Trong điều kiẹn máy móc thi công của công ty còn hạn chế, chi phí nhân công thường chiếm 10% trong giá thành. Việc xác định đúng đủ chi phí này quyết định rất lớn đến việc tính toán hợp lý, chính xác giá thành công trình. Mặt khác tiền lương nhân công là một công cụ để khuyến khích nâng cao năng suát lao động nhằm hạ giá thành sản phẩm của công ty
Công ty trả lương theo hai hình thức là trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm. Lương thời gian áp dụng cho bộ máy quản lý chỉ đạo sản xuất,thi công công trình và những công việc có đinh mức hao phí nhân công phải tiến hành công nhật. Lương sản phảm được áp dụng cho các bộ phân trực tiếp thi công xây dựng công trình, làm những công việc có định mức hao phí nhân công và được giao khoán các hợp đồng làm khoán
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp giảm chi phí kinh doanh ở công ty đầu tư xây lắp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p i/ doanh thu i *100
Biểu 14: Chỉ tiêu chi phí nhân công trực tiếp
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch
Chi phí nhân công trực tiếp
đồng
4584238737
5750868796
1166630509
Doanh thu
đồng
39916381634
46191000801
Tỷ lệchi phí NC trực tiếp/ doanh thu
%
11,48
12,45
0,97
Phạm vi tăng chi phí nhân công trực tiếp được tính theo công thức :
DC=T1 -T0 = Tỉ lệ chi phí nhân công trực tiếp/ doanh thu năm 2001-tỉ lệ chi phí nhân công trực tiếp/ doanh thu năm 2000
=0,1245-0,1148=0,0097.
Nói chung mức tăng như vậy là cao. Do đặc thù nghề nghiệp nên lao động của công ty trực tiếp sản xuất đa số là lao động phổ thông ít có trình độ chuyên môn. Phụ trách về mặt kĩ thuật thì có các kĩ sư nhưng lực lượng này còn mỏng và phụ trách luôn việc kiểm soát quá trình thi công.Để đảm bảo được việc quản lí chi phí nhân công trực tiếp sao cho hiệu quả trước hết công ty phải có đủ về số lượng lao động, phải xây dựng hệ thống định mức quỹ lương cho người lao động vừa đảm bảo chi phí hợp lí vừa khuyến khích họ trong công việc. Quan tâm đến đời sống, chế độ phụ cấp, trợ cấp, giáo dục y tế cho công nhân và gia đình họ. Mặt khác phải đảm bảo tối ưu hoá nguồn nhân lực, đảm bảo năng suất lao động đó đặc biệt quan tâm tới năng suất lao động mỗi giờ công, số giờ lao động trong một ngày, số ngày lao động trong một tháng. bời vì đây là những nhân tố cơ bản tác động trực tiếp đến chi phí nhân công
* Chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung ở công ty Đầu Tư Xây Lắp Thương Mại gồm:
Chi phí nhân viên quản lí công trình
Chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí trực tiếp khác
Việc đánh giá kết quả của việc giảm chi phí sản xuất chung hay không dựa vào tỉ lệ giữa chi phí sản xuất chung với doanh thu trong năm .
Tỉ lệ chi phí sản xuất chung/doanh thu=chi phí sản xuất chung i/doanh thu i *100
Biểu 15: Chi phí sản xuất chung thực tế xuất dùng
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm2000
Năm 2001
Chênh lệch
Chi phí sx chung
đồng
7175109340
7235615211
+60503171
Doanh thu
đồng
39916381634
46191000801
Tỷ lệ chi phí sx chung/doanh thu
%
17,98
15,66
-2,32
Phạm vi giảm chi phí sản xuất chung năm 2001 so với năm 2000 tính theo công thức :
DC=T1 -T0 = Tỉ lệ chi phí sản xuất chung /doanh thu năm 2001- tỉ lệ chi phí sản xuất chung/ doanh thu năm 2000.
=0,1566-0,1798=-0,0232
Số âm biểu hiện năm 2001 chi phí sản xuất chung giảm so với năm 2000 trong pham vi là 0,0232. Điều này chứng tỏ công ty đã quản lí tốt khoản chi phí này.Công ty đã quản lí chặt chẽ chi phí sử dụng máy thi công, nâng cao trình sđộ nhân công sử dụng.
Tuy nhiên trong thời gian tới công ty cần quan tâm tới chi phí khấu hao tài sản cố định và chi phí nguyên vật liệu phụ bởi nó chiếm tỉ trọng lớn nhất trong chi phí chung, từ đó giúp công ty kiểm soát tốt chi phí sản xuất chung.
* Chi phí quản lí doanh nghiệp
Là tất cả các chi phí có liên quan đến việc quản lí về doanh nghiệp . Đây là khoản chi phí có tác động trực tiếp đến lợi nhuận của công ty. Đồng thời nó phản ánh cơ cấu chi phí của công ty có hợp lí không, hiệu quả hoạt động của bộ máy lãnh đạo công ty . Nhìn chung các doanh nghiệp đều cố gắng giảm chi phí này đến mức cần thiết.
Để đánh giá kết quả của việc giảm chi phí quản lí hay không thì ta dựa vào tỉ lệ giữa chúng với doanh thu trong từng năm
Tỉ lệ chi phí quản lí doanh nghiệp /doanh thu = chi phí quản lí doanh nghiệp/ doanh thu i *100
Biêủ 16: Kết quả sử dụng chi phí quản lí doanh nghiệp
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch
Chi phí QLDN
đồng
913469791
1393807571
480310780
Doanh thu
đồng
39916381634
46191000801
Tỷ lệ chi phí QLDN/doanh thu
%
2,289
3,017
0,728
Phạm vi chi phí quản lí năm 2001 tăng so với năm 2000 tính theo công thức:
DC=T1 -T0 = Tỉ lệ chi phí quản lí doanh nghiệp /doanh thu năm 2001 - tỉ lệ chi phí quản lí doanh nghiệp /doanh thu năm 2000
=0,03017-0,02289=+0,00728.
Như vậy công ty đã không quản lí chặt chẽ chi phí quản lí doanh nghiệp để nó tăng mạnh trong năm 2001 chủ yếu là do tăng chi phí bất thường. Đây là điều cần phải xem xét. Chi phí tăng đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, mặc dù doanh thu tăng là +6274619167 đồng trong khi đó lợi nhuận sau thuế chỉ tăng 87450763,2 đồng nếu công ty làm tốt hơn nữa công tác quản lí chi phí này thì sẽ mang lại nhiều lợi ích mà trước hết là tăng lợi nhuận
2.3. Chi phí và lợi nhuận.
Biểu 17.Kết quả hoạt động kinh doanh.
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch
Doanh thu
39916381634
46191000801
+6274619167
Tổng chi phí
38166157725
44324175874
+6158018149
Lợi nhuận trước thuế
1750223909
1866824927
+116601018
Thuế TNDN
437555977
466706231,8
+29150254,8
Lợi nhuận sau thuế
1312667932
1400118695,2
+87450763,2
Từ bảng biểu ta thấy cùng với sự gia tăng của các loại chi phí (gắn liền với sự gia tăng của các công trình, hạng mục công trình) đã dẫn đến sự gia tăng của doanh thu và chi phí, từ đó dẫn tới sự gia tăng lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế.
Tổng chi phí năm 2001là 44324175874VNĐ so với năm 2000(năm 2000 là 38166157725VNĐ), mặc dù tăng như vậy nhưng không có nghĩa là hoạt động kinh doanh của Công ty kém hiệu quả đặc biệt là trong việc quản lý chi phí kinh doanh mà mặt khác nó thể hiện hoạt động của Công ty đang đi vào thế ổn định, công tác quản lý chi phí kinh doanh đang tốt dần nên, làm ăn ngày càng phát đạt, địa vị và uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao đồng thời thị trường của công ty ngày càng được mở rộng. Điều đó được minh chứng thông qua số lượng hạng mục công trình năm 2001 tăng so với năm 2000 và được thể hiện ngay ở chỉ tiêu lợi nhuận. Năm 2001 lợi nhuận sau thuế của Công ty đạt 1400118695,2VNĐ tăng +87450763,2VNĐ so với năm 2000 (Năm 2000 đạt 1312667932VNĐ).
3.Quản lí chi phí kinh doanh của công ty
Qua phân tích trên có thể thấy rằng công ty đã quản lí khá tốt chi phí, để thực hiện được các biện pháp giảm chi phí kinh doanh công tác lập kế hoạch được tiến hành rất tốt phù hợp với thực tế. Mặc dù địa bàn thi công các công trình , hạng mục công trình ở các nơi khác nhau nhưng do giống nhau về đặc thù sản xuất kinh doanh và sự thống nhất quản lí bởi công trình nên có thể dễ dàng áp dụng các phương pháp tập hợp chi phí, phương pháp tính giá thành, hệ thống sổ sách...Tuy vậy đặc điểm này cũng đòi hỏi vai trò của mỗi khâu, môi đơn vị phải được nâng cao và phát huy cao độ
Trong thời gian qua công ty luôn coi trọng công tác quản lí chi phí kinh doanh nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng hạng mục công trình của công ty trên thị trường. Do đó công ty luôn tím các biện pháp hữu hiệu và hiệu quả nhất để hoàn thành mục tiêu đề ra. Một số biện pháp mà công ty áp dụng như:
-Tính toán và lập phương án mua nguyên vật liệu vào thời điểm tốt nhất, thu thập thông tin về tình hình giá cả trên thị trường để sẵn sàng mua. Do nguyên vật liệu sản xuất được mua khi tiến hành thi công hạng mục công trình nên nhiều khi chịu sự biến động của giá cả thị trường cũng như tình hình thời tiết. Công ty lập kế hoạch chi tiết cho việc mua nguyên vật liệu căn cứ vào kế hoạch sản xuất nhằm giảm các chi phí do giá tăng hoặc chi phí lãi vay.
Theo dõi tình hình thời tiết để lập kế hoạch mua và dự trữ nguyên vật liệu sao cho luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sản xuất cả về số lượng và chất lượng.
-Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty, đặc biệt là cán bộ quản lí và công nhân kĩ thuật. Hàng năm công ty đều cử người đi học ở các lớp đào tạo, các khoá huấn luyện ngắn ngày, các lớp học về quản lí. Ngoài ra công ty còn rất quan tâm đến điều kiện làm việc và đời sống của công nhân viên, công ty đã có chế độ lương thưởng cũng như phụ cấp ưu đãi. Tất cả các công nhân đều được trạng bị đầy đủ các phương tiện bảo hộ lao động :mũ, quần áo bảo hộ, găng tay...cùng các thiết bị an toàn khác đều được trang bị kĩ càng. Điều đó khiến công nhân làm việc rất an tâm.
-Bố trí sắp xếp thời gian vận hành quản lí giờ công ngày công lao động năng suất lao động. Điều đó giúp tận dụng năng lực máy móc thiết bị, giảm hao phí điện năng tránh lãng phí thời gian nghỉ việc...
Đây là biện pháp quan trọng góp phần ổn định chi phí kinh doanh từ đó giảm giá thành công trình . Như đã nói, tất cả các yếu tố chi phí hay những khoản mục chi phí đều được lên kế hoạch một cách cụ thể, chi tiết, thường xuyên được kiểm tra trong quá trình thực hiện. Trên thực tế công tác quản lí chi phí kinh doanh đã mang lại những kết quả tích cực. Nhưng bên cạnh đó vẫ còn một số mặt hạn chế chủ quan hoặc khách quan cần phải khắc phục.
-Lợi nhuận sau thuế năm 2001 tăng so với năm 2000 (tăng 87450763,2) nhưng vẫn còn thấp so với tốc độ tăng doanh thu . Tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2001 giảm so với năm 2000 , giá thành công trình của công ty nói chung còn cao. Điều này có thể do chi phí quản lí doanh nghiệp tăng cao cũng như sự gia tăng của chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc cũng có thể do đặc thù ngành nghề tạo nên. Chi phí quản lí doanh nghiệp còn lớn mặc dù số lượng nhân viên quản lí chiếm tỉ lệ nhỏ. Chủ yếu do các chi phí bằng tiền phát sinh tương đối nhiều. Công ty cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn các chi phí này.
-Trình độ quản lí còn yếu bởi nhiều người chưa được sử dụng đúng với chuyên môn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lí chi phí nói riêng cũng như các hoạt động của doanh nghiệp noí chung. Công ty cần có những biện pháp quản lí tốt hơn chi phí kinh doanh để có thể tiết kiệm được các khoản chi không cần thiết, không hiệu quả để tạo điều kiện hạ giá thành công trình tăng lợi nhuận, nâng cao đời sống người lao động hơn.
Công ty đã thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ giao khoán công trình từ đó phát huy tinh thần chủ động, năng động giảm chi phí kinh doanh đồng thời phân phối lại thu nhập trong công ty một cách hợp lí công bằng. Việc trang bị điều kiện làm việc đầy đủ như máy vi tính, máy kĩ thuật chuyên dụng .. đã góp phần tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí nhân công và thời gian.
III.Đánh giá về thực trạng chi phí kinh doanh của Công ty Đầu tư xây lắp thương mại.
1.Ưu điểm.
Nhìn chung Công ty đã hoạt động tương đối hiệu quả, đã quan tâm đến việc giảm chi phí. Việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến tăng chi phí. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sản xuất năm 2001 tăng so với năm 2000 là 3761456290VNĐ trong đó mức tăng tổng chi phí (trừ chi phí quản lý doanh nghiệp) là 5677707369VNĐ và chiếm tỷ trọng 62% trong giá thành (năm 2000) cao hơn năm 2001 (61%). Rõ ràng là Công ty đã quản lý tương đối tốt chi phí này.
Tương tự như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí máy cũng tăng (689115100VNĐ) do số lượng công trình tăng nhu cầu về máy thi công tăng.
Chi phí nhân công trực tiếp cũng tăng tương đối cao. Năm 2001 tăng 1166630059 so với năm 2000 trong khi tổng chi phí (trừ chi phí quản lý doanh nghiệp) tăng 5677707369VNĐ. Điều đó chứng tỏ mức lương trả cho đội ngũ cán bộ nhân viên tăng, nâng cao dần mức sống, khuyến khích được tinh thần làm việc của bộ phận trực tiếp thi công.
Chi phí sản xuất chung mặc dù có tăng (60503171VNĐ) nhưng tăng tương đối ít là do trình độ nhân công ngày càng cao, tinh thần tránh nhiệm ngày càng tăng và Công ty đã bước đầu có sự áp dụng máy móc thiết bị hiện đại vào thi công.
Như vậy năm 2001 chi phí kinh doanh được thực hiện vượt mức kế hoạch trong đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 101% và chi phí nhân công trực tiếp 114,8% trong khi năm 2000 chi phí kinh doanh thực tế đã không đạt được kế hoạch đề ra với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 76,4%; chi phí nhân công trực tiếp 95,7% và chi phí chung 82,6%. Việc chi phí kinh doanh tăng vượt mức kế hoạch trong năm 2001 thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty, Công ty đã thi công nhiều công trình hạng mục công trình hơn so với năm 2000 và thị trường của Công ty đang ngày mở rộng vươn ra khắp cả nước. Điều đó một phần cũng do Công ty đã quản lý tốt chi phí kinh doanh của mình cụ thể là trong chi phí chung. Chi phí chung của Công ty năm 2001 là 7235615211VNĐ bằng 71,73% so với kế hoạch (10087292919VNĐ) mặc dù số lượng công trình, hạng mục công trình tăng.
2.Hạn chế.
Bên cạnh những ưu điểm còn có một số hạn chế. Việc tăng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp một phần là do việc lập kế hoạch mua nguyên vật liệu còn kém, nhiều khi còn bị ép giá, mua với giá cao, phải vận chuyển trong điều kiện thời tiết xấu làm phát sinh nhiều chi phí khác kèm theo.
Việc trả lương theo thời gian đã dẫn đến các nhân viên có thể làm việc tích cực,hoàn thành trước thời hạn vẫn không được tăng lương hoặc họ có thể có tư tưởng chống đối chỉ đi làm cho đủ ngày công quy định cũng không bị giảm lương.
Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng mạnh vào năm 2001 (480320780VNĐ) trong khi năm 2000 là 913496791VNĐ. Việc tăng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận làm mức tăng lợi nhuận giảm.
Vì vậy trong thời gian tới bên cạnh việc phát huy việc thực hiện quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu, chi phí máy chi phí sản xuất chung,Công ty cần phải quan tâm đặc biệt tới việc quản lý chi phí nhân công trực tiếp sản xuất và chi phí quản lý doanh nghiệp, giảm dần mức tăng của cả hai loại chi phí này dẫn tới tăng lợi nhuận sau thuế.
Chương III
Phương hướng và biện pháp nhằm giảm chi phí kinh doanh của Công ty Đầu tư xây lắp thương mại.
I. Phương hướng kinh doanh của Công ty trong thời gian tới.
1.Thuận lợi và khó khăn của Công ty.
1.1.Những thuận lợi và khó khăn của Công ty Đầu tư xây lắp thương mại.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì việc làm cần thiết và tất yếu là phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra. Vì vậy công tác giảm chi phí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sự sống còn của sản phẩm của doanh nghiệp.
ý thức được điều đó Công ty đã xây dựng mô hình quản lý và hạch toán khoa học cùng với sự phát triển của Công ty, công tác quản lý kinh tế cũng không ngừng được củng cố hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực trong việc điều hành quản lý và ra quyết định sản xuất kinh doanh. Đó là nhờ cán bộ quản lý đã kịp thời nắm bắt được tình hình kinh tế chuyển đổi, từ đó đã sắp xếp bộ máy tổ chức một cách gọn nhẹ phù hợp với yêu cầu của sản xuất.
Cụ thể Công ty luôn khuyến khích động viên lao động có tay nghề cao, tập trung phát huy năng lực và nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao chất lượng thi công công trình, đảm bảo ổn định việc làm và đời sống ngày một cao cho cán bộ công nhân viên. Trong vài năm gần đây công trình mà Công ty đảm nhận đều không xảy ra tai nạn nặng do Công ty đã chú ý đến công tác an toàn lao động cho công nhân.
Bên cạnh đó trong vài năm vừa qua Công ty đã rà xoát thống kê và đánh giá lại toàn bộ năng lực thiết bị, mạnh dạn loại bỏ thanh lý những thiết bị lạc hậu, khả năng khai thác thấp, bổ sung thêm những thiết bị thế hệ mới, nâng cao chất lượng công trình thi công, giải phóng sức lao động.
Trong quá trình củng cố và phát triển Công ty đã có lượng khách hàng nhất định, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho Công ty tạo đà phát triển sản xuất,phát triển kinh doanh, đồng thời Công ty đã có được đội ngũ cán bộ công nhân viên nhiều kinh nghiệm đã tham gia thi công nhiều công trình có uy tín chất lượng sản phẩm, đã được sự chấp nhận của khách hàng.
1.2. Những khó khăn của Công ty Đầu tư xây lắp thương mại.
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, công tác quản lý giá thành, hạ thấp chi phí kinh doanh còn gặp phải những khó khăn sau:
-Về mặt khách quan do nhìn nhận về loại hình công ty của một số cơ quan chức năng có liên quan chưa thông suốt nên rất dễ xảy ra sự phân biệt, không tin tưởng vào khả năng của Công ty trong sản xuất xây dựng.
-Việc chấp hành quy chế quy định còn có mặt chưa nghiêm còn có hiện tượng lợi dụng sơ hở để lách các quy định làm lợi cho cá nhân đơn vị mình mà quên đi lợi ích to lớn của tập thể. Việc phối hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ với đội sản xuất đôi lúc, đôi chỗ còn chưa chặt chẽ chưa nhịp nhàng.
-Khâu tổ chức thi công ở công trường chưa được chú trọng đúng mức, chỉ huy các công trường chưa chịu khó tìm tòi các biện pháp sáng tạo nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo chất lượng mà có lúc, có nơi còn lợi dụng sự quản lý chưa chặt chẽ, có kẽ hở của các quy định, đưa vật tư không đúng chủng loại, yêu cầu kỹ thuật vào thi công hoặc sử dụng vật tư lãng phí, không tổ chức quản lý vật tư theo đúng quy định. Bỏ qua một số yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng...
-Trình độ và ý thức tránh nhiệm của một số đội trưởng, trợ lý, nhân viên còn hạn chế, ngại khó, ỷ vào tập thể, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, bàng quan với những khó khăn của Công ty. Một số công nhân ngại học tập rèn luyện nâng cao tay nghề.
-Đối với nguyên vật liệu, chưa phản ánh chính xác giá trị nguyên vật liệu mua về xuất dùng cho thi công công trình. Hơn nữa việc tính toán giá nguyên vật liệu chưa sát thực tế với những biến động thị trường.
-Tình trạng máy móc thiết bị còn ít, lạc hậu, nhiều chủng loại máy chưa hợp lý, nhiều loại máy công suất thấp chưa đáp ứng yêu cầu công việc còn thủ công. Do đó khó khăn là làm cách nào để đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của tất cả các cán bộ công nhân viên về đầu tư, hiện đại hoá dây chuyền công nghiệp đổi mới thiết bị để đạt được hiệu quả như mong muốn. Việc quản lý máy móc thiết bị còn lỏng lẻo gây ra chi phí cao cho công trình.
-Công tác quản lý nguyên vật liệu, máy móc thiết bị trên công trường và công tác kho bãi còn kém gây nên những tổn thất không đáng có.
-Việc bố trí lao động trên công trình chưa hợp lý chưa phát huy hết khả năng lao động của địa phương.
Không những thế, do vốn kinh doanh còn hạn hẹp đã gây cho Công ty không ít trở ngại và nó còn hạn chế rất nhiều tới việc ký kết các hợp đồng kinh tế với khách hàng hoặc giả có ký kết được các hợp đồng thì cũng chỉ là những hợp đồng có giá trị nhỏ.
2. Nhiệm vụ và phương hướng kinh doanh của Công ty từ nay đến năm 2010.
Trong giai đoạn 2002-2010 Thủ đô Hà nội nói riêng và cả nước nói chung sẽ có nhiều hoạt động kinh tế sôi động, trong đó có hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng trên quy hoạch của thủ đô. Cùng với đó là tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ trên các huyện ngoại thành cho nên nhu cầu về vật liệu xây dựng sẽ tăng rất mạnh. Vì vậy trong thời gian tới Công ty luôn đặt mục tiêu không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí kinh doanh hạ giá thành sản phẩm, thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Năm 2001 doanh thu đạt 46.191.000.801 đồng/năm. Năm 2002 dự tính đạt khoảng 70 tỷ/năm.
Trước tình đó việc đề ra phương hướng nhiệm vụ là hết sức quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững. Công ty đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
-Mọi hoạt động của Công ty đều bám sát chủ trương đường lối của Đảng về lao động sản xuất lấy đó làm hướng khi giải quyết những vấn đề mà các quy luật kinh tế thị trường tác động đến hoạt động của Công ty.
-Thực hiện kế hoạch đầu tư từng bước có trọng điểm, thời điểm thích hợp để tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tăng cường đầu tư năng lực xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi.
-Đa dạng hoá cả về phương thức và lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Tăng cường hoạt động kinh doanh phục vụ ngành xây lắp. Trước mắt tập trung vào sản xuất kinh doanh các loại vật tư, vật liệu xây dựng, các sản phẩm gắn liền với công trình xây dựng, đầu tư nâng cao một bước năng lực sản xuất thiết kế, tư vấn đầu tư, liên kết xây dựng và làm thầu phụ xây dựng các công trình lớn đặc biệt là các côngtrình có tổng thầu là công ty nước ngoài.
-Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại. Xúc tiến mạnh mẽ việc tìm kiếm đối tác để thành lập công ty liên doanh xây dựng có đủ khả năng và điều kiện tham gia đấu thầu các dự án lớn trong nước và quốc tế, nghiên cứu hợp tác liên doanh xây dựng một đến hai nhà máy sản xuất các loại vật liệu mới phù hợp với xu hướng và nhu cầu thị trường.
-Xây dựng cơ cấu tổ chức của Công ty theo một cơ cấu tổ chức linh hoạt, năng động và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung hệ thống quy chế, quy định của Công ty bao gồm tất cả các mặt quản lý, tạo ra tác phong làm việc hiện đại và văn minh. Đào tạo một đội ngũ các bộ công nhân kỹ thuật giỏi về nghiệp vụ chuyên môn, có sức khoẻ tốt, có khả năng tiếp thu và vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và quản lý. Chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, tạo nên sự yêu mến gắn bó xây dựng Công ty.
Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước hàng năm công ty phải lập kế hoạch chi phí kinh doanh theo quy định của Nhà nước. Thông thường dựa vào những căn cứ sau:
-Các định mức và tiêu chuẩn kỹ thuật do Nhà nước,cấp trên và ngành quy định như: định mức hao hụt, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, định mức chi phí tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ.
-Đưồng lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ nhất định, những chỉ thị của cơ quan cấp trên.
-Các nhân tố ảnh hưởng đến mức chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ kế hoạch.
-Tình hình số liệu thực hiện kỳ trước và kết quả phân tích hoạt động kinh tế tài chính. Kết quả đánh giá tình hình quản lý và thực hiện chi phí kinh doanh của kỳ trước. Những ưu điểm cần phát huy và nhược điểm cần khắc phục.
Trên cơ sở đó Công ty đã đề ra kế hoạch chi phí kinh doanh năm 2002:
Biểu 17. Bảng kế hoạch chi phí kinh doanh năm 2002
Đơn vị tính: đồng
TT
Chỉ tiêu
Số tiền
1
Chiphí nguyên vật liệu trực tiếp
27.490.000.000
2
Chi phí máy
2.000.000.000
3
Chi phí nhân công trực tiếp
6.300.000.000
4
Chi phí chung
13.000.000.000
5
Chi phí QLDN
1.200.000.000
II. Các biện pháp giảm chi phí kinh doanh của công ty đầu tư xây lắp thương mại.
1. Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu nhiên liệu.
Công ty cần phải tiến hành tăng cường quản lý nguyên vật liệu để giảm chi phí vật chất. Thực tế cho thấy chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tổng chi phí sản xuất. Chính vì vậy việc giảm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông thường căn cứ vào giá trị giao tại công trình để làm tiêu chuẩn ghi chi phí vật liệu. Do đó bản thân chi phí này bao hàm cả chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí chuyên chở đóng gói, xếp dỡ và bảo quản.
Do đó rất ít khi công ty tập kết nguyên vật liệu về để trong kho vì như vậy tốn kém khâu bảo quản chi phí kho. Trong trường hợp đã thắng thầu hoặc được chỉ định thầu thì có thể tập kết các vật liệu như gạch, xi măng, sắt thép, …trước ít ngày cho tiện. đối với công trình xây dựng trên từng địa phương thì sẽ do trực tiếp ngươì đội trưởng đi mua với đơn giá của từng địa phương. Chủng loại nguyên vật liệu thì nhiều đa dạng mà đặc tính của nguyên vật liệu trong xây dựng là nặng, chuyên chở tốn kém, có những loại phải bảo quản tốt như xi măng. Chính vì vậy, khi dùng đến đâu sẽ mua đến đấy bởi cơ chế thị trường rất thuận lợi cho việc mua bán. Khi tiến hành công ty giao toàn quyền cho đội trưởng đội xây dựng về việc tổ chức thực hiện. Sau khi hoàn thành thì đội trưởng của các xí nghiệp sẽ tổng hợp chi phí nguyên vật liệu theo từng công trình và báo cáo, duyệt ở phòng tài chính của công ty.
Cũng từ thực tế là chi phí nguyên vật liệu, chi phí cho bảo quản chuyên chở, bốc dỡ, kho tạm là rất tốn kém thì việc giảm những chi phí này là điều quan trọng.
Biện pháp để giảm khoản chi phí này em có một số đề xuất như sau:
Thứ nhất: xác định nguồn cung ứng nguyên vật liệu.
Căn cứ của biện pháp
-Xác định được các loại vật liệu cần dùng cho công trình, tên vật liệu, khối lượng của từng loại từ đó cho biết loại nào chủ yếu và cần thiết có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ công trình.
-Xây dựng được lược đồ các đại lý cung cấp vật liệu, giá cả từng nơi.
-Tổ chức các phương tiện chuẩn bị vận chuyển cũng như bố trí địa điểm tập kết nguyên vật liệu. Giá mua vật liệu mua vào gồm cả chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí bảo hiểm (nếu có), chi phí bảo quản nên công ty phải xác định nơi mua càng gần nơi công trình thi công thì càng tốt.Với các công trình thi công trên các địa bàn khác nhau thì tận dụng nguyên liệu của địa phương để giảm chi phí nguyên vật liệu.Hiện tại công ty không tích trữ nguyên vật liệu chủ yếu. Tuy nhiên để giảm chi phí công ty nên đặt mua vớikhối lượng lớn nguyên vật liệu thường dùng. Việc làm này sẽ giúp công ty tiết kiệm được chi phí thông qua hưởng chiết khấu, đồng thời chủ động về nguyên vật liệu nhưng không cần đến các chi phí dự trữ.
Chẳng hạn hàng năm công ty có nhu cần về xi măng tương đối lớn từ 2.500 đến 3.000 tấn (không kể bên A cấp) trong khi đó giá cả các loại xi măng nổi tiếng được bán ở các đại lý trên các thị trường khu vực chủ yếu như sau:
Xi măng Hoàng Thạch PC30: 701đồng/Kg tại kho người bán.
Xi măng Bút Sơn PC30:
+Của công ty Vinaximex là: 689 đồng/Kg tại kho người bán.
+Của công ty vật tư kỹ thuật là 691 đồng/Kg tại kho người bán.
Chỉ tính trên địa bàn Hà Nội hàng năm công ty sử dụng trung bình khoảng 1.500 tấn mà các loại trên lại có phẩm cấp tương tự nhau. Nếu chọn đúng nguồn nguyên liệu sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí lớn.
Chẳng hạn nếu chọn đúng xi măng Bút Sơn PC30 của công ty Vinaximex thì mức tiết kiệm là:
(701-689)*1.500000=18.000.000 đồng so với xi măng Hoàng Thạch PC30.
(691-689)*1.500.000đ =3.000.000đ so với xi măng Bút Sơn của công ty vật tư kỹ thuật.
Trên đây mới tính trong trường hợp công ty mua với khối lượng nhỏ không có chiết khấu giá. Còn trong trường hợp mua với khối lượng lớn được hưởng chiết khấu thì mức tiết kiệm sẽ nhiều hơn. Ngoài ra, với những chi tiết không cần chất lượng xi măng cao như: làm hè nhà, xây tường cao … công ty nên sử dụng xi măng Sông Đà để giảm chi phí. Tuy nhiên phải chú ý đến chi phí vận chuyển.
Chi phí vận chuyển 1 chuyến xi măng bằng ôtô (khoảng 8 tấn) từ sông Đà về Hà Nội là 450.000đ. Giá bán của xi măng Sông Đà là 580.000đ/tấn.
Để chọn xi măng Bút Sơn PC30 của công ty Vinaximex hay vận chuyển từ sông Đà về ta làm như sau:
Gọi x là khối lượng xi măng cần dùng ta có:
580.000x+450.000=689.000*x
ị x=3,81 tấn.
Như vậy khối lượng xi măng >3,81 tấn thì vận chuyển xi măng sông Đà về Hà Nội. Còn khối lượng mà nhỏ hơn 3,81 tấn thì nên mua của công ty Vinaximex khi đó chi phí sẽ rẻ hơn.
Thứ hai: cần tăng cường công tác bảo vệ và bảo quản. Bởi vì nguyên vật liệu xây dựng có loại có thể để ngoài trời như gạch, cát, vôi, sỏi, … Nếu việc trông coi không cẩn thận thì việc mất cắp, hao hụt do nắng, mưa là có thể xảy ra. Vì vậy tại các công trình thì nên tăng cường công tác bảo vệ. Bên cạnh đó là việc bảo quản, với những loại vật liệu cần phải có kho, bãi, trạm thì cần phải chấp hành. Ví dụ: như xi măng, đồ nội thất, gạch men, gạch lát,… phải được bảo quản trong kho tránh hỏng hóc, đổ vỡ, gây thiệt hại.
Thứ ba: Nên có thêm một nhân viên kế toán và một cán bộ kỹ thuật có trình độ để tiến hành kiểm kê, đánh giá, phân loại chính xác những vật tư còn sử dụng được và những vật tư không còn sử dụng được. Đồng thời, thực hiện tốt công tác kiểm kê từng kho vừa tránh thất thoát vừa làm tăng tinh thần tránh nhiệm của cán bộ quản lý kho.
Thứ tư: Trong tình hình kinh tế thị trường giá cả luôn biến động từng ngày, từng giờ. Bởi vậy chỉ theo dõi qua báo cáo "giá cả thị trường thôi" chưa đủ. Theo em công ty nên cài đặt cho máy vi tính một chương trình trong nước và thế giới nhằm phục vụ thông tin cần thiết về giá cả vật liệu trên thị trường cho công ty vì điều này ảnh hưởng rất lớn đến chi phí kinh doanh.
2.Phất triển nguồn nhân lực giảm chi phí nhân công.
Phát triển nguồn nhân lực luôn được coi là chiến lược dài hạn của tất cả các Doanh nghiệp. Trong tình hình chung là thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao, thiếu công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý có chuyên môn thì việc tổ chức đào tạo thường xuyên,liên tục, cho đội ngũ người lao động là một việc làm vô cùng quan trọng.
Trước sự thay đổi đến chóng mặt của khoa học công nghệ thì cần phải có đội ngũ lao động am hiểu về đặc tính của các loại máy móc thiết bị đó. Chính vì vậy Công ty cần đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động của mình để có thể phụ tránh những công việc đòi hỏi trình độ cao và hướng dẫn lao động thủ công thuê ngoài. Công ty cố thể mở những lớp học hoặc gửi công nhân đi học hỏi ở những trường đào tạo dạy nghề. Những người phụ tránh quản lý cũng nên đi học những lớp bồi dưỡng quản lý để có thể làm việc một cách có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó Công ty nên có chính sách bồi dưỡng cho những người đi học tập, nghiên cứu, chế độ thưởng đối với những người có sáng kiến phát minh. Hiện nay ở Công ty khoản tiền chi phí cho học tập, nghiên cứu hoàn toàn do người học tự túc do đó có nhiều người còn ngại chưa muốn học.Công ty nên có chế độ ưu đãi để mọi người có thể nâng cao trình độ tay nghề của mình. Đồng thời Công ty nên có các biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc, có chế độ dinh dưỡng thích đáng cho công nhân làm thêm giờ thêm ngày nhưng đồng thời cũng kỷ luật những người nào không chấp hành nội quy của Công ty nhất là nội quy về bảo đảm an toàn vệ sinh trong lao động.
Về cơ bản, bồi đắp và phát huy nguồn nhân lực không chỉ là việc tái sản xuất,bồi dưỡng và nâng cao sức sản xuất mà còn phải nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. Nó sẽ góp phần làm yên tâm người lao động để họ hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm tai nạn lao động tránh ốm đau và thực hiện tốt công tác được giao. Đó là biện pháp tốt nhất để giảm chi phí nhân công về lâu dài.
Bên cạnh đó Công ty nên tăng cường quản lý lao động:
Thứ nhất: Phân bổ bố trí lao động.
Đối với Công ty thì các đội trưởng xây dựng nên lập kế hoạch thi công cụ thể.Bố trí lao động theo đúng tay nghề và máy móc tránh sự chồng chéo. Đối với những công việc đòi h ỏi yêu cầu cao về kỹ thuật và mỹ thuật thì cần phải có những người có trình độ, còn những công việc đòi hỏi lao động chân tay thì có thể bố trí những công nhân bình thường đảm nhận. Công ty nên chú trọng phân công công việc sao cho đúng người đúng việc tránh tình trạng đào tạo một lĩnh vực làm việc tại một lĩnh vực khác vừa gây khó khăn cho người lao động vừa ảnh hưởng đến hiệu quả chung của toàn Công ty.
Thứ hai: Tiến hành thuê lao động tự do theo công trình để giảm chi phí nhân công.
Căn cứ từ đặc điểm lao động sản xuất thi công nơi công trình bao gồm nhiều loại công từ đơn giản đến phức tạp. Những công việc như vận chuyển, bốc dỡ vật liệu, đào đất trộn bê tông…bất cứ ai cũng làm được mà không cần kỹ thuật, không cần qua trường lớp đào tạo.
Lực lượnglao động của Công ty có hạn, trong khi đó nhiều công trình đòi hỏi nhiều lao động hơn số hiện có của Công ty.
Việc thuê lao động tự do giải quyết được tình trạng mất cân đối trong tổ chức lao động, đảm bảo sự phù hợp với lao động và công việc trong thi công. Nó đáp ứng nhu cầu lao động của mỗi công trình, hạn chế sự luân chuyển lao động giữa các công trình.
Đối với các lao động có hợp đồng, ngoài tiền lương Công ty còn phải chi phí các khoản như BHXH, BHYT, KPCĐ. Ngoài ra khi không có việc Công ty vẫn phải trợ cấp và các khoản khác. Vì vậy việc tổ chức các tổ đội trong mỗi công trình và thuê lao động tự do sẽ có ý nghĩa rất thiết thực đối với Công ty. Mức cung cấp về lao động trên thị trường là rất nhiều mà chi phí thuê lại rẻ hơn lương bình quân trả công cho công nhân có hợp đồng.
3. Kiểm soát chặt chẽ chi phí quản lý Doanh nghiệp.
Chi phí quản lý Doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận.Trong đó chi phí bằng tiền chiếm tỷ trọnglớn nhất gồm các khoản chi trả lãi vay đầu tư, lãi vay vốn lưu động và các chi phí khác. Ngoài việc tính toán, dự trù các khoản vay vốn sao cho phù hợp với lãi suất, tránh được mức lãi suất cao và phù hợp với khả năng thanh toán, Công ty cần kiểm soát các chi phí hoạt động của bộ phận quản lý bằng cách khoán chi theo công việc cần thiết cho các bộ phận nó căn cứ vào nhu cầu chi tiêu cần thiết đã lập kế hoạch và căn cứ vào mức chi kỳ trước để điều chỉnh cho phù hợp, để đảm bảo bộ máy hoạt động tích cực và tiết kiệm chi phí cho Công ty.
4. Nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị.
Hiện nay máy móc thiết bị của Công ty còn ít và lạc hậu, nhiều máy móc thiết bị đã hết thời gian sử dụng nên trong khi vận hành thường vẫn phải sửa chữa. Trên thị trường đã có những công nghệ mới mà Công ty cần nghiên cứu tìm hiểu để chuẩn bị phương án ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Song ở công ty vẫn còn một số vấn đề nổi cộm nữa là chưa có hẳn một tổ đứng ra quản lý máy móc thiết bị, do đó máy móc thiết bị đưa xuống công trình còn tính khấu hao tràn lan, không biết máy móc được sử dụng từ bao giờ đã khấu hao như thế nào. Hơn nữa nhiều công trình mua máy móc thiết bị phục vụ cho thực hiện công trình, sau khi công trình hoàn thành không được dùng tới nữa nhưng cũng không đưa vào tài sản cố định của Công ty, do đó chỉ tính giá một lần, điều này sẽ làm đội giá của công trình nên và tất yếu là sự tăng lên của chi phí.
Trước thực trạng này Công ty cần thành lập ngay một tổ công tác quản lý máy móc thiết bị với công việc đầu tiên là thống kê và đánh giá toàn bộ tài sản và mấy móc thiết bị hiện có, sau đó tính lượng máy móc thiết bị đầu tư cho mỗi công trình, người tổ trưởng này sẽ có nhiệm vụ theo dõi và phân bổ khấu hao cho từng công trình.Làm như thế từng công trình mà mỗi người quản lý sẽ ý thức hơn trong việc sử dụng máy móc thiết bị chẳng hạn như là tổ quản lý máy móc thiết bị công trình sẽ bảo trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị trong quá trình xây dựng, các đội xây dựng lập kế hoạch thi công để sử dụng máy móc một cách tối đa.
Hơn nữa tổ quản lý máy móc thiết bị của Công ty rất hạn chế, hầu hết các máy móc được mua từ trước năm 1990 đã được sửa chữa nhiều lần, chi phí sửa chữa bảo quản lớn làm cho chi phí sử dụng máy móc rất cao, chất lượng công viêc thấp, tiến độ chậm. Vì vậy trong thời gian tới Công ty cần có kế hoạch đầu tư thêm một số máy móc thiết bị mới, công nghệ cao để thay thế dần những máy móc thiết bị cũ như máy lát tráng, máy xung chấn động cán đất, máy nén xi măng đã được xử lý cơ bản để thi công công trình phức tạp.
Chi phí máy thi công thực tế
Chi phí máy thi công kế hoạch
=
* 100
Tỷ lệ chi phí máy thi công
thực tế so với kế hoạch
Để đánh giá việc thực hiện kế hoạch chi phí này chi phí máy thi công Công ty tính chỉ tiêu sau:
Kết quả < 100% kết luận Công ty tiết kiệm chi phí máy thi công. Ký hiệu mức tăng giảm chi phí máy thi công là DMTC (máy thi công)
DMTC= chi phí thi công thực tế- chi phí MTC kế hoạch
DMTC>0 Công ty không tiết kiệm chi phí
DMTC<0 Công ty đã tiết kiệm chi phí.
Muốn cho khoản chi phí máy giảm tức là DMTC<0 (chi phí máy thi công thực tế nhỏ hơn kế hoạch) thì phải tăng cường công tác quản lý, sử dụng máy móc có kế hoạch cụ thể, chế độ sửa chữa, bảo dưỡng phải tốt.
Cũng do thực trạng máy móc vẫn còn ít, cũ kỹ lạc hậu không đủ đáp ứng yêu cần xây dựng các công trình nên Công ty còn phải đăng ký thuê thêm máy móc thiết bị. Giá thuê máy móc được căn cứ trên mặt bằng giá chung và có sự điều chỉnh linh hoạt sao cho cả người thuê và người cho thuê máy đều chấp nhận được. Khi khối lượng công việc cần sử dụng khối lượng thiết bị máy móc lớn, thời gian thi công dài và liên tục trong thi công thì nên thuê máy theo thời gian hợp đông dài hạn, làm như thế Công ty sẽ chủ động hơn trong thi công vì máy móc thiết bị lúc nào cũng có sẵn và tiết kiệm được thơì gian ngừng sản xuất để đợi máy, từ đó sẽ tiết kiệm được chi phí. Hơn nữa để lựa chọn hình thức thuê máy hợp lý thì Công ty nên sử dụng cách phân tích sản lượng cân bằng dựa trên chi phí cho hai hình thức nói trên.
Chẳng hạn khi xây dựng một công trình Công ty phải thuê của xí nghiệp cơ khí 121 là hai chiếc máy. Nếu thuê máy theo ca thì Công ty phải trả lương 100.000 đồng/ca. Nếu thuê máy trong một năm thì Công ty phải trả 5.000.000 đ/năm cộng chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu cho mỗi ca vận hành là 50.000đ/ca.
Giả sử gọi số ca máy cần vận hành là A để đáp ứng nhu cầu công việc Công ty sẽ tính được chi phí cho hai hình thức thuê máy và dựa trên lý thuyết về sản lượng cân bằng ta sẽ xác định được hình thức thuê máy.
Như vậy nếu thuê máy theo ca thì chi phí thuê máy một năm là 100.000A.
Nếu thuê dài hạn thì chi phí máy một năm là 5000.000 + 50.000A’
Gọi A’ là sản lượng cân bằng thì ta có: 100.000A’=5.000.000 +50.000A’
ịA’=100.
Từ kết quả tính toán ở trên ta có thể kết luận:
+Nếu trong năm số ca máy Công ty cần dùng >100 ca hay A>A’=100 thì Công ty nên thuê máy trong một năm
+Nếu số ca máy mà Công ty cần sử dụng < 100 ca thì Công ty nên thuê máy theo ca.
Như vậy công trình trên số ca máy Công ty sử dụng là 20 ca do đó Công ty nên thuê máy theo ca.
Trong trường hợp cần xem xét nên sử dụng máy thuê của Công ty hay sử dụng máy thuê ngoài thị trường thì Công ty cần làm như sau:
Khi máy hiện có của Công ty là máy có năng lực sản xuất lớn, nếu công trình mà Công ty đang thi công là công trình lớn thì nên sử dụng máy của Công ty vì khi đó máy sẽ phù hợp với công việc và tiết kiệm được chi phí. Khi máy của Công ty có năng lực sản xuất thấp nếu Công ty thi công công trình nhỏ thì Công ty nên sử dụng máy của Công ty còn nếu công trình lớn thì Công ty nên thuê máy bên ngoài.
Mặt khác phải xuất phát từ đặc điểm của các công trình mà Công ty thực hiện chủ yếu là sản xuất xây lắp, do đó phần lớn công việc là sản xuất và lắp ráp kết cấu sắt thép. Song việc sản xuất các cấu kiện thép thường đòi hỏi mặt bằng rộng, phải được che chắn khỏi tác động nắng mưa, gây han rỉ kết cấu do đó việc tiến hành sản xuất các kết cấu ngay tại công trình thi công gặp phải nhiều khó khăn bởi đó chiếm không gian rộng và chịu ảnh hưởng của thời tiết làm gián đoạn sản xuất giảm năng suất và chất lượng công trình.
Do vậy việc chuyển sản xuất các kết cấu phân xưởng có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao năng suất lao động và thời gian thi công. Việc sản xuất các kết cấu phân xưởng tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng máy móc thiết bị, việc sản xuất không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và không gian chật hẹp ngoài công trường.Các kết cấu sau khi được sản xuất ngoài phân xưởng đưa vào công trình sẽ tạo thuận lợi cho việc thi công, ở đây chỉ việc tiến hành các bước lắp ghép đơn giản nhanh chóng rút ngắn thời gian thi công.Như vậy việc đưa sản xuất các bộ phận kết cấu vào phân xưởng thực chất là đưa một phần công việc xây lắp vào sản xuất theo phương pháp công nghiệp hoá sản xuất hàng loạt ở phân xưởng. Việc đưa sản xuất kết cấu vào phân xưởng cho phép áp dụng máy móc một cách tối đa trong sản xuất thay thế lao động thủ công từ đó nâng cao năng suất lao động, ghóp phần đáng kể giảm các chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công và các chi phí gián tiếp.
Ngoài ra, còn góp phần đa dạng hoá loại hình sản xuất kinh doanh của Công ty và tạo thêm việc làm cho các xí nghiệp thuộc Công ty. Tuy nhiên cũng phải tính toán hiệu quả giữa việc sản xuất tại công trình với tại phân xưởng. Đối với các công trình ở gần phân xưởng của Công ty thì việc đưa vào sản xuất ở phân xưởng là hợp lý. Còn đối với các công trình ở xa, nếu điều kiện cho phép thì Công ty có thể tiến hành thuê các cơ sở gia công ở địa phương có khả năng tiến hành công việc này.
Những công việc có thể đưa vào sản xuất ở phân xưởng của Công ty bao gồm: vì, kèo, cột, thép,khung cửa sắt, cửa nhôm…
Để thấy được hiệu quả của việc này ta xét ví dụ sau về việc sản xuất các khung cửa sắt 3x4m từ thép tấm cắt ra và thép thanh. Nếu tiến hành sản xuất tại phân xưởng với mặt bằng rộng đầy đủ dụng cụ mỗi người có thể đảm nhận tốt công việc của mình, tạo ra sự nhịp nhàng trong sản xuất. Mỗi ngày tại phân xưởng mỗi tổ có thể sản xuất bình quân được 5 khung cửa với giá trị mỗi khung là 1,47 triệu đồng. Còn nếu sản xuất tại công trình, do không gian chật hẹp sự phối hợp của cả tổ trở nên khó khăn hơn, ngoài ra việc sản xuất ở công trường còn chịu sự tác động của thời tiết và các yếu tố khác nên mỗi tổ mỗi ngày chỉ sản xuất được 4,25 khung với giá là 1,76 triệu đồng/khung. Như vậy mỗi khung cửa nếu sản xuất tại phân xưởng sẽ tiết kiệm được:
1,76-1,47=0,29 triệu đồng so với sản xuất tại công trình.Đồng thời năng suất lao động tăng 117,6% (5/4,25*100).
Ngoài ra Công ty phải kiện toàn công tác kế toán và kiểm tra giám sát chi phí kinh doanh.
Muốn quản lý tốt chi phí kinh doanh thì trước hết phải tính đúng, tính đủ, và phản ánh kịp thời các khoản chi phí phát sinh. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện trong công tác kế toán.Xét về trình độ của các kế toán viên cũng như cách bố trí sắp xếp bố trí nhân viên trong phòng kế toán là tốt, hợp lý. Tuy nhiên trong việc phân bổ chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ Công ty mới chỉ phân bổ cho sản phẩm dở dang cuối kỳ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chủ yếu trong khi chi phí nhân công và chi phí chung lại chiếm một tỷ trọng khá cao,do đó nó chưa phản ánh một cách chính xác giá trị thực tế của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
ở Công ty Đầu tư -xây lắp thương mại các nhân viên có thể phát huy khả năng sáng tạo trong công việc, Công ty thường xuyên tổ chức các cuộc họp để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trên tinh thần dân chủ, phát huy tối đa năng lực của nhân viên. Công ty áp dụng phương pháp giao khoán để làm phương thức chủ yếu trong công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh. Hàng kỳ các bộ phận sẽ có những bản kê chi tiết về các dự toán chi phí sẽ phát sinh trong kỳ của bộ phận mình để đưa lên Giám Đốc xét duyệt. Kế toán của Công ty dựa trên các định mức này sẽ đối chiếu với các chứng từ gốc hợp lệ thể hiện sự phát sinh của chi phí để đánh giá tính phù hợp của khoản chi phí.Tuy nhiên các định mức này không phải hoàn toàn là đông cứng mà trong quá trình thực hiện người thừa hành có thể điều chỉnh một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tiễn, tất nhiên là phải được giải trình với ban lãnh đạo. Cách quản lý này nhìn chung có ưu điểm là tạo điều kiện thuận lợi cho những người thực hiện hoàn toàn chủ động, phát huy hết năng lực của mình để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tiến hành trôi chảy. Nhưng để xác định được mức chi phí dự toán mà các bộ phận gửi lên có phù hợp hay không là rất khó, bởi vì nó không chỉ phụ thuộc vào sự nhạy bén, sáng suốt, kinh nghiệm mà còn phụ thuộc vào sự biến động của thị trường, của tình hình kinh doanh và những biến động này là rất thường xuyên. Như vậy nếu các nhân viên thừa hành thiều tinh thần tự giác thì phương thức quản lý này dễ gây ra sự thất thoát lãng phí.
Để khắc phục nhược điểm này, Công ty phải tăng cường hoạt động kiểm soát, hoạt động này chủ yếu dựa vào đội ngũ kế toán. Trong quá trình theo dõi chi phí phát sinh nếu thấy có những bất thường các kế toán viên sẽ có phản ánh trực tiếp lên những người có liên quan hoặc trực tiếp lên kế toán trưởng để tìm ra nguyên nhân xử lý. Tuy nhiên công việc này chưa được đặt thành nhiệm vụ thường xuyên và có tính hệ thống. Để theo dõi một cách hệ thống, tạo điều kiện phát hiện những chi phí bất thường một cách nhanh chóng Công ty nên có công tác phân tích.Việc thực hiện kế toán máy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện. Ngoài đội ngũ kế toán Công ty phải hình thành những cán bộ thanh tra để tiến hành công việc kiểm tra trực tiếp tình hình chi phí phát sinh trong một số hoạt động kinh doanh khi cần thiết. Hoạt động kiểm soát của các nhân viên này có thể không cần phải thường xuyên và cũng không thể thực hiện thường xuyên được vì như thế chi phí sẽ rất tốn kém, mà cái chủ yếu là phải kiểm tra khi cần thiết. Muốn vậy họ phải có sự liên hệ chặt chẽ với các kế toán. Ngoài việc phát hiện những sai sót dẫn đến lãng phí tăng cường hoạt động kiểm soát còn tạo tâm lý không cảm thấy quá được thả lỏng trong việc thực hiện các chỉ tiêu chi phí.
Trên đây là các biện pháp cơ bản ghóp phần giảm chi phí kinh doanh. Em tin rằng các biện pháp đó là rất thiết thực.
III. Điều kiện thực hiện các kiến nghị.
1. Đổi mới công nghệ sản xuất.
Để thực hiện các biện pháp trên đây trước hết Công ty phải tiến hành đổi mới công nghệ sản xuất.
Công ty cần phát huy nội lực của mình, tăng cường hoạt động đầu tư vào máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất thi công. Chỉ tiêu biện pháp thi công và tiến độ thi công công trình giúp cho Công ty nâng cao uy tín và mở rộng thị trường. Hơn nữa sự đòi hỏi ngày càng cao của chủ đầu tư về tiêu chuẩn kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng và tiến độ thi công công trình giúp cho Công ty nâng cao uy tín và mở rộng thị trường. Hơn nữa sự đòi hỏi ngày càng cao của chủ đầu tư về tiêu chuẩn kỹ thuật,mỹ thuật, chất lượng và tiến độ thi công công trình buộc Công ty phải không ngừng đầu tư máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Thực tế lượng máy móc thiết bị của Công ty hiện nay ở mức trung bình,công suất hoạt động nhỏ trong khi yêu cầu về tiến độ chất lượng không ngừng tăng lên nên không có khả năng cạnh tranh những công trình lớn.
Như vậy thông qua đầu tư vào máy móc thiết bị xây dựng sẽ giúp Công ty giảm được chi phí khấu hao, chi phí nguyên vật liệu phụ đưa vào công trình, giảm chi phí trong quá trình thi công (giảm chi phí cho sửa chữa phát hiện và khắc phục sai sót có thể phát sinh) đồng thời nâng cao năng lực sản xuất và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên.
2.Tổ chức và quản lý cán bộ.
Việc tổ chức và quản lý kinh doanh giúp cho Công ty quản lý chặt chẽ chi phí kinh doanh, quản lý chặt chẽ việc xuất dùng, phân bổ nguyên vật liệu và máy móc thiết bị cho các công trình đồng thời kiểm tra giám sát được việc mua nguyên vật liệu, thuê máy thi công tại địa bàn nơi thi công công trình. Từ đó sẽ sẽ giảm được chi phí quản lý doanh nghiệp, nâng cao tiến độ thi công và năng lực sản xuất của máy móc thiết bị.
Bên cạnh nỗ lực của công ty đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của Nhà nước.
Nhà nước hỗ trợ cung cấp vốn cho Công ty để Công ty đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao hơn nữa năng lực sản xuất của mình, đem lại hiệu quả ngày càng cao cho Công ty cũng như cho đất nước. Từ đó làm tăng năng lực đầu tư trong xây dựng cơ bản, mạng lưới giao thông cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông là điều kiện cơ bản cho sự phát triển chung của đất nước. Ngành xây dựng nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung đều cần có mạng lưới giao thông thông suốt để đảm bảo quá trình cung ứng nguyên vật liệu và các yếu tố sản xuất được dễ dàng. Từ hệ thống giao thông phát triển sẽ giúp cho Công ty tiết kiệm được chi phí vận chuyển từ đó làm giảm chi phí nguyên vật liệu và hạ gía thành sản phẩm.
Thứ nữa cơ quan Nhà nước cần ban hành một số văn bản có hiệu lực hơn và mang tính cụ thể hơn trong việc quản lý giải phóng mặt bằng.Đưa ra mức đền bù một cách hợp lý hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty giải phóng mặt bằng thi công giúp cho việc đảm bảo được tiến độ, từ đó giúp Công ty hạ thấp được chi phí sản phẩm xây lắp đạt hiệu quả cao hơn.
Việc đưa ra hơn 60 khu vực đơn giá xây dựng như những năm qua làm tăng tính cục bộ hơn nữa.Nó hàm cho giá xây dựng trở nên cứng nhắc, thiếu linh hoạt và lại không phù hợp với quy luật thị trường. Đơn giá xây dựng là công cụ để thực hiện việc lập kế hoạch, hoạch định các chương trình phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó ngành xây dựng có thể thu nhỏ số lượng khu vực đơn giá lại, từ đó sẽ phát huy được tính tích cực của thị trường. Từ việc làm này sẽ cho phép sự điều chỉnh đơn giá xây dựng cơ bản đối với mỗi khu vực thi công cho phù hợp với điều kiện cung cấp, điều kiện sản xuất vì trong cùng một vùng có cùng đơn giá xây dựng như nhau nhưng đi vào mỗi khu vực riêng thì điều kiện của nó lại khác nhau do vậy đòi hỏi có sự điều chỉnh là tất yếu.
Hơn nữa Nhà nước nên có chính sách phát triển rộng khắp trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như các dịch vụ cho thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng...
Kết luận
Hơn mười năm tham gia đổi mới kinh tế, chúng ta đã dần thích nghi với nền kinh tế thị trường có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Chúng ta cũng được chứng kiến nhiều thay đổi trong cơ chế mới theo hướng tích cực, tuy nhiên cũng còn không ít những khuyết tật đang ẩn chứa trong chính bản thân nền kinh tế đó. Nó đe doạ sự phát triển ổn định của quốc gia nếu chúng ta không có chính sách phát triển đúng đắn. Đó cũng là bài học đúng đắn được rút ra từ các nước Đông Nam á, Hàn quốc và còn có thể lan rộng hơn.
Ta biết rằng cơ chế thị trường là cơ chế thuận mua vừa bán vì vậy mọi kế hoạch sản xuất và tiêu thụ phải gắn chặt với nhu cầu thị trường và phải được thị trường chấp nhận. Do đó kinh tế thị trường sẽ là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với các doanh nghiệp việc tồn tại hay không là gắn với trình độ quản lý, trình độ tổ chức doanh nghiệp mình. Cho nên bằng mọi biện pháp doanh nghiệp phải nỗ lực phấn đấu tổ chức cho tốt để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giảm phí. Đó cũng là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp giành thắng lợi trên thị trường cạnh tranh.
Mặc dù khó khăn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nên kinh tế thị trường là khó khăn chung, Công ty Đầu tư xây lắp thương mại còn phải thực hiện các nhiệm vụ xã hội, song thời gian vừa qua Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc tăng doanh thu, bảo đảm công ăn việc làm và đời sống ổn định cho cán bộ công nhân viên. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn nữa em đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng chi phí kinh doanh từ đó tìm ra ưu điểm và hạn chế để làm cơ sở đưa ra biện pháp giảm chi phí kinh doanh nhăm tăng lợi nhuận của Công ty.
Vì điều kiện có hạn em chỉ đi sâu phân tích và đưa ra một số biện pháp cơ bản trong giảm chi phí kinh doanh ở Công ty Đầu tư xây lắp thương mại. Em tin rằng các biện pháp mà em đưa ra ở đây chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu cũng như yêu cầu thực tiễn của Công ty. Em rất mong Công ty và các thầy cô giáo tham gia đóng góp ý kiến bổ sung cho đề tài của em hoàn thiện hơn và có hiệu quả hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Hoàng Đức Thân và Công ty Đầu tư xây lắp thương mại đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo.
1. Tạp chí tài chính số4/96 (trích bài của thầy Nguyễn Ngọc Huyền)
2. Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 6/96 (trích bài của thầy Nguyễn Ngọc Huyền)
3. Tạp chí tài chính 4/95 (trích bài của thầy Nguyễn Ngọc Huyền )
4. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp - trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
5. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh - trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
6. Phạm Văn Được : Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh
7. Cùng một số tài liệu khác có liên quan.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0054.doc