đối với loại bảo nghiệp vụ bảo hiểm tài sản chưa nhiều. tham gia bảo hiểm đối với họ nói riêng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Sự chuyển đổi cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường làm cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ không hiệu quả. Do vậy trên thực tế, mặc dù họ hiểu được tác dụng, sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm nhưng không có điều kiện tham gia bảo hiểm do không có khả năng chi trả. Mặt khác, do duy trì khá lâu cơ chế tập chung quan liêu bao cấp dẫn đến việc một số doanh nghiệp Nhà nước có thói quen trông chờ vào sự hậu thuẫn của Nhà nước khi gặp rủi ro nên mặc dù có khả năng chi trả nhưng họ vẫn không tham gia, họ chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn nhất là bằng con đường tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, một số dơn vị kinh doanh cũng như các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế đã nhận thức được những khó khăn phức tạp nhưng lại không có hiểu biết nhất định về kinh doanh bảo hiểm nên họ chưa thực sự tin tưởng vào hoạt động của các cơ quan bảo hiểm nên họ chỉ tham gia một cách dè dặt ở mức tối thiểu, và thường không dám tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Trên thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam khi phải mua bảo hiểm đã coi đó như là một sự bắt buộc và luôn tìm cách trốn tránh. Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng có nhiều biến động đáng kể. Nghị định 100/CP ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997 của chính phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Trên thị trường Hà Nội có 13 trong tổng số 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai hoạt động và chú trọng đầu tư, phát triển thị trường. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp như vậy sự cạnh tranh và lôi kéo khách hàng trong cùng ngành và các công ty khác nhau đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới các nghiệp vụ bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội. Thực tế cho thấy, sự phối hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp còn yếu, chưa tập hợp được ý kiến từ thị trường để có thể có tiếng nói chung về đánh giá tình hình khai thác, tỷ lệ phí bảo hiểm, vấn đề thống kê nghiệp vụ. Trong cạnh tranh vẫn ở tình trạng “Mạnh ai nấy chạy”. Chính điều này mô hình chung đã tạo kẽ hở rất lớn về những quy định trong kinh doanh bảo hiểm như phí bảo hiểm, sự tranh giành khách hàng. Và nó giúp cho các công ty bảo hiểm nước ngoài đưa ra một mức phí bảo hiểm hợp lý và đa dạng hơn mức phí mà các công ty bảo hiểm trong nước áp dụng. Là một công ty hoạt động chủ yếu trên địa bàn thủ đô, lại tập chung nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước đã và đang cạnh tranh gay gắt gây nhiều khó khăn cho công ty như: Thứ nhất, hiện nay ở nước ta luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời , nên trên thị trường vẫn tồn tại một số hoạt động khai thác, môi giới, tái bảo hiểm trái phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Sự hoạt động của các văn phòng này đã làm cho không khí cạnh tranh trên thị trường càng thêm khốc liệt, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực. Thứ hai, là việc các công ty bảo hiểm khi khai thác nghiệp vụ đã trả hoa hồng ở mức quá cao và sai đối tượng quy định của Bộ Tài Chính. Thứ ba, là dùng phương pháp bảo hiểm miễn phí để tranh giành dịch vụ của nhau. Đây là phương thức mà các công ty bảo hiểm Việt Nam thường sử dụng. Bên cạnh đó, trong những năm qua cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước, các doanh nghiệp các nhà đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ngày càng tăng. Thế nên, trong điều 9 chương II luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quy định rằng: “Tài sản của các xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận”, cho nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia bảo hiểm tài sản của họ tại các công ty bảo hiểm nước ngoài mà họ tin tưởng hơn. Điều này đã tạo cho các công ty bảo hiểm nước ngoài không phải vào Việt Nam mà vẫn thu được phí bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, đã gây khó khăn cho các công ty bảo hiểm trong đó có Bảo Việt Hà Nội bị thất thu phí ngay trên đất nước mình về các nghiệp vụ. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần phải có sự bảo hộ bằng luật đầu tư. Theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh chi phí mua bảo hiểm được tính và chi phí hoạt động kinh doanh, do vậy việc mua bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả - hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên chủ doanh nghiệp chỉ mua các loại hình bảo hiểm bắt buộc ở mức tối thiểu. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Cuối cùng là những khó khăn từ phía Bảo Việt Hà Nội: Một số bộ phận trong công ty còn quá cồng kềnh, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được khả năng của cán bộ, vẫn còn tình trạng dựa dẫm ỷ lại vào nhau. Số cán bộ chủ chốt còn thiếu, chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong khi vẫn còn tồn tại tình trạng tuyển dụng sai nguyên tắc. Chất lượng phục vụ khách hàng đôi khi còn rất nhiều hạn chế, đôi khi còn tồn tại tình trạng tư vấn chưa chính xác đã gây không ít khó khăn cho công ty khi giải quyết bồi thường hay khi khách hàng thắc mắc giải thích chưa thoả đáng, thái độ chưa hoà nhã, khiêm tốn gây bất bình cho khách hàng. Bởi nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mới và khó, khiếu nại bồi thường phần lớn là cho đối tác nước ngoài, trong khi số cán bộ có trình độ ngoại ngữ và làm tốt các khâu chưa nhiều, việc xác định số tiền bảo hiểm, số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp lại rất phức tạp. II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHĂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI. Qua phân tích những thuận lợi và khó khăn trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm này. 3.1. Một số kiến nghị. 3.1.1. Một số kiến nghị với cơ quan nhà nước. Nền kinh tế nước ta đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, chính vì vậy chúng ta chưa thể cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Bởi một khi các công ty bảo hiểm nước ngoài vào thì các công ty bảo hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh. Họ không chỉ có ưu thế về tiềm lực kinh tế mà còn hơn hẳn các công ty bảo hiểm trong nước về kinh nghiệm trong quản lý, khai thác cũng như công tác chăm sóc khách hàng. Nếu không được chuẩn bị chu đáo thì nghành bảo hiểm nước ta sẽ không tránh khỏi tình trạng khó khăn. Nhận thức của người dân còn hạn chế, nhiều người chưa có cái nhìn đúng về bảo hiểm còn cho bảo hiểm là lừa đảo. Do vậy, trong thời gian tới ngành bảo hiểm Việt Nam cần có sự trợ giúp từ phía nhà nước. - Thứ nhất là cần nhanh chóng triển khai có hiệu quả luật kinh doanh bảo hiểm. - Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý: + Luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời nên không tránh khỏi việc còn nhiều thiếu sót. Trong luật kinh doanh bảo hiểm hiện chưa có khoản mục nào đề cập đến trục lợi bảo hiểm. Do vậy, Nhà nước cần ban hành một văn bản dưới luật về vấn đề này cũng như thông tư hướng dẫn các bộ ban ngành có liên quan trong việc thực hiện nhằm đảm bảo tính khả thi của văn bản đó. + Ngoài ra, luật này hầu như chưa có quy định cụ thể về việc sử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp giữa các bên. Bộ tài chính cần dựa trên thực tế tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm để đưa ra sửa đổi bổ xung cho phù hợp, tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm còn non trẻ nước ta có thể hoàn thành vai trò quan trọng của nó với nền kinh tế. Bởi bảo hiểm không chỉ là một kênh huy động vốn quan trọng mà còn tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp khác mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao. - Thứ ba là nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua những chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm cũng như đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong giai đoạn đầu hội nhập: Bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm khác - Thứ tư là cần phải lựa chọn thận trọng khi cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở: Lựa chọn các công ty có khả năng tài chính mạnh, có kinh nghiệm và uy tín trên thế giới, có kế hoạch làm ăn lâu dài tại Việt Nam Đề án hoạt động kinh doanh trong tương lai phải có tính khả thi Hạn chế các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam thông qua việc hạn chế về các loại nghiệp vụ, phạm vi khách hàng. Cuối cùng nhà nước nên hỗ trợ xây dựng các hạng mục công trình với mục đích giảm thiểu rủi ro như: ở nhưng đoạn đường hay xảy ra tai nạn đặt các biển báo, gương cầu ở các khúc quanh hay cho xây đường thoát hiểm trong trên các đèo núi hiểm trở nhằm giảm thiểu rủi ro và số chi bồi thường. 3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty Bảo Việt. Đề nghị Tổng công ty xây dựng các trung tâm hỗ trợ khách hàng toàn diện tại các thị trường lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…). Đề nghị Tổng công ty tư vấn, hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp dân sự, trách nhiệm tài chính cho khách hàng. Đề nghị Tổng công ty tăng cường xây dựng thiết kế sản phẩm theo hướng linh hoạt để có thể đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Đề nghị chú trọng đến sản phẩm phục vụ khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tầng lớp dân cư hiện tại đang bị ít sức ép. Đề nghị Tổng công ty có hướng chỉ đạo thống nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề nghị tổng công ty xây dựng hoàn chỉnh chương trình kế toán và quản lý nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân trên máy vi tính để đáp ứng yêu cầu kinh doanh và yêu cầu bảo mật. Đề nghị Tổng công ty có chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí đào tạo về quản lý kinh tế tài chính và quản lý nghiệp vụ cho cán bộ các công ty bảo hiểm. Tăng cường đào tạo tập chung chuyên sâu về quản lý tài chính và quản lý nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các công ty thành viên. Đề nghị Tổng công ty tập chung các chiến dịch quảng cáo mang tính thống nhất trong toàn hệ thống Bảo Việt để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đề nghị Tổng công ty có đánh giá tổng kết mô hình tổ chức hiện tại của Bảo Việt Hà Nội để có công ty có định hướng hoàn thiện. 3.2. Các giải pháp 3.2.1. Các giải pháp về công tác khai thác. “Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn nhớ cho rằng cái cuối cùng quyết định đến thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó là vật phẩm tiêu dùng hay dịch vụ” đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette, người sáng lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho thấy những hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, hay Sony … thường rất coi trọng khâu bán hàng. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm công tác bán hàng (thể hiện chủ yếu ở các khâu khâu khai thác) có vai trò cực kì quan trọng do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm không giống như các hàng hoá dịch vụ khác. Tuy nhiên như đã phân tích ở chương II, thì tại Bảo Việt Hà Nội khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Đó có thể là một trong những nguyên nhân một nghiệp vụ có nhiều tiềm năng như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa mang lại kết quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy , hơn lúc nào hết, Bảo Việt cần thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng. - Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Bởi, hiện nay số khách hàng biết về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng như tác dụng thực sự của nghiệp vụ chưa nhiều. Ngay trên địa bàn Hà Nội, nơi có trình độ dân trí của người dân khá cao nhưng số người nhận thức đầy đủ về bảo hiểm chưa nhiều. Một số người còn cho rằng, mua bảo hiểm là mua lấy cái xúi quẩy về mình và tốt nhất là không nên mua. Thêm vào đó, một vài vụ tranh chấp trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữa khách hàng với người tham gia trong một vài năm trở lại đây đã gây không ít tai tiếng cho các công ty bảo hiểm , làm giảm lòng tin của khách hàng vào công ty. Vì vậy, giai đoạn hiện nay là thời gian thực sự cần thiết để công ty Bảo Việt Hà Nội thực sự coi trọng khâu xúc tiến quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ, hội nghị khách hàng , tài trợ cho các cuộc thi, cho thể thao …Công ty cũng có thể đưa ra các thông số, hình ảnh về mức độ nguy hại cũng như hậu quả của các vụ cháy và sau cháy. Vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mang tính trừu tượng hơn nhiều so với nghiệp vụ bảo hiểm cháy, mọi con số thiệt hại chỉ là ước tính tương đối cho nên các con số đưa ra không dễ thuyết phục khách hàng. Do vậy, công tác quảng cáo, tuyên truyền cho nghiệp vụ bảo hiểm này phải hết sức kiên trì. Song, nhược điểm lớn của phương pháp này là chi phí quảng cáo tương đối lớn, dẫn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh có thể giảm sút. Để đối phó với điều này,Bảo Việt Hà Nội có thể kết hợp quảng cáo về nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm cháy. - Thứ hai cùng với việc tuyên truyền quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội nên đưa ra các biện pháp nhằm đổi mới cách phục vụ tiếp cận khách hàng một cách có quy củ hơn. Nếu như việc tuyên truyền quảng cáo được ví như màn mở đầu thì côngviệc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã được đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công việc quảng cáo thực sự phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị trường, hoặc mới được cải tiến và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho người tiêu dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó khi sản phẩm đã được biết đến trên thị trường thì chi phí quảng cáo nên giảm dần thay vào đó là những chi phí về dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Theo kết quả phân tích ở chương II, tại Bảo Việt Hà Nội các công tác phục vụ bán hàng diễn ra một cách tự phát, chưa được chú trọng đúng mức, đặc biệt là đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì hầu như không có các hoạt động tiếp cận khách hàng nào cả. Bảo Việt Hà Nội cần nhanh chóng tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện phong cách phục vụ. Để làm được điều đó, trước hết cần phải đào tạo kiến thức chuyên môn cơ bản cho đội ngũ bán hàng. Do đặc tính riêng có của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, đội ngũ bán hàng của Bảo Việt Hà Nội hiện nay mặc dù đã có những kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống nhưng hầu như cchưa biết gì nhiều về hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nên khó có thể giải thích cặn kẽ tất cả các điều khoản xuất hiện trong hợp đồng. Vì vậy, việc đào tạo lại đội ngũ bán hàng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, Bảo Việt Hà Nội cũng cầnnâng cao phong cách phục vụ cho cán bộ bán hàng như tạo thái độ vui vẻ, niềm nở, nhiệt tình chu đáo, quan tâm tới khách hàng, có thể gủi tặng khách hàng quà vào những ngày lễ, sinh nhật hay thường xuyên thăm hỏi … Tuy có nhược điểm là phạm vi hẹp nhưng có nhiều ưu điểm như nhân viên triển khai hoạt động tiêu thụ có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, có thể triển khai hoạt động tiêu thụ có tính mục đích, tập chung và kịp thời nhận được thông tin phản hồi, hiểu được mong muốn cũng như yêu cầu của khách hàng. Khó có thể so sánh hay đánh giá biện pháp này bởi đây là phương thức thúc đẩy tiêu thụ gián tiếp. - Thứ ba, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng. Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp, nhanh nhậy … trên cơ sở đó tuyển chọn đại lý một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên tắc. Sau khi đã tuyển chọn công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng. Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty có thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng công ty cũng có thể trích quỹ phúc lợi để thực hiện các hoạt động ngoại khoá cho các đại lý giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau … Ngoài ra công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ đại lý như hỗ trợ về tài chính lúc ban đầu, trang bị các phương tiện hoạt động … giúp người đại lý thấy tin tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức tạp vì hoạt độngcủa đại lý không mang tính cố định nên công ty cần có mô hình tổ chức quản lý đại lý theo mô hình quản lý hình tháp và hàng tháng qui định những người chịu trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng cho cấp cao hơn. - Thứ tư Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng. Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Công ty lên quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các thành phần trung gian như các công ty môi giới, các cộng tác viên … vì chính họ là những người mang lại dịch vụ lớn cho công ty. Công ty có thể thực hiện chính sách hoa hồng thoả đáng trong hạn mức của bộ tài chính và những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức cá nhân mang lại cho công ty các dịch vụ. Hiện, công tác này ở Bảo Việt Hà Nội tuy có nhiều tín hiệu đáng mừng nhưng Bảo Việt Hà Nội cần tránh xu hướng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cán bộ của công ty vì lợi ích kinh doanh mà chi hoa hồng cả cho người tham gia bảo hiểm, ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của công ty. Như phân tích ở trên, thì phần lớn các hợp đồng giao kết được là do khách hàng tự yêu cầu, số khác thì thông qua môi giới song số chi hoa hồng lại có xu hướng ngày càng tăng. - Thứ năm, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng . Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp, nhanh nhậy… trên cơ sở đó tuyển chọn đại lý một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên tắc. Sau khi đã tuyển chọn công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng . Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty có thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng công ty cũng có thể trích quỹ phúc lợi để thực hiện các hoạt động ngoại khoá cho các đại lý giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau … Ngoài ra công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ đại lý như hỗ trợ về tài chính lúc ban đầu, trang bị các phương tiện hoạt động … giúp người đại lý thấy tin tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức tạp vì hoạt động của đại lý không mang tính cố định nên công ty cần có mô hình tổ chức quản lý đại lý theo mô hình quản lý hình tháp và hàng tháng qui định những người chịu trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng cho cấp cao hơn. - Thứ sáu, tại Bảo Việt Hà Nội có thể sửa đổi một số công thức cũ để tạo ra một cơ hội kinh doanh mới. Thường thì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội chỉ được bán kèm theo đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt , Bảo Việt Hà Nội không bán bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tách rời khỏi bảo hiểm cháy. Song, thực tế là công ty hoàn toàn có thể bán tách rời nghiệp vụ bảo hiểm này cho bất cứ đơn vị kinh doanh nào đã tham gia bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt ở một công ty bảo hiểm khác, điều này không đi ngược với nguyên lý khai thác trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này. Làm điều này không chỉ giúp làm tăng số thu phí mà còn tạo ra cơ hội cho bảo hiểm cháy phát triển, lôi kéo được khách hàng quen tham gia bảo hiểm cháy ở các doanh nghiệp bảo hiểm khác tham gia bảo hiểm cháy tại Bảo Việt vào năm tiếp sau. - Thứ bảy: Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp khích lệ nhân viên toàn công ty tăng cường tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm không những phụ thuộc vào những yếu tố như đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc vào chính sách phúc lợi của công ty đối với cán bộ. Như công ty có thể thúc đẩy côngtác bán hàng bằng cách khoán doanh số bán hàng cho nhân viên, thưởng cho những nhân viên có sáng kiến mới về tiếp thị, nhân viên có doanh số cao … - Thứ tám: trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, côngty cần thiết phải xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài để phát huy thế mạnh của mình . Một trong những phương hướng Bảo Việt Hà Nội đề ra trong thời gian tới là luôn nắm vững địa bàn , và làm chủ thị trường Hà Nội. Rõ ràng, khách hàng mà Bảo Việt Hà Nội muốn nhắm tới trong thời gian tới là tất cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh trên địa bàn. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì ngoài việc củng cố quan hệ, giữ những khách hàng đang có, côngty còn cần phải đẩy mạnh công tác khai thác khách hàng tiềm năng. Để thực hiện tốt công tác này, Bảo Việt Hà Nội có thể phân chia vùng trên địa bàn, theo dõi só đơn vị hoạt động kinh doanh trên địa bàn, sau đó phân công cán bộ xâm nhập vào từng khu vực để khai thác. Sau khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ công ty cần nêu rõ ưu điểm của các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai tại Bảo Việt Hà Nội như tính linh hoạt của biểu phí, chất lượng công tác giám định bồi thường… Mặt khác, công ty cần chú trọng phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một loại hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay. Những doanh nghiệp này là những khách hàng mà các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng chưa thực sự chú trọng khai thác. Bảo Việt Hà Nội nên tận dụng tối đa khoảng trống này để lôi kéo những khách hàng nhỏ về mình, tích tiểu thành đại, nhiều khách hàng nhỏ có thể mang lại doanh thu không kém gì khách hàng lớn. Hơn nữa, cán bộ khai thác Bảo Việt Hà Nội có cơ hội hoàn thiện sản phẩm của mình. Ngoài ra, Bảo Việt Hà Nội cũng có thể nâng cao công tác khai thác bằng cách mở rộng thị trường ra nước ngoài, đổi mới sản phẩm hay thưởng cho những khách hàng có nhiều hợp đồng hay bán sản phẩm phí trả dần … Mặc dù vậy, khó có thể đưa ra một biện pháp tốt nhất cho công tác xúc tiến bán hàng bởi đây là một công tác có quá nhiều yếu tố kinh doanh biến động theo thị trường. Do đó, công ty cần phải ứng phó nhanh nhậy với nhu cầu thị trường, tiềm năng của các đối thủ cạnh tranh hay sự thay đổi của môi trường pháp lý .Để làm được điều này, yếu tố con người có thể được coi là quan trọng nhất, tức Bảo Việt Hà Nội cần có một đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, giỏi chuyên môn cũng như các kỹ năng nghiệp vụ. 3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định và bồi thường. Giám định bồi thường là một khâu có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác khai thác. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ lôi cuốn được khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, số vụ tổn thất dẫn đến trách nhiệm bồi thường không nhiều nhưng không vì thế mà Bảo Việt Hà Nội xao nhãng công tác này trong quá trình triển khai nghiệp vụ. Do công tác giám định nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, dễ dẫn đến việc phản ánh không chính xác. Vì vậy, các cán bộ làm công tác giám định ngoài yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao, có tư cách đạo đức nghề nghiệp còn phải khách quan trung thực để phản ánh đúng sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Để nâng cao chất lượng công tác này, Bảo Việt Hà Nội nên thương xuyên cử cán bộ tham gia các khoá học của Tổng công ty dể nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ, đồng thời tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các công ty giám định các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Những vụ phức tạp nên phối kết hợp với Tổng công ty , nhờ vào mối quan hệ của tổng công ty để thực hiện tốt công tác giám định. Để tránh tình trạng cán bộ giám định “đồng loã’’ với người tham gia bảo hiểm để thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm, kê khai số thiệt hại trong biên bản lớn hơn số thiệt hại thực tế công ty bảo hiểm cần phải chọn lựa những người so tư cách đạo đức tốt làm công tác này. Đồng thời, cử cán bộ thanh tra, kiểm tra theo dõi công tác giám định một số vụ nhất định. Về công tác bồi thường, khách hàng chỉ thực sự thấy được tác dụng, ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải rủi ro dẫn tới thiệt hại.Việc nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác bồi thường là rất cần thiết vì phục vụ khách hàng tốt ở khâu này là hình thức tuyên truyền hữu hiệu nhất về sự phục vụ của công ty. Trong số ít các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, việc cán bộ bảo hiểm chưa giải thích rõ cho khách hàng nguyên nhân từ chối bồi thường trong một số trường hợp vẫn tồn tại. Do đó, công ty cần thực hiện ngay những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng công tác bồi thường như gửi cán bộ đi học những lớp nghiệp vụ do các chuyên gia giảng dạy, mở các lớp giáo dục về phong cách phục vụ, giới thiệu cách giải thích cho khách hàng trong một vài trường hợp điển hình có thể phát sinh từ thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm này … Ngoài ra, công ty cũng nên giảm bớt các thủ tục, giấy tờ rườm rà phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Công ty có thể in sẵn các tài liệu hướng dẫn khách hàng cụ thể phải làm ngay việc gì, phải nộp những giấy tờ gì? … để người được bảo hiểm nhanh chóng nhận được tiền bồi thường, nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2.3. Thực hiện tốt công tác an toàn, đề phòng, hạn chế tổn thất. Về việc đề phòng hạn chế tổn thất trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cần phải gắn kết với nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Để thực hiện tốt công tác này, công ty cần phải gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng cách thường xuyên cử cán bộ xuống cơ sở để kiểm tra đôn đốc khách hàng thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế cháy nổ, đưa ra các biện pháp phòng cháy, chữa cháy hữu hiệu cũng như hỗ trợ một phần kinh phí giúp doanh nghiệp mua các trang thiết bị phòng chống cháy nổ. Bên cạnh đó, công ty có thể kết hợp chặt chẽ hơn với cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp chính quyền ở địa phương để kiểm tra tình hình thực hiện công tác phòng chống cháy nổ ở đơn vị. Khi không may xảy ra tổn thẩt, người tham gia bảo hiểm thường cảm thấy rất lúng túng không biết phải xử lý ra sao. Lúc này công ty cần phải cảm thông chia xẻ với người tham gia đồng thời phải đưa ra được các biện pháp hạn chế tổn thất xảy ra thêm, giúp khách hàng nhanh chóng trở về tình trạng ổn định sản xuất kinh doanh. 3.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự. “Luôn luôn tự điều chỉnh và hoàn thiện mình” là một trong những phương châm hành động của toàn bộ hệ thống Bảo Việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào tạo cán bộ giỏi và có đạo đức luôn là một vấn đề được Bảo Việt quan tâm. Thực tế, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn có những biểu hiện chưa đạt yêu cầu. Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công ty Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số công tác như sau: - Tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo, không chỉ trong nội bộ công ty mà cần phối hợp với Tổng công ty hay với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác về các chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm. - Cử cán bộ đi học (ngắn hạn hoặc dài hạn) ở nước ngoài để nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. - Phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực của từng cán bộ, và có chính sách đãi ngộ thích đáng, để họ có thể toàn tâm toàn ý đóng góp công sức vào sự phát triển chung của công ty. - Thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ sự việc tiêu cực nào, giải quyết côngviệc chính xác, trung thực và khoa học, đó chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm. - Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiệnđúng các quy định, chính sách pháp luật của nhà nước. - Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ công nhân viên làm được việc và sử phạt công minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm ỷ lại, không chấp hành nội quy quy chế của công ty. - Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên, từ đó khẳng định được sức mạnh của tập thể. - Phân côngchặt chẽ các khâu trong quản lý doanh nghiệp, tổ chức bộ máy điều hành gọn nhẹ, năng động. - Bổ sung đầy đủ các cán bộ lãnh đạo nghiệp vụ bảo hiểm có đủ trình độ cho các phòng ban và các chi nhánh của công ty. - Đào tạo về kĩ năng giao tiếp, cách tìm kiếm khách hàng, tổ chức những buổi gặp gỡ, thảo luận nhóm giữa các đại lý có kinh nghiệm và các đại lý mới để mọi người có cơ hội gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm trong khai thác. 3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính. Trong hoạt động kinh doanh của bất kì nghành nghề nào, thì công việc quản lý tài chính cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, vì dù cho các hoạt động khác có tiến hành tốt đến đâu nhưng công tác quản lý tài chính lại không tốt thì vẫn có thể đưa công ty phải đối mặt với nguy cơ kinh doanh không có lãi hoặc tệ hơn có thể là mất khả năng thanh toán. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hình thức kinh doanh dịch vụ, trong đó quỹ tiền tệ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Việc tính toán mức phí phải đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi đồng thời phải đảm bảo được khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, ở Bảo Việt Hà Nội, hiện nay, phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thường đều tính dựa vào tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm nước ngoài có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cạnh tranh trên thị trường chứ không dựa trên cơ sở tính toán xác suất rủi ro thực tế. Điều này có thể gây ra những khó khăn trên không thể lường trước được trong tương lai có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Do đó Bảo Việt Hà Nội cần đề xuất với Tổng công ty thuê hoặc tuyển nhân viên giỏi để đảm nhận công tác tính xác suất rủi ro từ đó đưa ra mức phí hợp lý. Song song với công việc trên, Bảo Việt Hà Nội nên quản lý tài chính dựa trên phương châm “Tiết kiệm chính là để giầu có trong tương lai”. Hiện nay ở hầu hết các công ty, doanh nghiệp nhà nước tình trạng cán bộ công nhân viên đều chịu ảnh hưởng của quan điểm “Cha chung không ai khóc” đã và đang sử dụng lãng phí các nguồn lực. Để tránh tình trạng này để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Bảo Việt Hà Nội nên hun đúc một ý thức tiết kiệm trong toàn công ty, tiết kiệm từ việc xây dựng văn phòng trụ sở cho đến việc chi quản lý, giảm tối đa các chi phí hội họp, tiếp khách cũng như các lễ nghi không cần thiết. Một đặc điểm khác biệt của hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các hoạt động kinh doanh khác là ngành có chu trình kinh doanh đảo ngược, nghĩa là người bảo hiểm sẽ thu phí trước và thực hiện nghĩa vụ chi trả sau khi bên mua bảo hiểm gặp sự cố thuộc phạm vi bảo hiểm. Do vậy, người bảo hiểm sẽ nắm giữ một phần lớn số phí tạm thời nhàn rỗi. Khoản tiền này không chỉ tạo thêm việc làm và thu nhập cho công ty nếu biết tung vào dòng chảy đầu tư.Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội có thể tính toán đâù tư vào loại hình thích hợp để mang về lợi ích cho công ty, để công việc kinh doanh ổn định hơn, tăng khả năng cạnh tranh. KẾT LUẬN Mặc dù, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mới triển khai chưa lâu nhưng những kết quả mà Bảo Việt Hà Nội thu được từ nghiệp vụ này trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. Doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở một thị trường giầu tiềm năng như ở thị trường Hà Nội với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định so với tốc độ phát triển chung của cả nước thì Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa thể hài lòng với kết quả đạt được Bảo Việt Hà Nội cần phải năng động hơn nữa trong công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhăm đưa nghiệp vụ này sánh ngang tầm với các nghiệp vụ bảo hiểm “đàn anh đàn chị” khác. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ toàn diện hơn thì tiềm năng của thị trường còn lớn hơn rất nhiều đồng thời các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có thêm cơ hội gia nhập sâu hơn vào thị trường bảo hiểm Việt Nam làm cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Đề tài đã hệ trình bầy khái quát những điểm lý luận chính về nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Đánh giá được khái quát thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003. Qua đó, đưa ra một kiến nghị và số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Hy vọng rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy sẽ sớm trở thành một trong những nghiệp vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Bảo Việt Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị định 100/CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm - NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – 2001. Giáo trình kinh doanh bảo hiểm - ĐH-KTQD- Chủ biên PGS-TS Hồ Sỹ Sà - NXB Thống kê - 2000. Bảo hiểm và nguyên tắc thực hành - Dr David – NXB Tài Chính. Kinh tế và phát triển số 48, 49, 50, … ( năm 2001). Guide to Consequential Loss Insurrance – Commercial Union Overseas 5/1988. Bussiness Interruption Insurrance - Theory and Practice - John Phillips – London 1988. Bussiness Interruption Rerporting and Rish Improvement - The Insurrance of Institute of London 1988. DANH MỤC SƠ ĐỒ - BẢNG BIỂU Số thứ tự Trang Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội. 34 Bảng 1: Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). 36 Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh 40 doanh sau cháy tại Bảo Việt bảo hiểm (1999-2003). Bảng3: Tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh 43 doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 4: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ 48 bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 5: Tình hình chi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn 51 kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 6: Tình hình chi kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 53 sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm 55 gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). MỤC LỤC NỘI DUNG LỜI CẢM ƠN 1 PHẦN MỞ ĐẦU 2 Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy I Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4 1.1Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4 1.2.Tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 6 II Những nội dung cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8 2.1.Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8 2.2. Những nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 16 2.2.1 Hợp đồng bảo hiểm 16 2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 18 2.2.3. Phạm vi bảo hiểm và rủi ro bảo hiểm 18 2.2.4. Số tiền bảo hiểm 21 2.2.5. Phí bảo hiểm 24 2.2.6. Phương thức bồi thường 25 Chương II: Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) I Khái quát chung về Bảo Việt Hà Nội 33 1.1. Giới thiệu về Bảo Việt Hà Nội 33 1.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội 34 1.3. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003) 35 II. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) 37 2.1. Sự ra đời và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 37 2.2. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) Công tác khai thác bảo hiểm 38 2.2.1. Khâu khai thác 39 2.2.2.Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 47 2.2.3.Công tác giám định bồi thường 49 2.2.4.Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 52 Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội I.Một số thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 58 3.1. Một số thuận lợi 58 3.2. Một số khó khăn 59 II Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 62 3.1. Một số kiến nghị 62 3.1.1. Một số kiến nghị với Nhà nước 62 3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty 63 3.2.Một số giải pháp 64 3.2.1.Giải pháp về công tác khai thác 64 3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định bồi thường 69 3.2.3.Thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất 70 2.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự 71 2.2.5.Hoàn thiện công tác quản lý tài chính 72 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0009.doc
Tài liệu liên quan