Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động của bảo hiểm ngày càng phát triển, chỉ tính riêng năm 1987 - là năm đầu nước ta bắt đầu thực hiện chính sách mới về kinh tế - toàn ngành bảo hiểm đã thu được xấp xỉ 1 tỷ đồng, gần bằng doanh thu suốt cả 20 năm hoạt động trước đó. Tiếp tục đà phát triển đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, tổng doanh thu bảo hiểm năm 1999 trên 2000 tỷ đồng với mức đầu tư trở lại nền kinh tế chiếm 0,5% GDP (khoảng 1648 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn bảo hiểm tập trung được gửi vào tài khoản ngân hàng và ngân hàng sử dụng để đầu tư cho các ngành sản xuất. Để minh họa cho điều này, ta có bảng số liệu sau :

doc97 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn thu được một nguồn ngoại tệ lớn từ việc thực hiện dịch vụ đó. Thứ tư, việc mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ cho phép nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm hơn. Bảo Việt đã có sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường, đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch này hiện nay dường như có ý nghĩa rất lớn khi các công ty bảo hiểm khác cũng đang tích cực chuyển đổi nhằm giành lấy khách hàng. Như vậy, cơ hội phát triển trong điều kiện mới sẽ đến với Bảo Việt khi Tổng công ty biết tận dụng thời cơ và tiềm lực của mình. Thứ năm, với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên thế giới, quy luật liên kết kinh tế đã được chứng minh là hết sức hiệu quả trong thực tế thì hoạt động bảo hiểm cũng không nằm ngoài quy luật kinh tế này. Do vậy, Bảo Việt cần nghiên cứu đến một mô hình liên kết kinh tế giữa người xuất nhập khẩu hàng hoá, người vận chuyển và công ty bảo hiểm. Đây là một mô hình kinh tế chưa từng có ở Việt Nam song đã hình thành rất nhiều ở các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có ngành bảo hiểm phát triển. Qua mô hình này, người xuất nhập khẩu bán được hàng, tàu của người vận chuyển có hàng hoá để chở và Bảo Việt sẽ cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Thứ sáu, để đảm bảo việc phân tán rủi ro và đảm bảo khả năng bồi thường, Bảo Việt cần nghiên cứu để có các hình thức hoạt động tái bảo hiểm hợp lý ở những thị trường có tiềm lực tài chính lớn và giàu kinh nghiệm trong hoạt động tái bảo hiểm. Công tác nhượng tái và phân tái bảo hiểm cũng cần phối hợp với nhau một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Dự báo trị trường bảo hiểm hàng không Việt Nam trong những năm tới Sự tăng trưởng trong kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá những năm qua góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy mà nhu cầu về vận tải nói chung và vận tải hàng không nói riêng là hết sức cần thiết. Sự phát triển của ngành hàng không Việt Nam là một thuận lợi lớn cho hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không của Bảo Việt. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vị trí của ngành hàng không dân dụng cũng như là vai trò của vận tải hàng không ngày càng lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Sự lớn mạnh này của ngành hàng không không những sẽ tăng thêm giá trị bảo hiểm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá mà còn nâng cao vị thế của bảo hiểm Việt Nam trên trường quốc tế, tạo nên một tập quán bảo hiểm trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam. Hiện nay thị trường vận tải hàng không tại Việt Nam chủ yếu do Hãng hàng không quốc gia Việt Nam - Vietnam Airlines nắm giữ (chiếm trên 80% thị phần đối với vận tải trong nước và quốc tế). Do vậy, để phát triển bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không thì việc nghiên cứu lượng vận chuyển của Vietnam Airlines để từ đó đề ra những giải pháp nâng cao doanh thu của nghiệp vụ này là điều vô cùng quan trọng trong việc tìm kiếm khách hàng của Bảo Việt. Bảng 10 : Dự báo hoạt động của vận tải hàng không Việt Nam năm 2000 - 2010 Năm 2000 2005 2010 Lượng vận chuyển toàn thị trường - Hàng quốc tế (nghìn tấn) - Hàng nội địa (nghìn tấn) 191,5 128,9 62,6 463,9 320,8 143,1 870 618 252 Lượng vận chuyển của HKVN - Hàng quốc tế (nghìn tấn) - Hàng nội địa (nghìn tấn) 99,7 41,2 58,5 243,8 112,3 131,5 465,1 228,7 237,4 (Nguồn : Cục hàng không dân dụng Việt Nam, 1997) Từ bảng trên ta thấy : ngành vận tải hàng không nước ta sẽ có tốc độ tăng trưởng rất cao, vận tải hàng hoá dự đoán năm 2010 sẽ tăng gấp 5 lần so với năm 2000. Từ đó có thể thấy nhu cầu về bảo hiểm hàng hoá sẽ tăng cao. Đó là một thuận lợi vô cùng lớn đối với toàn ngành bảo hiểm nói chung và với Bảo Việt nói riêng, bởi với khả năng và uy tín vốn có Bảo Việt hoàn toàn có điều kiện để tăng thị phần bảo hiểm hàng hoá của mình bằng cách khai thác nhiều hơn nữa nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá bằng đưòng hàng không trên thị trường đang ngày càng mở rộng. 3. Kinh nghiệm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng không của một số nước trên thế giới Sự phát triển của lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá luôn gắn liền với lĩnh vực vận tải. Chính vì vậy trong những năm gần đây, do ngành hàng không Việt Nam phát triển mạnh mẽ kéo theo thị trường bảo hiểm hàng không ở Việt Nam cũng bắt đầu khởi sắc. Các nghiệp vụ bảo hiểm khác của hàng không như bảo hiểm thân máy bay, trách nhiệm chủ sân bay, đòi hỏi một nguồn vốn lớn, yêu cầu kỹ thuật đặc biệt, và đối với Việt Nam chủ yếu là do khả năng tài chính còn hạn hẹp nên phí bảo hiểm giữ lại chỉ từ 3 – 5%. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá bằng đường không không đòi hỏi những điều kiện khắt khe như vậy. Do vậy, đây là một nghiệp vụ tiềm năng mà chúng ta cần quan tâm hơn. Hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm hàng không nói chung, mặc dù đã tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây, nhưng trên thị trường bảo hiểm quốc tế vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn Bảng 11 : Tỷ trọng bảo hiểm hàng không Việt Nam so với thế giới (Đơn vị : %) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Phí bảo hiểm 0,4169 0,4581 0,6001 0,7326 0,8043 Số tiền bồi thường 1,5067 0,4233 0,0364 0,2095 0,1853 (Nguồn : Tạp chí thông tin hàng không, 2001) Theo bảng trên, tỷ trọng phí bảo hiểm hàng không của Việt Nam so với thế giới ngày càng tăng. Từ năm 1997 đến 2001 tỷ trọng phí tăng từ 0,417% đến 0,8%, tức là tăng gần 2 lần. Sở dĩ như vậy là do phí bảo hiểm hàng không thế giới giảm mạnh và phí bảo hiểm hàng không Việt Nam đang tăng cao. Phí bảo hiểm hàng không của Việt Nam tăng cao là do giá trị bảo hiểm ngày một tăng, nhu cầu đi lại và vận chuyển bằng đường không ở Việt Nam tăng rất mạnh. Tuy nhiên, tỷ trọng phí so với thế giới là quá nhỏ. Để có thể đánh giá và nhìn nhận rõ hơn hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không tại Việt Nam so với các nước trên thế giới, ta cần xem xét và phân tích một số kinh nghiệm về bảo hiểm hàng không, đặc biệt là những nước có ngành hàng không cũng như bảo hiểm phát triển, để từ đó rút ra các bài học cho bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không của Việt Nam. Đó là Mĩ và Anh. - Mĩ : Là một nước có ngành hàng không lớn nhất thế giới với nhiều hãng hàng không lớn, lại có ngành bảo hiểm có lịch sử phát triển từ lâu đời nên hoạt động bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không tại Mĩ rất phát triển. Hiện nay, nước Mĩ đang sở hữu một hệ thống sân bay, máy bay lớn nhất thế giới với nhiều máy bay chuyên dụng để vận tải hàng hoá. Do vậy, khối lượng hàng hoá được vận chuyển là vô cùng lớn. Nguyên nhân chính của sự phát triển này là do tiềm lực kinh tế lớn nhất thế giới của Mĩ, khoa học công nghệ đạt trình độ cao, nhu cầu nội địa về vận tải hàng không vô cùng lớn, quan hệ kinh tế rất phát triển. Điều đó làm cho khối lượng hàng hoá vận chuyển là vô cùng lớn. Nhưng một nguyên nhân vô cùng quan trọng nữa là thói quen mua bảo hiểm của cá nhân cũng như các doanh nghiệp của Mĩ. Hơn nữa với chính sách tự do hoá, phi điều tiết, toàn cầu hoá trong cả lĩnh vực hàng không và bảo hiểm, Mĩ hạn chế đến mức tối thiểu sự can thiệp của Nhà nước làm cho tính cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm là rất lớn. Điều này làm cho một số hãng hàng không cũng như bảo hiểm phá sản, nhưng bên cạnh đó nó cũng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và một ưu điểm nổi bật là phí bảo hiểm giảm làm doanh thu phí tăng. Hơn nữa, với chiến lược quốc tế hoá ngành vận tải hàng không thì sự phát triển của bảo hiểm là điều tất yếu. Một thuận lợi lớn của bảo hiểm hàng không Mĩ là có một nguồn vốn dự trữ dồi dào, đây là điều kiện tiên quyết đối với bảo hiểm hàng không do đặc thù của hàng không là giá trị tài sản và hàng hoá rất lớn. - Anh : Anh là nơi ra đời đầu tiên của những điều khoản, nguyên tắc bảo hiểm trên thế giới. Anh cũng là một thành viên của Liên minh châu Âu, nơi có một thị trường rộng lớn với hơn 300 triệu dân và một hệ thống hàng không phát triển. Khác với Mĩ, ngành hàng không Anh chủ trương tự do hoá dần dần và có sự kiểm soát của Nhà nước nên hoạt động hàng không cũng như bảo hiểm diễn ra tuy không sôi động như Mĩ nhưng lại có những bước phát triển ổn định hơn. Một kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm ở Anh và Mĩ mà các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải nghiên cứu và học tập, đó là việc sử dụng Internet trong việc tìm kiếm và khai thác khách hàng. Tất cả các công ty bảo hiểm dù lớn hay nhỏ đều có một địa chỉ website với đầy đủ các thông tin về các sản phẩm bảo hiểm. Khách hàng có thể mua bảo hiểm thông qua mạng chỉ bằng việc khai báo những thông tin cần thiết về công ty hay bản thân, về hàng hoá cần bảo hiểm. Công ty bảo hiểm dựa vào những thông tin đó báo ngay một mức phí với các điều kiện bảo hiểm để khách hàng tham khảo. Và những bước tiếp theo để có một hợp đồng bảo hiểm cũng diễn ra tương tự. Do vậy, khách hàng cảm thấy thoải mái và tiết kiệm được thời gian, lại có thể tham khảo được nhiều mức phí và các điều kiện bảo hiểm mà các công ty đưa ra; từ đó tìm được mức phí hợp lý nhất cho hàng hoá của mình. Tại Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm đã thiết kế những trang web riêng của công ty mình nhưng đơn thuần chỉ là giới thiệu về công ty, các sản phẩm, còn việc kí kết giao dịch vẫn chưa thực hiện được. Hơn nữa, việc xuất hiện những Hiệp hội vận tải - bảo hiểm làm cho quá trình chuyên chở hàng háo của chủ hàng được rút ngắn lại. Chuyên môn hoá cao trong từng lĩnh vực cũng tạo đIều kiện cho cả hai ngành cùng phát triển. ở Việt Nam, cả lĩnh vực bảo hiểm cũng như hàng không Nhà nước đều nắm quyền kiểm soát. Nền kinh tế nước ta đang từng bước hoà mình với thế giới nên sự điều tiết của Nhà nước một mặt làm cho kinh tế tăng trưởng ổn định, nhưng mặt khác cũng làm giảm sự giao lưu quốc tế, mà điều này là vô cùng quan trọng đối với ngành hàng không cũng như là bảo hiểm. Chính vì vậy, việc hiện nay trên đã xuất hiện nhiều công ty bảo hiểm liên doanh, hay 100% vốn nước ngoài là điều đáng mừng cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Điều đó cũng đòi hỏi Bảo Việt - một doanh nghiệp lớn trên thị trường, có những giải pháp để thu hút những khách hàng của loại hình bảo hiểm tương đối mới mẻ này. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không là một nghiệp vụ đã có từ lâu, nhưng mới thực sự phát triển trong vài năm gần đây. Tuy nhiên Bảo Việt đã thu được một số kết quả hết sức đáng khích lệ. Nhưng trong tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay để tồn tại và đứng vững, Bảo Việt cần phải đổi mới và hoàn thiện từng khâu một trong hoạt động kinh doanh dịch vụ này. Trong thời gian tìm hiểu để hoàn thành luận văn này, em đã có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại Bảo Việt; và đã thấy được một số mặt ưu và nhược điểm khi tiến hành nghiệp vụ này. Với vốn hiểu biết ít ỏi cùng một thời gian tìm hiểu tương đối ngắn ngủi, em xin đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt. 1. Những biện pháp nhằm mở rộng và khai thác thị trường Việc Bảo Việt chiếm lĩnh được bao nhiêu phần trăm thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không phụ thuộc vào công tác mở rộng và khai thác thị trường. Sự cần thiết của công tác này xuất phát từ tính chất đặc thù của sản phẩm bảo hiểm này. Thứ nhất, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm dễ bắt chước. Một hợp đồng bảo hiểm cho dù là bản gốc thì cũng không thể cấp bằng bảo hộ, do đó, các công ty bảo hiểm có thể sao chép lẫn nhau một cách hợp pháp. Thứ hai, sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ đặc biệt, là một cơ chế chuyển giao rủi ro. Điều này làm cho khách hàng không có khả năng đánh giá cụ thể lợi ích của việc mua bảo hiểm bởi vì lợi ích duy nhất khách hàng có được là sự bồi thường tổn thất khi rủi ro xảy ra. Thứ ba, mọi hoạt động bảo hiểm luôn dựa trên một kỹ thuật phức tạp. Các hợp đồng bảo hiểm dù đơn giản đến đâu cũng chứa đựng những ngôn từ có tính pháp lý cao. Do đó, khi kí kết hợp đồng, thường khách hàng không xem xét đầy đủ nội dung hợp đồng và khi có rủi ro xảy ra, do thiếu hiểu biết, khách hàng lại có cảm giác bị lừa. Thứ tư, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không ra đời từ lâu nhưng do trước đây vận tải hàng không chưa phát triển kéo theo hoạt động bảo hiểm này cũng chưa được chú ý. Nhưng trong những năm gần đây, bên cạnh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển thì bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không cũng bắt đầu có vị trí. Do vậy, mở rộng và khai thác thêm thị trường cho nghiệp vụ này là điều vô cùng cần thiết. 1.1. Tăng cường khai thác các mặt hàng có tỷ lệ tham gia bảo hiểm tại công ty còn thấp hoặc chưa tham gia bảo hiểm Hiện nay tại Bảo Việt còn nhiều mặt hàng nhập khẩu có giá trị lớn chưa tham gia hoặc rất ít tham gia bảo hiểm hàng không. Một số chủ hàng Việt Nam còn có một tư tưởng là hàng hoá đã được vận chuyển bằng máy bay thì sẽ rất nhanh đến được với mình, nếu có bị tổn thất thì sẽ chuyển lại và bên bán nước ngoài sẽ phải gửi hàng hoá thay thế, thời gian sẽ không mất nhiều. Suy nghĩ như thế là rất sai lầm, vì rất khó khăn để có thể được đền bù bằng một hàng hoá thay thế, cũng như đôi khi tổn thất không phải là do bên bán gây ra. Bên cạnh đó, bảo hiểm cho hàng xuất còn có tỷ lệ tham gia bảo hiểm còn rất thấp, do đó trong thời gian tới, Bảo Việt phải tập trung sức lực vào đầu tư vào khai thác lĩnh vực này để nâng cao kim ngạch bảo hiểm, cũng như tăng doanh thu. Muốn vậy, công ty cần phải phân tích và tìm hiểu về những mặt hàng có đặc thù riêng phải vận chuyển bằng đường hàng không để có thể thu hút được nhiều chủ hàng tham gia bảo hiểm hơn. 1.2. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động công tác khách hàng Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động trên quy luật “lấy số đông bù số ít”, thì vai trò của yếu tố khách hàng càng trở nên quan trọng hơn. Trong thời gian qua Bảo Việt đã đưa ra và thực hiện một số chính sách khách hàng thu được kết quả tương đối khả quan : số đơn bảo hiểm cấp tăng nhanh qua các năm, số lượng khách hàng đến tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt ngày càng nhiều, kim ngạch bảo hiểm và tổng doanh thu phí qua các năm đều tăng với tỷ lệ cao và ổn định (khoảng 30%/năm). Tuy nhiên trong tình trạng cạnh tranh gay gắt hiện nay, để giữ vững thị phần và thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tích cực hơn nữa thì Bảo Việt cần phải có sự đổi mới, hoàn thiện công tác khách hàng. Trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường. Bảo Việt phải tổ chức nghiên cứu thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu của cả nước, liên kết với ngành hàng không để xem kim ngạch xuất nhập khẩu của từng mặt hàng. Ngoài các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quốc doanh, phải chú ý đến các công tác xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp sản xuất, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân ... Đây là công việc cần làm trước khi hoạch định được những bộ phận thị trường mục tiêu, khách hàng mục tiêu để Bảo Việt có kế hoạch đi sâu khai thác. Muốn vậy, hàng năm Bảo Việt cần có kế hoạch thu thập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm. Đồng thời Bảo Việt nên cử cán bộ nắm bắt được nhu cầu xuất nhập khẩu của các đơn vị. Từ đó xác định được những mặt hàng trọng tâm cần khai thác mạnh và những mặt hàng nào cần hạn chế vì không mang lại hiệu quả. Mặt khác cũng thông qua tiếp cận với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị, đồng thời căn cứ vào các nhu cầu thực tế của từng đơn vị để có thể đề ra chiến lược thích hợp và xây dựng mức phí hợp lý để khuyến khích họ mua bảo hiểm tại Bảo Việt, tạo lập mối quan hệ lâu dài với họ. Một việc làm thiết yếu nữa là công ty phải cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam đã phát triển mạnh trong những năm gần đây nhưng Bảo Việt nói chung và các công ty bảo hiểm Việt Nam nói riêng còn có tính cạnh tranh rất yếu so với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Chất lượng dịch vụ của các nhà bảo hiểm trong nước còn chưa cao (như thủ tục mua và bồi thường còn rườm rà, chi phí cao), thiếu phương pháp nghiên cứu thị trường và tiếp cận khách hàng, trình độ của các nhân viên khai thác còn yếu, do đó, chưa chiếm được lòng tin của khách hàng, đánh mất nhiều cơ hội kinh doanh. Vì vậy, Bảo Việt cần tổ chức tốt khâu thống kê để biết được kết quả của từng chuyến hàng, từng loại hàng hoá Từ đó có những tư vấn giúp khách hàng quản lý rủi ro, hạn chế tổn thất cũng như giúp cho việc xác định phí của công ty hợp lý hơn. Làm tốt điều này sẽ tạo được lòng tin đối với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng hơn đến với Bảo Việt. Bên cạnh đó, Bảo Việt phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng, bởi sản phẩm bảo hiểm nói chung và hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng là sản phẩm vô hình. Do vậy khách hàng chỉ có thể cảm nhận được sản phẩm của Bảo Việt tốt hơn so với các công ty khác qua chất lượng phục vụ khách hàng. Chất lượng phục vụ khách hàng được xác định qua một số tiêu chí như : thời gian, thủ tục, giải quyết khiếu nại, bồi thường khi có tổn thất xảy ra, thái độ phục vụ của các cán bộ bảo hiểm, Vì vậy Bảo Việt cần phải đơn giản hơn nữa thủ tục, chứng từ, tổ chức khâu khai thác sao cho thật gọn nhẹ. Đồng thời lúc kí kết cần đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ, trong đó xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận liên quan (nhất là đối vơi người thứ 3) để khi xảy ra tổn thất công việc bồi thường được nhanh chóng. Mặt khác Bảo Việt cần quan tâm tới thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ, nhân viên. Các cán bộ, nhân viên cần nắm vững địa bàn, đi sâu đi sát khách hàng, thường xuyên tạo ra các mối quan hệ, giao lưu tốt với khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống và khách hàng có giá trị bảo hiểm lớn trong năm. Bảo Việt nên xây dựng cho mình một chính sách, kế hoạch cụ thể, rõ ràng đối với từng loại khách hàng. Như đối với khách hàng lớn, tham gia bảo hiểm liên tục trong nhiều năm, bên cạnh việc giảm tỷ lệ phí cho họ, công ty nên thăm hỏi tặng quà cho khách hàng vào những ngày lễ tết một cách thường xuyên hơn; lắng nghe ý kiến phản hồi, đóng góp của họ, để tìm ra những biện pháp phục vụ tốt hơn. Ngoài ra, bên cạnh cán bộ nhân viên thường xuyên của công ty, Bảo Việt nên lập chiến lược mở rộng mạng lưới đại lý cộng tác viên, môi giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ này. Muốn vậy công ty phải chú trọng hơn nữa khâu tuyển chọn đội ngũ đại lý, cộng tác viên, nâng cao tỷ lệ hoa hồng, cuối mỗi quý xét thưởng cho các đại lý, cộng tác viên có doanh thu cao. Thường xuyên động viên khích lệ tinh thần của họ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm cho họ thấy họ chính là một thành viên của Bảo Việt. Ngoài việc xây dựng mạng lưới đại lý, cộng tác viên hiệu quả để nâng cao doanh thu, Bảo Việt cần chú trọng hơn nữa việc tổ chức hội nghị khách hàng. Thực tế việc này đã được công ty thực hiện song hình thức còn đơn giản và không thường xuyên. Trong thời gian tới, công ty nên tổ chức hội nghị này vào cuối mỗi quý để đánh giá tổng kết tình hình bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, phổ biến các kinh nghiệm về đê phòng và hạn chế tổn thất, lấy ý kiến khách hàng Thiết nghĩ điều này sẽ có tác dụng tích cực tới tâm lý khách hàng, là động lực thúc đẩy họ mua bảo hiểm và quan hệ với khách hàng càng khăng khít hơn. Công tác khách hàng là một công tác quan trọng, nó liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ. Tuy nhiên, để thúc đẩy doanh thu thì bên cạnh công tác khách hàng Bảo Việt cần thực hiện tốt các biện pháp hỗ trợ khác, mà một trong những biện pháp đó là tuyên truyền quảng cáo. 1.3. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo Tuyên truyền quảng cáo là một trong những chiến lược của marketing, đó là một bộ phận không thể tách rời của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Thông qua tuyên truyền quảng cáo mà mọi người biết được sự tồn tại của Bảo Việt trên thị trường cũng như các sản phẩm bảo hiểm công ty đang triển khai. Hơn nữa, quảng cáo trong bảo hiểm cũng là một biện pháp phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức của khách hàng về tác dụng của việc tham gia bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu việc tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo lại càng cần thiết hơn bao giờ hết khi mà tỷ lệ tham gia bảo hiểm hàng hoá trong nước còn thấp, thị trường bảo hiểm trong nước đang có sự cạnh tranh gay gắt. Hơn nữa bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không lại là một sản phẩm tuy đã có từ trước nhưng do doanh thu chưa cao nên chưa được đánh giá đúng mức. Vì vậy công tác tuyên truyền quảng cáo càng cần được chú trọng. Tại Bảo Việt, hoạt động tuyên truyền quảng cáo cũng được công ty để ý tới, song vẫn còn nghèo nàn và đơn điệu. Ngoài những biển quảng cáo chung về công ty được dựng trên một số đường phố, một vài dòng quảng cáo trên báo chí, còn trên truyền hình chủ yếu là quảng cáo cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thì công ty chưa có hình thức quảng cáo nào thật đặc sắc, gây được sự chú ý mạnh đối với mọi người. Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài quảng cáo rất rầm rộ thường xuyên và gây ấn tượng. Trước bối cảnh đó, thiết nghĩ Bảo Việt cần có biện pháp đầu tư thích đáng cho hoạt động này phải xác định được đầu tư cho quảng cáo là tốn kém nhưng tăng được doanh thu phí cho tương lai. Bảo Việt cần chú trọng quảng cáo tên công ty, các sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng. Hình thức quảng cáo nên áp dụng một cách phong phú, ấn tượng để thu hút khách hàng như pano, áp phích, tờ rơi, truyền hình, báo chí, và phải tiến hành thường xuyên liên tục. Ngoài biểu tượng như hiện nay "Bảo Việt luôn có mặt khi bạn cần" công ty nên sáng tác ra biểu tượng mới, ngắn gọn dễ nhớ, để lại ấn tượng mạnh với khách hàng. Như vậy trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo, dù diễn ra theo hình thức nào cũng phải truyền tải được cho khách hàng về Bảo Việt, một công ty có khả năng tài chính lớn mạnh, hoạt động lâu năm, sự hoàn hảo về dịch vụ bảo hiểm, đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, từ đó tạo nên sự tin tưởng, thu hút khách hàng tham gia tại Bảo Việt. Bên cạnh dùng các phương tiện quảng cáo, cán bộ khai thác bảo hiểm trực tiếp có thể đảm nhận công tác này bằng cách xuống từng cơ sở thực hiện. Khả năng thuyết phục lôi cuốn hấp dẫn khách hàng của nhân viên khai thác bảo hiểm là một yếu tố quan trọng. Đôi khi sự hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm gây khó khăn cho cả hai bên trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt trong công tác bồi thường. Người cán bộ bảo hiểm khi tuyên truyền phải giải thích rõ ràng cho khách hàng về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà công ty mình đang cung cấp để dành được lòng tin của khách hàng, củng cố uy tín cho công ty. 1.4. Mở rộng mối quan hệ hợp tác Để có thể kí kết được hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng thì cần phải có thông tin về nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Thu nguồn thông tin này có nhiều cách khác nhau trong đó có những thông tin từ những mối quan hệ, vì vậy, Bảo Việt phải tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác của mình. Bảo Việt nói chung và phòng bảo hiểm Hàng hoá nói riêng phải tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan như Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ kế hoạch đầu tư, các ngân hàng, cơ quan Hải quan, cơ quan kiểm tra giám sát chất lượng hàng hoá và với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì quan trọng hơn cả là với các hãng hàng không, đặc biệt là hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines để tìm kiếm những thông tin kinh doanh. Có thể là kim ngạch xuất nhập khẩu, hạn ngạch xuất nhập khẩu của các đơn vị được phân cấp, hướng đầu tư, kế hoạch đầu tư hay chi tiết hơn là thông tin về các hợp đồng mua bán ngoại thương. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin có ích, các cơ quan này còn có thể giúp cho việc tuyên truyền quảng cáo, thuyết phục các doanh nghiệp, chủ đầu tư lựa chọn và tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt. Riêng với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì do đặc điểm của hàng hoá là nhỏ lẻ hơn so với vận chuyển bằng đường biển, nhưng giá trị lại tương đối lớn; nên chăng Bảo Việt tạo được những đường dây thông tin với các doanh nghiệp đã, đang và sẽ có nhu cầu bảo hiểm cho những mặt hàng của mình. Như vậy việc khách hàng tham gia Bảo Việt sẽ được định hướng ngay từ đầu, vừa giúp cho công ty tăng doanh thu, vừa giúp cho khách hàng thuận lợi trong việc lựa chọn công ty bảo hiểm uy tín cho mình trong một thị trường mà các công ty đều cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Bên cạnh đó, Bảo Việt cần phải chủ động có biện pháp tích cực để triển khai có hiệu quả hơn các hợp đồng đại lý đã kí kết với các hãng hàng không, công ty giao nhận hàng, tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với chủ hàng, hãng hàng không để thực hiện mục tiêu lợi nhuận đã đề ra. Ngoài ra Bảo Việt nên tạo quan hệ tốt với các công ty môi giới bảo hiểm trong và ngoài nước, công ty giám định điều tra tổn thất có uy tín trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm trong quá trình đánh giá rủi ro, giám định và xử lý khiếu nại. Điều này luôn cần thiết vì do đặc điểm của vận tải hàng không khác với đường biển, rủi ro tuy xảy ra không nhiều nhưng đã có tổn thất thì mức độ lại rất lớn và phức tạp đòi hỏi trình độ cao. Tình trạng số phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà các nhà bảo hiểm trong nước thu được quá thấp so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay dẫn đến tình trạng chúng ta đang bị "chảy máu" một lượng ngoại tệ không nhỏ. Điều này đòi hỏi giữa các nhà bảo hiểm, các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu và các nhà vận chuyển phải liên kết với nhau, để giành quyền lợi bảo hiểm về cho mình. Tức là Bảo Việt phải nghiên cứu để tìm ra một mô hình cụ thể thích hợp nhằm phối hợp một cách đồng bộ hoạt động ngoại thương, vận tải và bảo hiểm bằng cách liên doanh, liên kết hay lập các Hiệp hội hàng hải để thâu tóm được toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong đó có bảo hiểm. 2. Những biện pháp về công tác nghiệp vụ 2.1. Về phí bảo hiểm và phương pháp chào phí Sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không trên thị trường hiện nay là tương đối giống nhau về nội dung. Điều khác biệt giữa các công ty là áp dụng mức phí như thế nào, chất lượng dịch vụ ra sao. Thông thường ban đầu khách hàng thường hay quan tâm đến mức phí trước, dành ưu tiên cho công ty bảo hiểm nào có mức phí thấp nhất. Hiện nay phí của Bảo Việt so với các công ty khác là ngang bằng nhau, thậm chí có trường hợp còn thấp hơn. Trong tình trạng cạnh tranh như hiện nay, công ty phải thường xuyên nghiên cứu để đưa ra được mức phí hợp lý để làm sao vừa đảm bảo lợi ích khách hàng, vừa để khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm, giữ vững thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty, đảm bảo chi phí kinh doanh thấp. Muốn vậy khi xây dựng phí bảo hiểm công ty phải tính đến nhiều yếu tố tác động đến hành trình chuyên chở cũng như hàng hoá. Chẳng hạn, phí bảo hiểm có thể được xác định dựa trên cơ sở không gian và thời gian. Vì ở những thời gian khác nhau, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, phí bảo hiểm cũng khác nhau; ở những nơi khác nhau, các thị trường khác nhau thì đặc điểm khách hàng, thói quen tiêu dùng, thu nhập cũng khác nhau làm cho mức độ xảy ra sự cố cũng khác nhau. Khi áp dụng các mức phí thay đổi một cách linh hoạt, Bảo Việt sẽ có thể thích ứng với các vùng thị trường khác nhau, khai thác hiệu quả những thị trường tiềm năng. Với những khách hàng có phương thức thanh toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản trả ngay một lần, Bảo Việt cũng cần tính mức phí thấp hơn thanh toán bằng séc hoặc trả dần. Hiện tại Bảo Việt có một biểu phí quy định sẵn ở dạng mở, đòi hỏi mỗi cán bộ bảo hiểm phải thật sự nhạy bén và linh động. Thông thường mức phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không xê dịch từ 0,35% á 0,4%, nhưng trên thực tế có trường hợp Bảo Việt chấp nhận với mức phí 0,3%, ngược lại có những đơn đòi hỏi mức phí tới 0,5%. Tùy từng loại khách hàng, tuỳ từng mặt hàng, khả năng xảy ra rủi ro, mà đưa ra được mức phí cụ thể nào đó mà khách hàng chấp nhận được trong khả năng của mình. Như đối với trường hợp khách hàng gặp phải sự biến động của giá cả thị trường. Giá thị trường của lô hàng nhập về thấp hơn so với giá dự kiến, do đó, chủ hàng sẽ không thu được lợi nhuận cao. Trong khi đó họ vẫn phải bỏ ra những chi phí cố định khác như thuế nhập khẩu, cước phí vận chuyển không nhỏ của hàng không, Phí bảo hiểm trong trường hợp này phải hạ hơn nhiều so với biểu phí nhằm mục đích giảm bớt chi phí cho chủ hàng, giúp chủ hàng cải thiện được tình hình kinh doanh. Tuy nhiên, việc đưa ra mức phí hạ hơn bình thường phải dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro tổn thất đối với lô hàng cụ thể đó. Đối với khách hàng thường xuyên và lâu năm, mức phí có thể thấp hơn hoặc có một số ưu đãi vì đây chính là những người mang lại kết quả kinh doanh tốt cho công ty. Cũng có thể trong trường hợp đối với những khách hàng mới, họ có ý định tham gia bảo hiểm và đã tham khảo một số biểu phí ở các công ty khác thì việc đưa ra mức phí có tính chất cạnh tranh là điều nên làm để thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Bên cạnh đó phải tăng phí đối với những mặt hàng thường xuyên có tổn thất hay những mặt hàng mà Nhà nước không khuyến khích nhập khẩu, đối với hàng không chủ yếu là những mặt hàng xa xỉ phẩm, Việc giảm phí so với đối thủ cạnh tranh trong một số trường hợp là một biện pháp chứa đựng nhiều rủi ro song lại là một trong những biện pháp tốt nhất để thu hút khách hàng, trên cơ sở "số đông bù số ít" mà vẫn đảm bảo kinh doanh có hiệu qủa. Điều này phải tính đến yếu tố đầu tư vốn. Ngày nay, với những thuận lợi trong việc đầu tư vốn, khả năng sinh lời cao, các doanh nghiệp bảo hiểm hầu như ít nhắm đến lãi từ hoạt động bảo hiểm gốc mà chú trọng lãi từ hoạt động đầu tư. Nếu có số phí thu ổn định, có thị trường đầu tư tốt thì dù phí có giảm chút ít so với đối thủ cạnh tranh nhưng sẽ tranh thủ được khách hàng và có lãi đem đầu tư. Đó là hướng đi đúng đắn để Bảo Việt trở thành một tập đoàn bảo hiểm hàng đầu ở Việt Nam. Mặt khác, do ở Việt Nam thuế VAT mới được áp dụng rộng rãi trong vài năm gần đây nên cán bộ bảo hiểm của Bảo Việt cũng phải có trách nhiệm giải thích cho những khách hàng không hiểu rõ về phần thuế VAT thu trên đơn bảo hiểm là thu hộ Nhà nước chứ không có đồng thời trong phần phí đó. Việc chào phí phải rõ ràng, khi đưa ra mức phí phải nói rõ là phí đã gồm VAT hay chưa. Tâm lý khách hàng bao giờ cũng muốn phí thấp, do đó, nên đưa cho khách hàng tỷ lệ phí chưa có thuế để tạo được sự hấp dẫn ngay từ ban đầu cho khách hàng. Quá trình chào phí đòi hỏi cán bộ khai thác của Bảo Việt phải thật khéo léo, làm sao cho khách hàng thấy mức phí mà công ty đưa ra là hợp lý nhất, phù hợp với giá cả thị trường để từ đó khách hàng lựa chọn Bảo Việt là nơi bảo hiểm cho lô hàng của mình. Để nâng cao kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì Bảo Việt cần phải tìm ra giải pháp hạn chế tình trạng nộp phí chậm, nợ đọng phí dây dưa như hiện nay. Đây là một vấn đề hết sức tế nhị, ảnh hưởng đến quan hệ của công ty với khách hàng, Bảo Việt cần hết sức khéo léo. Vì vậy, công ty nên quy định thời gian tối đa cho khách hàng nợ phí, nếu nợ quá thời hạn thì áp dụng biện pháp tính lãi suất với phần phí đó. Nếu nộp sớm thì được hưởng chiết khấu một phần nào đó. Làm như vậy khách hàng sẽ không cố tình kéo dài thời gian nợ phí nữa, công ty sẽ thu được phí đúng kế hoạch. 2.2. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường Việc tiến hành giám định và xét giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác và hợp lý là phương thức tốt nhất để tạo uy tín của Bảo Việt trên thị trường. Nhờ đó sẽ thu hút được khách hàng cũ tiếp tục hợp đồng mới với công ty, khách hàng mới mạnh dạn chọn Bảo Việt là nơi tham gia bảo hiểm. Vì vậy, để thúc đẩy nghiệp vụ này phải nâng cao hiệu quả của công tác giám định và bồi thường. Đầu tiên về mặt thủ tục, để phục vụ cho khách hàng tốt hơn thì công ty cần phải tập trung cải tiến quy trình trong khâu giám định và bồi thường để bớt những thủ tục hành chính gây phiền hà cho khách hàng. Công ty cần phải quy định thời gian đưa ra biên bản giám định, thời gian giải quyết khiếu nại bồi thường đối với những tổn thất thuộc trách nhiệm của phòng nghiệp vụ hay phòng trên phân cấp. Mặt khác, để nâng cao chất lượng công tác giám định - bồi thường đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí về mọi mặt, công ty cần phải không ngừng đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ giám định, giảm việc phải thuê giám định viên từ các công ty giám định nước ngoài. Tổn thất đối với hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng không thường không lớn bằng các phương tiện khác, nhưng khi có tổn thất đối với phương tiện vận chuyển thì việc xác định trách nhiệm là vô cùng khó khăn và phức tạp, do vậy đòi hỏi cán bộ giám định phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ, xác minh rõ các loại tổn thất và nguyên nhân gây ra. 2.3. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Hoạt động này thực hiện tốt, một mặt hạn chế được tổn thất xảy ra, giảm chi bồi thường; một mặt tạo niềm tin cho khách hàng vào dịch vụ của công ty. Trong thời gian qua, hoạt động này cũng đã được Bảo Việt để tâm tới nhưng chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất còn thấp, chỉ chiếm 0,01% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nên chưa thực sự phát huy được hết tác dụng của nó. Trong thời gian tới Bảo Việt nên tăng chi cho hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất hơn nữa để có kinh phí mở rộng và chuyên sâu hơn hoạt động này. Bên cạnh đó, muốn nâng cao công tác này thì công ty phải phân công một phòng chuyên có trách nhiệm theo dõi, thống kê tổn thất để có nhận xét về những rủi ro dễ xảy ra, loại hàng hoá nào thường gặp rủi ro, nguyên nhân gây ra rủi ro để trên cơ sở đó đề ra biện pháp phòng ngừa cho cả mình và cho khách hàng. Với công ty, sẽ kiểm tra kỹ lưỡng hàng hoá, mức độ rủi ro xảy ra, để xem có nên nhận bảo hiểm hay không. Với khách hàng, công ty sẽ tư vấn, tham mưu về các mặt để tổn thất xảy ra thấp nhất. Ngoài ra Bảo Việt nên mở các lớp bồi dưỡng cũng như các cuộc hội thảo về công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cho khách hàng, cho các hãng vận tải có quan hệ truyền thống với công ty. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất là một công tác thể hiện chất lượng của dịch vụ bán hàng, Bảo Việt làm tốt công tác này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động của mình cũng như không ngừng nâng cao uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm. 3. Những biện pháp về công tác cán bộ Bảo hiểm là một nghiệp vụ rất nhạy cảm với sự biến động của các điều kiện kinh tế xã hội, liên quan đến nhiều lĩnh vực trên một phạm vi rộng lớn bao gồm nhiều thông lệ, quy định của Nhà nước khác nhau. Vì vậy đòi hỏi các cán bộ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Đặc biệt phải có sự hiểu biết sâu sắc về hoạt động ngoại thương, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và có óc tìm tòi, phân tích dự đoán xu hướng biến động của nền kinh tế - xã hội khu vực và trên thế giới. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, các kế hoạch phù hợp trong quá trình triển khi nghiệp vụ. Chính vì vậy, vai trò của yếu tố con người là rất quan trọng đòi hỏi trong thời gian tới Bảo Việt cần phải chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và các chương trình đào tạo cần thiết để nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên. Mặc dù Bảo Việt đã xây dựng một trung tâm đào tạo nhưng bên cạnh đó cần phải tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ định kỳ cho cán bộ công nhân viên nhằm không ngừng đổi mới và phát triển phương thức kinh doanh của từng cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng. Hơn nữa, khi có điều kiện, công ty nên gửi cán bộ đi dự các lớp đào tạo, hội thảo chuyên ngành ở nước ngoài để nắm bắt được những thông tin liên quan đến thị trường bảo hiểm thế giới. Về cán bộ khai thác bảo hiểm : cần phải nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của đội ngũ này. Cán bộ khai thác bảo hiểm cần am hiểu về thương phẩm cũng như về các điều khoản. Người làm công tác khai thác tư vấn cho khách hàng về các điều kiện bảo hiểm để khách hàng không phải trả những khoản phí bảo hiểm không cần thiết, và cũng được bồi thường với những rủi ro tương ứng trong trường hợp hàng hoá của họ bị tổn thất. Cán bộ khai thác bảo hiểm cũng cần có kiến thức về hàng hải để có thể tư vấn cho khách hàng loại tàu hay phương thức chuyên chở đối với từng loại hàng hoá để mức độ rủi ro là ít nhất. Các cán bộ khai thác bảo hiểm của Bảo Việt qua việc tư vấn của mình sẽ tạo được sự tin tưởng từ phía khách hàng, làm cho họ yên tâm hơn khi tham gia bảo hiểm hàng hoá tại Bảo Việt, lôi kéo một lượng khách hàng lớn hơn tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt. Đối với cán bộ làm công tác giám định thì phải đào tạo cho họ không chỉ kiến thức về vận tải mà còn cả về thương phẩm để có những đánh giá đúng khi xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chất lượng công tác bồi thường ra sao phụ thuộc hoàn toàn vào biên bản giám định. Việc đòi người thứ ba cũng không thể có kết quả nếu biên bản giám định không xác định rõ nguyên nhân gây tổn thất. Đối với những cán bộ làm công tác bồi thường phải là những cán bộ giỏi chuyên môn, hiểu kỹ về các điều khoản bảo hiểm để có thể biết rủi ro có thuộc trách nhiệm bồi thường bảo hiểm hay không. Đây là yếu tố then chốt để bồi thường đúng. Có thể thiệt hại tổn thất là có thật nhưng nếu khách hàng không mua bảo hiểm rủi ro đó thì sẽ không được bồi thường. Ngược lại, phải bồi thường đầy đủ cho khách hàng nếu không sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Đối với đội ngũ cộng tác viên, đại lý Bảo Việt cũng cần phải có những chính sách đãi ngộ hợp lý, coi họ như những nhân viên làm công tác hỗ trợ hoạt động kinh doanh trong quá trình thực hiện. Mức hoa hồng thoả đáng, gia tăng theo hiệu quả công việc thực hiện là động lực thúc đẩy các cộng tác viên, đại lý tham gia tích cực vào công tác bảo hiểm của Bảo Việt. Tóm lại, đây là một công tác cần được chú trọng trong mọi thời kỳ, bên cạnh việc đào tạo cán bộ giỏi, phân công hợp lý, công ty cũng cần quan tâm tới chế độ đãi ngộ cho các cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung để tạo động lực cho họ hoàn thành tốt công việc, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Bên cạnh những giải pháp trên, em xin đưa ra một vài kiến nghị chung sau đây với mong muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động của thị trường bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không ở Việt Nam trong thời gian tới. III. Một số kiến nghị chung Những năm gần đây nền kinh tế nước ta nói chung và ngành hàng không dân dụng nói riêng đã có những bước phát triển cao và ổn định. Điều này làm cho vận tải hàng không trở nên quan trọng và thiết yếu hơn bao giờ hết, không chỉ đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách nữa mà còn đang từng bước cố gắng để đáp ứng nhu cầu về vận tải hàng hoá đang ngày một gia tăng. Định hướng này cũng phù hợp với nội dung phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, mà trong đó ngành hàng không cũng một chiếm vị trí quan trọng " điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với đối tác. Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp " (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII); trong đó quán triệt các quan điểm "phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không " cũng là một phần trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Hơn nữa, khi Việt Nam gia nhập vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2006 và một số tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới thì tình hình cạnh tranh sẽ gay gắt hơn làm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam ngày một sôi động. Nhất là hiện nay - khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được hai Quốc hội thông qua (T.10/2001), với những điều khoản về lộ trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam : "không hạn chế các công ty bảo hiểm Mỹ cung cấp các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài lao động tại Việt Nam, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vận chuyển quốc tế, dịch vụ đánh giá rủi ro và xét giải quyết bồi thường". Đây chính là những yếu tố quan trọng để phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không ở nước ta, để theo kịp với khu vực và thế giới - những nơi có ngành vận tải hàng không cũng như bảo hiểm phát triển. Bên cạnh đó, hiện nay tỷ lệ tham gia bảo hiểm hàng hoá trong nước còn rất thấp, hàng nhập khẩu chiếm khoảng hơn 20%, hàng xuất khẩu chiếm gần 5%. Hàng năm phí bảo hiểm hàng hoá phải chuyển ra nước ngoài cho các nhà bảo hiểm khoảng 70 triệu USD, đây là một điều rất lãng phí, làm thất thu ngân sách cho Nhà nước. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới đòi hỏi phải có sự đổi mới, nỗ lực không ngừng không chỉ bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm mà của cả các cơ quan chức năng có liên quan, sự quan tâm chỉ đạo từ phía Nhà nước. 1. Đối với Bảo Việt nói riêng và các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nói chung Trong những năm qua ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật chuyên môn, giúp khách hàng lựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt hiệu quả. Tuy vậy, trong thời gian tới ngành bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế (Hiện nay mới chỉ có Bảo Việt và Bảo Minh đạt tiêu chuẩn ISO 9000). Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, am hiểu luật pháp quốc gia và quốc tế, có nghệ thuật giao tiếp ứng xử trước khách hàng; phải đa dạng hoá sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước; phải có chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm để các công ty bảo hiểm Việt Nam có khả năng kí các hợp đồng bảo hiểm cho những tài sản có giá trị lớn. Đối với các công ty bảo hiểm nhỏ, cần mạnh dạn sáp nhập lại thành các công ty lớn. Nhà nước cần tăng cường cung cấp vốn cho Bảo Việt để nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo uy tín với các công ty xuất nhập khẩu nước ngoài khi họ kí hợp đồng bảo hiểm với ta. 2. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng thông qua những chính sách về bảo hiểm cũng như về ngành hàng không. Chính phủ cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu kí kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB như : giảm thuế xuất nhập khẩu cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch xuất nhập khẩu cao hơn so với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam Điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty xuất nhập khẩu sẽ chủ động hơn trong đàm phán, kí kết, thực hiện phương thức xuất nhập khẩu theo điều kiện có lợi nhất tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. Mặc dù Luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời (có hiệu lực từ 1/4/2001) tại điều 6 quy định "Mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam". Nhưng hiện nay tính hiệu lực của quy định này vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng, Nhà nước sớm có Nghị định hướng dẫn thi hành một cách chi tiết hơn nữa, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và trong thời gian chuẩn bị gia nhập vào AFTA năm 2006, để giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm đứng vững trong cạnh tranh thì Nhà nước ta nên mở cửa thị trường bảo hiểm một cách từ từ. Tiếp tục chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, duy trì vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm, thông qua các chính sách về tài chính, đào tạo và phát triển công nghệ bảo hiểm. Để tránh tình trạng đua nhau hạ phí nhằm giành giật khách hàng như hiện nay, thì các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà trực tiếp là Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính phải xây dựng hành lang biểu phí cụ thể, thống nhất hoặc quy định mức phí trần và sàn hợp lý. Các công ty bảo hiểm nếu muốn thay đổi biểu phí của mình thì cần phải trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuẩn y trước khi thực hiện. Cần xem xét lại mức thuế suất VAT đối với doanh nghiệp bảo hiểm (vì mức 10% là quá cao so với thuế suất thuế doanh thu trước kia có 4%). Đồng thời cũng nên nghiên cứu lại việc đánh thuế VAT cho phần doanh thu nhượng tái (hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng đây là việc đánh thuế chồng lên thuế). Tháng 12/2000 các doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có Bảo Việt đã thông qua Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam thống nhất thoả thuận "Quy chế hợp tác trong lĩnh vực khai thác bảo hiểm phi nhân thọ và một số lĩnh vực khác giữa các doanh nghiệp hội viên Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam". Quy chế này đã được áp dụng vào thực tiễn nhưng hiệu quả chưa cao, đặc biệt là đối với các nghiệp vụ bảo hiểm mang tính đối ngoại như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, với chức năng của mình nên đưa ra một bản thoả thuận và hợp tác cụ thể hơn nữa trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu để tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm trong nước, đoàn kết với nhau để cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. 3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Cần nhanh chóng thay đổi tập quán thương mại, thay đổi phương thức xuất nhập khẩu để tham gia bảo hiểm ở thị trường trong nước. Điều này, xét về toàn cục có lợi cho nền kinh tế quốc dân do đã tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm và vận tải hàng không phát triển. Và chính sự phát triển của hai ngành này có tác động ngược trở lại góp phần mở rộng không ngừng hoạt động kinh tế đối ngoại. Sự phối hợp hỗ trợ nhau cùng phát triển của ba lĩnh vực xuất nhập khẩu, bảo hiểm và vận tải có một ý nghĩa quan trọng. Sẽ là rất khó cho hoạt động xuất nhập khẩu nếu ngành bảo hiểm và vận tải kém phát triển (điều này được minh chứng bằng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không còn thấp khi vận tải hàng không chưa phát triển), ngành bảo hiểm và vận tải cũng không thể phát triển mạnh được trong điều kiện kim ngạch xuất nhập khẩu thấp. Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những thời cơ mới và thách thức mới. Trong bối cảnh đó, ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng không nói riêng cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, tăng cường tiềm lực tài chính để hội nhập thành công và cạnh tranh có hiệu quả với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước. Trên đây là một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng tại Bảo Việt. Các khâu trong nghiệp vụ này luôn tác động xen kẽ với nhau. Vì vậy, chỉ cần thực hiện tố một khâu nào đó trong nghiệp vụ này thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu khác. Hy vọng trong thời gian tới Bảo Việt sẽ có những đổi mới, hoàn thiện hơn trong tất cả các khâu, từ đó đứng vững trong cạnh tranh, tăng thị phần bảo hiểm, nâng cao doanh thu phí và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá ngày càng phát triển hơn. kết luận --&œ-- Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không ở Việt Nam là một thị trường rất mới mẻ và đang trở lên sôi động trong thời gian gần đây. Tại Bảo Việt, một công ty bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam thì nghiệp vụ này đã và đang được triển khai và doanh thu bước đầu đã có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên, những kết quả đạt được của nghiệp vụ vẫn chưa tương xứng với khả năng của Bảo Việt trước một thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn còn ở dạng tiềm năng, chưa khai thác. Trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế ở khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của lĩnh vực ngoại thương thì tiềm năng của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không còn lớn hơn rất nhiều. Đồng thời lúc đó các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn để thâm nhập sâu vào thị trường bảo hiểm trong nước, vì thế sẽ làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Do vậy, ngay từ bây giờ Bảo Việt cần phải tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh doanh từ khâu khai thác, giám định đến khâu giải quyết khiếu nại, bồi thường tổn thất. Khoá luận "Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt" được tổng hợp dựa trên những lý thuyết đã học trong trường đại học, các tài liệu về tình hình kinh doanh ở Bảo Việt. Bên cạnh đó, em cũng xin mạnh dạn nêu một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo Việt trong nghiệp vụ này cùng những kiến nghị với Nhà nước. Hy vọng rằng, bước vào thế kỷ mới, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói riêng và toàn ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung sẽ bắt kịp và hoà nhập vào thị trường bảo hiểm sôi động của thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3852.doc
Tài liệu liên quan