NHDV là một trong những đối tượng được điều chỉnh theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1883), Thoả ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu quốc tế (1892) cùng nhiều Điều ước quốc tế khác có liên quan.
Theo Lanham Act, NHDV (service mark) được định nghĩa là từ ngữ, tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt dịch vụ của một người cung cấp với dịch vụ của những người cung cấp khác.
Bộ Luật Dân sự Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về NHDV nhưng ngay trong định nghĩa của NHHH “là những đấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. NHHH có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc”; có thể nhận thấy rằng ngoại trừ việc là nhãn hiệu của sản phẩm dịch vụ thì nội dung và chức năng của một NHDV hoàn toàn giống với một NHHH.
127 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1129 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo vệ thương hiệu tại Mỹ - Vấn đề mà các nhà xuất khẩu Việt Nam cần quan tâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã không phát huy hiệu quả.
Ngành nông sản Việt Nam cũng đang lao đao trên con đường bảo vệ uy tín và tên sản phẩm của mình. Thái Lan đang ráo riết mở chiến dịch trên nhiều mặt để chứng minh cho thế giới thấy rằng xoài Hoài Lộc là một đặc sản của Thái. Đài Loan cũng làm tương tự như vậy đối với Thanh Long, Trung Quốc thì mua trái cây Việt Nam để dán mác “Made in China” xuất sang các nước thứ ba.
Nhiều người rất buồn khi thấy gạo “nàng thơm chợ đào”, gạo “nàng Hương”, nước mắm Phú Quốc, nhãn Hưng Yên được bày bán công khai tại các siêu thị, cửa hàng nước ngoài với nhãn hiệu “Made in Thailand”, “Made in Hongkong”, “Made in Taiwan”.
ở ngành sản xuất thuốc lá, Vinataba cũng đang gánh chịu cảnh “dở khóc dở cười”. Vianataba bị phía công ty nước ngoài đăng ký thương hiệu tại 12 nước trong khu vực gồm 9 nước Asean, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Thuốc lá Vinataba sản xuất ở nước ngoài đang được đưa lậu trở lại Việt Nam. Hiện công ty đã thông qua nhiều cơ quan, công ty hoạt động trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu của mình tại 20 nước trong khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ.
Chuyện mất tên còn diễn ra với nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam: Trà Rồng Vàng của Tổng công ty chè Việt Nam; Các doanh nghiệp sản xuất mỳ ăn liền, mặt hàng bán rất chạy tại các nước SNG đã để mất quyền sở hữu những nhãn hiệu của chính mình về tay doanh nhân Nga gốc Belarus; Vinatea không những mất thương hiệu mà còn mất cả thị trường Nga
Những ví dụ được đưa ra trên đây chỉ là phần nổi của tảng băng bởi còn rất nhiều doanh nghiệp hiện còn chưa biết nhãn hiệu của mình có bị mất hay không, hay mất trên thị trường nào. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh. Sở hữu công nghiệp có thể làm doanh nghiệp tiêu vong dễ dàng nhất, điều mà lâu nay cả doanh nghiệp và Nhà nước đều ít chú ý đến.
2. Nhận xét về cuộc chiến thương hiệu vừa qua
2.1. Mục đích của đối thủ
Một nhãn hiệu khi đã có uy tín, hẳn nhiên sẽ bị các đối thủ quan tâm một cách đầy đủ. Sự quan tâm của đối thủ xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau.
Lợi dụng sự sơ hở của chủ thương hiệu có uy tín, các đối thủ nhanh chóng đăng ký bảo hộ thương hiệu đó trước pháp luật và sau đó mặc nhiên được tung ra thị trường các sản phẩm gắn mác thương hiệu. Vậy là, tất cả thời gian, sức lực, tiền bạc để xây dựng và quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp trở thành vô nghĩa. Hơn 10 doanh nghiệp Việt Nam sản xuất mỳ ăn liền mặc dù đã đầu tư tiền của lập nhà máy, mở dây chuyền sản xuất và làm ăn khá phát đạt tại Nga và Belarus đã đành phải chịu thiệt thòi khi một doanh nhân người Nga dùng quyền hợp pháp để ngăn chặn mọi hoạt động sản xuất mỳ ăn liền của các doanh nghiệp Việt Nam tại hai nước này. Công ty Sumamatra– công ty đã đăng ký thương hiệu Vinataba có thể cũng sẽ lợi dụng bằng bảo hộ để sản xuất nhằm chiếm lĩnh thị trường như đã từng làm với thương hiệu thuốc lá Zet. Chiến dịch của các đối thủ Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc cũng xuất phát từ cùng mục đích đó– họ muốn chiếm lĩnh thị trường hàng nông sản dưới các thương hiệu uy tín của Việt Nam.
Nhưng không phải lúc nào các đối thủ cũng “trộm” thương hiệu để bán hàng. Nếu muốn đăng ký một tên miền ở Mỹ chỉ mất vài chục USD song nếu bán lại phải mua với giá hàng ngàn USD, còn nếu đăng ký sở hữu một thương hiệu tại Mỹ chỉ mất khoảng 1200 – 1500 USD nhưng nếu mua lại phải tốn khoảng 50.000 đén hàng trăm ngàn USD. Những kẻ lấy cắp nhãn hiệu đã lợi dụng sự chênh lệch đó nhằm vào mục đích trục lợi cá nhân. Nói về thị trường Mỹ, ông Đinh Mạnh Quỳnh, Giám đốc công ty AQ Silk, một công ty có văn phòng ở Mỹ nói: “Bên đó có những người chuyên mua bán thương hiệu. Họ trở nên giàu có nhờ đăng ký những thương hiệu nổi tiếng của các nước để rồi bán lại cho khổ chủ”.
Không chỉ vậy, thông qua thương hiệu những nhà kinh doanh có kinh nghiệm thường vận dụng pháp luật để chèn ép doanh nghiệp ít kinh nghiệm như Việt Nam. Điển hình là cuộc chiến “Catfish “ với các dự luật liên quan đến cái tên “Catfish” ra đời nhằm ngăn cản nhập khẩu cá da trơn Việt Nam. ở thị trường Singapore và Malaysia, công ty thực phẩm xuất khẩu Cầu Tre đã bị hai công ty Singapore đăng ký thương hiệu của mình cho các mặt hàng trà và nông sản Ông Phạm Cường- Phó phòng kinh doanh nói: “Họ lấy logo và tên công ty đăng ký sở hữu nhằm ngăn chặn sản phẩm của công ty qua các thị trường này. Một số đại lý của công ty đã bị họ dùng luật sư gây áp lực không cho sản phẩm của công ty lưu thông”.
Tuy nhiên cũng có trường hợp phía bên kia đăng ký bảo hộ thương hiệu của doanh nghiệp không có ý đồ xấu. Đối tác của Trung Nguyên đăng ký chỉ nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc kinh doanh. Ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Giám đốc của hãng nói: “Cũng có thể thông cảm cho họ vì họ không tin tưởng ở khả năng giữ chữ tín của các doanh nghiệp người Việt của mình. Họ sợ sau khi họ khai phá được thị trường, phía ta sẽ hất họ ra để độc quyền khai thác”.
Những sự quan tâm không chính đáng trên đây thực sự là một nguy cơ đối với thương hiệu- một tài sản vô hình có giá trị của doanh nghiệp. Chỉ khi nhận thức được nguy cơ đó một cách đầy đủ thì doanh nghiệp mới thấy được sự cần thiết phải bảo vệ thương hiệu của mình.
2.2. Năm nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bị mất thương hiệu tại Mỹ cũng như tại thị trường nước ngoài
a. Nguyên nhân thứ nhất là do thương nhân Việt Nam chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của thương hiệu hàng hoá, từ đó xem nhẹ việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thương hiệu của mình.
Trước hết phải kể đến nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu hàng hoá.
Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn, 60% người tiêu dùng trên thế giới quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư cho thương hiệu khoảng 1% doanh số. Trong khi các công ty nước ngoài, con số này là 5-7% Theo:“Người Lao động”: ngày 30/04/2002 _ Bài: “Coi thường thương hiệu, hậu mãi làm sao hội nhập”.
.
Nông sản được coi là thế mạnh của Việt Nam chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng cho đến nay mặt hàng này chủ yếu xuất dưới dạng thô, giá trị xuất khẩu thấp. Giá cà phê Việt Nam suy giảm không chỉ bắt nguồn từ nguồn nguyên liệu dư thừa mà chủ yếu là do chưa có thương hiệu. “Chất lượng cà phê Việt Nam không thua kém gì cà phê Brazil nhưng vì không có thương hiệu nên không thể cạnh tranh được”- Ông Rolf Saurebire,
Giám đốc tiếp thị của công ty Craft Foods, một hãng cà phê nổi tiếng của Đức nhận định như vậy. Chính vì vậy, công ty này không mua cà phê việt Nam với giá cao hơn được. Gạo Việt Nam hàng năm xuất khẩu 4 triệu tấn đứng thứ hai trên thế giới nhưng lại được bán trên thế giới với thương hiệu gạo Thái Lan hoặc chỉ có một tên gọi chung chung là gạo hạt dài Việt Nam. Các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam đã nhiều lần khẳng định rằng Việt Nam có nhiều đặc sản ngon nổi tiếng mà các nước không có, hoặc trồng được nhưng số lượng ít không ngon, thế nhưng vẫn chưa có một loại trái cây nào mang nhãn hiệu đặc sản của Việt Nam. Trong khi đó, những nước xuất khẩu nông sản cạnh tranh với Việt Nam như Thái Lan lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Gạo của Thái Lan được đóng vào những bao nhỏ loại 5-10 kg, có nhãn mác ghi đầy đủ nguồn gốc xuất xứ, tên gọi bằng tiếng Anh, tiếng Thái và thậm chí cả tiếng Việt. Gạo của Thái Lan đã thâm nhập vào các kênh phân phối ở hệ thống siêu thị, các cửa hàng của Việt Kiều, Hoa Kiều tại nhiều nước trên thế giới.
Gần đây hiện tượng của một số công ty hạt điều chế biến xuất khẩu trực tiếp (FOB) ngả theo hướng nhận làm gia công cho các hãng nước ngoài là một hiện tượng rất bất lợi cho ngành chế biến - xuất khẩu hạt điều của Việt Nam trong đó đặc biệt nguy hại là việc công ty nước ngoài đòi ghi sản phẩm dưới thương hiệu của họ. Như vậy, thì một ngày nào đó, tự Việt Nam sẽ đánh mất thương hiệu hạt điều của mình – niềm tự hào trong năm năm trở lại đây khi Việt Nam được công nhận là quốc gia sản xuất hạt điều đứng thứ 3 và xuất khẩu hạt điều lớn thứ 2 thế giới.
Trong nước hàng dệt may Việt Nam có nhiều thương hiệu được ưa chuộng như May 10, Thành Công, Việt Tiếnnhưng hàng của chính những công ty này muốn ra nước ngoài vẫn phải “đội” những thương hiệu của nước khác vì theo lý giải của ông Mai Hoàng Ân, Tổng giám đốc Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex): “ một số hãng lớn họ có một hệ thống bán hàng rất mạnh, tên tuổi của họ được người tiêu dùng biết đến : Chúng ta chỉ ghi nguồn gốc xuất xứ sản phẩm của mình ở phần dưới thương hiệu của họ”.
Doanh nghiệp Việt Nam đang tiến theo đúng quy luật của các nước trên thế giới, đạt dần đến một độ ổn định về chất lượng. Vấn đề cạnh tranh về chất lượng vì thế không còn là ưu tiên số một, mà là cạnh tranh về thương hiệu, về giá, về dịch vụ hậu mãi và phân phối sản phẩm. Song các doanh nghiệp Việt Nam dường như còn xa lạ với việc xây dựng, khuyếch trương một thương hiệu của riêng mình từ đó dẫn đến không có ý thức bảo vệ mặc dù đó là thành quả mà doanh nghiệp không dễ dàng tạo dựng được. Hậu quả là hàng loạt các tên tuổi hàng hoá có tiếng của nước đã bị “nẫng tay trên”.
Chiến lược bảo hộ thương hiệu chưa được chú ý đúng mức
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam thường chờ cho đến khi có thị trường xuất khẩu rồi mới đăng ký thương hiệu. Đối với công ty nước ngoài thì quy trình này diễn ra theo chiều ngược lại; ít nhất là 6 tháng đến một năm trước khi đưa hàng hoá vào thị trường Việt Nam hay bất kỳ một thị trường nào, họ đã tiến hành đăng ký nhãn hiệu. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn từ 1982-2001, Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam đã nhận được 56.366 đơn đăng ký NHHH trong đó có tới 30.972 đơn là của người nước ngoài. Nhiều hãng nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam hàng trăm đơn như hãng Unilever (Hà Lan) có tới 696 nhãn hiệu đã đăng ký bảo hộ Theo:“Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam”.
. Nếu vào trang chủ của USPTO ( chúng ta sẽ thấy có 168 hồ sơ NHHH mà người đăng ký có địa chỉ tại Việt Nam, so với trên 3 triệu nhãn hiệu mà USPTO đang quản lý, con số này thật nhỏ bé. Trong khi đó, Trung Quốc, Thái Lan và các nước Đông Nam á khác cùng sản xuất và xuất khẩu sang Mỹ các mặt hàng tương tự Việt Nam đã đăng ký khá nhiều các đối tượng sở hữu công nghiệp tại Mỹ. Các công ty Mỹ cũng đã cất công sang Việt Nam đăng ký thương hiệu của họ từ lâu. Năm 1992, có 1.132 hồ sơ, còn năm 1993 có đến 1.939 hồ sơ nộp tại Việt Nam Theo:“Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam”.
.
b. Nguyên nhân thứ hai là do các doanh nghiệp chưa xác định được chiến lược phát triển kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế, và tập trung phát triển kinh doanh dài hạn tại các thị trường trọng điểm, do đó có sự chậm trễ trong việc đăng ký thương hiệu tại thị trường nước ngoài.
Đại diện một số công ty Sở hữu trí tuệ phản ánh rằng, rất nhiều công ty Việt Nam không có tư tưởng làm ăn lớn, làm ngày nào biết ngày đó, nên không quan tâm đến gây dựng tên tuổi của mình. Đại diện một công ty cho biết: “ Chúng tôi không làm cách nào thuyết phục được doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu và họ luôn nói rằng: “chúng tôi đang xuất hàng mà không cần đăng ký””.
c. Nguyên nhân thứ ba là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa đăng ký thương hiệu vì e ngại thủ tục khó khăn và tốn kém.
Nhiều doanh nghiệp phàn nàn rằng, họ đang “đau đầu” khi phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đăng ký thương hiệu ở một số thị trường mục tiêu vì tại thời điểm này, đăng ký chỉ để giữ chỗ, nhưng nếu không đăng ký thì sẽ có nguy cơ mất thương hiệu. Với một số doanh nghiệp Nhà nước, các giám đốc còn ngần ngại hơn, vì đầu tư cho thương hiệu là một khoản đầu tư khá lớn nhưng sau thời gian dài mới nhìn thấy lợi ích cụ thể. Nhưng thực ra không thể nói là quá đắt mà không làm. Việc đăng ký ngay thương hiệu giống như làm giấy khai sinh cho một đứa trẻ mới ra đời. Không thể nói là chờ nó lớn đến 18 tuổi mới khai sinh.
d. Một nguyên nhân khác là sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về luật pháp quốc tế trong lĩnh vực này còn hạn chế.
Có thể nhận thấy rằng, chỉ sau khi hàng chục thương hiệu hàng hoá bị mất tại thị trường lớn, các doanh nghiệp Việt Nam mới quan tâm tìm hiểu đến luật pháp quốc tế có liên quan. Dường như chỉ lúc này các công ty tư vấn luật sở hữu trí tuệ mới thực sự cảm nhận được vai trò của mình. Công ty Phạm & Liên doanh, một công ty tư vấn luật có nhiều kinh nghiệm từng giúp Vifon đòi lại sở hữu bản quyền thương hiệu đang tư vấn cho hàng loạt các công ty vào thị trường Mỹ. Công ty đang tiếp nhận hàng loạt các đơn của các công ty có tầm cỡ như Mỹ phẩm Sài Gòn, Sa Giang, Việt Tiến để có thể giúp các công ty này đăng ký sở hữu bản quyền tại Mỹ.
e. Cũng phải kể đến trách nhiệm của các cơ quan chức năng Nhà nước trong việc chậm tuyên truyền và hướng dẫn cho các doanh nghiệp trong vấn đề đăng ký bảo hộ thương hiệu quốc tế.
Rõ ràng con đường vào Mỹ của hàng Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam trên bình diện sở hữu công nghiệp thật cam go. Các cơ quan chức năng Nhà nước cũng như các doanh nghiệp hẳn đã tiếp thu được những bài học cần thiết để đi tới loại bỏ những rào cản trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Các giải pháp để Bảo vệ thuơng hiệu Việt Nam trên thi trường Mỹ
3.1. Các giải pháp vĩ mô
3.1.1. Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về NHHH của Hoa Kỳ
Như đã phân tích ở trên, Hệ thống luật sở hữu trí tuệ trong đó có NHHH của Mỹ rất phức tạp. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu và rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khoá đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật NHHH của Mỹ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Mỹ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các Cơ quan, Bộ, Ngành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm hay băng đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hìnhnhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy.
3.1.2.. Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không hề biết nhãn hiệu của mình đã bị đăng ký bảo hộ ở nước ngoài cho đến khi chính họ bị phía nước ngoài đệ đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại do “sử dụng nhãn hiệu trái phép” hoặc không được xuất khẩu vào thị trường đó vì nhãn hiệu đã bị đăng ký. Nếu như thông tin được cập nhật, chắc hẳn chiến lược giành lại thương hiệu của doanh nghiệp sẽ được tiến hành kịp thời do đó sẽ dễ dàng hơn, tránh cho doanh nghiệp mất những cơ hội kinh doanh quý giá.
Với vai trò hoạt động vĩ mô, ở tầm quốc gia, việc tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp có được nhiều thông tin, thông tin chính xác, nóng hổi có lẽ sẽ là một sự hỗ trợ hữu hiệu và mang tính khả thi. Cần mở những trang web cập nhật các thông tin xung quanh cuộc chiến thương hiệu với những chuyên mục: Tin tức, Chuyên đề, Diễn đàn, Hỗ trợ, Liên kết Hiện nay, những thông tin đó thường được nằm rải rác trong các trang báo điện tử dẫn đến các thông tin được truy cập không hệ thống, không được sắp xếp và phân tích trong từng tiêu đề riêng biệt, hiệu quả mang lại không cao. Việc nắm bắt những thông tin rời rạc đó sẽ khó tạo thành một “cú huých” tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các doanh nghiệp Việt Nam đối với việc bảo hộ thương hiệu của mình.
Chính phủ cũng cần phải có các Văn phòng xúc tiến thương mại tại các nước và các khu vực thị trường xuất khẩu tiềm năng nhất của doanh nghiệp. Đây sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp với mọi thông tin cập nhật nhất trong đó có thông tin về sở hữu trí tuệ. Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp, việc tổ chức các Hội chợ thông tin sẽ là một giải pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với nguồn thông tin trên các khu vực thị trường nước ngoài một cách toàn diện nhất. Hội chợ sẽ quy tụ những chuyên gia kinh tế có kinh nghiệm làm việc lâu năm ở nước ngoài, tham gia đóng góp về hiện trạng chung của thị trường nước ngoài.
Song song với việc tổ chức các Hội chợ thông tin là việc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề thương hiệu và bảo vệ thương hiệu tại Mỹ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nước có cơ hội được trực tiếp gặp gỡ nhau nhằm trao đổi những thông tin cần thiết về luật pháp cũng như tình hình bảo hộ NHHH ở mỗi nước. Các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ có những kinh nghiệm bổ ích trong việc xác lập quyền sở hữu NHHH và bảo vệ quyền đó một cách hiệu quả nhất trên đất Mỹ.
Ngoài ra thông qua Thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp. Đồng thời với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất của hàng hoá; Bộ Thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ nên chăng hãy quan tâm đến khía cạnh thương hiệu- niềm tự hào của mỗi doanh nghiệp và hình ảnh của một quốc gia.
3.1.3. Tuyên truyền về vai trò của Thương hiệu và Bảo hộ thương hiệu
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bị mất thương hiệu ở nước ngoài là bởi các doanh nghiệp Việt Nam còn xem nhẹ thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương hiệu.
Việc tuyên truyền về thương hiệu trước hết phải làm cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp hiểu rằng: thương hiệu cũng là một bộ phận cấu thành trong tài sản của doanh nghiệp, do đó cần chăm lo cho loại tài sản này không những không bị hao mòn mà ngày càng tăng thêm giá trị.
Việc tuyên truyền đó có thể được thực hiện thông qua các kênh thông tin đại chúng, các buổi hội thảo, các cuộc gặp gỡ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp với nhau.
Vừa qua, tại thành phố Hồ Chí Minh, trên 100 chuyên gia về sở hữu trí tuệ của Việt Nam và Hoa Kỳ đã tham dự một cuộc hội thảo về luật pháp, chính sách, và quản lý về Sở hữu trí tuệ do Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam và Viện Sở hữu trí tuệ quốc tế tổ chức ngày 17/10/2002. Hội thảo nhằm làm rõ tầm quan trọng của việc thực thi quyền Sở hữu trí tuệ, giới thiệu những thành phần chính của các tiêu chuẩn Sở hữu trí tuệ quốc tế và trao đổi kinh nghiệm giữa hai bên về việc thực thi bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ trong quá trình thực thi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ .
Hy vọng rằng, trong tương lai sẽ có nhiều những cuộc hội thảo tương tự, qua đó các doanh nghiệp sẽ chủ động thấy được sự cần thiết phải bảo hộ thương hiệu của mình- vấn đề quan tâm không chỉ của doanh nghiệp Việt Nam mà cũng là của các doanh nghiệp Mỹ và doanh nghiệp của tất cả các nước tham gia vào thương mại quốc tế.
3.1.4. Đẩy mạnh phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp.
Cuộc chiến Catfish vừa qua đã cho thấy ý nghĩa của sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nước nhà.
Để giải quyết tranh chấp thương mại này, đã có sự tham gia của tất cả các ban ngành liên quan, cơ quan lập pháp (Uỷ ban đối ngoại của quốc hội); cơ quan hành pháp (Bộ thuỷ sản, Bộ thương mại), Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Tháng 12/2001, các doanh nghiệp chế biến cá basa và cá tra Việt Nam đã cùng tháp tùng đoàn đi Mỹ do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu để cùng phía Mỹ tranh luận về vấn đề Catfish. Phía Mỹ còn "cố chấp" bảo vệ mình nhưng Việt Nam đã có được sự ủng hộ của dư luận thế giới, cá basa Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng thế giới biết đến và ưa chuộng.
Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn phải chung sống với các cuộc chiến thương mại một khi tham gia vào sân chơi quốc tế. Song chúng ta sẽ có sức mạnh để giành lấy chiến thắng nếu như có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp.
3.1.5. Các biện pháp khác
Ngoài các biện pháp nói trên, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh hơn nữa sự đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ các chuyên gia luật Sở hữu trí tuệ. Họ phải là nhưng người tinh thông về luật pháp Sở hữu trí tuệ quốc tế và quốc gia, nắm bắt kịp thời và chính xác các thông tin cũng như phải có vốn ngoại ngữ phong phú để có thể bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc chiến pháp lý.
Cuối cùng, Việt Nam cần gia nhập các tổ chức như WIPO, tiến tới là Hiệp ước luật NHHH và Hiệp định TRIPS – những Tổ chức và Điều ước quốc tế mà Mỹ đều là thành viên. Cơ chế đảm bảo thực thi rất nghiêm ngặt và có hiệu quả của các tổ chức này sẽ bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn ban đầu đầy thử thách.
3.2. Các giải pháp vi mô
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải sự cố về thương hiệu do chưa thấy được vai trò của sở hữu thương hiệu, chưa hành động để bảo vệ quyền của mình cũng như chưa biết làm thế nào để xác lập quyền lợi đó. Hy vọng rằng những giải pháp được trình bày dưới đây sẽ góp phần tháo gỡ vấn đề này.
3.2.1. Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo vệ thương hiệu
Trong thời gian qua các cơ quan chuyên trách cũng đã có nỗ lực tuyên truyền cho doanh nghiệp về sức mạnh của giá trị thương hiệu nhưng thực tiễn cho thấy hiệu quả đạt được vẫn chưa được tương xứng. Phải nhận thấy rằng công tác tuyên truyền đó sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chính bản thân mỗi doanh nghiệp tự nỗ lực trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về giá trị của thương hiệu và việc bảo vệ thương hiệu. Việc trang bị đó phải được quán triệt từ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đến từng nhân viên trong doanh nghiệp thông qua các cuộc họp, hội thảo, các buổi trao đổi ngay tại doanh nghiệp hoặc các phương tiện thông tin của doanh nghiệp như tạp chí của doanh nghiệp, trang web của doanh nghiệp...; sao cho thương hiệu- hình ảnh của doanh nghiệp luôn luôn được giữ gìn, bồi đắp và hoàn thiện ở tất cả các khâu trong quá trình hoạt động của công ty: marketing, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, sản xuất, lưu thông, phân phối... Vậy còn kiến thức là những gì?. Đó chính là những kinh nghiệm, góp ý, trao đổi, thu nhận được từ các cuộc buổi hội thảo, gặp mặt ở tầm quốc tế, quốc gia, doanh nghiệp; từ các phương tiện thông tin đại chúng; các vụ tranh chấp nhãn hiệu ở Việt Nam và trên thế giới trong đó đặc biệt lưu ý đến các tranh chấp giữa Việt Nam và nước ngoài và tranh chấp tại các nước mà doanh nghiệp đang hay có ý định xúc tiến kinh doanh và đặc biệt quan trọng là những kinh nghiệm của chính doanh nghiệp.
Và cũng cần bổ sung chức năng quản lý thương hiệu trong doanh nghiệp, có thể bằng việc thành lập bộ phận quản trị thương hiệu. Bộ phận này sẽ quyết định chiến lược phát triển, quảng bá và bảo vệ thương hiệu.
Khi nhận thức của doanh nghiệp được nâng cao cũng có nghĩa doanh nghiệp đã tin yêu, tự hào về thương hiệu riêng của mình và sẽ có những hành động cần thiết để bảo vệ giá trị đó.
3.2.2. Chủ động tiếp cận các thông tin đặc biệt các thông tin pháp lý
Theo đó, cần theo dõi các hành vi lạm dụng thương hiệu của mình trên các ấn phẩm, báo chí, tivi, đài phát thanh, các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp nên đặc biệt quan tâm các thông tin pháp luật NHHH bởi luật pháp của Mỹ rất phức tạp mà người Mỹ khi kinh doanh gắn rất sát với luật lệ. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm và hiểu biết rất dễ bị chèn ép. Ngoài ra, am hiểu về luật lệ Mỹ sẽ giúp doanh nghiệp tránh phải mất tiền vì những sơ xuất khi đăng ký, sử dụng, duy trì nhãn. Doanh nghiệp có thể thuê luật sư tư vấn để tránh những rủi ro và bất đồng. Tuy nhiên, chi phí trả cho luật sư rất cao (thường khoảng 250- 500 USD/giờ, còn để thuê một luật sư theo đến hết một vụ kiện phải tiêu tốn khoảng 30.000- 50.000 USD) Theo: “Người Lao động”: ngày 06/12/2001 _ Bài: “Từ vụ cá basa”.
. Như vậy, muốn sử dụng luật sư có hiệu quả, bản thân doanh nghiệp cũng phải am hiểu ít nhiều về luật lệ Mỹ để khi mời luật sư thì đảm bảo thời gian làm việc ngắn nhất nhưng hiệu quả cao.Với kinh phí eo hẹp của mình thì có lẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nên khai thác triệt để các kênh thông tin cơ bản sau đây để hiểu càng nhiều về thị trường và luật pháp Mỹ càng tốt:
* Nếu muốn có những thông tin chung nhất, cơ bản nhất về thị trường Mỹ, hãy đến những cơ quan đầu mối ở Việt Nam như:
Ban Quan hệ quốc tế thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Phòng thông tin- Đại sứ quán Hoa Kỳ
Thương vụ Hoa Kỳ
Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AMCHAM)
* Nếu muốn nắm bắt mọi khía cạnh liên quan đến NHHH : các quy định luật pháp và thực tiễn áp dụng; các cơ quan chuyên trách, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực NHHH; các vụ tranh chấp; cơ quan giải quyết tranh chấp và các quyết định gần đây nhất của cơ quan này; các dịch vụ tư vấn và tra cứu; cơ sở dữ liệu về NHHH đã và đang đăng ký bảo hộ; các Công báo sở hữu công nghiệp và NHHH; các Điều ước quốc tế về NHHH mà Mỹ tham gia...; hãy khám phá tiềm năng to lớn của kênh thông tin Internet. Internet thực sự là một công cụ hữu hiệu để khắc phục mọi trở ngại về tài chính và thời gian; mà vẫn đảm bảo có được những thông tin cập nhật và chính xác. Trên các trang web có liên quan, các thông tin đó được bao trùm từ tầm vĩ mô, cấp liên bang đến từng tiểu bang; từ các thông tin cơ bản, khái quát đến chi tiết, phân tích sâu. Một lưu ý khi sử dụng Internet để khai thác thông tin là hãy khai thác tối đa mọi thông tin có sẵn trên xa lộ này, in ra và tìm hiểu kỹ lưỡng.
Vào "sân chơi" Mỹ, một thách thức lớn đối với chúng ta là: các doanh nghiệp Mỹ bao giờ cũng có luật sư giỏi đứng ở đằng sau, nhưng khả năng tài chính hạn hẹp chưa cho phép các doanh nghiệp Việt Nam và hiện chúng ta có bao nhiêu luật sư am hiểu luật pháp Mỹ? Đến nay, cả nước ta chỉ có 1700 luật sư trong khi Mỹ có một triệu luật sư Theo: “Người Lao động”: ngày 06/12/2001 _ Bài: “Từ vụ cá basa”.
. Để tháo gỡ khó khăn này, các doanh nghiệp hãy quan tâm đến các Công ty tư vấn Sở hữu công nghiệp tại Việt Nam. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp hầu như bỏ qua vai trò của các Công ty tư vấn Sở hữu công nghiệp, cho đến khi gặp tranh chấp về thương hiệu và không biết hướng giải quyết như thế nào. Thực tế thì các công ty này trợ giúp rất nhiều, đặc biệt để tránh những tranh chấp pháp luật về NHHH và hướng bảo vệ uy tín thương hiệu. Các Công ty tư vấn luật có thể, trên lợi ích của doanh nghiệp, cung cấp thông tin, thủ tục thực hiện đăng ký bảo hộ NHHH, thông tin pháp luật về NHHH ở nước ngoài, cũng như đại diện về mặt quyền lợi cho doanh nghiệp khi gặp tranh chấp liên quan tới các vấn đề này.
Xin cung cấp ở đây một số địa chỉ của các trang web về NHHH và địa chỉ của các Công ty tư vấn luật về vấn đề sở hữu công nghiệp (xem phần phụ lục của khoá luận).
3.2.3. Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài
Đăng ký thương hiệu khi nào?
Hãy tuân thủ nguyên tắc chiến lược "thương hiệu đi trước hàng hoá". Các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng khắc phục thói quen đưa hàng hoá ra thị trường rồi mới tính đến thương hiệu. Luật nhãn hiệu của Mỹ cho phép người nộp đơn lựa chọn một trong hai hình thức: nộp đơn trên cơ sở "dự định sử dụng" nhãn hiệu, hoặc nộp đơn trên cơ sở “nhãn hiệu đã sử dụng trong thực tế". Do đó, những doanh nghiệp có ý định và khả năng xuất khẩu hàng mang nhãn hiệu của mình sang Mỹ trong một vài năm tới thì có thể tiến hành nộp đơn ngay từ bây giờ trên "cơ sở dự định sử dụng" để giành lấy ngày ưu tiên sớm cho mình. Trong trường hợp này, ngoài các khoản phí phải trả cho việc nộp đơn thông thường, thì doanh nghiệp phải trả khoản phí cho việc gia hạn thời gian để đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Cần lưu ý rằng, thời gian gia hạn tối đa là 3 năm (theo luật Mỹ và Hiệp định thương mại Việt- Mỹ), sau đó nếu không đưa được hàng vào Mỹ thì đơn NHHH sẽ bị từ chối (coi như đơn chưa được nộp ).
Đăng ký nhãn hiệu như thế nào?
Kiểm tra
Trước khi đăng ký bảo hộ thương hiệu ở USPTO, các doanh nghiệp cần xem có ai ở Mỹ đã nhanh nhẩu đăng ký thương hiệu của mình chưa. Doanh nghiệp có thể vào trang chủ của USPTO (www.uspto.gov) hoặc tìm đến các trung tâm cung cấp dịch vụ này tại Mỹ. Tuy nhiên việc truy cập các trang web hoặc sử dụng các dịch vụ chỉ cho phép kiểm tra các thương hiệu đang và đã được đăng ký bảo hộ. Trong khi đó Mỹ áp dụng nguyên tắc “sử dụng trước” (theo đó việc đăng ký một NHHH tại cơ quan có thẩm quyền chỉ mang tính chất tuyên bố và có thể bị kiện bởi một chủ nhãn hiệu thực sự) nên các công ty hãy đồng thời tự mình kiểm tra các thương hiệu đang được sử dụng có liên quan đến hàng hoá/dịch vụ của mình. Việc kiểm tra như vậy sẽ hạn chế rủi ro hàng hoá bị ngăn cản lưu thông vì vi phạm về quyền thương hiệu dẫn đến tiến trình mở rộng xuất khẩu của doanh nghiệp bị ngừng trệ.
Đăng ký NHHH
Quy trình thủ tục đăng ký NHHH cùng các nội dung khác có liên quan đã được trình bày chi tiết tại Chương 2 dựa trên cơ sở luật pháp NHHH hiện hành tại Hoa Kỳ (Đạo luật Lanham Act 1946). ở đây xin trích ra một số thông tin các doanh nghiệp nên đặc biệt lưu ý:
Luật NHHH của Mỹ gồm: Luật liên bang, Luật từng bang và Luật án lệ trong đó Luật liên bang mang lại nhiều lợi thế: chủ nhãn được độc quyền sử dụng nhãn trên toàn liên bang, thay vì bị giới hạn trong vùng lãnh thổ mà nhãn được sử dụng.
Nguyên tắc bảo hộ: nguyên tắc sử dụng trước.
Cơ quan đăng ký bảo hộ: Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ (USPTO).
Cơ sở nộp đơn: nhãn hiệu đã được sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong thương mại (thời hạn trì hoãn tối đa ý định sử dụng là 3 năm kể từ ngày nộp đơn).
Tổng chi phí đăng ký và duy trì hiệu lực của một đăng ký: 1200-1500 USD (xem Bảng phí chi tiết Chương 2).
Thời gian xét, công nhận lâu mau tuỳ từng trường hợp, với mức bình quân khoảng 1 năm.
Thời gian hiệu lực của một đăng ký: 10 năm và sau đó cứ 10 năm gia hạn lại với điều kiện nhãn phải được sử dụng.
Cơ quan giải quyết khiếu nại: Uỷ ban Xét xử và Khiếu nại thương hiệu Mỹ (TTAB). Lưu ý, chủ nhân thực sự của một thương hiệu có gắn yếu tố tên xuất xứ hàng hoá ví dụ như : nhãn Hưng Yên, gạo nàng Hương, xoài cát Hoài Lộc thường được ưu tiên.
Xác định được việc mình dùng thương hiệu gì cho sản phẩm/dịch vụ và đăng ký vào thời điểm nào theo trình tự ra sao để vừa phù hợp với chiến lược kinh doanh vừa có tính hiệu quả cao về mặt chi phí đã góp phần giúp doanh nghiệp phát triển được một chiến lược sản phẩm toàn cầu hoàn thiện.
3.2.4. Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại
Doanh nghiệp cũng cần lưu trữ đầy đủ các bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại. Khi gặp tình trạng tranh chấp thương hiệu, doanh nghiệp có thể sử dụng các bằng chứng thương hiệu đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi từ trước để giành quyền về mình, ví như mẫu bao bì có ghi ngày sản xuất từ trước, GCN đăng ký chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm, kết quả doanh số, mạng lưới đại lý, số lần và chi phí với mẫu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, hợp đồng, hoá đơn, vận đơn Ngoài ra, việc lưu trữ các bằng chứng sử dụng thương hiệu ngay từ đầu sẽ giúp cho việc xin công nhận nhãn hiệu nổi tiếng sau này dễ dàng hơn, từ đó sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc bảo hộ và việc xét cấp bằng bảo hộ cho các nhãn hiệu khác.
Hãy đừng để mình rơi vào trường hợp như các doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất mỳ ăn liền ở các nước SNG : muốn chứng minh sản phẩm đó, công nghệ đó là của mình nhưng đành chịu vì không còn đủ tài liệu, giấy tờ.
3.2.5. ứng phó hiệu quả khi bị “đánh cắp thương hiệu”
Chủ thương hiệu tại Việt Nam sẽ mắc bẫy kiện tụng nếu ngay lập tức lao vào vòng tranh đấu mà không xác định xem liệu mình có định làm ăn gì bên Mỹ với cái tên đó không?
Trước hết hãy cân nhắc biện pháp đối phó hữu hiệu nhất.
* Tích cực đấu tranh giành lại thương hiệu
Nếu có căn cứ pháp lý thì có thể tiến hành đấu tranh để huỷ bỏ đăng ký. Một NHHH đã được đăng ký vẫn có thể bị huỷ nếu người yêu cầu huỷ chứng minh được rằng mình là người sử dụng trước và việc cho phép đăng ký sẽ gây thiệt hại đến doanh nghiệp mình. Để giành lại quyền lợi, doanh nghiệp phải chứng minh qua những bằng chứng về ngày sử dụng đầu tiên ở bất cứ đâu và ở tại Hoa Kỳ (đã đề cập ở phần 3.2.4). Luật NHHH của Mỹ, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và các Công ước quốc tế có liên quan sẽ là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Đồng thời, để đảm bảo phần thắng trong vụ tranh tụng, các doanh nghiệp nên thuê luật sư. Luật sư trong nước có đủ khả năng để thực hiện vụ kiện đòi thương hiệu nhưng một khó khăn là những hoạt động hành lang (lobby) các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen và chưa có kinh nghiệm tại Mỹ. Thuê luật sư tại Mỹ là cách chắc chắn nhất nhưng cũng rất tốn kém (250 – 500 USD/giờ) Theo: “Người Lao động”: ngày 06/12/2001 _ Bài: “Từ vụ cá basa”.
. Trong trường hợp thuê luật sư Mỹ, các doanh nghiệp được khuyến cáo rằng: Bất kỳ một luật sư giỏi nào của Mỹ cũng có thể thực hiện việc đăng ký và bảo hộ thương hiệu. Nhưng để chắc chắn rằng người luật sư đó nắm rõ luật pháp về NHHH hay các thủ tục đăng ký, bảo vệ thương hiệu; tốt nhất hãy thuê một luật sư chuyên môn trong lĩnh vực này. Ngoài ra, khi xảy ra tranh chấp thương mại, hãy huy động sự tham gia của các ban ngành liên quan như Bộ Thương Mại, Cục Sở hữu công nghiệp để giúp doanh nghiệp bảo vệ lợi ích của mình được tốt nhất.
Sự yếu kém trong việc bảo vệ thương hiệu hàng Việt Nam khiến Việt Nam thua thiệt với các nước. So với Thái Lan chẳng hạn, họ không chỉ “mượn” thương hiệu của nước ngoài mà còn bảo vệ rất chặt thương hiệu trong nước. Như ngay khi giống lúa thơm của họ có tên gọi “hương nhài” bị một số nhà khoa học Mỹ lấy về nghiên cứu để sản xuất ngay trên đất Mỹ, lập tức họ mở chiến dịch để bảo vệ thương hiệu. Hay thương hiệu xe tuk-tuk vừa có nguy cơ bị mất cắp, họ lập tức bảo vệ bản quyền bằng cách đăng ký nhãn hiệu thương mại, tên kinh doanh và bằng sáng chế. Bởi vì nó không chỉ là một biểu tượng độc đáo của đất nước họ mà còn có giá trị lớn về kinh tế.
Việt Nam cũng đã từng có một câu chuyện được nhắc đến nhiều lần: Có một “bà già đeo kiểng” một mình sang tận nước ngoài để kiện, dành lại thương hiệu kẹo dừa Bến Tre, bắt pháp luật sở tại nghiêm cấm làm giả hàng của bà, để lượng kẹo dừa bà xuất sang Trung Quốc sau chiến tích ấy tăng từ 6 tấn năm 1999 lên 2000 tấn năm 2000.
Nếu như mọi doanh nhân Việt Nam đều biết trân trọng, nâng niu thương hiệu của chính mình như vậy hẳn Việt Nam sẽ sớm có những thương hiệu tầm vóc.
* Thương lượng mua lại đăng ký
Trong trường hợp doanh nghiệp nhận thấy rằng: việc bị mất thương hiệu sẽ gây tổn hại trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh, buộc họ phải từ bỏ thị trường đó; hoặc phải mất công gây dựng lại một nhãn hiệu khác để thâm nhập thị trường mà khả năng thành công của thương hiệu mới không cao; còn nếu muốn giành lại nhãn hiệu của mình, chắc chắn sẽ phải theo đuổi kiện tụng cực kỳ tốn kém mà phần thắng hết sức mong manh, do nước sở tại có xu hướng bảo vệ doanh nghiệp của họ- khi ấy, các doanh nghiệp hãy nghĩ đến phương án thương lượng mua lại đăng ký.
Để việc thương lượng đạt hiệu quả, các doanh nghiệp phải dẫn ra những lý do cho thấy rằng nếu doanh nghiệp đưa khiếu nại vụ việc trước Uỷ ban Xét xử và Khiếu nại thương hiệu Mỹ (TTAB) thì phần thắng của phía bên kia sẽ hết sức mong manh đồng thời bên thua còn phải nộp một khoản phạt. Doanh nghiệp nên cố gắng thoả thuận một mức giá thấp hơn chi phí cơ hội và nhanh chóng kết thúc việc đàm phán để ổn định sản xuất kinh doanh.
* Từ bỏ thương hiệu và Đăng ký thương hiệu mới
Ngay cả khi nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bị “nẫng tay trên” tại thị trường nước ngoài, thì cũng cần cân nhắc có nên tiến hành các thủ tục kiện tụng tốn kém hoặc phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua lại thương hiệu hay không. Rất có thể nhãn hiệu của doanh nghiệp mặc dù bị “ăn cắp” nhưng thực tế không được mấy ai biết đến, xuất khẩu dưới một cái tên mới lại có lợi hơn.
Các doanh nghiệp hãy thử trả lời các câu hỏi: Liệu mình có định làm ăn gì bên Mỹ với cái tên đó không? ; Nếu cái tên đó được bảo hộ ở bên Mỹ thì mình sẽ được những lợi ích gì? ; Ngay cả nếu mình sẽ đưa sản phẩm sang Mỹ thì liệu cái tên đó đã thích hợp chưa? ; Luật pháp sẽ đứng về phía ai? .
Nếu qua trả lời những câu hỏi trên, doanh nghiệp nhận thấy rằng khả năng thành công của một thương hiệu mới có cơ sở, chiến lược xây dựng một thương hiệu mới dựa trên những kinh nghiệm và hiểu biêt sẵn có mang tính khả thi thì hãy “dũng cảm” từ bỏ thương hiệu cũ và thiết kế một thương hiệu mới.
Bước ra thương trường quốc tế rõ ràng là các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những vấn đề khó khăn hơn, phức tạp hơn với những địch thủ hùng mạnh hơn, mưu lược hơn. Nhưng nếu đối với mỗi vấn đề, doanh nghiệp luôn luôn thận trọng, tỉnh táo và ứng xử nhanh nhạy, doanh nghiệp sẽ chiến thắng và mỗi kinh nghiệm đúc rút được sẽ góp phần tạo một nền tảng vững chắc để doanh nghiệp tiến những bước xa hơn.
3.2.6. Hợp lực để vào thị trường Mỹ
Người Nhật đã thấm thía các “chiêu đánh” như thế nào của người Mỹ mà kinh nghiệm của họ chỉ gói gọn vào hai chữ “Đoàn kết”. Phía sau hàng của Nhật xuất qua Mỹ không phải là một doanh nghiệp nào đó mà là cả nước Nhật. Thành công của người Trung Hoa ở Mỹ nhờ một phần lớn vào lực lượng Hoa Kiều sống tại đây. Hoa Kiều không chỉ giúp lobby khắp các thành phố lớn ở Mỹ, đâu đâu cũng có những kho hàng Made in China của Hoa Kiều. Hoa Kiều tạo ra một mạng lưới thương mại lớn mạnh cho hàng Trung Quốc ở Mỹ.
Và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã đến lúc phải nhận ra rằng không thể một thân một mình “chiến đấu” trên một thị trường mênh mông như vậy, nỗ lực riêng của từng doanh nghiệp chưa đủ mà phải hợp tác với nhau. Các doanh nghiệp nên tổ chức thành các hiệp hội để có thể nâng cao sức mạnh và ưu thế của mình (ví dụ ngành thuỷ sản có Hiệp hội chế biến và xuất khấu thuỷ sản Việt Nam- VASEP).
Để giải quyết vấn đề về bản quyền thương hiệu, doanh nghiệp cần huy động sự tham gia của các ban ngành liên quan, dựa vào hiệp hội để nâng cao vị thế, hợp tác với các công ty chuyên nghiệp về sở hữu trí tuệ và trước hết hãy thường xuyên cùng nhau trao đổi, góp ý kinh nghiệm sao cho những trường hợp tương tự không còn xảy ra đồng thời hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho những doanh nghiệp gặp khó khăn để sớm giành lại quyền lợi chính đáng của mình. Hãy tìm những “đồng minh” cùng hợp lực để tiến vào thị trường đầy tiềm năng mà cũng đầy thử thách này.
3.2.7. Cảnh giác với các đối tác
Trong quá trình đi mở thị trường ở Mỹ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp xúc với các nhà phân phối đã nhận được đề nghị nên uỷ quyền thương hiệu để cho họ tự đăng ký ở nước sở tại và không ít những cơ hội hoặc rủi ro đang chờ họ từ những lời đề nghị này. Thực tế, trong bước đầu thâm nhập thị trường, do không am hiểu luật lệ, e ngại về thủ tục, chi phí... đã có một số doanh nghiệp Việt Nam uỷ quyền cho một số nhà phân phối để họ tự đăng ký thương hiệu. Nhưng theo nhận định của nhiều doanh nghiệp, việc trao hoặc uỷ quyền thương hiệu cho các nhà phân phối để họ tự đăng ký sử dụng sẽ gặp nhiều rủi ro. Bởi dù cho việc trao thương hiệu này được ràng buộc bằng những hợp đồng cụ thể, quyền sở hữu thương hiệu vẫn được xác lập cho doanh nghiệp nhưng trong trường hợp việc kinh doanh không thuận lợi hoặc vì một lý do nào đó phải chấm dứt quan hệ trước thời hạn thì việc lấy lại thương hiệu sẽ khó khăn. Nhà phân phối sẽ đưa ra rất nhiều lý do như đã đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu, kể ra các loại chi phí... và lúc ấy doanh nghiệp chỉ còn cách mua lại thương hiệu của chính mình. Bên cạnh đó, hiện nay cũng đã xuất hiện một số đơn vị chuyên săn tìm thương hiệu, họ đưa ra những mồi nhử để lấy thương hiệu đăng ký và sau đó tìm cách để "bán" lại cho chính doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp.
Nói chung, việc trao thương hiệu để các nhà phân phối đăng ký là không nên. Tự mình đăng ký, dù có tốn kém và mất công một chút nhưng sẽ chủ động và bảo vệ được thương hiệu của mình.
Một khuyến cáo khác đối với doanh nghiệp là doanh nghiệp nên đưa điều khoản về thương hiệu vào tất cả các hợp đồng đại lý, liên doanh liên kết, thay đổi tổ chức công ty, trong quan hệ công ty mẹ và công ty con. Bởi hiện nay, tình trạng các đại lý, đối tác liên doanh liên kết lạm dụng, tìm cách nẫng tay trên thương hiệu khá phổ biến trong nước và nước ngoài. Vì thế, việc đưa các điều khoản về phạm vi sử dụng, phạm vi nhượng quyền, cấm đăng ký tại một nước thứ ba bắt buộc phải thông báo trước và phải được chính chủ chấp nhận trước khi sử dụng thương hiệu trong bất cứ trường hợp nào là cần thiết để ngăn ngừa các hành vi lạm dụng và là chứng cứ khi xảy ra tranh chấp. Khi thay đổi người góp vốn, khi thực hiện cổ phần hoá, khi chia tách, sáp nhập, giải thể, doanh nghiệp cần phải có các hợp đồng về chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu thương hiệu (Hợp đồng lixăng) để tránh mọi rắc rối về sau.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu kỹ trước khi bắt tay làm ăn với bất kỳ đối tác nào để chắc rằng mình đang làm ăn với một đối tác có năng lực, đáng tin cậy. Để có thêm thông tin về đối tác tương lai, các doanh nghiệp hãy tìm tới các cơ quan đầu mối thương mại của Mỹ và Việt Nam để nhờ họ kiểm tra giúp độ tin cậy của đối tác.
3.2.8. Đăng ký NHHH tại Việt NaM
Từ nhận thức tầm quan trọng của việc bảo hộ thương hiệu, các doanh nghiệp Việt Nam trước hết hãy đăng ký NHHH của mình tại Việt Nam vì khi đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ thì thường được yêu cầu phải có đăng ký ở trong nước, lúc đó họ mới lo thủ tục đăng ký thường kéo dài hàng năm dẫn đến mất cơ hội làm ăn.
3.2.9. Đăng ký thương hiệu qua mạng
Doanh nghiệp Việt Nam khả năng tài chính có hạn, không nên mất tiền thuê luật sư hay qua tận Mỹ đăng ký nhãn hiệu; hiện nay, USPTO đã nhận đăng ký qua mạng. Doanh nghiệp có thể điền vào hồ sơ gửi thẳng cho USPTO qua mạng hoặc có thể tải mẫu hồ sơ về, in ra và gửi cho USPTO theo đường bưu điện. Mẫu hồ sơ có thể lấy tại địa chỉ (chi tiết đã được trình bày trong Chương 2).
3.2.10. Tránh xung đột giữa thương hiệu và tên miền
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp nhận ra rằng họ phải có mặt trên Internet, phải xúc tiến thương mại điện tử nhằm chiếm lĩnh cơ hội khổng lồ. Song xét trên một khía cạnh khác, sự phổ biến rộng rãi và lợi ích của thương mại điện tử lại gây trở ngại cho một số chủ sở hữu nhãn hiệu khi nhãn hiệu bị người khác chiếm dụng làm tên miền trên Internet.
Để loại bỏ vướng mắc này, doanh nghiệp hãy đăng ký địa chỉ trang web cho mình ngay cả khi chưa có hoặc chưa thiết kế xong một trang web thực sự. Thứ nhất là để giữ chỗ, phòng kẻ khác "chôm" mất như đã xảy ra với www.trungnguyen.com, www.vinataba.com. Thứ hai là có thể sử dụng địa chỉ trang web đó làm tên miền cho địa chỉ e-mail của mình sẽ tạo được ấn tượng rất tốt cho đối tác.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý đăng ký tên miền của mình có đuôi .vn ngay ở nước ta vì xung đột tên miền ở Việt Nam dường như chưa có, và nếu có cũng dễ đòi lại.
Ngoài ra doanh nghiệp thiết kế website có đăng ký tên miền, logo và qua mạng đã có được những hợp đồng bán hàng thì website có thể được coi là bằng chứng sử dụng nhãn hiệu.
3.2.11. Bảo vệ thương hiệu không phải chỉ kiện tụng- Hãy chống lại người bắt chước
Chuyện bắt chước, tạo ra một thương hiệu tương tự, na ná thậm chí sao chép toàn bộ một thương hiệu đã có uy tín trở thành phổ biến trên thị trường Việt Nam, thị trường Mỹ và bất kỳ thị trường nào khác. Để chống lại hiện tượng này, không thể chỉ đơn giản là trông chờ vào việc đăng ký bảo hộ thương hiệu và sau đó theo đuổi các vụ kiện tụng pháp lý nhằm chống lại những người làm hàng giả.
Hãy chống lại những người bắt chước ngay từ lúc tạo ra thương hiệu và cách thức sử dụng chúng trên sản phẩm, dịch vụ. Nếu doanh nghiệp sử dụng những từ thông dụng, khả năng phân biệt và nhận biết yếu để làm thương hiệu thì khả năng bị sao chép, bắt chước bao giờ cũng lớn hơn khi sử dụng một dấu hiệu đặc trưng hay một từ đặc biệt. Ví dụ, việc bắt chước thương hiệu Kodak (Kodak là một từ tự đặt) bao giờ cũng khó khăn hơn việc bắt chước thương hiệu National của Masushita, thậm chí đôi khi chủ sở hữu thương hiệu chẳng thể làm được gì khi mà đối thủ cạnh tranh dùng thương hiệu International, hoặc như trường hợp của Lavie (nghĩa là cuộc sống) khi bất lực nhìn các đối thủ đăng ký thương hiệu Laville (nghĩa là thành phố) hay Lavierge (nghĩa là trinh nữ) một cách đàng hoàng dù về mặt nào đó, người tiêu dùng hoàn toàn có thể nhầm lẫn khi nhận biết các thương hiệu ấy. Một vấn đề khác là thương hiệu cũng cần đơn giản, vì nếu doanh nghiệp sử dụng một dấu hiệu đơn giản như là cái "dấu phẩy" của Nike thì việc đối thủ bắt chước hay chuyện người tiêu dùng nhầm lẫn bao giờ cũng khó hơn dùng những dấu hiệu loằng ngoằng khác, hay là việc bắt chước một dấu hiệu chỉ có hai âm tiết như Nokia chắc chắn sẽ khó hơn nhiều việc bắt chước thương hiệu Schlumberger rất dài và khó nhận biết. Lời khuyên ở đây là: hãy thật sự coi trọng việc đặt tên cho thương hiệu, hãy nhớ rằng mục tiêu khi đặt tên cho thương hiệu là làm cho nó dễ nhớ, dễ nhận biết. Và tất nhiên bước tiếp theo của việc bảo vệ thương hiệu sẽ là đến cơ quan NHHH (ở Mỹ là Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ: USPTO) đăng ký bảo hộ và chờ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Kết luận
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hộ NHHH, nhất là ở thị trường nước ngoài, hiểu biết được pháp luật của nước sở tại để có thể tiến hành đăng ký bảo hộ NHHH ở các thị trường đó đồng thời áp dụng nguyên tắc chiến lược “thương hiệu đi trước hàng hoá” nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình và dần dần xây dựng được uy tín cho nhãn hiệu của mình; đó chính là điều mà chúng ta chờ đợi, mong mỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp có làm được điều đó không, nhất là tại thị trường Mỹ, nơi mà nhiều cơ hội đang mở ra cùng với những thuận lợi mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đem lại? Câu trả lời nằm ở nỗ lực bản thân từng doanh nghiệp và cao hơn nữa là sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc.
tài liệu tham khảo
1. Các văn bản luật:
- Bộ luật dân sự Việt Nam, năm 1995.
- Nghị định số 63/1996/NĐ - CP .
- Nghị định số 06/2001/NĐ - CP.
- Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
- Công ước Paris (1883) về Bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp.
- Thoả ước Madrid (1891) về Đăng ký Nhãn hiệu quốc tế.
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO (TRIPS).
- Luật thống nhất Benelux về nhãn hiệu.
- Các điều khoản về Sở hữu trí tuệ của NAFTA.
- Đạo luật LanHam Act 1946 (The Lanham Act of 1946).
- Dự luật mẫu của bang về Nhãn hiệu hàng hoá (Model State Trademark Bill).
- Đạo luật liên bang bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến xung đột của Thương hiệu và Tên miền (Federal Anti Cybersquatting Consumer Protection Act).
- Luật thống nhất giải quyết xung đột Tên miền (Uniform Domain Name Dispute Policy).
- Luật sửa đổi luật Nhãn hiệu hàng hoá của Anh năm 1984 (Trademarks Admendment Act).
2. Sách.
- "Quản lý Nhà nước về Khoa học, Công nghệ và Môi trường" - Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
- "Marketing Management" - 8 edition, Philip Kotler.
- "Trademarks & Business Goodwill" - Thomas G.Field, Jr.
- "What Every Business should know about using Internet Trademarks" - Philip B. Phinbin.
- "Trademark Law Lost in Cyberspace: Trademark Protection for Internet Addresses" - Kenneth S. Dueker.
- "How to protect Trademark" - Gregory H. Guillot.
- "Trademarks on the Internet - Who's in charge?" - David W. Maher
- "Rights and Remedies for three common Trademark - Domain Name Disputes " - William A. Tanenbaum.
- "Benefits of Federal registration" - Pliam Law Group, P.A...
- "Names and Trademarks: What no one owns but all wish to lay hands on" - Andy Orain.
3. Báo và Tạp chí:
- Trademark Official Gazette (Công báo chính thức về Nhãn hiệu hàng hoá của Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ).
- Thời báo Kinh tế Sài Gòn; số 49 - 50 - 51 - 52/2001, số 1 - 10 - 11 - 12 - 13 - 16 - 17 - 19 - 20 - 21 - 38 - 40/2002.
- Báo Doanh nghiệp Thương mại, số 158 - 159 - 160 - 161 - 163/2002.
- Báo Công nghiệp, số 12/2002.
- Báo Đầu tư, số 69 - 74 - 98 - 100/ 2002.
- Tạp chí Thương mại, số 16 - 18 - 20 - 21 - 22 - 23/ 2002.
- Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 11/2001.
- Tạp chí Luật học, số 2/ 2001.
- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/ 2002.
- Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới, số 1/ 2002.
- Tạp chí Kinh tế, số 9 - 11 - 15 - 16 - 17 - 20 - 21 - 22 - 27 - 28 - 29 - 30 - 33 - 36/ 2002.
- Tạp chí Doanh nghiệp, số 59/2002.
- Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 59/ 2002.
- Cùng một số Báo và Tạp chí khác.
4. Tài liệu khác.
- Báo cáo hoạt động của Cục Sở hữu công nghiệp.
- Tài liệu Hội thảo Đưa các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia vào pháp luật Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội ngày 3/12/2000 - 14/12/2000.
- Tài liệu Hội thảo về thực thi Quyền Sở hữu trí tuệ, diễn ra tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh từ 27/5/2002 - 31/5/2002.
- Tài liệu Hội thảo khu vực Asian của WIPO về Bảo hộ quốc tế Nhãn hiệu hàng hoá, diễn ra tại Hà Nội ngày 23/10/2001.
5. Các websites:
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
- Nam.
phụ lục
I.Địa chỉ một số Công ty tư vấn Sở hữu công nghiệp
1. Công ty Sở hữu Công nghiệp (INVESTIP)
51B Lý Thái Tổ, Hà Nội
Điện thoại: (04) 8260687
Phụ trách: Nguyễn Thu Anh
Tại Thành phố Hồ Chí Minh:
31 Hàn Thuyên, Quận 8
Điện thoại: (08) 8292900
Phụ trách: Nguyễn Minh Hương
2. Công ty Sở hữu Công nghiệp Trần Hữu Nam và đồng sự
Số 1 Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội
Điện thoại: (04) 9420020
Phụ trách: Trần Hữu Nam
3. Công ty Tư vấn Sở hữu công nghiệp Phạm và Liên doanh
Số 9 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
Điện thoại: (04) 8265524
Phụ trách: Phạm Vũ Khánh Toàn
4. Công ty TNHH Nam Việt
Số 68 Ngô Thì Nhậm, Hà Nội
Điện thoại: (04) 9433108
5. Công ty Tư vấn Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Số 33 Bà Triệu, Hà Nội
Điện thoại: (04) 9344200
Phụ trách: Đỗ Thượng Ngãi
II. Địa chỉ một số trang web về Nhãn hiệu hàng hoá
-
-
-
-
-
-
III. Các tên miền Việt Nam được rao bán trên mạng www.affternic.com:
Địa chỉ Giá rao bán (USD)
vietnam.tv 150.000
vietnambanking.com 150.000
vietnamdoc.com 13.750
vietnamindustries.com 1.000
vietnammemorial.com 1.000
vietnamnews.tv 30.000
vietnammok.com 30.000
vietnamreports.com 1.000
vietnamshopping.com 100.000
saigonjobs.com 1.000
saigonlinkl.com 1.000
saigonmerchant.com 1.000
saigon-vietnam.com 1.000
hueworldorder.com 3.650
huezone.com 3.650
huesos.org 1.500
Nguồn:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa Luan Tot Nghiep.doc