Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường

Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt mới huy động được gần 40% công suất thiết bị nhưng hầu hết công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Đặc biệt là thiết bị dệt vànhuộm. Ngành may chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới. Công tác đầu tư nghiên cứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được quan tâm đứng mức để phát triển phục vụ cho ngành may chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Hệ thống quản lý chất lượng của ngành dệt, may chưa được quan tâm chú ý đúng mức. Nhiều doanh nghiệp chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm tính đến cuối năm 1999 toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó có 4 đơn vị được cấp chứng chỉ. - Hầu hết các nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho sản xuất của ngành dệt, may, hiện nay đều phải nhập khẩu 60% giá trị sản phẩm nằm ở nguyên liệu bông, xơ, hóa chất, thuốc nhuộm. Nguồn nguyên liệu bông xơ từ trong nước có chất lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng được gần 10% nhu cầu nguyên liệu cho ngành dệt. Trong 10 năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến động giá nguyên liệu cho ngành dệt như việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã tác động xấu gây nhiều bất lợi cho ngành dệt, may Việt Nam trong những năm 1996 - 1999.

doc84 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh vận chuyển hành khách công cộng ở các thành phố lớn. Phát triển mạnh các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch làm việc phục vụ đời sống đáp ứng nhu cầu đa dạng trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 - 8%/năm và đến 2010 chiếm 42- 43% GDP 26 - 27% tổng số lao động. II. Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm 1. Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm Việt Nam. Nên kinh tế Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới cửa đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, thách thức phải đối đầu với cạnh tranh, hội nhập quốc tế và khu vực cũng ngày càng gay gắt. Việt Nam đã trở thành thành vieen của ASEAN, APEC và không bao lâu nữa gia nhập AFTA (2006) WTO thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo hiệp định CEPT Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế 4230 nhóm mặt hàng, xu thế hội nhập mở cửa đã trở thành tất yếu. Để tham gia cạnh tranh, hội nhập thì cần có những giải pháp thích hợp được các loại sản phẩm. * Giải pháp chất lượng sản phẩm trong quá trình hội nhập. Chất lượng là gì? Theo giáo sư Ishikawa chuyên gia về "chất lượng là sự thoả mãn nhu càu thị trường với chi phí thấp nhất". Cách nhìn toàn diện và khoa học, kết hợp giữa nguyên liệu quan niệm phổ biến trên thế giới tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO cho rằng: "chất lượng sản phẩm, dịch vụ là tổng thể các chỉ tiêu, những điều kiện tiêu đúng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm" theo tiêu chuẩn VNTCVN 5814 1994 thì "chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoã mãn những nhu cầu đã nên ra hoặc tiềm ẩn". Sự cần thiết phải quan tâm đến chất lượng. Do yếu tố cạnh tranh, hội nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới, nghĩa là chấp nhận sự cạnh tranh chịu sự tác động của qui luật cạnh tranh. Với chính sách mở cửa tự do hoá thương mại các nhà sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm của họ phải mang tính cạnh tranh có nghĩa là doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì việc liên tục hạ giá thành sản phẩm và không ngừng cải tiến hoàn thiện chất lượng làmột trong những mục tiêu quan trọng trong các hoạt động của mình. Yêu cầu về tiết kiệm kinh tế là tìm các giải pháp sản xuất kinh doanh tối ưu cho phép hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảmbảo chất lượng, đủ sức cạnh tranh với giá của chất lượng trong và ngoài nước. Nếu như trước đây trong chính sách ngoại thương các quốc gia dựa vào hàng rào thuế quan, hàng rao phi thuế quan để bảo hộ nền sản xuất trong nước thì ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới tổ chức thương mại thế giới WTO và thoã mãn về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại quốc tế (TBT) với nguồn lực và sản phẩm càng được tự do thương mại. 2. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu? Chỉ có thể được giải quyết bằng cách:đổi mới về cơ cấu và nâng cao chất lượng của hàng hoá. Về đổi mới cơ câú hàng xuất, theo chúng tôi, cần phải chuyển nhanh, mạnh sang phần lớn hàng chế biến và chế biến tinh, giảm mức tối đa hàng nguyên liệu, hàng sơ chế. Chuyển từ lắp ráp điện tử sang chế tạo và xuất khẩu linh kiện, chuyển từ xuất khẩu nông sản thô sang xuất khẩu nông sản chế biến... nông sản ở Việt Nam rất nhiều, chủng loại phong phú, đa dạng, chất lượng cao, nếu được chế biến theo tiêu chuẩn quốc tế thì việc chiếm lĩnh thị trường quốc tế là hiển nhiên đối với Việt Nam. Chuyển sang xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến và chế biến tinh trong điều kiện Việt Nam chưa thể thực hiện hoàn toàn bằng tự lực cánh sinh - vì Việt Nam về cơ bản còn nghèo, công nghệ lạc lậu, chưa có thị trường ổn định - do đó Việt Nam đang thực hiện biện pháp hợp tác, liên doanh, liên kết với cả những người Việt Nam đang hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Sự thực hiện nay ở nước ta việc tăng cường đầu tư trong nước, đổi mới công nghệ hiện đại để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu có chất lượng cao cũng bắt đầu được chú ý. Chẳng hạn: mở rộng đầu tư trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển các khu công nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, nhưng lại có công nghệ sản xuất tương đối tiên tiến, phù hợp với điều kiện hiện tại của Việt Nam. Từ đó, nâng cao được năng suất lao động, nâng cao tay nghề của người lao động. Phát triển các ngành nghề nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo chúng tôi, cần khẳng định rằng, việc đầu tư theo chiều sâu, tăng cường hiện đại hoá các cơ sở vật chất, chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều kiểu mẫu hàng hoá theo tiêu chuẩn quốc tế... là điều mang ý nghĩa quyết định đối với xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. 3. Các giải pháp riêng đối với các sản phẩm cụ thể. 3.1 Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt, may Việt Nam. Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt, may có vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế đất nước ta. Tính đến đầu năm 2000 năng lực sản xuất của toàn ngành có thể sản xuất 162.000 tấn sợi, 800 triệu mét vải 39 triệu sản phẩm dệt kim, mau khác. Giá trị hàng dệt, may xuất khẩu năm 1999 đạt 1.747 tỷ USD dự kiến năm 2000 đạt mức 1,9 tỷ USD ngành dệt may hiện đang có gần 90 vạn lao động làm việc, chiếm gần 20% tổng số lao động công nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, chuẩn bị bước sang thế kỷ 21, trứơc xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt ngành dệt, may nước ta còn nhiều hạn chế. Việc phân tích đánh giá đúng những yếu kém trong cạnh tranh của ngành dệt, may là việc làm có ý nghĩa thiết thực để từ đó có những giải pháp thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt, may Việt Nam. a. Những hạn chế cơ bản trong cạnh tranh của ngành dệt, may. - ở thị trường trong nước, năm 1999 ngành dệt cả nước huy động chưa hết 40% năng lực sản xuất để dệt gần 317 triệu mét vải các loại phục vụ cho tiêu dùng trong nước là chủ yếu. Ngành may phải nhập hơn 200 triệu mét vải và gần 10 triệu sản phẩm quần áo may sẵn từ nước ngoài để tiêu thụ tại thị trường trong nước. Vải sản xuất trong nước của ta tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với nhập ngoại, nhất là vải nhậ từ Trung Quốc. Hàng dệt của ta sản xuất không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thị chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn so với hàng dệt Trung Quốc. - ở trong thị trường xuất khẩu: Kim ngạch buôn bán hàng dệt, may trên thị trường thế giới hàng năm lên tới 300 - 350 tỷ USD và có mức tăng trưởng khá cao (trên 6% năm). thị trường buôn bán sản phẩm dệt, may trên thế giới tập trung ở 3 trung tâm lớn là Châu á, Tây Âu, Bắc Mỹ. Như vậy tiềm năng của thị xuất khẩu hàng dệt, may Việt Nam hiện nay rất lớn, ở thị trường có hạn ngạnh như khối EU, trong thời gian qua Việt Nam được ưu đãi khá nhiều trong việc cấp hạn ngành cho hàng dệt, may. Tuy nhiên, so với các nước ASEAN và Trung Quốc, khả năng cạnh tranh của hàng dệt, may Việt Nam vẫn thua kém, số lượng hạn ngạch EU ưu đãi cho Việt Nam là 28 nhóm. Sản phẩm dệt, may của ta xuất khẩu và EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống để làm như áo sơ mi, quần âu, áo jắc két... Những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ chống hạn ngạch được cấp. ở khu vực thị trường tiêu thụ hàng dệt, may Việt Nam đang có uy tín cao nhưng cũng đang bị cạnh tranh gay gắt và mất dần lợi thế bởi hàng dệt, may của các nước ASEAN đang phục hồi sau khủng hoảng tiền tệ Châu á vừa qua, ở thị trường Mỹ và Bắc Mỹ hàng dệt, may xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong quá trình thâm nhập vì chúng ta chưa được hưởng quy chế tới hiệp quốc do chính Mỹ quy định. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế. Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt mới huy động được gần 40% công suất thiết bị nhưng hầu hết công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Đặc biệt là thiết bị dệt vànhuộm. Ngành may chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới. Công tác đầu tư nghiên cứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được quan tâm đứng mức để phát triển phục vụ cho ngành may chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Hệ thống quản lý chất lượng của ngành dệt, may chưa được quan tâm chú ý đúng mức. Nhiều doanh nghiệp chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm tính đến cuối năm 1999 toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó có 4 đơn vị được cấp chứng chỉ. - Hầu hết các nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho sản xuất của ngành dệt, may, hiện nay đều phải nhập khẩu 60% giá trị sản phẩm nằm ở nguyên liệu bông, xơ, hóa chất, thuốc nhuộm. Nguồn nguyên liệu bông xơ từ trong nước có chất lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng được gần 10% nhu cầu nguyên liệu cho ngành dệt. Trong 10 năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến động giá nguyên liệu cho ngành dệt như việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã tác động xấu gây nhiều bất lợi cho ngành dệt, may Việt Nam trong những năm 1996 - 1999. b. Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt, may. - Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả thị trường trong và ngoài nước, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành dệt, may Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu cần chú ý tiếp cận nhanh tới thị trường Mỹ đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của hàng dệt, may của Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành dệt, may cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xã hội nêu trên. Đối với thị trường trong nước cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có mức thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng dệt, may. - Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm dệt, may, xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm dệt, may để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong những về hàng dệt, may. - Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ thiết bị cho các doanh nghiệp dệt, may, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt và may, mau xuất khẩu. Tăng cường đầu ư cho hoạt động nghiên cứu thời trang, quảng cáo các sản phẩm mới, để hàng dệt, may Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành dệt, may trong giai đoạn 2001 - 2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sợi sản xuất các loại sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành dệt, may phát triển. 3.2. Ngành da giày với một số giải pháp trước tình hình mới. Bước vào thiên nhiên kỳ mới, ngoài các vùng phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật... có nhu cầu đáng kể về các sản phẩm da giày, các nước đang phát triển cũng có sự biến động theo chiều hướng tăng lên của mức sống. Hàng năm Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật... tiêu thụ 10 triệu tấn sản phẩm da hàng năm và khoảng 11 tỷ USD giày dép chiếm 60 - 70% tổng sản lượng tiêu thụ của cả thế giới. Riêng khu vực Đông Nam á, cuộc khủng hoảng kinh tế 2 năm 1997 - 1998 không những làm giảm lượng của sản phẩm da giày còn làm chưng lại các nguồn đầu tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực kể cả da giày. Chuyển sang 1999 nền kinh tế các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật.. đã hồi phục ở các nước ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia, giá nhân công từ nay trở thành thấp, đồng tiền mất giá trong khủng hoảng trước đây đã làm thay đổi dòng đầu tư nước ngoài vào khu vực. Việc này ảnh hưởng đến lợi thế giá nhân công rẻ của nước ta và tác động đến nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm giảm vốn đầu tư 2 năm 1998 - 1999 chỉ bằng khoảng 50% các năm trước. Da giày Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế khu vực nhưng đã có được thành công trong sản xuất và xuất khẩu. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của da giày đạt khoảng 1,5 tỷ USD xếp hàng thứ ba trong các ngành hàng xuất khẩu đem về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh những thành công của ngành da giày trong năm 1999 thì cũng đồng thời xuất hiện khó khăn mới. Đó chính là nguồn vốn đầu tư nước ngoài những năm tới sẽ tăng chậm lại nên chúng ta không nhanh chóng chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh. Vì vậy cần phải thực hiện tốt các giải pháp trước tình hình mới này như sau: Vốn đầu tư phát triển ngành đóng vai trò quan trọng, huy động vốn đầu tư từ tất cả các nguồn: doanh nghiệp tự đầu tư, tự có, tự vay và tự tra tín dụng, đầu tư nhà nước, vốn đầu tư từ dân cư, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Có thể tạo nguồn vốn trên thông qua việc thanh lý tài sản. Các đơn vị phần lớn sử dụng những tài sản từ trước 1975 và của thời kỳ 1986 - 1990 trong quá trình hoạt động của các đơn vị gần như không thể tạo hay dệt, may trang thiết bị do không có vốn. Số lượng thiết bị lớn nhưng không đồng bộ, không thể tổ chức xí nghiệp ra ngoại thành là đáng kể. Với giải pháp thanh lý tài sản và được cần thiết cho ngành da giày.... Gọi vốn đầu tư nước ngoài là một biện pháp quan trọng nhằm tạo nguồn vốn thu hút công nghệ mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là một biện pháp mà các nước đang phát triển tập trung rất nhiều và là kinh nghiệm của các nước NIC. Cần huy động nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp da giày. Để tạo nguồn vốn tự có, các doanh nghiệp cần tổ chức quá trình sản xuất 1 cách có hiệu quả nhằm không ngừng tăng lợi nhuận trích phần lợi nhuận đó để tái đầu tư. Cần tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, nhà xưởng. Sử dụng hiệu quả sức lao động của công nhân đội ngũ quản lý, cấm xám của công tác viên bên ngoài doanh nghiệp. Giảm chi nguyên vật liệu chi phí sản xuất trên một sản phẩm, dự trữ tồn kho hợp lý tăng nhanh vòng quay vốn nhằm sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá mẫu mã, kích thích nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng để đẩy mạnh khả năng tiêu thụ. Phát hiện thị trường mới, lĩnh vực đầu tư kinh doanh mới Đối với thị trường ngoài nước: Sản phẩm da dày cần hướng tới thị trường ngoài nước trên cơ sở sử dụng những lợi thế của nước ta. Hàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi mà danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thay thế lẫn nhau, các nước Đông Nam á sẽ chiếm ngôi cao trong bảng. Trung Quốc vẫn giữ nguyên ngôi xuất khẩu trên 2 tỷ USD trên 1 năm. ý sẽ nhường số lượng cho Indônêxia hoặc Thái Lan. Nhưng vẫn giữ vị trí về giá trị và thị trường dày da đắt tiền. Trước tình hình đó ta cần từng bước phấn đấu dành thị phần phấn đấu, với ưu thế chất lượng giá rẻ. Trước hết là sự lựa chọn các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triển thị trường, ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực về nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến. Về nhập khẩu giày thề giới. Ba thị trường nhập khẩu lớn là Bắc Mỹ, Liên Minh Châu Âu, Nhật và các nước NICS. Trong đó, Mỹ giữ mức bình quân nhập gần 1,3 tỷ USD/1 năm, Đức: 381 triệu USD/1 năm, Nhật: 250 triệu USD/1 năm Pháp: 230 triệu USD/1 năm. Bên cạnh đó chúng ta còn cần có chính sách hỗ trợ và bảo vệ sản xuất trong nước phù hợp với quy định thế giới. - Khoảng cách chênh lệch quá xa hiện nay giữa các doanh nghiệp trong nước so với nước ngoài trên các mặt: Vốn, công nghệ, trình độ quản trị marketing đang là một khó khăn vớicc doanh trong nước. Nhà nước cần có chính sách nhằm bảo hộ sản xuất trong nước để tiến lập các nước trong khu vực, đảm bảo và tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh thị trường. - Có các sắc thuế nhập khẩu hợp lý cho từng loại nguyên liệu, công cụ lao động để hỗ trợ sản xuất trong nước để hạn chế các đối tác nước ngoài lợi dụng kinh doanh kiếm lời, nhưng cũng tránh vỡ tính gián tiếp đánh thuế vào công của doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay. - Tổ chức lại hoạt động phân phối, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo cho người sản xuất và tiêu dùng. - Thành lập các tổ chức tư vấn về lĩnh vực đầu tư, về lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin thị trường giúp các doanh nghiệp đầu tư, phát triển hiệu quả, hoà nhập thị trường da giầy thế giới. Đây là ngành công nghiệp có triển vọng phát triển mạnh, đem về nước số ngoại tệ lới, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động. Nhà nước cần có các chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển và ổn định của ngành da giày cụ thể là: * Định hướng phát triển ngành tập trung vào các sản phẩm da giày xuất khẩu. + Có chính sách hỗ trợ và bảo hộ sản xuất trong nước + Chính sách ưu đãi trong khu vực vay vốn từ nguồn tín dụng hoặc bảo trợ vay vốn từ các nguồn tài chính nước ngoài. + Kiểm soát việc đầu tư công nghệ, tránh việc nhập các công nghệ quá cũ, quá lạc hậu gây tác hại đến môi trường. + Lập quỹ bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp phải đóng góp tối đa thiếu 10% lợi nhuận đối với lĩnh vực thuộc và sản xuất da do là ngành gây ô nhiễm nặng đến môi trường. + Quy hoạch bố trí nhà máy thuộc da, hay cơ sở thuộc da mới sẽ cách các vùng đô thị đông dân cư và phải có công nghệ xử lý chất thải thích hợp không gây ô nhiẽm. + Chính sách thuế lợi tức ưu đãi để khuyến khích không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài mà cả trong nước tham gia (mà cả trong nước) phát triển ngành + Chính sách thuế, xuất nhập khẩu uyển chuyển trong từng thời kỳ cụ thể là trong khi nguồn nguyên liệu da trong nươchính sách chưa cung cấp đủ cho các nhà máy thuộc da hoạt động hết công suất. Phải miễn thuế nhập da mới và da muối. Sự công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ngoài sự nổ lực của từng doanh nghiệp trong ngành chúng ta ý thức được vai trò tạo môi trường điều kiện của Chính phủ bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi… là rất quan trọng. Ngành da giày chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu chiến lược hướng về xuất khẩu trong sự nổ lực thống nhất hữu cơ liên ngành, đồng thời nhờ vào chính sách bảo hộ đúng đắn của Nhà nước cũng như các giải pháp ổn định và phát triển hợp lý của ngành như đã nói trên. 3.4. các giải pháp tăng sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam . Trong 70 nước sản xuất cà phê thì Việt Nam cách đây 20 năm còn đứng vị trí thấp hàng năm xuất khẩu 5-6 nghìn tấn, ngoài việc trao đổi hàng hoá với Liên xô và các nước XHCN đông Âu cũ còn lại một lượng nhỏ được bán cho các thương gia ở thị trường Xingaporre và HongKong. Ngày nay cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất khẩu sang 40 nước với khối lượng lớn đứng thứ 4 thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm tương đối lớn. Số liệu xuất khẩu cà phê của nước ta từ 1992-2000 Niên vụ lượng xuất khẩu (tấn) tốc độ tăng (%) 1992-1993 1993-1994 1994-1995 1995-1996 1996-1997 1997-1998 1999-2000 130.500 158.520 210.038 233.000 346.000 382.000 660.000 65,0 21,5 33,7 9,8 48,5 10,4 72,7 Kim ngạch xuất khẩu còn tuỳ thuộc vào giá cả, có năm ngành cà phê đã thu được 560 triệu USD. Nếu tính theo năm thì từ 1/1/1997 đến 31/12/1997.Việt Nam xuất khẩu khoảng 390.000 tấn, tăng 53% năm 1996, đạt trị giá xấp xỉ 500 triệu USD, đứng thứ 6 về kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ 1998 - 2000, chỉ giá cà phê giảm nhưng nhờ lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch xuất khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao: 1998 = 593,8 triệu USD, 1999 = 583,3 triệu USD và 2000 giá cà phê giảm sút lớn, nhưng nhờ lượng tăng 44% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ đạt gần 560 triệu USD. Với lượng hàng hoá lớn như vậy, Việt Nam đã thực sự có ảnh hưởng to lớn đến giá dao dịch của cà phê Robusta trên thị trường thế giới. Có thể nói giá cà phê Robusta trên thế giới tăng giảm theo mùa vụ thu hoạch cà phê của Việt Nam và Indonesia. Trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, ngành cà phê còn non trẻ của Việt Nam cần xác định cho mình phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đăn. Nói cách khác là chúng ta phải có một chiến lược đúng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các giải pháp để tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Sang thế kỷ 21 chúng ta không khỏi băn khoăn trước nhiều câu hỏi đặt ra cho ngành cà phê vì thế cần phải có một quan điểm chiến lược đúng đắn, toàn diện và thống nhất để cà phê Việt Nam có ưu thế trên thị trường trong nước và xuất khẩu với một hệ thống các giải pháp đồng bọ. * Vấn đề thâm canh tăng năng suất và duy trì sinh thái môi trường vườn cây bền vững. Năm 1975 toàn quốc mới có 14.000 ha cà phê, sản lượng dưới 5000 tấn, năng suất 4 tạ/ha thì niên vụ 1999-2000 diện tích cà phê kinh doanh đã tốt hơn 200.000 ha năng suất bình quân trên 15 tạ/ha sản lượng 680.000 nghìn tấn. Hầu hết cà phê trồng trong các hộ gia đình quy mô vường 0,5-1 ha và đang ở tuổi sung sức, có nang sức khá cao, tập trung thành các vùng lớn ở các tình Tây Nguyên. Miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều, môi trường sinh thái đã có sự thay đổi lớn, cà phê sinh trưởng trong các vùng tập trung, sâu bệnh sẽ phát triển mạnh va dễ dàng trở thành dịch. Mà năm nay sâu bệnh đã gây hại ở một số nơi cần tập trung chữa trị dứt điển tránh để thành dịch lan rộng gây thiệt hại lớn như ở một số nước. Mặt khác cũng cần ngăn chặn những khuynh hướng khai thác bóc lột vườn cây như sử dụng phân hoá học quá nhiều, lạm dụng chất kích thích sinh trưởng, tưới nước ồ ạt.. thúc đẩy ra hoa quả nhiều để có năng suất kinh tế thấp kém. Thâm canh chăm sóc vườn canh, duy trì năng suất cao ổn định tạo moi trờng sinh thái bền vững suốt chu kỳ sinh trưởng phải là phương hướng nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành phương hướng thâm canh cà phê trong thế kỷ 21 là đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi tiến bộ sinh học và kỹ thuật mới vào các khâu giống chăm sóc để tăng chất lượng cà phê. *Tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối: Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê vối và cà phê chè có năng suất và chất lượng cao. Những điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê đã tạo cho Việt Nam lợi thế so sánh quan trọng. Có thể sản xuất ra cà phê hàng hoá có chất lượng cao và giá thành hạ để cạnh tranh trên thương trường quốc tế. mặt khác cũng phải thấy rằng thị trường cà phê quốc tế không phải đã ổn định. Nhu cầu tiêu dùng cà phê vẫn tăng lên hàng năm, nhiều thị trường mới được khôi phục và mở rộng, còn các nước sản xuất cà phê thì điều kiện thời tiết khí hậu không bình thường và nhiều nguyên nhân khác cũng đã gây nên những khó khăn trong cung ứng cà phê. Vì vậy nước ta có thể và cần phải nhanh chóng mở rộng thêm diện tích cà phê chè. Dự báo đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 450.000 tấn cà phê, trong đó cà phê chè 100.000 ha sản lượng hơn 800.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu cà phê khoảng 1,2 tỷ USD. Theo phương hướng này công tác quy hoạch khảo sát thiết kế các vùng trồng mới phải được tiến hành trước một bước và bố trí các mô hình sản xuất thực nghiệm nhằm xác định cơ cấu giống phù hợp. Chính phủ đã phê duyệt dự án phát triển cà phê chè 40.000 ha trong 5 năm (1997-2010) thời gian tới bằng vốn trong nớc và vốn vay ưu đãi của cùng phát triển Pháp (C=D). Hiện nay nhiều tỉnh đang triển khai trồng mới cà phê chè với tốc độ 300-1000 ha/năm /tỉnh. Đối với cà phê vói, cần ổn định diện tích hiện có ở Tây Nguyên, không mở rộng diện tích trồng mới trong thập niên đầu thế kỷ 21. Lấy thâm canh và nâng cao chất lượng làm hướng chính. * Phát triển công nghiệp chế biến cà phê. Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất thơm ngon vốn có của giống tốt được sản xuất trên các cao nguyên có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất thích hợp. Tuy nhiên, cà phê xuất khẩu lại không có chất lượng tương xứng và vì vậy đã thua thiệt về giá cả so với các nước khác. Một thế giới dài trước đây công nghiệp chế biến cà phê đã không được quan tâm đầy đủ, trình độ công nghiệp thấp kém chậm đổi mới, có cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng, thất thu hàng tỷ đồng vì chất lượng hạt xấu. Mặt khác hơn 80% cà phê được sản xuất ra là từ các hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu các điều kiện sơ chế tối thiểu. Thật tiếc công nghiệp đồ uống cà phê nhỏ bé có nguy cơ bị nước ngoài cạnh tranh mất thị trường, chưa nói đến việc Việt Nam xuất khẩu cà phê thành phẩm để tăng thu ngoại tệ. Công nghiệp chế biến cà phê đã không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cà phê việc này đã nêu thiệt hại không nhỏ cho nhà nước. vì vậy trong năm tới đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến cà phê phải được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cà phê. Sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghiệp chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát đánh bóng, sân phơi nhà kho .. mở rộng quy mô và nâng cấp nhà máy cà phê Biên Hoà lên 1.000 tấn/h và xây thêm một số nhà máy thành phẩm khác khi thị phần thường được mở rộng. Một việc không kém phần cấp bách là tổng Công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí chế biến cà phê để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cà phê. 2.5. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam. Tiềm năng và triển vọng của ngành thuỷ sản Việt Nam Việt Nam là một quốc gia ven biển, có chiều dài bờ biển 3.260Km vùng biển và thềm lục địa rộng lớn hơn 1 triệu Km2 với tiềm năng tài nguyên thiên nhiên phong phù, đặc biệt là thuỷ sản đã đang và sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua,ngành thuỷ sản nước ta luôn giữ được xu thế tăng trưởng không ngừng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị. Nhờ coi trọng cả khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản nên sản lượng thuỷ sản tăng khá vững chắc. Năm 1997 đạt 1580 nghìn tấn tăng 15,8% so năm trước. Năm 1998 đạt 1.660 nghìn tấn, tăng 5,1%. Năm 1999 đạt 1750 nghìn tấn, tăng 5,4%. Việt Nam đứng thứ 25 năm 1997 đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Trong khu vực Đông Nam á năm 1996 Việt Nam đứng thứ 3, năm 1997 đứng thứ 4 . Để tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh của thuỷ sản cần thực hiện tốt các biện pháp sau: + Nuôi trồng thuỷ sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng, phương hướng lâu dài là phải sản xuất thâm canh. Việc tăng sản lượng thuỷ sản của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vào thời gian đầu thế kỷ 21 sẽ chủ yếu hy vọng vào việc tăng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, còn khả năng đánh bắt cá tự nhiên rất hạn chế nhất là đối với nguồn hải sản đánh bắt ven bờ vì nguồn tài nguyên ở đây đã được khai thác quá công suất cùng với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và chi phí đánh bắt đã tăng cao hơn ở mức có thể chấp nhận được. Bởi vậy, Nhà nước hỗ trợ dịch vụ cung ứng vốn, giống cơ sở vật chất kỹ thuật nuôi trồng tiêu thụ sản phẩm. Cho nhân dân là yếu tố có tính quyết định để tăng nhanh sản lượng và chất lượng thuỷ sản. + Xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lý và đạt hiệu quả kinh tế cao, xây dựng cơ cấu đầu tư phát huy các lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng lãnh thổ. Theo dự báo của nhà kinh tế thế giới, trong thời kỳ 1996-2005, giá trị buôn bán thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục tăng ở mức 20-25% /năm. Quan hệ cung cầu có xu hướng ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, để nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam, cần chú ý phát triển các loại thuỷ sản có giá trị và chất lượng cao, nhu cầu của thị trường thế giới đã tăng lên + Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ có ý nghĩa to lớn về kinh tế và quốc phòng. Để thực hiện tốt chương trình này cần phải huy động tối đa các nguồn vốn trong nước, vốn ODA và các nguồn vốn khác để phát triển các đội tầu lớn có khả năng ra khơi dài ngày, đánh bắt xa bờ, có phương tiện chế biến tại chỗ. Nghiên cứu đóng mới một số tàu lớn có đầy đủ các dịch vụ về nước đá, nước ngọt, dầu mỡ. đông lạnh, chế biến để làm đầu mối dịch vụ cho các vệ tinh. Xây dựng các cơ sở dịch vụ ở tuyến đảo để làm điểm trung chuyển giữa bờ và ngoài khơi đánh bắt để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo an ninh. Xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá chợ cá phù hợp với sản lượng thuỷ sản của từng địa phương. + Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng dạng hoá bạn hàng giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thuỷ sản lớn. Một mặt, duy trì, củng cố các thị trường truyền thống, mặt khác tích cực tìm các giải pháp để xuất khẩu sang các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu như thuỷ sản lớn như UE, Mỹ. Những năm vừa qua Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, Đài Loan, Xingapore, Thái Lan, EU, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông… mục tiêu đến năm 2005 mỗi thị trường EU và Mỹ phải chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Để đạt được mục tiêu trên ,cần tăng cường công tác thông tin thị trường, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng thị trường nâng cao chất lượng sản phẩm bảo đảm vệ sinh thực phẩm, tích cực tham gia hội chợ chiển lãm, mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, tiếp cận với các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu thuỷ sản Việt Nam, nhất là hàng hoá chế biến . Mặt khác cần nâng cao năng lực hoạt động của hội nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam để tập hợp các nhà sản xuất kinh doanh thuỷ sản, tạo cho họ cơ hội giúp đỡ nhau về công nghệ, vốn kinh doanh thông tin kinh tế thương mại, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của ngành thuỷ sản Việt Nam. 2.6. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá ở nước ta. - Mục tiêu cơ bản phát triển nông nghiệp là: Xây dựng một nền nông nghiệp theo định hướng XHCN sản xuất hàng hoá mạnh, phát triển bền vững, từng bước được hiện đại hoá trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao, làm ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, có khả năng cạnh tranh chiếm thị trường trong nước và quốc tế. - Mục tiêu đến năm 2010 + Đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng phong phú và an toàn nhu cầu về lương thực thực phẩm của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước và hướng mạnh ra xuất khẩu + Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp 4-4,5% thuỷ sản 5-6% + Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 9-10 tỷ USD trong đó nông nghiệp 6-7 tỷ USD, thuỷ sản 3 tỷ USD. - Các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá ở Việt Nam ta cần tập trung là: 1. Thúc đẩy mạnh sản xuất sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao gồm thuỷ sản, lúa gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu Cụ thể * Về thuỷ sản: Đẩy mạnh việc nuôi tôn, cá nước ngọt, nước lợ, nước biển, các loại đặc thuỷ sản đạt sản lượng 2 triệu tấn, tăng nhanh sản lượng đánh bắt xa bờ lên 700.000 tấn để đến năm 2010 nước ta đạt tổng sản lượng 3,4 triệu tấn thuỷ sản (gấp gần 2 lần), kim ngạch xuất khẩu 2,7-3 tỷ USD (gấp 3 lần so với năm 1991) tốc độ tăng bình quân đạt 18-20% * Cây cà phê: Tập trung thâm canh tăng năng suất trên diện tích cà phê vối hiện có, mở rộng diện tích cà phê chè ở một số tình phía Bắc, hiện đại hoá khâu chế biến để nâng cao chất lượng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 0,7-1 tỷ USD/năm. * Cây điều: tiếp tục mở rộng diện tích ở Duyên Hải miền Trung, Đông Nam á và ở những nơi có điều kiện phù hợp, thay đổi giống mới thành cây chế biến, để cả nước có khoảng 400-500 nghìn tấn hạt điều thô, xuất khẩu đạt 400-500 triệu USD/năm. * Cây hồ tiêu: Tập trung đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, tổ chức cao hơn, mở rộng sản xuất theo khả năng hoá sản phẩm để đạt giá cao hơn, mở rộng sản xuất theo khả năng thị trường: tới năm 2010 xuất khẩu đạt 200-250 triệu USD/năm. Phát triển các sản phẩm cạnh tranh trung bình nhưng có triển vọng phát triển trong thập kỷ tới. Các sản phẩm thuộc nhóm này gồm có chè, cao su, tơ tằm, rau, hoa quả, lâm sản và các sản phẩm chăn nuôi đáng kể phát triển ở những nới có điều kiện thuận lợi, đặc biệt đưa nhanh giống mới chất lượng cao vào sản xuất, hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến, phát triển các cơ sở chế biến hiện đại, tăng cường trang thiết bị và công nghệ mới, chú trọng phát triển công nghệ bảo quản sau thu hoạch để kéo dài thế giới sử dụng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu trong nước và từng bước đẩy mạnh xuất khẩu. Phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu. Một số sản phẩm mà trong nước có nhu cầu lớn, có thị trường để tiêu dùng trực tiếp hoặc làm nguyên liệu cho công nghiệp gồm: Các loại cây có dầu, sữa, buông, thuốc lá, thức ăn chăn nuôi. 1.2. Phát triển công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, trong đó chú trọng các cơ sở chế biến vừa và nhỏ phù hợp với quy mô sản xuất hàng hoá của từng vùng, hỗ trợ các cơ sở hiện có đổi mới trang thiết bị nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra. Đồng thời khuyến khích phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn để góp phần giải quyết một cách cơ bản vấn đề việc làm và thu nhập của nông dân, nâng cao chất lượng và giá trị thương mại của nông, lâm, thuỷ sản. 2. Phát triển khoa học công nghệ làm cơ sở để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá. Tập trung thực hiện các nội dung chính gồm: (1) chọn tạo, phổ biến giống cây trồng vật nuôi, cây lâm nghiệp, giống thuỷ sản có năng suất chất lượng cao trên cơ sở áp dụng công nghiệp sinh hoá đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật. 2.1. áp dụng công nghệ hiện đại để bảo quản, chế biến sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Trước hết thay thế các trang thiees bị công nghiệp lạc hậu bằng thiết bị tiên tiến, làm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường. 2.2. Từng bước cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp, nâng cao mức cơ giới hoá làm đất lên trên 70% áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước hiệu quả cao, (1)nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, nghiên cứu kinh tế quản lý nhất là nghiên cứu về thị trường trong nước và quốc tế. 2.3. Nghiên cứu xây dựng mới, xót lại tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy trình, quy phạm phù hợp với yêu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia hội nhập kinh tế. 2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá sản xuất lớn. 3. Điều chỉnh các chính sách * Về chính sách đất đai: Nghiên cứu điều chỉnh quy định về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch quỹ đất dành cho nuôi trồng thuỷ sản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Về chính sách đầu tư: chú trọng hơn tới các công trình thuỷ lợi xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho thương mại, đầu tư đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ và mở rộng thị trường và nhất là thị trường xuất khẩu. * Về chính sách tín dụng: Hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, hướng dẫn mọi người tiếp cận các nguồn tín dụng ưu tiên cho vay kinh doanh nông sản và vật tư, và thành lập các quỹ hỗ trợ. * Về chính sách thuế: Điều chỉnh chính sách thuế đối với trang trại miễn thuế thu nhập doanh thu đối với hoạt động của hợp tác xã, bỏ thuế buôn chuyến đối với các hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản. * Chính sách thị trường: Chú trọng phát triển thị trường trong nước: Thực hiện các chương trình nâng cao sức mua của nông dan, đa dạng hoá các sản phẩm, phát triển mạnh thống nhất về thủ tục hải quan, Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện các dự án xâm nhập thị trường mới có tiềm năng sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ xuất khẩu…. 4. Tổ chức mạng lưới kinh doanh hàng hoá nông, lâm sản và vật tư nông nghiệp. 5. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực trong nông thon 6. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, khuyến khích đầu tư nước ngoài. 7. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với thương mại hàng nông sản chủ động hội nhập 2.7. Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh Kẹo Hải Hà. Công ty Bánh Kẹo Hải Hà là một trong những doanh nghiệp lớn của ngành sản xuất bánh kẹo nước ta. Công ty hiện có 7 đơn vị thành viên gồm 5 xí nghiệp trực thuộc và 2 liên doanh với nước ngoài là Hải Hà Kotobuki, Hải Hà - MiWon. Năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 136 tỷ đòng, nộp ngân sách đạt 18,2 tỷ đồng, nhiều sản phẩm bánh kẹo Hải Hà đã được tín nhiệm cao ở thị trường, nước ngoài. Vì vậy, phân tích đánh giá đúng những điểm mạnh, yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh những năm đổi mới vừa qua, đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời gian tới là những đóng góp thiết thực cho Công ty và cũng là những bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp khác. 1. Thực trạng sản xuất 1.1. Về cơ cấu sản phẩm. Trong những năm qua, tình hình cạnh tranh trên thị trường sản phẩm bánh kẹo trong nước diễn ra quyết liệt, không chỉ giữa các doanh nghiệp Nhà nước với tư nhân sản xuất bánh kẹo mà đối thủ cạnh tranh còn lại là các sản phẩm bánh kẹo nhập từ Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia… đang tràn ngập thị trường cả nước. thị trường tiêu thụ bánh kẹo là rất da dạng chủng loại sản phẩm mới có thể thay thế cho nhau nhu cầu tiêu thụ thay đổi theo mùa vụ. Sự xuất hiện của sản phẩm mới có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng tạo lợi thế cạnh tranh. Vì vậy mà Công ty liên tục đầu tư cho ra các sản phẩm mới như Bánh Gracker với dây chuyền sản xuất hiện đại của Italia, bánh Sôcôla, kẹo dừa thơm ngon mềm , kẹo Wandssncy kẹo Jelly chípchíp, bánh Violet, bánh dạ làn Hương… sản phẩm cua Công ty ngày càng mở rộng nhằm đáp ứng kịp thời trong nước. 1.2. Về chất lượng sản phẩm Công ty bánh kẹo Hải Hà luôn chú ý đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm kẹo mềm do Công ty sản xuất là sản phẩm truyền thống có chất lượng ổn định, được người tiêu dùng trong nước tín nhiệm và đánh giá cao, hơn hẳn bánh kẹo nhập từ Trung Quốc có trên thị trường các tỉnh phía Bắc. 1.3. Về giá bán. Công ty không hạ thấp giá bán của sản phẩm mà thay bằng việc tăng tỷ lệ chiết khấu tiêu thụ, hoặc kèm tặng phẩm và giải thưởng cho khách hàng mua nhiều sản phẩm của công ty. Công ty đã áp dụng gói kẹo bằng máy thay thế gói thủ công vừa tăng suất, vừa bảo đảm vệ sinh công nghiệp. Do đó đã có được giá thành hợp lý cho các loại sản phẩm bánh kẹo truyền thống tạo khả năng cạnh tranh lớn về giá mà vấn đảm bảo có lãi trong sản xuất kinh doanh. Nhận xét: Công ty bánh kẹo Hải Hả đã khai thác phát huy thế mạnh của mình trong cơ chế cạnh tranh để phát triển sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả, khẳng định được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường sản xuất và tiêu dùng bánh kẹo nước ta. Có được như vậy là do: Công ty đã biết chăm lo và phát huy các nhân tố nội lực để tăng khả năng cạnh tranh. Công ty mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ hiện tại có sản phẩm mới đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường trong nước. Nhờ đó công ty đã thực hiện thành công đa dạng hoá sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước. Để có được lợi thế cạnh tranh, Công ty luôn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức sản xuất và tổ chức hợp lý bộ máy quản lý, chăm lo đời sống cán bộ công nhân... Để có thể cạnh tranh về giá bán, Công ty đã chủ động áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp nhằm hạ giá thành tăng khả năng như tiết kiệm chi phí mua nguyên liệu đầu vào, tăng năng suất lao động khâu gói kẹo và tiết kiệm chi phí quản lý. Bên cạnh những mặt đạt được còn có những mặt hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty như: sản phẩm của Hải Hà chủ yếu thuộc loại bình dân, chưa có sản phẩm cao cấp chất lượng bao gói sản phẩm còn đơn điệu, một số sản phẩm giá bán còn cao... công tác nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, thu nhập thông tin thị trường chưa được công ty quan tâm thường xuyên. Chiến lược xâm nhập thị trường ở vùng sâu vùng xa các tỉnh phía Bắc và Nam của công ty chưa có phương án cụ thể. Tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu của công ty còn khiêm tốn so với kỳ bao cấp trước đây. Để tiếp tục nâng cao, khả năng cạnh tranh các sản phẩm của mình Công ty Bánh kẹo Hải Hà đã đưa ra một số giải pháp. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn 2000 - 2005. Mục tiêu của Công ty là giữ vững quy mô, tốc độ phát triển để trở thành một trong những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam. Công ty có trang thiết bị công nghệ tiên tiến ngang bằng các nước ASEAN, có khả năng cạnh tranh với công nghiệp sản xuất bánh kẹo trong nước và trong khu vực. Sản lượng bánh kẹo của Hải Hà đến năm 2005 đạt 11.000 tấn/năm, chiếm khoảng 33 - 35% tổng sản lượng toàn ngành. Để đạt mục tiêu trên. Công ty cần thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây. - Thị trường trong nước vẫn được xem là hướng tiêu thụ chủ yếu 70 - 80% sản lượng bánh kẹo do công ty sản xuất. Ngoài việc chiếm lĩnh thị trường Hà Nội và các tỉnh phía Bắc công ty cần vươn tới các vùng sâu, vùng xa của các tỉnh biên giới phía Bắc và miền Trung ở những địa bàn công ty có ưu thế cạnh tranh với các đối thủ khác. - Đối với nước ngoài, cần coi trọng hướng trọng điểm là ưu tiên khôi phục lại thị trường Đông Âu, cần khai thác triệt để cơ hội hội nhập và ưu đãi trong quan hệ mậu dịch của Việt Nam để từng bước thâm nhập thị trường các nước ASEAN và hướng tới thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ. - Tiếp tục hướng đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, coi trọng sản xuất các loại bánh kẹo mới mang hương vị đặc trưng từ nguyên liệu hoa quả nhiệt đới phía Bắc như kẹo cam, chanh, mận, chuối... Đồng thời cải tiến mẫu mã, bao bì với nhiều nhu cầu và sở thích của khách hàng tiêu dùng ở mọi lứa tuổi. - Tăng cường đầu tư dệt, may thiết bị, công nghệ có trọng điểm và đạt hiệu quả cao. - Nâng cao chất lượng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm bánh kẹo do công ty sản xuất phấn đấu áp dụng quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002. - Mở rộng quan hệ liên kết với các nhà cung cấp nguyên liệu nhằm ổn định sản xuất và giảm chi phí tiêu hao nguyên liệu. Tiếp tục phấn đấu hạ giá thành sản phẩm phục vụ khách hàng tiêu dùng có thu nhập thấp. - Hoàn thiện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động marketing của Công ty. - Tổ chức sắp xếp lại mạng lưới tiêu thụ hiện có, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của đại lý. Mở đại lý các tỉnh miền núi phía Bắc. Tăng cường cho công tác kiểm tra, phát hiện các đơn vị sản xuất hàng dởm, hàng giả mác sản phẩm của công ty. Công ty bánh kẹo Hải Hà đã chủ động vượt qua những thử thách của thời kỳ chuyển đổi, có nhiều thành công trong phát triển sản xuất kinh doanh những năm qua, vươn lên trở thành đơn vị làm ăn giỏi của ngành sản xuất bánh kẹo cả nước. Chúng ta hy vọng rằng, công ty bánh kẹo Hải Hà sẽ vượt qua những thử thách và chiến tháng trong cạnh tranh, chủ động hội nhập phát triển đi lên vững chắc trong thời gian tới./. Kết luận Đại hội lần thứ VIII đã lưu ý tới nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Trong khi đó việc hoà nhập vào khu vực với mốc thời gian 2000 là không thể lùi được. Theo kết quả nghiên cứu của UNDP tại Hội nghị không chính thức nhóm tư vấn quốc tế tại Huế trung tuần tháng 6 vừa qua có cảnh báo khả năng Việt Nam có thể lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính trong vòng 5 năm tới. Nếu không khắc phục được vấn đề còn tồn tại của nội bộ nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm là vấn đề chiến lược của ccs doanh nghiệp trong nước. Để cạnh tranh thắng lợi, chúng ta phải nắm bắt qui luật vận động của cạnh tranh từ đó vận dụng vào điều kiện nước ta, cạnh tranh thắng lợi để phát triển theo định hướng XHCN. Cạnh tranh ngày càng gay gắt và phát triển thành chiến tranh kinh tế, từ tự do cạnh tranh thành cạnh tranh có tổ chức. Trong cạnh tranh, luôn phải làm rõ ai là bạn, ai là đối tượng cạnh tranh, phù hợp với tổng kết dân gian là "Buôn có bạn, bán có phường" trong điều kiện hiện nay chúng ta cần xác định rõ mục đích của mình là: các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết với nhau để hoàn thiện các sản phẩm của mình tốt hơn, hoàn thiện hơn đạt tiêu chuẩn quốc tế để cạnh tranh với các sản phẩm của doanh nghiệp nước ngoài và xuất khẩu ra thị trường thế giới mở rộng thị trường cho các sản phẩm. Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác quản lý ở tầm vĩ mô mà không hề hạ thấp vai trò quản lý vi mô của doanh nghiệp trong nhiệm vụ nâng cao sức cạnh tranh về mặt này cần thấy rõ hoàn cảnh lịch sử xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tinh thần cơ bản của đường lối dệt, may đó, chúng ta thực hiện việc cải tiến phân cấp trong quản lý nền kinh tế quốc dân theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, đối với các sản phẩm. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn dai dẳng của các sản phẩm là chất lượng chưa tốt, mẫu mã chưa đẹp, chưa thuận tiện cho người tiêu dùng và giá cả rát cao so với sản phẩm nước ngoài. Nên người tiêu dùng trong nước ưa thích hàng ngoại hơn. cho nên vấn đề bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp là tìm đầu ra cho các sản phẩm doanh nghiệp và tạo được sức cạnh tranh trên thị trường. Nó là vấn đề khó nhất hiện nay và đang được nhiều lĩnh vực quan tâm để tìm ra được những biện pháp hữu hiệu hơn thúc đẩy các sản phẩm trong nước phát triển phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra các nước trên thế giới. Tài liệu tham khảo Trang 1. Giáo trình kinh tế thương mại - Nhà XBGD - Tác giả PGS.TS Đặng Đình Đào 2. Những cơ sở pháp lý trong kinh doanh thương mại - dịch vụ - Bộ môn Kinh tế thương mại biên soạn do PGS.TS Đặng Đình Đào chủ biên. 3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX - Nhà XB Chính trị quốc gia 4. Tạp chí kinh tế Dự báo: Số 6 - 2000. Bài viết của Vũ Đình 13-14 5. Kinh tế và Dự báo: Số 5 - 2000. TS. Hà Lê 35-36 6. Kinh tế và Dự báo: Số 9 - 2000. TS. Phạm Thanh Hải 29-31 7. Tạp chí Xây dựng: Số 8 - 2001. Trần Thị Sách 48 8. Tạp chí Xây dựng: Số 5 - 2001. Nguyễn Bích 34-35 9. Tạp chí Xây dựng: Số 8 - 2001. Sơn Hải 45-46 10. Tạp chí TT 0 GC: Số 10 - 2000. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc 21-22 11. Diễn đàn nghiên cứu - trao đổi tạp chí Thông tin lý luận: Số 12 - 2000. TS. Đinh Thị Thuỷ 30-31 12. Nghiên cứu trao đổi - Tạp chí công nghiệp Việt Nam: Số 19 - 2000. TS. Vũ Minh Trai 15-16 13. Phát triển kinh tế: Số 222. Thạc sĩ Nguyễn Trần Tuấn 34-35 14. Tạp chí Thương mại: số 2 + 3 - 2000. Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Huy Côn. 15-16 15. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: Số 4 - 2000. PTS. Hoàng Thịnh Lâm 11-12 16. Tạp chí TT - GC - Số 3 - 2001. PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc 16-17 17. Tạp chí Kinh tế và phát triển: Số 2 - 2001. Vũ Bá Định (Bộ kế hoạch và đầu tư) 37-38 18. Tạp chí TT - GC: Số 12 - 2000. Vũ Anh 23-24 19. Tạp chí Xây dựng: Số 5 - 2001 1-3 20. Tạp chí Thông tin và tài chính: Số 16/8/2001. Minh Hoài 2-3 21. Tạp chí Xây dựng: Số 7 - 2001. Nguyễn Luyện 56-57 22. Tạp chí Thông tin tài chính: Số 9/5/2001. Nguyễn Vĩnh Tường 4-5 23. Kinh tế Việt Nam 12 24. Thương nghiệp thị trường Việt Nam: Số tháng 3+4/2001. Nguyên Xuân Minh 20-21 25. Tạp chí Thương mại: Số 4 - 2001. Trần Hà 3-6 10-11 26. Diễn đàn trao đổi (Tạp chí TT - GC): Số 5 - 2000 24-25 27. Tạp chí công nghiệp: Số 9 - 2000. TS. Ngô Thị Hoài Lam. 16-17 28. Tạp chí nghiên cứu kinh tế: Số 275/4/2001. Đặng Thị Hiếu Lá 96 29. Tạp chí Thương mại: Số 7 - 2001. Trần Trọng Hồ 8-9 30. Tạp chí công nghiệp: Số 20 - 2000. TS. Ngô Thị Hoài Lam 25-28 31. Thương nghiệp thị trường Việt Nam: Số tháng 5/2001. Việt Dũng 16-17 32. Kinh tế và Dự báo: Số 3 - 2001. Phan Ngọc Trung 9-10 33. Tạp chí Thông tin - Tài chính số 9 tháng 5/2001. Nguyễn Mai Phương 8-9 mục lục Lời nói đầu Chương I: Khái quát về cạnh tranh và nâng cao cạnh tranh của sản phẩm. I. Các khái niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh là gì? Quan niệm về khả năng cạnh tranh. Quy luật về cạnh tranh. II. Vai trò của cạnh tranh. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật về các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. II. Phân tích thực trạng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. Tình hình kinh tế chung. Thực trạng về các sản phẩm cụ thể. Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường. I. Mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010. Định hướng phát triển các ngành. II. Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm. Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm Việt Nam. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Các giải pháp riêng đối với các sản phẩm cụ thể. Kết luận Tài liệu tham khảo. 1 3 3 3 3 4 6 12 19 19 24 27 Lời nói đầu Chương I: Khái quát về cạnh tranh và nâng cao cạnh tranh của sản phẩm. I. Các khái niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh là gì? Quan niệm về khả năng cạnh tranh. Quy luật về cạnh tranh. II. Vai trò của cạnh tranh. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật về các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. II. Phân tích thực trạng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường. Tình hình kinh tế chung. Thực trạng về các sản phẩm cụ thể. Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường. I. Mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010. Định hướng phát triển các ngành. II. Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm. Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm Việt Nam. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Các giải pháp riêng đối với các sản phẩm cụ thể. Kết luận Tài liệu tham khảo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0087.doc
Tài liệu liên quan