Đề tài Bí mật lăng mộ Thành Cát Tư Hãn

Khu mộ nằm gần thị trấn Batshireet, phía bắc tỉnh Hentii. Một bức tường đá cao từ 2,7-3,6 mét, với chu vi khoảng 3 km, bao quanh một cụm có ít nhất 20 lăng mộ chưa mở nắp nằm gần đỉnh đồi. Người ta cho rằng chúng thuộc về “những người ở tầng lớp trên”. Thấp hơn một chút, là khu vực có tới hơn 40 ngôi mộ khác. Tuy nhiên, những phát hiện đi kèm đã làm dấy lên nghi ngờ về xuất xứ của những người trong mộ. Người ta tìm thấy nhiều mảnh gốm trên bề mặt của khu vực này, nhưng niên đại lại cổ hơn thời kỳ của Thành Cát Tư Hãn. “Chúng tôi cần điều tra kỹ khu vực này về mặt khảo cổ học, trước khi có được xác nhận chính thức”, Tiến sĩ John Woods, Giáo sư lịch sử Đại học Chicago, Trưởng đoàn thám hiểm, cho biết. Bước tiếp theo của đoàn thám hiểm là xin giấy phép khai quật khu mộ. Chính phủ Mông Cổ có lẽ sẽ khó chấp nhận đề nghị này, vì theo tập quán nơi đây, đụng chạm đến người đã chết là điều cấm kỵ.

doc40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1792 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bí mật lăng mộ Thành Cát Tư Hãn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o Mơng Cổ. Năm 1218 vương quốc Mơng Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Bal-kha và tiếp giáp với Kharezm (dịch theo tiếng Hoa là Hoa Thích Tử Mơ), một quốc gia Hồi giáo trải dài từ biển Caspia ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam. Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đồn sứ giả sang tỉnh phía đơng của Kharezm với mục đích thảo luận khả năng buơn bán với quốc gia này. Thống đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ơng đã cho 200.000 quân tràn sang để trả thù. Quân đội Mơng Cổ với chiến lược và chiến thuật hơn hẳn đã nhanh ***ng hạ thành phố này và hành hình viên thống đốc bằng cách đổ bạc nĩng chảy vào tai và mắt ơng ta để trả đũa hành động xúc phạm tới Thành Cát Tư Hãn và những ý định tốt đẹp ban đầu của người Mơng Cổ. Cùng thời điểm này (1219) ơng quyết định mở rộng ảnh hưởng của Mơng Cổ đối với thế giới Hồi giáo. Quân đội Mơng Cổ lần lượt hạ các thành phố chính của Kharezm như Bukhara, Samarkand và Balkh, và vua Muhammad đã phải chuẩn bị lực lượng chống lại họ. Tuy nhiên, ơng ta đã bị vượt qua bởi những người Mơng Cổ nhanh nhẹn và lắm mưu kế hơn và phải liên tục rút lui. Cuối cùng, Muhammad đã phải tự tử năm 1220 và Đế chế Kharezm sụp đổ. Sau đĩ quân đội Mơng Cổ chia làm hai đạo quân, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh kia do tướng Tốc Bất Đài (Subedei hay Subutai) chỉ huy tiến vào Caucasus và Nga. Khơng một cánh quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bĩc và đánh bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở lại Mơng Cổ. Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào đế chế vốn đã ghê ghớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư Hãn như một chiến binh khát máu trong những người khơng biết hoặc khơng muốn biết rằng ơng là ơng chủ thực sự của thế giới. Châu Âu Cánh quân của Tốc Bất Đài đã tiến vào Ba Tư và Armenia, với lực lượng 40.000 quân họ đã tiến sâu vào lãnh thổ Armenia và Azerbaijan (Xem phần Trung Á). Ở đây quân Mơng Cổ đã tiêu diệt quân thập tự chinh Gruzia, chiếm pháo đài đầu mối giao thương thành quốc Genova ở Crimea và nghỉ qua mùa đơng bên biển Đen. Trong khi đồn quân này trở về Mơng Cổ họ đã giao tranh với đội quân 80.000 người của Đại cơng tước Mstitslav của Kiev, trong trận chiến gọi là trận chiến sơng Kalka năm 1223. Quân Mơng Cổ đã đánh bại đại cơng tước Mstitslav và quân đội của ơng ta Chiến dịch cuối cùng : Đế chế chư hầu Tây Hạ đã từ chối khơng tham chiến chống lại đế chế Kharezm, và Thành Cát Tư Hãn đã thề giành cho họ sự trừng phạt. Trong khi ơng đang ở Iran, Tây Hạ và Kim đã hình thành liên minh chống lại người Mơng Cổ. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn chuẩn bị chiến tranh chống lại liên minh này. Cùng thời gian này, ơng cũng phải suy nghĩ về việc chọn người kế nghiệp để xĩa bỏ những cuộc tranh giành liên miên giữa các con; ơng đã chọn người con trai thứ ba là Oa Khốt Đài (Ưgedei) làm người kế nghiệp cũng như thiết lập cơ chế lựa chọn những người kế nghiệp trong tương lai với điều kiện họ phải là hậu duệ của ơng. Ơng đã nhận được những báo cáo tình báo về lực lượng Tây Hạ, Kim và chuẩn bị lực lượng 180.000 quân cho các chiến dịch mới. Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn cơng Tây Hạ với cớ là Tây Hạ chứa chấp kẻ thù của Mơng Cổ và để trừng phạt sự phản bội của họ. Tháng 2, ơng chiếm các thành phố Heisui, Cẩm Châu (贛州) và Tơ Châu và trong mùa thu năm đĩ ơng chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ đã đánh một trận lớn với quân Mơng Cổ gần dãy núi Hà liên sơn. ("Hà liên" cĩ nghĩa là "đại mã" trong phương ngơn phía bắc Trung Quốc.) Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11, ơng bao vây thành Linh Châu và vượt qua sơng Hồng Hà đánh bại quân cứu viện của Tây Hạ. Năm 1227, ơng tấn cơng kinh đơ Tây Hạ, trong tháng 2 chiếm phủ Lintiao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay) và phủ Tín Đơ (信都府). Trong tháng 4 chiếm quận Deshun. Tại Deshun, tướng Tây Hạ Mã Diên Long chống lại quân Mơng Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngồi thành. Mã Diên Long sau đĩ chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi chiếm Deshun, tiến quân tới núi Lưu Pan (thơn Thanh Thuỷ (清水), tỉnh Cam Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt. Vua Tây Hạ mới, đã chính thức đầu hàng quân Mơng Cổ năm 1227. Tây Hạ bị diệt sau khi tồn tại 190 năm, từ 1038 đến 1227. Quân Mơng Cổ đã giết vua Tây Hạ và cả hồng tộc này. Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế chế của ơng cho bốn người con trai. Truật Xích là lớn nhất, nhưng đã chết và quan hệ huyết thống của ơng ta cũng bị nghi ngờ, vì thế những vùng đất xa xơi nhất của đế chế như nam Ruthenia đã được chia cho các con của ơng này là Batu thủ lĩnh của bộ lạc Xanh, và Orda, thủ lĩnh của bộ lạc Trắng. Sát Hợp Đài (Chagatai) là con trai thứ hai, nhưng là người nĩng nảy được chia vùng Trung Á và bắc Iran. Oa Khốt Đài (Ogedei), con trai thứ ba là Đại Hãn và nhận được Trung Quốc. Đà Lơi (Tolui), trẻ nhất, nhận Mơng Cổ. Trên giường bệnh năm 1227, Thành Cát Tư Hãn phác thảo kế hoạch cho Đà Lơi, sau kế hoạch này được những người kế vị sử dụng để triệt hạ dứt điểm nhà Kim. Trong chiến dịch cuối cùng của mình chống lại nhà Tây Hạ, Thành Cát Tư Hãn đã chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1227. Nguyên nhân cái chết của ơng vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ơng ngã ngựa vì tuổi già và suy giảm thể lực hay sự ám sát từ phía kẻ thù. Biên niên sử Galicia-Volhynia cho rằng ơng bị những người Tanguts giết chế, tuy nhiên đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ. Sau khi ơng ta chết, thân xác ơng được đưa về Mơng Cổ và được cho là mang về nơi ơng sinh ra ở Hentiy, là nơi mà nhiều người cho rằng ơng đã được hỏa thiêu ở một nơi nào đĩ gần sơng Onon. Đồn hộ tống lễ tang đã giết hết mọi người và tiêu hủy mọi thứ lạc vào đường của họ tới nơi thiêu xác ơng để khơng ai cĩ thể khám phá ra nơi họ chơn cất người lãnh tụ đáng kính của mình. Trong đám tang của ơng (để giữ bí mật) người ta cho rằng đã cĩ ít nhất 40 cung nữ đã bị hỏa thiêu cùng với ơng, vì thế ngay cả các bà mẹ của họ cũng khơng thể xác định được nơi mà các cung nữ đã bị thiêu. Lăng mộ của Thành Cát Tư Hãn là nơi tưởng niệm ơng, nhưng khơng phải là nơi chơn cất ơng ta. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2004, người ta đã cho là tìm thấy "cung điện Thành Cát Tư Hãn", được cho là khu mộ của ơng Chương III: Chính trị và kinh tế Thành Cát Tư Hãn là một nhà lãnh đạo thực thụ cĩ khả năng. Ơng đã tạo ra bộ luật bằng chữ viết của người Mơng Cổ mà mọi người trong đế chế phải tuân thủ. Vì sự đa dạng về dân tộc, tơn giáo và sắc tộc của các cơng dân và binh lính trong Đế chế Mơng Cổ bao gồm cả Trung Quốc, Ba Tư và châu Âu ngày nay, ơng đã truyền lại sự trung thành chỉ đối với ơng (Đại Hãn) mà khơng cho một ai khác. Để giữ vững và bổ sung cho các chi phí cho quân đội cũng như các hoạt động khác, ơng đã cho phép các thủ lĩnh duy trì quyền lực khi mà họ cịn cung cấp được sức mạnh quân sự, nộp cống phẩm và cung cấp nhân lực trong các cơ sở cố định. Chiếm đĩng được một khu vực đất đai rộng lớn, ơng đã khuyến khích thương nghiệp và trao đổi hàng hĩa và người Mơng Cổ nhận được hàng hĩa và dịch vụ từ những người khác. Các thương nhân, giáo sĩ, đặc sứ đã được đảm bảo sự an tồn và hướng dẫn cần thiết dưới đế chế Mơng Cổ, ví dụ một số người trong số họ đã đến Trung Quốc như nhà du hành Giovanni da Pian del Carpini dưới thời Oa Khốt Đài hay nhà du hành người Ý Marco Polo tới Bắc Kinh dưới thời Hốt Tất Liệt, là những người đã viết sách trong chuyến du hành của họ với một độ chính xác cao. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn, mọi "cá nhân và tơn giáo là bình đẳng trước pháp luật Mơng Cổ". Vì sự mở rộng đế chế của ơng, Thành Cát Tư Hãn đã cĩ ảnh hưởng sâu rộng trong văn hĩa của nhiều quốc gia châu Á, chủ yếu là Trung Quốc và Nga. Ơng đã tiêu diệt tầng lớp quý tộc hiện thời trong các vùng lãnh thổ của mình, tạo ra tầng lớp trí thức thơ sơ trong thời kỳ đĩ. Ơng cũng tạo ra hệ thống bưu chính rộng lớn và mở rộng sự phổ biến của việc sử dụng hệ thống chữ cái thế giới, mặc dù trong nhiều năm người ta vẫn tin rằng ơng là người thất học vì sự xuất hiện gần đây của chữ viết cũng như tuổi tác của ơng tại thời điểm thi hành điều đĩ. Tuy nhiên, gần đây theo các phát kiến của các nhà sử học Mơng Cổ và Trung Quốc ta thấy ơng là người cĩ học thức cao. Các văn bản viết tay được cho là của ơng cũng như nội dung của chúng cho thấy ơng cĩ thể đọc các bài thuyết pháp của Lão giáo [1]. Thương mại và du lịch trong lãnh thổ Trung Quốc, Trung Cận Đơng và châu Âu được phát triển mạnh mẽ bởi sự ổn định chính trị nhất mà Đế chế Mơng Cổ đã đem lại khi thiết lập lại Con đường tơ lụa. Ơng giảm các hình phạt trong các khu vực của mình, miễn giảm thuế cho các lang y và thầy đồ, và thiết lập sự tự do tơn giáo. Các ngơn ngữ khác như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ được phát triển và các loại hình tơn giáo đã nảy nở do cĩ tự do tơn giáo. Quân đội Mơng Cổ về sau bao gồm rất nhiều người của các nền di sản khác nhau. Người Mơng Cổ mở đầu cho phần lớn châu Á biết đến bàn tính và la bàn cũng như cho châu Âu biết đến thuốc súng và thuốc nổ được phát minh bởi người Trung Quốc cũng như các phương tiện chiến tranh vây hãm mà người Trung Quốc đã phát triển để đối phĩ với người châu Âu. Ơng cũng là người thống nhất các bộ lạc Mơng Cổ, là điều mà một số người cho là thành tựu đáng kể nhất của ơng. Người ta cũng cho rằng ơng là người đầu tiên ngăn chặn sự phân chia bắc và nam Trung Quốc được bắt đầu từ thời kỳ nhà Tống. Liên quan đến việc thống nhất Mơng Cổ (một trong những thành tựu ấn tượng nhất của ơng) là ơng đã kiểm sốt tốt để giành được sự hậu thuẫn của người Mơng Cổ Ơng tổ chức quân đội Mơng Cổ thành các nhĩm theo cơ số 10 (10 lính là một arban (thập hộ), 100 là một zuun (bách hộ), 1.000 là một myangan (thiên hộ), 10.000 là một tumen (vạn hộ)) và mỗi một nhĩm binh sĩ cĩ một thủ lĩnh cĩ trách nhiệm báo cáo với cấp trên cho đến tận tumen. Cơ cấu mệnh lệnh này tạo ra một sự mềm dẻo cao và cho phép quân đội Mơng Cổ cĩ khả năng tấn cơng ồ ạt, chia thành các nhĩm nhỏ hơn để bao vây và dẫn dắt kẻ thù vào trong mai phục hay chia thành các nhĩm nhỏ 10 người để áp chế các nhĩm tàn quân đã tan vỡ và đang trốn chạy. Quân đội Mơng Cổ là rất mềm dẻo vì sự kiên định của binh sĩ. Mỗi người lính Mơng Cổ cĩ thể cĩ từ 2 đến 4 ngựa cho phép họ phi nước đại trong vài ngày mà khơng cần nghỉ ngơi hay bị mệt mỏi. Binh sĩ Mơng Cổ cũng cĩ thể sống vài ngày chỉ cần uống máu ngựa và ăn thịt bị Tây Tạng khơ khi thời tiết khắc nghiệt. Khi bổ sung binh lính mới cho quân đội, Thành Cát Tư Hãn chia họ ra thành nhiều nhĩm dưới quyền của các thủ lĩnh khác nhau để tránh tình trạng cĩ quan hệ về sắc tộc hay xã hội, vì thế ở đây khơng cĩ sự phân chia theo các liên minh sắc tộc. Trong mọi chiến dịch, binh sĩ được phép đem theo gia đình của họ. Chỉ những chiến binh dũng cảm nhất mới được thăng chức. Mỗi một thủ lĩnh của một nhĩm nào đĩ phải chịu trách nhiệm về sự sẵn sàng chiến đấu của binh lính dưới quyền tại bất kỳ thời điểm nào và cĩ thể bị thay thế nếu như phát hiện được sự tắc trách. Binh lính Mơng Cổ là các khinh kỵ binh (kỵ binh nhẹ) so với các kỵ sĩ châu Âu, điều này cho phép họ tiến hành các chiến thuật và rút lui nhanh ***ng. Đây là một thơng lệ đối với các đội quân linh hoạt. Người Mơng Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ơng là sự hồn hảo của loại hình quân khinh kỵ bắn cung. Một trong những kỹ thuật mà người Mơng Cổ sử dụng trong chiến tranh là sự giả vờ rút lui giữa trận đánh, quân Mơng Cổ cĩ thể rút lui bất thình lình, làm cho quân đối phương tin rằng người Mơng Cổ đã thua trận. Chỉ sau đĩ trong một khoảng cách nhất định thì họ mới hiểu là đã bị quân Mơng Cổ bao vây và cuối cùng là hàng trận mưa tên bắn về phía họ. Người Mơng Cổ khơng thích hợp với các cuộc cận chiến, họ thích đánh nhau từ một khoảng cách nhất định bằng cung tên với khả năng bắn cung khi đang cưỡi ngựa điêu luyện của mình. Trong các cuộc chiến, thủ lĩnh quân đội Mơng Cổ cĩ thể sử dụng cờ hay kèn hiệu để thực hiện chiến lược, chiến thuật của mình. Đối với người Mơng Cổ, chiến thắng cĩ vẻ như là vấn đề quan trọng nhất và họ khơng thể chấp nhận thua trận cũng như mất người bởi vì họ bị thua sút về tiếp viện (ít nhất là hai lần thấp hơn trong phần lớn các trận đánh nếu tính theo lượng binh sĩ) cũng như họ phải di chuyển xa lãnh thổ của mình. Như đã đề cập trên đây, vũ khí chủ yếu của người Mơng Cổ là cung của người Hun và kiếm lưỡi cong, nhẹ và hiệu quả để mang vác và đánh nhau hơn là kiếm dài và nặng của người châu Âu. Một quy tắc đơn giản trong giao tranh đã được làm rõ trong thời đại của Thành Cát Tư Hãn là nếu hai hay nhiều hơn binh sĩ tách khỏi nhĩm của họ mà khơng cĩ sự chấp thuận của thủ lĩnh thì họ phải chết. Kiểu giao tranh của người Mơng Cổ cĩ vẻ như là phương thức tự nhiên nhất của cuộc sống du cư của họ, nĩ cĩ nghĩa là trong các cuộc viễn du thì phải cĩ hành lý gọn nhẹ nhất cũng như tốc độ và sự linh hoạt lớn hơn. Do thế Thành Cát Tư Hãn đã bổ sung thêm một thành phần quan trọng, đĩ là kỷ luật nghiêm minh đối với quân đội của ơng mà nĩ là tương tự như các đội quân khác của thảo nguyên trong thời gian dựa vào kiểu chiến tranh bằng khinh kỵ binh với cung tên. Triết lý quân sự của Thành Cát Tư Hãn nĩi chung là đánh bại kẻ thù với ít tổn thất và rủi ro nhất cho người Mơng Cổ, dựa trên lịng trung thành và tài năng trong việc lựa chọn các tướng lĩnh và binh sĩ. Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện rất thành cơng các kiểu chiến tranh tâm lý, đặc biệt trong các việc mở rộng sự đe dọa, khủng bố đối với các thành phố, thị trấn khác. Nếu ơng nhận thấy là ở đĩ cĩ sự chống cự, ơng cĩ thể đưa ra cơ hội để họ đầu hàng và cống nộp. Nếu lời đề nghị bị từ chối, ơng cĩ thể tiêu diệt cả thành phố hay thị trấn đĩ nhưng cho một số người chạy trốn để loan truyền tin về tổn thất của họ cho cư dân của các thành phố khác. Một khi những tin đồn về sức mạnh của đội quân của ơng đã loang rộng thì rất khĩ cho các thủ lĩnh của các thành phố đĩ trong việc thuyết phục người dân của họ chống lại Thành Cát Tư Hãn. Quan điểm của Thành Cát Tư Hãn đối với các kẻ thù là: hoặc đầu hàng và chịu cống nộp hoặc là chết. Khi họ đã đầu hàng, Thành Cát Tư Hãn thơng thường giữ cho thành phố đĩ được nguyên vẹn và đảm bảo cho họ sự bảo vệ để họ trở thành nguồn nhân lực và quân nhu cho các chiến dịch trong tương lai. Nếu họ chống lại, ơng thực hiện quyền của người cai trị cả thế giới. Người ta cho rằng ơng đã giữ được nhiều sinh mạng nhờ chiến tranh tâm lý và sự hăm dọa đối với kẻ thù. Cơng nghệ là một mặt quan trọng trong chiến thuật của ơng. Những thiết bị vây hãm là một phần trong chiến thuật của ơng, đặc biệt trong việc tấn cơng các thành phố đã tăng cường phịng thủ. Ơng sử dụng các nhà kỹ thuật Trung Quốc rất am hiểu các thiết bị vây hãm trong thời gian đĩ trong quân đội của mình. Các thiết bị vây hãm này được tháo rời và vận chuyển bằng ngựa và được lắp ráp lại ở nơi mà chúng cần sử dụng. Trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh điển hình và các biến thái của nĩ, trước khi xâm chiếm, Thành Cát Tư Hãn và các tướng lĩnh của ơng thực hiện việc chuẩn bị tích cực ở Kurultai để quyết định xem sẽ chỉ đạo cuộc chiến tranh sắp tới như thế nào cũng như các tướng nào cần tham gia; cĩ nghĩa là họ cĩ thể tích lũy kiến thức hồn hảo hơn từ những kẻ thù của mình, sau đĩ sự khiêu chiến sẽ được tính tốn, và sau đĩ họ quyết định bao nhiêu đơn vị là cần thiết. Ở phía khác, các tướng Mơng Cổ là những chiến binh với mức độ độc lập cao trong các quyết định khi họ tỏ rõ lịng trung thành với Thành Cát Tư Hãn trong một thời gian dài, điều này làm giảm thiểu sự kiểm tra, giám sát của ơng đối với họ trong thời gian diễn ra chiến dịch. Vì bản chất nhẹ của quân đội Mơng Cổ, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng một mạng lưới tình báo phức tạp trong quân đội Mơng Cổ cũng như trong các mạng lưới thương mại hay các nước chư hầu, trong đĩ tình báo cĩ thể nhanh ***ng đến được mọi ngõ ngách của đế chế Mơng Cổ. Người ta cho rằng, để chuẩn bị cho chiến tranh, các tướng cĩ thể cử 200 kỵ binh đi theo 4 hướng khác nhau để do thám các hoạt động của kẻ thù và đơi khi binh sĩ đi tới 300 km trong 1 hay 2 ngày, điều này là thơng thường trong thời đại của đội quân Mơng Cổ. Mặc dù chiến chiến lược của người Mơng Cổ là cĩ sự thay đổi tùy theo phản ứng của kẻ thù, nhưng kỹ thuật của họ cĩ thể vẫn chỉ là một. Người Mơng Cổ giao chiến theo hàng dọc, thơng thường cĩ ba cánh quân, hai cánh bên hơng cĩ thể tách ra từ cánh quân trung tâm khi họ tính tốn xem nơi nào họ cĩ thể thọc vào. Các cánh quân bên hơng cĩ quân số tương đương cĩ thể đi sâu vào lãnh thổ kẻ thù và bắt đầu chơn vùi kẻ thù bằng các tốn quân Mơng Cổ được chia thành các cơ, đội 10, 100, 1.000, 10.000 binh sĩ với các thủ lĩnh của họ, nĩ tạo ra một lực lượng chiến đấu rất tinh tế và cĩ tổ chức cao, gần như khơng thể ngăn chặn nổi bởi những đội quân nơng dân của người châu Âu hay Trung Quốc. Khi họ hiện diện ở một nơi nào đĩ và do thám các thành phố và cánh đồng xung quanh, họ cĩ thể bằng cách nào đĩ nhập lại với cánh quân trung tâm và đưa ra địn đánh quyết định với đội quân chính của kẻ thù. Tư tưởng và ưu thế của việc sử dụng các lực lượng bên hơng là lan truyền đe dọa, khủng bố (người Mơng Cổ rất giỏi việc này), thu thập tin tức tình báo từ các kẻ thù của họ và loại bỏ các đơn vị nhỏ hơn của kẻ thù để khơng cho họ khơng thể hỗ trợ lẫn nhau. Nĩi cách khác, nĩ là một dạng của khái niệm phân chia và chế ngự. Các cánh quân bên hơng này gửi các thơng điệp thơng qua tình báo cho các cánh quân khác về những gì xảy ra trên hướng của họ và họ cĩ cần sự hỗ trợ từ các cánh quân đĩ hoặc hỗ trợ các cánh quân đĩ hay khơng. Quân đội Mơng Cổ cĩ các cuộc giao chiến với các đội quân nhỏ lẻ trên các cánh đồng trước khi tiêu diệt lực lượng đối địch chính, điều này làm tăng ưu thế của họ trong việc loại trừ khả năng thơng tin từ một thành phố cho các thành phố khác của kẻ thù (mà cĩ thể cĩ được sự hỗ trợ từ đĩ). Người Mơng Cổ giỏi chiến tranh vây hãm, giỏi làm lệch dịng chảy của các dịng sơng cũng như lương thực, thực phẩm cho các thành phố và gửi những người tỵ nạn tới các thành phố khác để tạo căng thẳng về kinh tế-xã hội cho các thành phố này (lương thực, thực phẩm, nơi ăn ở v.v). Khi trận đánh chính hay sự vây hãm đã kết thúc, người ta cho rằng quân đội Mơng Cổ truy đuổi thủ lĩnh của kẻ thù cho đến khi ơng ta hồn tồn suy sụp để làm ơng ta khơng thể đến điểm thu thập quân đội của mình sau trận đánh. Phần lớn thời gian thủ lĩnh của kẻ thù phải chạy trốn đã nhận ra rằng họ cĩ lẽ đã thua cuộc, nhưng các lực lượng Mơng Cổ truy đuổi cho đến khi họ chắc chắn rằng những kẻ này đã chết Nhận thức về ơng : Thành Cát Tư Hãn là nhân vật bị phân cực nhiều nhất trong cách đánh giá của người phương Đơng và phương Tây. Ở phương Tây và Trung Đơng, hình ảnh của ơng là khơng tích cực lắm vì ơng đã giết quá nhiều người cũng như là mối đe dọa đối với cuộc sống và tài sản của họ. Tuy nhiên, ở phương Đơng thì ơng là một trong những lãnh tụ cĩ ảnh hưởng to lớn đối với lịch sử. Ngày nay, những người Mơng Cổ tìm thấy ở ơng như là người sáng lập ra và thống nhất Mơng Cổ, là điều mà họ khơng thể cĩ được trước khi cĩ ơng. Ngược lại, ở Trung Đơng, người ta cĩ cách đánh giá hơi pha trộn về ơng và các hậu duệ của ơng vì quân đội của họ đã xâm chiếm và tiêu hủy thành Baghdad, nhưng cuối cùng thì một số trong quân đội Mơng Cổ đã chuyển sang theo đạo Hồi và cĩ cuộc sống hịa trộn với dân bản xứ. Một số trường phái và các nhà khoa học, phụ thuộc vào gốc gác của họ, cho rằng những người Mơng Cổ là những người xây dựng hay những kẻ hủy diệt vĩ đại nhất. Thành Cát Tư Hãn và những người Mơng Cổ là một trong những chủ đề trái ngược nhau theo các cách hiểu khác nhau tùy theo vị trí mà ta xem xét, trong đĩ tiêu cực nhất là từ châu Âu và Trung Đơng là những nơi đã từng bị đe dọa và tiêu diệt (ví dụ: châu Âu, Ba Lan, Hungary, một phần của Nga). Nhìn nhận về Thành Cát Tư Hãn ở Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa ngày nay là mâu thuẫn vì các nhà sử học Trung Quốc vừa nhìn thấy ở ơng mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Trong khi người ta nhận thức được những tổn thất nặng nề mà ơng gây ra, thì hình ảnh của ơng trong một phương diện nào đĩ được nhìn nhận tốt hơn do ơng đã đưa các sự kiện gây ra sự chia rẽ bắc-nam Trung Hoa cĩ từ thời nhà Tống đi vào dĩ vãng. Ngồi ra, sự phỉ báng Thành Cát Tư Hãn là một sự xúc phạm ghê gớm đối với các cơng dân Trung Quốc cĩ nguồn gốc Mơng Cổ, là những người mà giống như bà con của họ ở Mơng Cổ coi Thành Cát Tư Hãn như một người anh hùng dân tộc và xu hướng trong lịch sử Trung Quốc hiện đại đã tránh nĩi tới điều đĩ. Di sản: Các hậu duệ của ơng đã mở rộng quốc gia của ơng rộng hơn về phía nam Trung Quốc, Nga, Iraq, Triều Tiên và Tây Tạng. Người Mơng Cổ cuối cùng đã xâm chiếm Ba Lan và Hungary dưới triều đại của Hãn vương Batu cũng như các mức độ khác nhau của sự thành cơng đối với Syria, Nhật Bản và Việt Nam (vì các lý do như khí hậu nĩng bức, nhất là ở Trung Đơng như Ả Rập Saudi). Việc mở rộng về phía châu Âu bị ngừng lại do nhiều lý do như các thành viên cao cấp của người Mơng Cổ phải quay về Mơng Cổ (ngày nay) để bầu đại hãn mới hay do sự kháng cự của người châu Âu quá mạnh v.v. Người Mơng Cổ đã cĩ thể xâm chiếm tồn bộ châu Âu do họ xâm chiếm Ba Lan và Hungary chỉ trong thời gian khoảng một vài tháng. Đế chế Mơng Cổ đạt tới cực đại của nĩ vào thời của cháu nội ơng, đại hãn Hốt Tất Liệt, nhưng sau đĩ đã bị chia sẻ thành nhiều hãn quốc nhỏ và ít sức mạnh hơn. Vào thời cực thịnh, Đế chế Mơng Cổ là lớn nhất trong lịch sử lồi người, trải dài từ Đơng Nam Á tới châu Âu trên một diện tích 35 triệu km vuơng (13,8 triệu dặm vuơng). Theo một số nguồn, đế chế này chiếm tới gần 50% dân số thế giới và bao gồm các dân tộc đơng dân và văn minh nhất thời kỳ đĩ như Trung Quốc và phần lớn các quốc gia của thế giới Hồi giáo ở Iraq, Ba Tư và Tiểu Á. Cũng khơng thể phủ nhận là những cuộc chiến tranh của Thành Cát Tư Hãn được đặc trưng bởi sự phá hủy tồn bộ trong một mức độ chưa hề cĩ cũng như sự thay đổi lớn trong phân bố dân cư châu Á. Theo như các số liệu của các nhà sử học Iran như Rashid-ad-Din Fadl Allah, thì người Mơng Cổ đã giết khoảng trên 70.000 dân ở Merv và trên một triệu dân ở Nishapur. Trung Quốc cũng chịu sự suy giảm bi thảm về dân số. Trước khi người Mơng Cổ xâm lược Trung Quốc cĩ khoảng 100 triệu dân; sau khi hồn thành việc xâm lấn năm 1279, điều tra dân số năm 1300 cho thấy chỉ cịn khoảng 60 triệu dân. Điều này khơng cĩ nghĩa là những người của Thành Cát Tư Hãn phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với cái chết của 40 triệu người nhưng nĩ cho thấy mức độ của sự tàn bạo trong các cuộc giao tranh. Trong thời gian gần đây, Thành Cát Tư Hãn đã trở thành biểu tượng của những cố gắng của người Mơng Cổ để thế giới thấy được hình ảnh của họ sau những năm dài ngủ quên. Hình ảnh Thành Cát Tư Hãn xuất hiện trên những đồng tiền Mơng Cổ và nhãn mác của các loại rượu mạnh. Trong thế giới phương Tây ơng thường được gắn với sự khát máu và man rợ. Các hãn Mơng Cổ sau này cổ vũ dân chúng tưởng niệm tới ơng như một vị thánh thần tơn giáo trong tồn đế chế. Khơng cĩ Thành Cát Tư Hãn cĩ lẽ đã khơng cĩ Mơng Cổ, bởi vì đế chế Mơng Cổ đã co lại từ những cái mà Thành Cát Tư Hãn đã dựng lên từ năm 1206. Sự miêu tả cĩ ý nghĩa về Thành Cát Tư Hãn và những người Mơng Cổ (dẫu cho khơng phải thực tế lắm) được viết trong cuốn sách "Những bí mật của lịch sử Mơng Cổ". Cuộc thẩm tra di truyền gần đây (Zerjal et al. 2003, Các trang báo dạng *.pdf) tìm thấy các đoạn nhiễm sắc thể Y trong 1/12 đàn ơng trong khu vực thuộc đế chế Mơng Cổ và 1/200 đàn ơng trên thế giới. Tuổi của các đoạn này, tương ứng với tỷ lệ của sự biến đổi, đã đưa nguồn gốc của chúng về thời đại của Thành Cát Tư Hãn, và nĩ đặc biệt là chung trong những người Hazara, là những người tự nhận là hậu duệ của ơng. Ơng được nhớ đến vì sự hủy diệt tồn bộ, sức mạnh ý chí mãnh liệt, khả năng thuyết phục và đặc trưng Mơng Cổ của mình đối với mọi người. Chương IV: Bí mật lăng mộ Thành Cát Tư Hãn. Nơi an nghỉ cuối cùng của Hồng đế Mơng Cổ Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) đến này vẫn là một ấn số chưa cĩ lời giải. Các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều bằng chứng về lăng mộ của ơng.  Tháng 9/2001, đồn khảo cổ Mỹ và Mơng Cổ phát hiện ở gần vùng núi Binder cách Ulanbator, thủ đơ Mơng Cổ, 360km một quần thể 40 ngơi mộ, 3 phía được bao bọc bởi bức tường đá cao 3– 4m, tổng chiều dài gần 3km.  Giữa khu này cĩ một khối đá đỏ và đây được xem như là lâu đài của Thành Cát Tư Hãn.  Ở phía nam quần thể này, bằng những thiết bị chuyên dụng, các nhà khoa học đã phát hiện hài cốt của hơn 60 người. Theo những binh giáp và vũ khí tìm thấy, những người này thuộc tầng lớp quý tộc Mơng Cổ. Các nhà khảo cổ cho rằng trong số đĩ cĩ Thành Cát Tư Hãn. Cách địa điểm này 56km, cĩ một ngơi mộ tập thể chơn khoảng 100 binh sĩ Mơng Cổ. Các nhà khoa học Mỹ cho rằng, theo truyền thuyết, đĩ chính là những binh sĩ sau khi chơn cất vị thống sối đã bị giết để khỏi lộ vị trí ngơi mộ của ơng. Đồn thám hiểm cuối cùng cũng khơng chứng minh được trong quần thể này cĩ hài cốt của Thành Cát Tư Hãn hay khơng. Sau đĩ khơng lâu, một nhân viên bảo tàng ở Mãn Châu tuyên bố đã tìm thấy mộ của Thành Cát Tư Hãn. Theo phía Trung Quốc, mộ của ơng nằm ở phía bắc thuộc khu tự trị Nội Mơng, gần biên giới với Mơng Cổ, dưới chân dãy núi Altai. Nhưng rồi tin này cũng bị chìm vào lãng quên. Năm 2004 đồn thám hiểm Mơng Cổ-Nhật Bản khi khai quật vùng Avraga (Mơng Cổ) phát hiện nền mĩng tịa nhà cĩ hình dáng bề ngồi giống cung điện của Thành Cát Tư Hãn được lưu trong sử sách. Các nhà khoa học tìm thấy một bệ thờ bằng đá và các bát hương cổ Trung Quốc cĩ chạm hình con rồng. Sử sách ghi lại rằng, gần mộ Thành Cát Tư Hãn cĩ các bát hương hình dáng như vậy luơn tỏa khĩi nghi ngút. Ở gần cung điện cịn cĩ 4 hố sâu, đường kính 1,5m, trong đĩ là xương gia súc, tàn tro vải lụa. Theo tục lệ Mơng Cổ sau khi chơn cất các khan (chức danh của giới quý tộc Mơng Cổ) người ta đào hố, thiêu gia súc và đổ sữa ngựa vào đĩ với quan niệm rằng người quá cố sẽ cĩ thực phẩm dùng ở thế giới bên kia. Tất cả cho thấy đây là nơi chơn cất của một vị quý tộc rất cĩ thế lực đáng tơn kính Mơng Cổ. Nhưng đĩ cĩ phải Thành Cát Tư Hãn khơng vẫn cịn là điều bí ẩn. Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227 (năm Hợi) trong một cuộc hành quân đi chinh phục thế giới. Cĩ nhiều giả thiết về cái chết của ơng: bị trúng tên khi chiến đấu, bị bệnh nặng kéo dài, bị ngã ngựa, bị sét đánh, thậm chí là bị người đẹp giết trong đêm vui vẻ. Để cho vị hồng đế khơng bị người đời sau quấy rối, người ta đã chơn ơng trên thảo nguyên rồi cho đàn ngựa hàng nghìn con quần thảo xĩa mọi dấu vết. Theo một giả thuyết khác, người ta đắp đập ngăn sơng cho nước chảy ra hướng khác rồi chơn quan tài xuống đáy sơng, sau đĩ phá đập cho nước chảy về theo hướng cũ, và dịng nước sẽ vĩnh viễn che kín ngơi mộ. Thành Cát Tư Hãn, Temujin , Sĩi và trăng..... "Temujin ( Temüjin) là tiếng Mơng Cổ ( Mongolian : Тэмүүжин ) nghĩa là Small Wolf, cũng là tên hồi bé của Thành Cát Tư Hãn, tui thích Sĩi và thần tượng Thành Cát Tư Hãn nên lấy nick Temujin "....Mỗi khi phải giới thiệu về mình, Temujin thường sử dụng đoạn đĩ, nhưng chắc chắn 1 điều rằng, chưa bao giờ Temujin giải thích lý do vì sao mình thần tượng TCTH cũng như thích Sĩi... Sinh ra với 1 bàn tay nắm chặt, khi mở ra thì cĩ 1 vệt máu trong đĩ...TCTH được tiên đốn sẽ là người hiếu sát, gây ra nhiều cảnh máu chảy đầu rơi...vì thế ơng được đặt tên là Temujin - Con sĩi nhỏ - với mong muốn sẽ vùng vẫy khắp thảo nguyên rộng lớn, sẽ bớt tính hiếu sát, bớt gây đau khổ...nhưng số mệnh của ơng đã được định đoạt từ trước khi sinh.....ơng đã trở thành vị tướng / vị hồng đế tài danh nhất trong lịch sử với 1 thuộc địa rộng lớn - nếu như lúc trước nữ hồng Elizabeth đã từng tuyên bố : " Mặt trời ko bao giờ lặn ở vương quốc Anh" ( thuộc địa của Anh trải dài ) thì TCTH cĩ thể cười và nĩi rằng, tất cả thuộc địa của Anh ko bằng 1/3 thuộc địa của Mơng Cổ...Người ta đã tính tốn và chỉ ra rằng, cộng tất cả các thuộc địa của Napoleon và Ceasar lại với nhau, thì chỉ cĩ thể bằng 1/2 so với thuộc địa của Mơng Cổ thời hùng mạnh nhất....và hẳn chúng ta cũng được nghe câu : "Vĩ ngựa Nguyên Mơng đi đến đâu, cỏ nơi đĩ mọc ko được" như thế cũng đủ nĩi lên sức mạnh của quân Mơng Cổ....tất nhiên, tui biết sẽ cĩ người nĩi là VN từng đánh thắng quân Nguyên Mơng 3 lần...nhưng xin xem lại lịch sử  Lúc đĩ ko phải là thời cực thịnh của Mơng Cổ, và lúc đĩ TCTH đã qua đời từ thuở nảo thuở nao rồi , những chuyện mà ít người biết...xây dựng bộ lạc từ 10 người, trong đĩ chỉ cĩ 3 con trai, trải qua biết bao nhiêu gian khổ khĩ khăn để hùng mạnh...1 chuyện ko phải ai cũng làm được  ..... Quân đội Mơng Cổ là một đội quân ơ hợp - nghĩa là mỗi vị tướng cĩ quân riêng của mình, thích thì đi theo, ko thích thì cĩ thể mang quân mình đi nơi khác....Đội quân của TCTH cũng thế, và trong đội quân của mình, cũng cĩ nhiều người ghen ghét TCTH , nhưng chưa cĩ cơ hội để làm phản....Theo " luật " khi thắng trận, binh lính cĩ quyền vơ vét tài sản, của cải và cả phụ nữ, cịn tồn bộ đàn ơng thì đem chém.... Một lần nọ trong thành địch cĩ 1 vị hiền tài,TCTH muốn đem về làm quân sư cho mình, và vị hiền tài đĩ ra điều kiện là TCTH phải ra lệnh cho quân lính ko được cướp bĩc, phải tha cho tất cả các đàn ơng trong thành thì ơng mới chịu làm quân sư....và TCTH đã làm gì ? Nếu đồng ý thì đi ngược lại với luật của bộ tộc từ ngàn xưa, cĩ thể bị những người ghen ghét lấy cớ làm phản, nhưng nếu ko đồng ý thì bị mất đi 1 người tài...Và dĩ nhiên, ơng đồng ý....để sau đĩ vị hiền tài này đã cĩ những đĩng gĩp to lớn ( như dùng chữ viết để ghi lại luật lệ / thơng báo...,phát minh ra vũ khí, giúp TCTH tổ chức lại quân đội... ) Ai cũng nghĩ rằng 1 kẻ ham đánh chiếm, xâm lăng như TCTH thì sẽ là 1 bạo chúa, nhưng cĩ ai tin rằng TCTH chỉ cĩ 2 vợ  - 1 con số khĩ tin - trong đĩ vợ cả của ơng, từng là bị gả cho nơ lệ ( tầng lớp thấp nhất trong xã hội - TCTH cũng từng thua trận, và vợ ơng lúc đĩ khi bị bắt đã bị quân thù gả cho nơ lệ để sỉ nhục ,nhưng khi đánh thắng, và giành lại được vợ, ơng vẫn xem đĩ là vợ mình, vẫn yêu thương vì người vợ cả đã ở cùng ơng từ lúc ơng khĩ khăn nhất....), cịn vợ 2 của ơng là con gái của ân nhân, trước khi chết ,người đĩ muốn TCTH thay ơng chăm sĩc con gái của mình..... TCTH cịn rất cĩ hiếu, luơn luơn nghe lời mẹ...và khi mẹ mất,ơng đang ở xa, trong 1 trận đánh dang dở, mất hàng tháng vẫn chưa chiếm được thành, khi chỉ cần đánh thêm 1 trận nữa là chiếm được thành thì tin mẹ mất đến tai ơng...ơng quyết định thu quân, trở về để tang mẹ....Và sau đĩ ơng mất vì đau buồn và già yếu.... Thành Cát Tư Hãn: Vua của cả thế giới Thành Cát Tư Hãn tên thật là Thiết Mộc Chân. Ơng sinh năm 1162 trong một gia đình quí tộc chủ nơ bên bờ sơng Oát-nan. Gia đình Thiết Mộc Chân thuộc dịng họ Bột Nhi Chỉ Cân, bố tên là Dã Tốc Cai, là một trong những quí tộc cĩ thế lực cường thịnh nhất trên thảo nguyên thuộc lưu vực sơng Oát- nan. Dã Tốc Cai là con người thơng minh, sáng suốt, kiên cường, dũng cảm. Một hơm, Dã Tốc Cai đi chinh phục bộ lạc Tác Ta trở về, vừa đúng lúc vợ ơng sinh ra một đứa bé trai. Để kỷ niệm trận chiến thắng vừa giành được, Dã Tốc Cai liền đặt tên con là Thiết Mộc Chân (theo tiếng Mơng Cổ thì từ này cĩ nghĩa là kiên cường). Khi Thiết Mộc Chân lên 9 tuổi, bố ơng bị kẻ thù ở bộ lạc Tác Ta đánh thuốc độc chết. Lợi dụng việc này, bộ lạc Thái Xích Ơ trước đây lệ thuộc họ Dã Tốc Cai cũng nổi dậy làm phản. Trước khi đi, họ cịn cướp hết tồn bộ gia súc, nơ lệ và tài sản của nhà Dã Tốc Cai làm cho dịng họ này bỗng nhiên bị suy sụp, chỉ cịn hai bàn tay trắng. Để duy trì cuộc sống của các con, mẹ Thiết Mộc Chân cĩ lúc phải đi đào cây, rễ cỏ hoặc bắt tơm tép ăn cho đỡ đĩi. Năm 28 tuổi, ơng được quí tộc của dịng họ lận cận bầu là Khả Hãn (tức là tù trưởng bộ lạc). Thiết Mộc Chân bắt tay chấn chỉnh, xây dựng lực lượng vũ trang, thiết lập cơ cấu hành chính, tăng cường quyền lực cá nhân, chuẩn bị thống nhất tồn cõi Mơng Cổ. Năm 1206, tồn bộ quý tộc Mơng Cổ dự hội thề bên sơng Oát-Nan, tơn Thiết Mộc Chân làm Đại Hãn tồn Mơng Cổ, đặt hiệu là Thành Cát Tư Hãn. Vị thống sối cao nhất tồn Mơng Cổ lúc đĩ mới 51 tuổi. Sau khi thống nhất được Mơng Cổ, Thành Cát Tư Hãn thực hiện nhiều chính sách chấn hưng đất nước. Ngồi việc ban bố pháp điển và xác định văn tự của ngơn ngữ Mơng Cổ, ơng cịn thiết lập chế độ hành chính quân sự, như: thập hộ, bách hộ, thiên hộ, vạn hộ. Người đứng đầu trăm hộ thì phụ trách mười đơn vị mười hộ, người đứng đầu nghìn hộ thì phụ trách mười đơn vị trăm hộ, người đứng đầu vạn hộ thì phụ trách mười đơn vị ngàn hộ. Về quân đội, ơng chia tồn Mơng Cổ thành ba phương diện quân là tả quân, trung quân và hữu quân (tương đương với quân khu ngày nay). Thể chế dân sự và quân sự kết hợp làm một như vậy thể hiện đặc điểm của dân tộc du mục, đĩ cũng là cơ sở để xây dựng một đạo quân kỵ binh mạnh mẽ, là điều kiện quan trọng đảm bảo nguồn cung cấp lính khơng bao giờ cạn cho những năm tháng chinh chiến liên miên của Thành Cát Tư Hãn sau này. Trong vịng ba năm, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng được một đạo quân kiểu mới rất mạnh mẽ, ơng quyết tâm dùng lực lượng vũ trang này để bảo vệ chính quyền Mơng Cổ non trẻ, sau đĩ thực hiện mục tiêu xa hơn là đánh vào Trung Nguyên cướp ngơi hồng đế. Mục tiêu tấn cơng đầu tiên là triều đình nước Kim ở phía Nam. Ba lần tấn cơng vào nước Kim, quân Mơng Cổ đã làm quân Kim bị thiệt hại nặng nề. Năm 1227, một lần nữa, Thành Cát Tư Hãn đem quân đánh vào Tây Hạ, nhưng do vết thương và bệnh cũ tái phát, ơng chết giữa chốn ba quân, thọ 65 tuổi. Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đưa ra ý tưởng: “Liên Tống diệt Kim”. Ơng nĩi: “Tinh binh của Kim tập trung ở Đồng Quan (nay là Đồng Quan, tỉnh Thiểm Tây), phía nam thì chiếm Liên Sơn, phía bắc thì ngăn bởi Đại Hà (tức sơng Hồng Hà) nên rất khĩ tiêu diệt. Vì Tống và Kim thù địch lâu đời nên nếu mượn đường của Tống đánh Kim, thì chắc là Tống sẽ cho, sau đĩ cho quân vịng qua Đường (nay là Đường Hà, tỉnh Hà Nam), Đặng (nay là huyện Đặng, tỉnh Hà Nam) rồi đánh thẳng vào Đại Lương. Kim sẽ lấy quân từ Đồng Quan sang chi viện. Quân Kim dù cĩ mấy chục vạn nhưng hành quân đường xa, người, ngựa đều mệt mỏi, khơng thể tác chiến ngay được, đĩ là lúc ta đánh thắng được họ. Ý tưởng chiến lược này chứng tỏ Thành Cát Tư Hãn cĩ tầm nhìn xa, thể hiện ơng là một nhà quân sự biết chú ý đến tình hình khách quan, khai thác mâu thuẫn, phát huy thế mạnh của mình, đánh vào thế yếu của địch. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, con cháu của ơng tiếp tục cuộc tiến cơng về phía nam, phía tây, phía bắc, liên tục mở rộng bờ cõi, trước sau đã tiêu diệt nhà Kim, triều Nam Tống, một số nước ở Trung Á, ở Đơng Âu và nước Nga, hình thành một đế quốc rộng lớn từ châu Á sang châu Âu. Năm 1272, cháu của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu là Đại Nguyên, sáng lập ra triều Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và truy tơn Thành Cát Tư Hãn là Nguyên Thái Tổ.  Ðồn quân Mơng Cổ  Thời Trung cổ, nước Mơng Cổ, xét về dân số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã làm rung chuyển thế giới thời đĩ vì họ cĩ những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi cung tên và vơ cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mơng Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết sống ".  Thành Cát Tư hãn Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:   - 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ  - 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đơ Bắc Kinh của người Kim. Sau này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ  - 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đĩ là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư, Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.  - 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mơng tiến sang Âu châu, chiếm tồn vùng Caucasus, vượt sơng Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sơng Dnieper. Ơng hồng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mơng, nhưng đã bị Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thối trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đồn quân trung ương.  TOP - 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mơng Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mơng Cổ. - 1227: Thành Cát Tư Hãn chết.  Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha. - 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).  - 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.  - 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chĩc khắp vùng phía Bắc nước Nga .  - 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.  - Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.  - Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dịng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên minh là hồng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ơng.  - Cuối năm 1241, quân Mơng tiến vào nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sơng Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei  chết. Theo luật, các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mơng Cổ để bầu chọn vị đại hãn mớị. Nhờ thế mà Âu châu thốt được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt thối, quân Mơng Cổ cịn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và Serbia. - Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn. Dưới thời ơng, Ðức giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John di Piano Carpini, dịng Phanxicơ, tới các thủ lãnh Mơng Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu châu. Mới nắm quyền được ít lâu, cịn đang lưỡng lự nên trở lại chinh phục Âu châu trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì Kuyukchết vào năm 1248.  Mangu, tức Mơng Kha đại hãn và em là Kublai, tức Hơt Tât Liệt đại hãn  - 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là Mangu (cịn viết là Mengke, ta gọi là Mơng Kha) lên ngơi đại hãn. Mơng Kha quyết định thơn tính Á châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đĩ chia làm Bắc Tống và Nam Tống. Mơng Kha nắm quyền thống sối nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất đĩ là Hốt Tất Liệt (Kublai).  - Mơng Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thơn tính Ba Tư bao trùm khắp miền Ðơng Nam Á châụ Ðồng thời khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp vùng Ðơng Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và Bulgaria một lần nữa. - 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đĩ phái một đạo quân mở cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần thứ nhất vào năm 1257.  - 1259: Mơng Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngơi đại hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế quốc Mơng Cổ trải rộng từ tồn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đơ Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran ngày naỵ  - Nhận được tin Mơng Kha chết, người em là Mangu đang chiếm đĩng vùng Mesopotamia và Syria phải về Mơng Cổ để bầu đại hãn mới. Trong khi ơng vắng mặt thì, năm 1260, đạo quân của ơng đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến cơng của Baibars cĩ ý nghĩa hết sức quan trọng. Chứng minh đồn quân bách chiến bách thắng Mơng cổ suốt 70 năm khơng phải là khơng thể đánh bại,dấu hiệu suy thối đã biểu hiện và tồn Âu châu sẽ thốt nạn Mơng Cổ.   - 1268-1279: Hốt Tất Liệt khơng nuơi ý chí chinh phục thế giới như các đại hãn tiền nhiệm, ơng dốc hết khả năng để chinh phục tồn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngĩt mười năm. Năm 1263, ơng rời kinh đơ từ Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Ðơng, Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đĩ Hốt Tất Liệt cai trị tồn cõi Trung Hoa, xưng là hồng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ là quân Nguyên Mơng.  -Dịm ngĩ Nhật Bản: Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mơng sang đánh nước Nhật. Nhưng " nhờ Trời ", cả hai lần chiến thuyền của quân Nguyên Mơng đều bị bão táp đánh chìm vơ số, phải quay về.  - 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java (Nam Dương), nhưng khơng ở lại được.  - Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên Mơng xâm phạm bờ cõi nước ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm lăng đều chuốc lấy thảm bại. Theo như một nghiên cứu mới nhất của khoa học gia Tyler-Smith của trường đại học Oxford thì cĩ thể Thành Cát Tư Hãn là tổ tiên của 8% thanh niên Á Châu ngày nay. Cứ 12 thanh niên thì cĩ 1 người mang yếu tố nhiễm sắc thể giống như của dân Mơng Cổ. Sau khi nghiên cứu Y Chromosome (cái này chắc gọi là nhiễm sắc thể giới tính) của 2100 thanh niên khắp Châu Á. Tyler-Smith nhận thấy rằng chừng 8 phần trăm (8%) thanh niên này cĩ những chỉ số di truyền hồn tồn giống nhau hoặc tương tự nư nhau (identical or nearly identical DNA markers). Theo di truyền học thì hiện tượng này là do cùng một ơng tổ từ khoảng 1000 năm trước mà ra. Dựa theo sự tính tốn của các khoa học gia trường đại học Oxford thì sự kiện này khơng phải do ngẫu nhiên hoặc do quá trình đào thải tự nhiên mà cĩ được. Do đĩ các khoa học gia kết luận rằng sự kiện này chắc do Thành Cát Tư Hãn và các chiến sĩ Mơng Cổ tạo ra. Cũng theo Tyler-Smith, các thanh niên của một bộ tộc ở Pakistan tên là Hazara cĩ những chỉ số di truyền này giống nhau nhất. Bộ tộc Hazara này cĩ nguồn gốc từ Mơng Cổ và theo truyền thuyết thì họ là con cháu trực tiếp của Thành Cát Tư Hãn Các khoa học gia của Oxford University cho rắng những chỉ số di truyền này đã hiện diện trong những kỵ binh Mơng Cổ và cả Thiết Mộc Chân nữa rồi lan sang những dân tộc khác khi Thiết Mộc Chân đem quân xâm chiếm các vùng lân bang. Tính hiếu sát của Thành Cát Tư Hãn khi ơng này giết những người chống đối ơng ta, đặc biệt là thanh niên, cũng cĩ thể giúp cho những chỉ số di truyền đặc biệt này lan ra nhanh chĩng hơn trong những vùng bị Mơng Cổ thống trị. Hiện nay thì các khoa học gia đang tìm để khai quật mồ của Thành Cát Tư Hãn dể tìm xem Thiết Mộc Chân cĩ đích xác mang những chỉ số di truyền này hay khơng. Dù Thành Cát Tư Hãn là bậc siêu quần, một mình ơng khơng thể từ Đơng sang Tây thu phục mọi quốc gia, sắc tộc khác dưới vĩ ngựa thảo nguyên dồn dập của mình. Đại hãn Thiết Mộc Chân cĩ nhiều con cháu. Tất cả đều là bậc dũng tướng tài ba, mỗi người khai phá, xâm lăng một khu vực để tạo nên đế chế Mơng Cổ bát ngát từ Á sang Âu tự cổ chí kim chưa cĩ đế quốc nào sánh kịp. Việt Nam cũng từng bị con cháu của Thành Cát Tư Hãn xâm lăng. Đĩ là Hốt Tất Liệt, cháu nội Thành Cát Tự Hãn (mà trực tiếp dẫn binh là Thốt Hoan, con của Hốt Tất Liệt. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, hẳn các huynh đệ cịn nhớ người anh em kết nghĩa của Quách Tĩnh là Đà Lơi, con thứ tư của Thành Cát Tư Hãn. Con trưởng của Đà Lơi là Mơng Ca, người diệt Đồn Đại Lý của Nhất Đăng đại sư, chinh phục Tây Khang, Tây Tạng, một vùng đất phương Bắc Đơng Dương ngày nay. Đồn quân viễn chinh của Mơng Kha phía Tây tấn cơng đến tận kinh thành Bát đa của xứ sở 1001 đêm Iraq, phía Đơng tấn cơng Ấn Độ, Triều Tiên, mở ra một vùng đất rộng lớn của đế chế Mơng Cổ. Hốt Tất Liệt chính là em ruột Mơng Ca, con thứ tư của Đà Lơi. LÊn ngơi đại hãn nối tiếp truyền thống cha ơng, Hốt tất Liệt chính là người tiêu diệt nhà Nam Tĩng, thống nhất Trung Hoa. Chiếm được vùng đất văn hĩa tối cao của Đơng Á rồi, Hốt Tất Liệt mở rộng tham vọng làm chủ hồn tồn vùng Đơng Á với việc tấn cơng Nhật Bản, Miến Điện, Việt Nam. Trong cuộc tấn cơng Nhật Bản, mười vạn chiến binh đại hãn gồm các dũng tướng đến từ Mơng Hãn, Cao Ly đã bị trận bão lớn đánh đắm xuống vùng biển Nhật Bản.Trận Thần Phong năm Văn Vĩnh thứ 11 (1274) Hoằng An thứ 14 (1281) đã cứu cho con cháu của Thái Dương Thần Nữ, khi ấy dưới triều Nhật Hồng họ Đại Giác Tự Thống khỏi nạn bị giày xéo dưới vĩ ngựa thảo nguyên. Thực ra, Mơng Cổ khơng vì một trận bão mà bỏ qua tham vọng xâm lăng quần đảo Nhật Bản như vầng trăng khuyết nằm bên eo Thái Bình Dương. Vào thời điểm ấy Hốt Tất Liệt nhận được hung tin vài chục vạn quân của y đã thất bại bởi dịng Đơng A Đại Việt, bị chặn đứng trước tham vọng lấn về phương Nam, trước diệt Đại Việt, sau là Chiêm Thành, Chân Lạp, Nam Dương... Tạm ngưng kế hoạch tấn cơng Mơng Cổ, Hốt Tất Liệt phái thêm 30 vạn quân để năm sau đĩ tấn cơng Việt Nam lần thứ 3. Nguyên nhân khiến đạo quân thiện chiến, đã giày xéo từ Á sang Âu của Mơng Cổ phải dừng bước ở Việt Nam đã từng được nhiều người nhắc tới trong chủ đề các vị tướng tài ba trong lịch sử. Ở đây, tại hạ muốn nhắc đến chiến thuật dùng nhu chế cương của Hưng Đạo Vương. Vào một vùng đất mà khơng cĩ thức ăn, vườn khơng nhà trống, cũng chẳng cĩ súc vật để cướp, đàn bà để hiếp, đàn ơng để diệt, lại gặp mùa nĩng oi bức hầm hập của đất phương Nam thì cũng thật khĩ cho đồn quân quen lối đánh tung hồnh trên thảo ngu6yên, sa mạc ấy. Nhưng Đại Việt tổn thất chẳng phải nhỏ. Kinh thành bị phá tan hoang, mồ mả các vua Trần bị khai quật. Quân tướng chết cũng chẳng ít. Vậy chỗ đáng khen của quân dân Đại Việt ơ chỗ bất khuất kiên cường, quyết đánh đến cùng và biết tận dụng thời cơ và cách thúc để làm điều ấy. Cái chết của Thành Cát Tư Hãn Thành Cát Tư Hãn đánh Tây Hạ, giết phần lớn dân chúng Tây Hạ. Ơng cũng mất tại nơi ấy vào ngày 20 tháng 7 năm Đinh Hợi, 1227, thọ 73 tuổi. Nơi chết là ở huyện Thanh Thuỷ phía Đơng Cam Tuyền ngày nay. Hồng hậu Dã Toại ở liền bên cạnh đến lúc ơng mất. Xe chở quan tài bằng vàng của Thành Cát Tư Hãn về phía đơng, tới một nơi, bánh xe lún xuống đất bất động, rất nhiều ngựa khỏe kéo cũng khơng lên. Một người con hát giỏi hát rằng: Đại hãn ơi, người bỏ thiên hạ đi rồi, hồng hậu, hồng tử, thân tộc quê cũ đều đang chờ người về. Quê xưa nơi người sinh ra, cịn cách đây rất xa. Hồng hậu Bồ Nhi Thiếp, hồng hậu Hốt Lan, các bạn Bát Nhĩ Truật, Mộc Hoa Lê của người đều đang chờ người về. Vì các cơ gái ở Tây Hạ sinh đẹp nên người quên hết người thân ở đạ mạc hay sao?" Bài hát vừa chấm dứt, bánh xe lại chuyển động đưa di thể Thành Cát Tư Hãn về Mơng Cổ. Dọc đường những người đi đường đều bị giết sạch để khỏi làm lộ bí mật. Linh cữu của các đại hãn quàn ở các Cán nhi hoa để các hồng hậu lần lượt phát tang, sau cùng đem chơn ở núi Bất Nhi Hãn. Lúc Thành Cát Tư Hãn cịn trẻ bị người Miệt Nhi Khất Thích đuổi bắt, trốn vào núi Bất Nhi Hãn thốt được đại nạn. Núi Bất Nhi Hãn là nơi phát nguyên của sơng Cát Nạn và sơng Khiếp Lục Vận. Thành Cát Tư Hãn từng im lặng suy nghĩ rất lâu dưới một gốc đại thụ trong núi này, từng nĩi muốn được chơn cất dưới gốc cây ấy. Các con trai vâng theo di mệnh của ơng, sau khi chơn cất khơng đắp mộ cao lên, binh tướng Mơng Cổ cưỡi ngựa phĩng lên trên đạp bằng mặt đất, về sau bốn phía mọc thành rừng rậm. Đến nay vẫn chưa phát hiện được chính xác ở nơi nào. : Diệp Kỳ trong sách Thảo mộc tử nĩi sau khi các Đại hãn Mơng Cổ chết, dùng hàng vạn kỵ mã đạp bằng mộ địa, giết một con lạc đà con rưới máu lên trên, dùng một ngàn kỵ binh giữ mộ. Qua một năm cỏ xanh mọc lên, quân giữ mộ rút đi, trên thảo nguyên hồn tồn bằng phẳng, khơng cịn nhìn ra dấu vết của mộ nữa. Lúc nào muốn tế mộ thì để con lạc đà mẹ dẫn đường, lạc đà mẹ đến chỗ náo hí lên thảm thiết thì đĩ chính là nơi chơn cát; nhưng sau lạc đà mẹ chết rồi thì khơng ai tìm được nữa. Về địa điểm lăng tẩm của Thành Cát Tư Hãn thì ý kiến của các học giả đều khác nhau. Bành Đạt Nhã, Từ Đình thời Tống soạn sách Mặc Đạt sự lược nĩi lăng tẩm ở cạnh sơng Khắc Lỗ Luân vùng ngoại Mơng. Người cận đại là Đồ Ký cũng theo thuyết ấy. Trương Tương Văn trong Hãn lăng tẩm phát hiện ký căn cứ vào truyền thuyết của người Mơng Cổ thời cận đại và văn thư chính thức của nhà Thanh thì cho rằng lăng tẩm ở quanh Du Lâm vùng Hà Sáo. Số người theo thuyết lăng tẩm Thành Cát Tư Hãn ở Ngoại Mơng cĩ nhiều hơn. Tìm thấy mộ của Thành Cát Tư Hãn? Cuộc tìm kiếm rịng rã về lăng mộ của chiến binh vĩ đại Thành Cát Tư Hãn và kho báu của ơng cĩ thể đã đến hồi kết thúc. Hơm nay (17/8), một nhĩm thám hiểm Mỹ - Mơng Cổ cơng bố đã tìm ra một khu nghĩa địa cĩ tường đá bao quanh, trên một sườn đồi cách Ulan Bator, thủ đơ của Mơng Cổ, 200 dặm về phía đơng bắc. Trong báo cáo được đưa ra cùng ngày tại Đại học Chicago và ở Ulan Bator, các nhà thám hiểm khơng khẳng định đã thực sự tìm thấy mộ của Thành Cát Tư Hãn, vì đến nay, họ chưa nhận được giấy phép khai quật bất kỳ ngơi mộ nào. Nhưng phát biểu của họ hết sức lạc quan. Truyền thuyết kể lại rằng, khi người chinh phục Thành Cát Tư Hãn được mai táng năm 1227, tất cả tuỳ tùng và những người lính tham dự đám tang của ơng đều bị giết ngay sau đĩ vì người ta muốn giữa bí mật nơi chơn giấu ngơi mộ. Và bí mật này vẫn cịn được chơn chặt trong hàng ngàn năm qua, trở thành một trong những tâm điểm khêu gợi trí tị mị nhất trong lịch sử. Mộ nằm gần nơi sinh? Khu mộ được tìm thấy cách nơi Thành Cát Tư Hãn ra đời (năm 1162) chỉ vài dặm, cũng rất gần với địa điểm vị thủ lĩnh này lên ngơi hồng đế Mơng Cổ, năm 1206. Người ta cho rằng ơng chết do ngã ngựa, hoặc bị thương, hoặc vì cả hai nguyên nhân. Cho tới lúc mất, lãnh thổ chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn đã bành trướng từ Trung Quốc tới tận biển Caspia. Những người kế vị ơng, trong đĩ cĩ người cháu danh tiếng Hốt Tất Liệt, đã mở rộng biên giới của Mơng Cổ xuyên qua Trung Á, Nga và Trung Đơng, hồn thành việc hợp nhất các quốc gia láng giềng rộng nhất trong lịch sử. Khu mộ nằm gần thị trấn Batshireet, phía bắc tỉnh Hentii. Một bức tường đá cao từ 2,7-3,6 mét, với chu vi khoảng 3 km, bao quanh một cụm cĩ ít nhất 20 lăng mộ chưa mở nắp nằm gần đỉnh đồi. Người ta cho rằng chúng thuộc về “những người ở tầng lớp trên”. Thấp hơn một chút, là khu vực cĩ tới hơn 40 ngơi mộ khác. Tuy nhiên, những phát hiện đi kèm đã làm dấy lên nghi ngờ về xuất xứ của những người trong mộ. Người ta tìm thấy nhiều mảnh gốm trên bề mặt của khu vực này, nhưng niên đại lại cổ hơn thời kỳ của Thành Cát Tư Hãn. “Chúng tơi cần điều tra kỹ khu vực này về mặt khảo cổ học, trước khi cĩ được xác nhận chính thức”, Tiến sĩ John Woods, Giáo sư lịch sử Đại học Chicago, Trưởng đồn thám hiểm, cho biết. Bước tiếp theo của đồn thám hiểm là xin giấy phép khai quật khu mộ. Chính phủ Mơng Cổ cĩ lẽ sẽ khĩ chấp nhận đề nghị này, vì theo tập quán nơi đây, đụng chạm đến người đã chết là điều cấm kỵ. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11083.doc
Tài liệu liên quan