Việc trước tiên mà doanh nghiệp dệt may nhà nước cần thực hiện đó là phải tổ chức lại cơ cấu doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt của việc nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước cần phải lựa chọn những người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp. Phải thông qua cơ chế tuyển dụng, tuyển chọn nghiêm túc, tiến tới xây dựng đội ngũ giám đốc kinh doanh và quản trị nhà nghề, hoạt động theo chế độ hợp đồng làm thuê theo luật, xác lập thị trường giám đốc trong thị trường lao động, đồng thời phải tạo lập cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của họ.
Tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá IX trên cơ sở lấy hiệu qủa kinh tế – xã hội làm thước đo chủ yếu. Nhà nước cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu thông qua biện pháp cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp dệt may đủ điều kiện, áp dụng luật phá sản đối với những doanh nghiệp dệt may nhà nước thua lỗ kéo dài từ 2 đến 3 năm liên tiếp. Đồng thời áp dụng cơ chế giao, bán, khoán, cho thuê, sát nhập doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ mà nhà nước không cần nắm, cần tập trung đầu tư phát triển các doanh nghiệp có ưu thế hoặc giữ vị trí huyết mạch trong toàn ngành dệt may. Bởi vì bản thân các doanh nghiệp dệt may này sẽ không đủ sức cạnh tranh và tồn tại ngay trên thị trường nội địa.
Củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty dệt may Việt Nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể các doanh nghiệp dệt may nhà nước trên chính thị trường nội địa.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước mạnh dạn sử dụng những chuyên viên Việt Nam, còn chuyên viên nước ngoài chỉ nên dùng làm cố vấn để giảm chi phí tiền lương cao cho chuyên viên nước ngoài.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập khẩu, chất lượng lại xấu, không đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng hoá chất lượng cao, tỷ lệ tỷ tiêu hao nguyên liệu bông nhiều. Và như vậy dệt may phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Vấn đề khó khăn là giá bông sợi không ổn định. Thể hiện : Chỉ trong 6 tháng năm 1995 tăng từ 1,7 USD/kg lên 2,6 USD/kg, sau rồi lại giảm còn 2,06 USD/kg. Điều này ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh về chi phí sản xuất.
Phải chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thị trường trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ thuộc nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do có nhiều đầu mối thậm chí không phải ngành dệt vẫn đứng ra nhập và phân phối bông sợi theo nhiều loại giá khác nhau, đầu cơ làm biến động giá đầu vào làm giá đầu ra không ổn định.
Trong đầu tư của nhà cho ngành dệt may hiện nay có một điều đáng lưu ý là có tình trạng đầu tư không lý, thiếu đồng bộ, nơi nhiều, nơi ít, những quy định về thời gian thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ7-10 năm, cho ngành may là 12-15 năm. Thực tế ở Việt Nam đầu tư vào dệt phải mất 12-15 năm, may là 10-12 năm mới thu hồi được vốn. Chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hồi vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước vào ngành dệt may.
Điều này dẫn đến các doanh nghiệp nhà nước địa phương do không đủ vốn nên sử dụng hết công suất, có nơi lại thiếu vốn đầu tư mà không được đầu tư. Bên cạnh đó xu hướng chung là các doanh nghiệp nhà nước đầu tư về máy móc để sản xuất những mặt hàng quen thuộc, tiêu thu nhanh như áo sơ mi, jacket, quần áo ngủ ...mà không đầu tư vào những mặt hàng cao cấp như veston...Chính vì vậy dẫn đến dệt may không sử dụng hết bộ hàng mẫu mà bạn hàng giao cho, còn sản phẩm lại đơn điệu, tính cạnh tranh của sản phẩm rất thấp.
Vậy mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước sản xuất chỉ một số ít kiểu hàng trong khi Các doanh nghiệp dệt may muốn cạnh tranh tốt thì mẫu mã phải phong phú, phải có hàng hoá thích hợp cho mọi lứa tuổi, khổ người từ đàn ông, đàn bà, trẻ em đến người lớn, từ công nhân áo xanh đến thuỷ thủ, sinh viên nữ sinh hoặc các em nhỏ...
Dù rằng tổ chức thiết kế mẫu mốt của các doanh nghiệp dệt may nói chung có một đội ngũ các nhà thiết kế mẫu trẻ, giầu năng lực, nhưng mẫu mã thiết kế chưa thực sự đi vào cuộc sốn, chủ yếu là trình diễn còn thời trang hàng ngày được sưu tầm từ các catalogue của nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã còn nghèo nàn.
Khả năng tiếp cận thị trường còn bị hạn chế, còn bị động về thị trường trong nước, những thông tin còn nắm bắt chậm. Hầu như chưa nắm bắt nhu cầu thị trường về sản phẩm
Đối với ngành may ít phải đầu tư đổi mới công nghệ mà chỉ là trang thiết bị nên ngành đòi hỏi vốn ít hơn so với ngành dệt. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay thì đầu tư ở các doanh nghiệp may nhà nước vẫn còn thấp, phần lớn có số vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng. Hơn nữa tỷ lệ chiếm dụng vốn vẫn còn cao , đây là biểu hiện thiếu lành mạnh về tài chính, nó có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Mặc dù doanh nghiệp dệt may nhà nước có thuận lợi hơn trong việc vay vốn từ khu vực tài chính chính thức xong trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt may của Viện kinh tế học thì mức lãi suất trung bình cho vốn vay lưu động mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước phải trả cao hơn mức lãi suất trần mà Ngân hàng nhà nước quy định, các doanh nghiệp dệt may nhà nước đôi khi cũng phải đi vay từ các nguồn tài chính không chính thức. Chính vì vậy mà số vốn bình quân một doanh nghiệp là rất nhỏ. Số vốn của doanh nghiệp nhà nước lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đã ít, công nợ lại nhiều, số nợ phải trả của doanh nghiệp dệt may nhà nước thường cao hơn số vốn của doanh nghiệp. Liệu có bình thường không khi số vốn thực có không bù đắp nổi số vốn âm rất khổng lồ này.(Hiện tại Tổng công ty dệt may có số nợ lớn hơn số vốn nhà nước là 2,5 lần, nợ khó đòi chiếm 30% số nợ phải thu).
Thực trạng về công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt may mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới, song nhìn chung công nghệ trang thiết bị vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực, Hầu hết công nghệ trang thiết bị sản xuất từ năm 1950, 1960, trên 70% đã hết khấu hao, thậm chí 37%trong số này ở dạng thanh lý. Điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn giá nước ngoài. Chính vì vậy, trên thị trường trong nước, doanh nghiệp dệt may nhà nước ngoài việc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may sản xuất trong nước thì phải cạnh tranh với hang hoá của các đối thủ nước ngoài tràn vào Việt Nam. Đặc biệt từ năm 2003 Việt Nam ta bỏ hạn ngạch định lượng nhập khẩu và từ ngày 1/6/2006 bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ bằng phi thuế quan. Theo thống kê của VINATEX, những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt may sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55-60%.Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với dệt may sản xuất trong nước song sự cạnh tranh với hàng ngoại còn rất mạnh, nhất là hàng của Trung Quốc, ngành dệt may nhập khẩu chiếm khoảng 9-10% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.
Điều này chứng tỏ rằng hàng dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước cả về số lượng và chất lượng. Do lạc hậu về công nghệ trang thiết bị nên chi phí về nguyên phụ liệu cao, chi phí trung gian lớn.
Đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước không chỉ là các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà còn cả với hàng nhập khẩu. Họ cũng có nhiều thuận lợi, như Trung Quốc vốn đã sản xuất và xuất khẩu tơ lụa từ hàng nghìn năm nay, hiện là nhà cung cấp lớn nhất về vải lụa tơ tằm trên thế giới. Trung Quốc có lợi thế giá nhân công, lại tự túc được nguyên liệu do diện tích trồng bông lớn. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may thấp, hơn nữa mẫu mã sản phẩm đẹp được cải tiến liên tục nên hàng lậu Trung Quốc tràn ngập vào Việt Nam rất nhiều, làm cho hàng hoá dệt may Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng khó có thể cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Việc đầu tư để tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và năng lực quản lý cao đối với ngành dệt may là đặc biệt quan trọn. Mà trên thực tế hiện nay chưa có trường nào có chuyên môn đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may mà chủ yếu trưởng thành trong quá trình làm việc tức đào tạo tại chỗ. Hoạt động kỹ năng của người lao động không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp.
Do nhận gia công cho nước ngoài với giá thấp nên quan hệ tiền lương với nhân công chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và chấp nhận mức giá thấp, việc này đưa đến việc ép công nhân làm việc nhiều giờ với mức lương thấp.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa cao còn thể hiện ở chỗ ngành mới được cung cấp bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ được chưa đầy 5m2/người/năm. Mà thực ra, mức sử dụng hang dệt may theo bình quân đầu người (cho cả các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất công nghiệp) của nước ta lớn hơn thế nhiều. Song một điều dễ giải thích là, bù lại sự thiếu hụt của sản xuất trong nước, một số lượng lớn vải được nhập khẩu bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó có nhiều loại trong nước chưa sản xuất được.
Một thực tế khá phũ phàng là, mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất còn ít, mới đạt 50% công suất thiết kế, song vải của ta bán vẫn chậm. Một số doanh nghiệp dệt may nhà nước hàng tồn kho còn nhiều, kinh doanh thua lỗ. Năm 1990, trong số 6 doanh nghiệp lỗ của Tổng công ty dệt may Việt Nam có 4 doanh nghiệp dệt, chiếm 20% trong tổng số các doanh nghiệp dệt của Tổng công ty, có tổng số lỗ là 10 tỷ đồng.
Quan điểm mới, so với một số ngành như gạo, cà phê...việc phát triển ngành dệt may có một số ưu điệm, song chỉ nên tập trung có giới hạn vốn vào ngành này và dành vốn ưu tiên cho các dự án bỏ các giai đoạn trung gian, tiến thẳng vào cốt lõi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là các dự án làm các hàng tiêu dùng cao cấp, đặc biệt công nghiệp điện tử (làm các máy vi tính). Lý do là nếu như Việt Nam có thu nhập 5.000 USD/đầu người/ năm thì -ngành làm hàng may mặc- sống nhờ đồng lương thấp của công nhân-không còn có ưu thế. Nếu như chúng ta có một chương trình phát triển hợp lý thì mục tiêu đạt 5.000 USD/ đầu người/ năm trong vòng 10 năm tới có thể thực hiện được. Từ đó công nghiệp dệt may chỉ có tính phát triển thời gian và nên dành ưu tiên vốn cho các chương trình tập trung vào việc công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
3. Nguyên nhân của các khó khăn, hạn chế
Một trong những nguyên nhân làm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước là giá đầu vào cao và không ổn định. Hầu hết nguyên liệu phục vụ cho sản xuất dệt may đều phải nhập khẩu. Trong 10 qua thị trường thế giới có nhiều biến động về giá nguyên liệu cho ngành dệt như việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã tác động xấu gây nhiều bất lợi cho dệt may Việt Nam.
Chi phí trung gian cho ngành dệt may ngày càng cao. So với thời điểm năm 1996 đến nay thì:
Cước phí vận chuyển của ngành dệt may tăng 130%
Tiền công tăng 75%
Thuế sử dụng đất tăng 90,9%
Điện sử dụng tăng 37,5%
Ngoài ra, còn thêm nhiều loại tiêu phí khác cũng góp phần không nhỏ vào việc làm tăng chi phí của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu làm năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp dẫn đến giá thành sản phẩm cao.
Nhìn một cách khái quát, tài sản cố định của doanh nghiệp dệt may nhà nước hiện nay quá lạc hậu về kỹ thuật, manh mún và không đồng bộ. Theo báo cáo của bộ khoa học công nghệ và môi trường thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm. Mức hao mòn hữu hình từ 30-50%, hiệu suất sử dụng thấp chỉ là 25-30%.Đa số máy nhập khẩu thuộc loại phế bỏ ở nước ngoài và được tân trang lại nên đưa đến kết quả là sản phẩm làm ra lạc hậu, giá thành cao.Kết quả tất yếu kéo theo là mức tiêu hao nguyên nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm rất cao, ngược lại chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không ổn định, mẫu mã đơn điệu, điều này dẫn đến doanh nghiệp dệt may nhà nước mất khả năng cạnh tranh về máy móc thiết bị, công nghệ.
Ai cũng thừa nhận năng lực đội ngũ cán bộ là nhân tố có tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng song vẫn ở dạng tiềm năng. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh còn cồng kềnh, vận hành nặng nề, chi phí cao mà hiệu quả thấp. Không những vậy đội ngũ giám đốc-có vai trò dẫn dắt hoạt động của doanh nghiệp- lại tuyển chọn không dựa trên cơ sở năng lực thực sự, mà trong doanh nghiệp nhà nước phần lớn là do bổ nhiệm nên mang tính chủ quan. Doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa thực sự chủ động vươn lên, vẫn còn mang tâm lý trông chờ vào sự bảo hộ và trợ giúp tài chính của nhà nước.
Chất lượng nguồn nhân lực của dệt may còn nhiều bất cập. Hiện nay có 67% giám đốc không đọc được báo cáo tài chính, sự thiếu hụt lao động có kỹ thuật, tay nghề cao, điều này chứng tỏ doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa có khả năng cạnh tranh về nhân lực, khâu yếu của ta là đào tạo mà đào tạo lao động lại là yếu tố quyết định biến tiềm năng dồi dào về nguồn nhân lực thành hiện thực.
Kinh nghiệm kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị, sự hiểu biết về thị trường (thông tin kinh doanh ) của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn yếu kém, chất lượng lao động không cao, chưa có tính chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp hầu như chưa có chiến lược phát triển lâu dài ổn định, mà phần lớn là kế hoạch kinh doanh ngắn hạn thậm chí là kế hoạch kinh doanh cho từng thương vụ. Nếu doanh nghiệp chỉ lo đầu tư những thiết bị hiện đại, đắt tiền mà thiếu một trình độ quản lý và sử dụng nó dẫn đến lãng phí, không sử dụng hết công suất, năng suất lao động thấp từ đó làm khả năng cạnh tranh thấp.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước còn thiếu lực lượng lao động kỹ thuật cao là do mức thu nhập của họ thấp, không ổn định, bệnh nghề nghiệp ở các nhà máy dệt may tác động xấu đến sức khoẻ, tâm tư của công nhân. Những người có năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt không nhiều và thường tập trung ở các doanh nghiệp dệt may khác nên ở các doanh nghiệp dệt may nhà nước năng suất lao động thấp, từ đó dẫn đến giá thành sản phẩm cao.
Hệ thống quản lý của ngành dệt may chưa được quan tâm chú ý đúng
mức, chưa có giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm . Tính đến cuối năm 1999 toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002, trong đó có 4 đơn vị được cấp chứng chỉ.
Giá thành sản phẩm dệt may của doanh nghiệp dệt may nhà nước cao là do sự chênh lệch lớn về kỹ năng lao động giữa các doanh nghiệp dệt may nhà nước và các doanh nghiệp dệt may khác. Hơn nữa giá thành sản phẩm cao còn do chi phí về nguyên liệu (bông xơ, hoá chất, thuốc nhuộm) đều cao đồng thời còn do hệ thống cung cấp đầu vào không được kiểm soát chặt chẽ về cả số lượng và chất lượng. Cơ cấu vốn không hợp lý cùng lãi suất ngân hàng và mức thuế động viên vào ngân sách còn quá lớn không khuyến khích sản xuất trong nước, làm chi phí tăng lên. Có một số doanh nghiệp dệt may nhà nước, đặc biệt ở địa phương do bí nguồn vốn trung và dài hạn đã phải dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư: lãi suất cao, thời gian vay vốn ngắn làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, khả năng sáng tạo mẫu mã của doanh nghiệp kém. Một sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường một thời gian khá dài, khi người tiêu dùng chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới không sản xuất sản phẩm đó nữavà tìm sản phẩm mới. Điều này có tác hại rất lớn, mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra và ngừng sản xuất sản phẩm đó song thực tế trên thi trường vẫn tồn đọng một khối lượng sản phẩm lớn chưa tiêu thụ. Quý II/1999 hàng dệt may tồn kho 500 tỷ đồng(chủ yếu là sản phẩm dệt).
Nguyên nhân cản trở việc tập trung nguồn lực và làm giảm khả năng cạnh tranh của toàn ngành là do vẫn thường xảy ra tình trạng cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp với nhau (cạnh tranh về giá gia công, cạnh tranh về giá xuất khẩu...), đồng thời thiếu sự hợp tác, liên kết thậm chí có trường hợp sợi sản xuất trong nước thừa, nhưng một số doanh nghiệp nhập khẩu dệt.
Việc gắn kết giữa nội dung các đề tài nghiên cứu khoa học và các yêu cầu cụ thể của sản xuất kinh doanh còn hạn chế, đắc biệt là khâu tạo mẫu (bao gồm cả thiết kế mẫu vải và tạo dáng sản phẩm ). Công việc này được tiến hành ở từng doanh nghiệp riêng lẻ sẽ không hiệu quả.
Việc cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường sản phẩm cho doanh nghiệp dệt may nhà nước từ các cơ quan chức năng chưa hiệu quả, thiếu sự thống nhất, chặt chẽ cấp nhà nước nên làm cho các thông tin mà doanh nghiệp có được thường chậm và thiếu chính xác, không đồng bộ.
Như đã trình bầy ở trên, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp dệt may nhà nước khá lớn, sẽ không có gì phải bàn luận nếu doanh nghiệp đầu tư đúng hướng, công nghệ trang thiết bị phù hợp thì chắc chắn đưa lại khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh tế cao, khả năng thanh toán nợ tốt. Song vấn đề là ở chỗ vì nhiều lý do, doanh nghiệp lại chọn công nghệ lạc hậu,thiết bị máy móc cũ, không phù hợp khiến vốn sử dụng không hiệu quả, khả năng trả nợ thấp.
III. Những kết luận rút ra qua việc nghiên cứu khả năng cạnh tranh của hàng dệt may.
Rõ ràng đối với ngành dệt may các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có quá nhiều đối thủ nặng ký, nếu không được đầu tư đúng mức về mọi phương tiện thì khó lòng trụ được một cách vững vàng trên thị trường nội địa cũng như thế giới.
Nhìn chung hàng của các doanh nghiệp quốc doanh( hầu như các doanh nghiệp tư nhân vào lĩnh vực công nghiệp) và của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm ra còn xấu, giả cả lại cao.
Bức tranh chung về doanh nghiệp Việt Nam là năng lực cạnh tranh rất thấp, ngay cả trên thị trường trong nước cũng như khu vực và quốc tế: “ Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là rất trì trệ, tình trạng tham nhũng và làm thất thoát tài sản là rất phổ biến”.- nhận định này của thủ tướng chính phủ từ năm 1998 nhưng vẫn đúng trong thời điểm hiện tại và vài năm trước mắt.
Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và bán hàng tại chỗ, không có phí nhập khẩu, đồng lương nhân công lại thấp so với thế giới lại làm ra những sản phẩm vừa xấu lại vừa đắt.
Tình hình này làm kinh tế Việt Nam bấp bênh và chỉ hạn chế trong một số lĩnh vực nhất định. Việt Nam chưa tiến vào lĩnh vực chủ yếu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là làm hàng tiêu dùng cao cấp và xuất khẩu. Lĩnh vực này phần lớn do các doanh nghiệp nước ngoài chi phối. Một số doanh nghiệp trong nước chen chân vào lĩnh vực làm hàng công nghiệp đã bị lỗ nặng.
CacMac đã từng nói “tiêu thụ là bước nhảy nguy hiểm của hàng hoá nếu bước nhảy đó không thành công thì kẻ bị té mang thương tích không phải là hàng hoá mà chính là người sản xuất ra hàng hoá đó – doanh nghiệp” Để tránh cho mình không bị trọng thương trong “bước nhảy nguy hiểm” đó, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải biết nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Hiện nay do sự phát triển của khoa học công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn trong phạm vi các quốc gia mà còn mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới. Điều này làm cho cạnh tranh càng trở nên quyết liệt và sâu rộng hơn. cạnh tranh được xem như là yếu tố nội tại của quá trình kinh doanh và đi vào cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào khi muốn đưa ra các chính sách chiến lược nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cần phải biết được khả năng cạnh tranh thực tế của bản thân đồng thời hiểu được thực trạng kinh doanh của đối thủ.
Các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung không có đủ nguồn lực thúc đẩy toàn diện năng lực cạnh tranh của hàng hoá, chính vì thế phải gây dựng nó theo cách phù hợp nhất với hoàn cảnh, điều kiện sẵn có. Đã đến lúc phải có một lộ trình khoa học cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của các doanh nghiệp nhà nước, trong đó xác định bằng được các công việc trọng tâm của từng thời kỳ cụ thể. Không thể dàn trải và càng không thể chung chung, trừu tượng trong các chính sách phát triển kinh tế doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải áp dụng các phương pháp và công cụ định lượng thay thế cho kiểu định tính chung chung trong lộ trình phát triển. Loại bỏ lợi ích ích kỷ cá nhân trong các quyết sách kinh tế bằng các phương pháp khoa học khách quan.
Theo em, đã đến lúc phải giải các bài toán cạnh tranh thông qua các dự
toán định tính, duy ý chí của một nhóm người trong một ngành riêng biệt. Bởi vì, nếu không có công cụ khoa học thì sự phát triển dàn trải như hiện nay sẽ làm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bị giảm xuống và có thể doanh nghiệp bị nhấn chìm.
Chương III:
phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may ở doanh nghiệp nhà nước.
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành dệt may trong thời gian tới.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước với phương hướng là sản xuất và đưa vào thị trường các loại hàng hoá phù hợp với mức sống còn chưa cao của đại đa số người dân ở nông thôn ( giá rẻ, chất lượng trung bình, không cần dùng lâu bền, dễ thay đổi), cần phải xóa bỏ tình trạng một khối lượng hàng hoá khá lớn của doanh nghiệp không bán được ở thị trường thành phố vì lỗi mốt hoặc chất lượng không cao, nhưng cũng không tiêu thụ được ở nông thôn vì giá đắt. Cụ thể:
Doanh nghiệp dệt may nhà nước hiện nay năng lực sản xuất còn nhỏ, không đủ điều kiện sản xuất sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và sau là để hội nhập vào thị trường thế giới trong xu thế thương mại toàn cầu hóa, Tổng công ty Dệt may Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Bộ công nghiệp đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh toàn ngành đã xây dựng xong bản quy hoạch tổng thể phát triển toàn ngành dệt may đến năm 2010 với các quan điểm chủ đạo:
Ngành dệt may được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chú trọng đa dạng hoá sản phẩm , coi trọng thị trường nội địa, thay thế hàng nhập khẩu.
Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các doanh nghiệp may, đồng thời gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đảm bảo đến năm 2010 công nghệ tương đương với Hồng Kông, Thái Lan, tạo việc làm cho khoảng 4,3 triệu lao động (gồm lao động dệt, may,sản xuất bông vải và lụa tơ tằm), với mức thu nhập trên 100 USD/người/tháng.
Ngày 23/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển( xem bảng 1)
Chỉ tiêu
Đơn vị
Đến 2005
Đến 2010
1.Sản xuất:
Bông xơ
Xơ sợi tổng hợp
Sợi các loại
Vải lụa thành phẩm
Dệt kim
May mặc
2. Kim ngạch xuất khẩu
3. sử dụng lao động
4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu
5. – Nhu cầu vốn đầu tư phát triển
Vốn đầu tư mở rộng
Vốn đầu tư chiều sâu
Trong đó: VINATEX
6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông
Tấn
Tấn
Tấn
Triệu m2
Triệu sp
Triệu sp
Triệu USD
Triệu người
%
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
30.000
60.000
150.000
800
300
780
4.000-5.000
2,5-3
>50
35.000
23.200
11.800
12.500
80.000
120.000
300.000
1.400
500
1.500
8.000-9.000
4-4.5
>75
30.000
20.000
10.000
9.500
1.500
Nguồn: VINATEX
Cụ thể là trong sự phát triển chung đó, cần cố gắng khai thác phát triển theo vùng của từng lĩnh vực chuyên ngành. Chẳng hạn lĩnh vực dệt được phát triển mạnh ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, An Giang, Bình Dương, Đồng Tháp, Tây Ninh, Long An...Dự kiến sản lượng vùng này chiếm 50 –60% toàn ngành. Vùng đồng bằng Sông Hồng và một số tỉnh lân cận gồm: Hà Nội, Hà Tây, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Nguyên, Nam Định, Vĩnh Phú, Nghệ An mục tiêu sản lượng khoảng 30- 40%. Vùng Duyên Hải miền Trung và một số tỉnh khu vực IV cũ gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế..sản lượng khoảng 10%.
Lĩnh vực may mặc được phân bổ trên các địa phương để phục vụ nhu cầu trong nước và tập trung tại 3 vùng phát triển dệt để tham gia xuất khẩu – ưu tiên các địa bàn thuận tiện giao thông và bến cảng. Nhu cầu vốn cho các loại hình đầu tư chiều sâu trong khoảng 480 triệu USD, đầu tư mở rộng là 285 triệu USD, đầu tư mới là 322 triệu USD.
Để đảm bảo nguồn nguyên liệu trong nước, Tổng công ty Dệt may trong những năm tới sẽ phát triển thêm các vùng nguyên liệu, phấn đầu năm 2005 diện tích trồng bông đạt 40 nghìn hécta, đến năm 2010 diện tích đó là 100 nghìn hécta, còn diện tích trồng dâu tằm là 27 nghìn héc ta và tới năm 2010 là 40 nghìn hécta. Cụ thể:
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
DT trồng bông
Nghìn tấn
22,6
60
150
Năng suất bông hạt
Tạ/ha
9
14
18
Sản lượng bông hạt
Nghìn tấn
20,3
84
270
Sản lượng bông xơ
Nghìn tấn
6,8
30
80
Nhu cầu bông xơ toàn ngành
Nghìn tấn
60
97
130
Đáp ứng nhu cầu ngành dệt
%
11
30
61
Phấn đấu trong thời gian tới mối liên kết giữa ngành dệt và ngành may được giải quyết, ngành dệt hướng tới việc cung cấp một cách tối đa lượng vải có chất lượng cao cho ngành may. Còn đối với toàn cả ngành dệt và may thì phấn đấu trong thời gian tới đáp ứng được 70% nguyên liệu cho ngành dệt may.
Coi trọng thị trường nội địa để phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo đủ việc làm cho người lao động, thị trường trong nước được coi trọng với việc đẩy mạnh nghiên cứu để sản xuất các sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng khác nhau về mẫu mốt, chất lượng vải, mức thu nhập thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tổ chức được hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ hợp lý trong cả nước.
II. Những biện pháp chủ yếu cho việc nâng cao tính cạnh tranh của hàng dệt may ở các doanh nghiệp nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng hoạt động là chiến lược phát triển của doanh nghiệp cũng như chất lượng của môi trường kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp. Cạnh tranh doanh nghiệp đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển dài hạn, hàng hoá phải có sức cạnh tranh cả về giá cả và chất lượng.
Hàng dệt may Việt Nam nói chung đều đang trong tình trạng khả năng cạnh tranh kém. Theo em để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá do mình sản xuất ra các doanh nghiệp dệt may nhà nước cần phải làm đồng thời các biện pháp sau:
1. Cơ cấu lại doanh nghiệp
Việc trước tiên mà doanh nghiệp dệt may nhà nước cần thực hiện đó là phải tổ chức lại cơ cấu doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt của việc nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước cần phải lựa chọn những người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp. Phải thông qua cơ chế tuyển dụng, tuyển chọn nghiêm túc, tiến tới xây dựng đội ngũ giám đốc kinh doanh và quản trị nhà nghề, hoạt động theo chế độ hợp đồng làm thuê theo luật, xác lập thị trường giám đốc trong thị trường lao động, đồng thời phải tạo lập cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của họ.
Tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá IX trên cơ sở lấy hiệu qủa kinh tế – xã hội làm thước đo chủ yếu. Nhà nước cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu thông qua biện pháp cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp dệt may đủ điều kiện, áp dụng luật phá sản đối với những doanh nghiệp dệt may nhà nước thua lỗ kéo dài từ 2 đến 3 năm liên tiếp. Đồng thời áp dụng cơ chế giao, bán, khoán, cho thuê, sát nhập doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ mà nhà nước không cần nắm, cần tập trung đầu tư phát triển các doanh nghiệp có ưu thế hoặc giữ vị trí huyết mạch trong toàn ngành dệt may. Bởi vì bản thân các doanh nghiệp dệt may này sẽ không đủ sức cạnh tranh và tồn tại ngay trên thị trường nội địa.
Củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty dệt may Việt Nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể các doanh nghiệp dệt may nhà nước trên chính thị trường nội địa.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước mạnh dạn sử dụng những chuyên viên Việt Nam, còn chuyên viên nước ngoài chỉ nên dùng làm cố vấn để giảm chi phí tiền lương cao cho chuyên viên nước ngoài.
2. Nghiên cứu thị trường
Điều gì đã xoay chuyển quá trình cạnh tranh trong ngành dệt may? Các đối thủ cạnh tranh có khả năng tiến hành những hoạt động nào. Doanh nghiệp mình sẽ tiến triển như thế nào? Bằng cách nào doanh nghiệp mình có thể tìm được vị trí tôt nhất để cạnh tranh trong thời kỳ dài hạn? Để có thể trả lời được câu hỏi đó thì doanh nghiệp phải tổ chức nghiên cứu thị trường.
Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam. Mà trước hết là thị trường trong nước, cần quan tâm đến thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có nhu cầu và thu nhập khác nhau về hàng dệt may như học sinh, công nhân...Kết hợp giữa nghiên cứu mẫu mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng.
3. Tăng cường sự hợp tác
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước để đến đích nhanh cũng cần hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp khác. Trong quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không có nghĩa là chối bỏ sự hợp tác mà nên xem đó là biện pháp quan trọng để hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh. Tất cả đều phải nỗ lực nhưng phải sẵn sàng hợp tác. Theo hướng đó các doanh nghiệp hợp tác và có quan hệ tương tác với nhau trong tiến trình phát triển, bởi lẽ chúng đều là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân. Làm được điều đó, chúng ta sẽ tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác: cạnh tranh để có được sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất, hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài Tổng công ty phát triển.
4. Xây dựng các chính sách chiến lược
Những lực lượng nào điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành dệt may? những nước cờ nào đối thủ cạnh tranh sẽ tung ra và cách phản ứng tối ưu là gì? Ngành sẽ tiến triển ra sao? Làm thế nào để một hãng có được vị trí tốt nhất để có thể cạnh tranh lâu dài? Điều đó phụ thuộc nhiều vào người xây dựng chiến lược cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài, đón đầu được xu hướng thay đổi của nhu cầu thị trường trong nước cũng như ngoài nước, trên cơ sở đó mới tạo được sản phẩm phù hợp.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường và khả năng của doanh nghiệp mình thì các doanh nghiệp cần hoạch định chính sách với tầm nhìn chiến lược lâu dài.
Hiện nay vốn doanh nghiệp còn quá ít, vốn vay lại nhiều, tiền trả cho ngân hàng có khi cao gấp bội lần số lương phải trả cho công nhân của doanh nghiệp. Giá trị sản xuất nên dùng để trả lương cho công nhân và tái đầu tư, nếu có dùng để trả lãi cho ngân hàng thì chỉ là một phân nhỏ thôi chứ không phải là phần lớn như hiện nay. Vì vậy có thể coi ngân hàng là một cổ đông, lỗ hay lãi cùng chịu với doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp dệt may nhà nước khi được thành lập hay được đầu tư tân trang mở rộng sản xuất cần phải có một dự án tốt về kỹ thuật và tài chính trong đó điều kiện chính là sản phẩm dệt may làm ra mẫu mã đẹp, phong phú, chất lượng cao.
Doanh nghiệp dệt may nhà nước muốn phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thì cần đầu tư cho tầm nhìn chiến lược lâu dài, để làm được điều đó (sản phẩm tốt, giá thành trong khi công nghệ còn lạc hậu ), các doanh nghiệp dệt may nhà nước Việt Nam phải giảm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận từ số một sang số hai. Chính điều này sẽ tạo nên sự khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp nỗ lực phát triển với mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu. Khi lợi nhuận trở thành mục tiêu số hai thì cần có một mô hình doanh nghiệp mới và một triết lý kinh doanh mới. Thể hiện ở các chiến lược:
* Chiến lược sản phẩm : chọn những sản phẩm mà doanh nghiệp có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng phát triển và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm dệt may, xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm dệt may để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng dệt may.
Các doanh nghiệp nên đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nhanh chóng nâng cao chất lượng cuả hàng dệt may.
* Chiến lược hạ thấp chi phí: bao gồm các chi phí đầu vào và các chi phí trung gian khác để hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận và có đủ khả năng bán hàng ra với giá cạnh tranh.
* Chiến lược chuyên biệt hoá sản phẩm : luôn luôn tìm cách để sản phẩm của doanh nghiệp có tính khác biệt, độc đáo ở một điểm nào đó so với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.
* Chiến lược tiêu điểm: cũng có thể doanh nghiệp chỉ tập trung vào một vài phân khúc của thị trường trọng điểm, trực tiếp phục vụ nhu cầu của nhóm khách hàng hạn chế có thể phân theo khu vực địa lý, theo mức thu nhập, tuổi tác...tuỳ theo khả năng và ưu thế của doanh nghiệp.
*Chiến lược marketing: làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, cần tạo đội ngũ những người tiếp thị, phát triển mạng lưới nhanh nhậy, rộng khắp, luôn có kế hoạch mở rộng thị trường. Thường xuyên có hình thức khuyến mãi phù hợp với từng lúc và khả năng của doanh nghiệp như giảm giá thành với sản phẩm học sinh, sinh viên khi bước vào năm học mới. Đồng thời với việc nâng cấp sản phẩm , cải thiện giá cả thì việc đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ thông qua huấn luyện đội ngũ bán hàng và tăng cường việc kiểm tra chương trình tiếp thị.
* Chiến lược đổi mới công nghệ: xây dựng kế hoạch để từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ, thay thế dần công nghệ cũ bằng công nghệ mới để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm , nâng cao chất lượng hàng hoá, trước tiên lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành hiện đại hoá trước. Bỏ qua các giai đoạn trung gian, nhập khẩu hoặc tốt nhất là tự làm lấy các máy tối tân, các nhà máy đồng bộ, tự động hoá chứ không phải đầu tư bằng máy cũ và tân trang lại như một số doanh nghiệp nhà nước đã làm trong thập niên gần đây.
Bên cạnh việc nâng cấp công nghệ, các doanh nghiệp dệt may nhà nước cũng cần phải bố trí, sắp xếp, sử dụng sao cho phối hợp tốt nhất giữa con người và trang thiết bị máy móc, phải chú ý phần mềm công nghệ thông qua nâng cao trình độ cán bộ kỹ thuật và công nhân liên quan đến tiếp thu, sử dụng và phát huy hiệu quả của công nghệ đó. Tổ chức phong trào sáng kiến cải tạo kỹ thuật với phần thưởng tương xứng.
* Chiến lược con người nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh quản lý, nhất là nâng cao trình độ kinh nghiệm kinh doanh và điều hành của giám đốc, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ và kiến thức về tiếp thị, tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ khoa học công nghệ, thông tin, chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động trong doanh nghiệp. Có hình thức khuyến khích lao động làm việc tốt hơn.
Doanh nghiệp cần tạo dựng và duy trì được nề nếp quản lý kỹ thuật, huấn luyện và nâng cao kỹ năng, tác phong, kỷ cương công nghiệp cho công nhân và kỹ thuật viên.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành dệt may để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật và quản lý. Doanh nghiệp cần sửa đổi mưc lương và hệ số độc hại quy định cho ngành dệt may. Đây cũng là ngành có mức độc hại cao và hay mắc bệnh nghề nghiệp đối với người lao động, đặc biệt là lao động nữ để khuyến khích người lao động yên tâm làm việc trong ngành dệt may.
Bên cạnh đó công ty nên gửi đi đào tạo ở các trường chính quy, ngoài ra cần có chính sách thu hút cán bộ, kỹ sư giỏi như: tuyển chọn sinh viên giỏi mới ra trường. Với những người giỏi không cần chờ thâm niên mà áp dụng lương thưởng xứng đáng tương xứng với hiệu quả hoạt động. Doanh nghiệp cũng nên có chính sách khuyến khích những công nhân viên chức giỏi.
Để nâng cao sức cạnh tranh thông qua yếu tố con người doanh nghiệp nhà nước cần giải quyết tốt những vấn đề:
+ Không ngừng tạo điều kiện cho người lao động được học tập, được đào tạo và đào tạo lại, đặc biệt chọn đúng người để đào tạo chuyên sâu là vấn đề vô cùng cần thiết. Gắn liền đó là việc giáo dục phẩm chất, đạo đức, rèn luyện thể lực cho người lao động. Một cơ thể mạnh, giàu sức sống về cả sức lực trí tuệ và tinh thần sẽ tích cực thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển, đem lại năng suất lao động cao và từ đó mang lại năng suất lao động cao.
+ Tạo môi trường thuận lợi để người lao động được phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mình, được cống hiến cho sự nghiệp phát triển của doanh nghiệp.
+ Phải giải quyết thoả đáng chế độ tiền lương. Điều này tạo điều kiện cho người lao động yên tâm làm việc để từ đó mang lại năng suất lao động cao.
Như chúng ta đã biết tính cạnh tranh quyết liệt để chiếm lĩnh thị phần sản phẩm trên thị trường đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm và vòng đời sản phẩm. Sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng chỉ có doanh nghiệp xuất khẩu mới quan tâm tới thị trường thế giới, vì rằng một khi các rào cản thuế quan bị rỡ bỏ theo các cam kết quốc tế, hàng hoá bên ngoài sẽ tràn vào, đẩy các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong nước vào thế hoàn toàn bị động. Kinh tế thế giới hiện nay đang tồn tại thực trạng là “cung” vượt quá “cầu” vì thế sản phẩm cần có tính cạnh tranh cao, nhất là khi thế giới đang chuyển sang một dạng khác- kinh tế tri thức, có nghĩa là hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm. Trong hoàn cảnh đó hàng hoá dệt may nhà nước cần có tính cạnh tranh cao hơn. Với tinh thần sáng tạo và trí tuệ doanh nghiệp nhà nước cần vươn hơn nữa để tạo sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường trong nước và tiến tới giành vị trí cao trên thị trường trên thế giới.
* Chiến lược xây dựng và quảng cáo cho thương hiệu sản phẩm: thương hiệu là kết quả của quá trình tiếp thị quảng cáo, lâu dài và tốn kém nhưng nó rất quan trọng, một khi sản phẩm của các hãng đều na ná giống nhau về chất lượng, giá cả, thì thương hiệu là cái duy nhất để khác hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không mua của người khác. Mặc dù kiểu dáng chất lượng của sản phẩm giống hệt nhau nhưng thương hiệu khác nhau thì bán khác nhau. Thương hiệu có giá trị khác nhau do chi phí quảng cáo khác nhau. Một thương hiệu mạnh có thể giúp cho doanh nghiệp đạt được vị thế dẫn đầu trong ngành. Thương hiệu càng nổi tiếng thì khả năng tăng thị phần của nó trên thị trường ngày càng cao. Nhờ đó doanh nghiệp có thể điều tiết thị trường, định giá cao hơn, chi phối, làm cho các đối thủ phải nản lòng khi muốn chia thị phần với họ.
* Chiến lược văn hoá doanh nghiệp: Các doanh nghiệp dệt may nhà nước muốn đứng vững và phát triển trong cạnh tranh thì phải xây dựng cho mình một mô hình văn hoá doanh nghiệp, đó là: xây dựng chế độ lương bổng cao, chế độ làm việc ổn định, xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên doanh nghiệp như một đại gia đình, hướng tới một tinh thần đồng đội cao, đồng thời phải có quy định rõ ràng về thưởng, phạt, như vậy mới tạo ra động lực phát triển của doanh nghiệp.
*Chiến lược vốn: trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược huy động vốn. Một trong những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu vốn, vốn ít nhưng một số ngân hàng thương mại lại thừa vốn. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp dệt may nhà nước cần xây dựng cho được phương án kinh doanh khả thi và ngân hàng cũng phải cải tiến phương thức cho vay, trợ giúp doanh nghiệp, chứ không nên cho vay một cách thụ động máy móc. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân hàng, các công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, các công ty có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu, đây là nguồn vốn rẻ và ổn định, giúp doanh nghiệp thực hiện dự án kinh doanh vốn đòi hỏi thời gian dài.
Khai thác và huy động vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho doanh nghiệp, tạo sự cân đối cho toàn ngành đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt và may. Tăng cường đầu tư hoạt động nghiên cứu thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng của doanh nghiệp nhanh chóng đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.
5. Tối ưu hoá các yếu tố đầu vào:
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào. Như đã nói ở trên để thu hút khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp thì hàng hoá của doanh nghiệp phải có giá thành sản phẩm hấp dẫn hơn đối thủ cạnh tranh. Để có giá thành sản phẩm thấp thì tất yếu doanh nghiệp phải tìm biện pháp để sao cho có được giá trị sản phẩm thấp nhất, có như vậy thì khi mang bán hàng hoá trên thị trường giá của sản phẩm mới thấp. Các doanh nghiệp cùng tìm biện pháp để có giá thành sản phẩm thấp nhất, mà con đường tốt nhất để có giá thành sản phẩm là phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào. Chi phí để tạo ra sản phẩm là yếu tố quyết định tới giá trị sản phẩm, nếu chi phí cho những nhân tố này thì sẽ làm cho tổng chi phí tăng và tính ra thì giá trị trên mỗi sản phẩm sẽ cao, mà dĩ nhiên doanh nghiệp kinh doanh sản xuất hàng hoá thì phải có lãi, họ sẽ phải bán hàng hoá có giá sao cho việc kinh doanh phải mang lại cho họ lợi nhuận lớn nhất. Tất yếu của điều này là doanh nghiệp phải tiết kiệm các yếu tố đầu vào, tối thiểu hoá chúng để có giá thành sản phẩm thấp hơn giá của nó trên thị trường.
III. Những điều kiện tiền đề để thực thi các biện pháp đề ra.
Để các doanh nghiệp nhà nước có đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế một trong những điều kiện tiên quyết đó là vai trò quản lý và hướng dẫn của nhà nước.
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nhà nước, trước tiên phụ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp song đó chưa phải là tất cả. Để các biện pháp mà doanh nghiệp dệt may nhà nước đã đề ra thì cần có những điều kiện nhất định, mà trước tiên đó là sự can thiệp của nhà nước, đó là những vai trò của chính sách, chiến lược của nhà nước. Đó là:
Nhà nước cần có khuôn khổ pháp luật thật ổn định để các doanh nghiệp dệt may cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ nhằm hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí cá biệt. Việc tạo ra thể chế kinh tế phù hợp với lòng dân và thực trạng đất nước cùng với quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển của đất nước, thúc đẩy sự hình thành một hệ thống doanh nghiệp hùng mạnh có khả năng cạnh tranh cao không chỉ trên thị trường nội địa mà trên phạm vi toàn cầu. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải tạo hành lang pháp lý ổn định, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mọi hoạt động đều xuất phát theo luật (luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật cạnh tranh...), ngoài ra không còn ràng buộc gì khác. Với mục tiêu như vậy cần nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp, tránh tình trạng luật quy định chung chung, kéo theo quy trình hướng dẫn luật như: Nghị định hướng dẫn, thông tư hướng dẫn, thông tư liên bộ xuống địa phương lại có văn bản hướng dẫn, sở ban ngành lại hướng dẫn...Thử hỏi nhiều tầng lớp văn bản đan xen như vậy thì làm sao tránh khỏi nạn giấy tờ, cơ chế “xin-cho” hoành hành, hình sự hoá các vụ án kinh tế và kết cục doanh nghiệp khó có thể phát triển. Việc đổi mới thể chế sẽ đạt hai mục tiêu: Một là, nâng cao năng lực quản lý kinh tế; Hai là, tạo sự minh bạch, công khai trong hoạt động kinh doanh và thúc đẩy việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong doanh nghiệp.
Việc có hệ thống pháp luật minh bạch, nghiêm khắc sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh, các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có định hướng kinh doanh lâu dài.
Hiện nay với quan điểm coi các doanh nhân- giám đốc là một nghề nên nhà nước đồng thời với việc đào tạo, bồi dưỡng để hình thành một tầng lớp doanh nhân thực thụ chuyên nghiệp. ở các doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng khi giám đốc doanh nghiệp vẫn là quan chức do nhà nước bổ nhiệm thì lợi ích của họ không gắn bó trực tiếp với tình hình kinh doanh doanh nghiệp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc nâng cao hiệu quả và sưc cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Chính vì thế cần tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong việc tuyển giám đốc. Cụ thể: Thay đổi cơ chế tuyển dụng, xét tuyển giám đốc thông qua cơ chế cạnh tranh trên thị trường; Xóa bỏ chế độ đẳng cấp doanh nghiệp, thực hiện cơ chế trả lương theo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, kích thích giám đốc năng động sáng tạo.
Nhà nước cần xúc tiến sớm việc xây dựng cơ chế giữa nhà nước, các trung tâm nghiên cứu khoa học và các doanh nghiệp. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp dệt may có được sản phẩm mẫu mã mới, có chất lượng cao, giá thành hạ mà các trung tâm nghiên cứu có thu nhập kích thích nghiên cứu phát triển, còn nhà nước bớt được khoản ngân sách vốn đã eo hẹp lại dàn trải, hiệu quả không cao.
Đẩy nhanh chương trình cải cách các doanh nghiệp dệt may nhà nước theo hướng kiên quyết giải thể các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Trong đó thành lập bộ phận chuyên trách về cổ phần hoá, bộ phận này có mối liên hệ chặt chẽ với các công ty đầu tư tài chính nhà nước, cho thuê, bán khoán công ty mua bán nợ để giúp nhà nước đầu tư tập trung vào một số doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp dệt may nhà nước đã cổ phần hoá, nhà nước nên có cơ chế tài chính- tín dụng thông thoáng và ưu đãi trong giai đoạn đầu để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, ổn định sản xuất, đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Cải cách hệ thống ngân hàng, trong đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh, tập trung vào cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, cải tiến dịch vụm ngân hàng, hướng các ngân hàng trở thành người bạn đồng hành trong kinh doanh hơn là chỉ coi doanh nghiệp là người cần mình, người vay không trả.
Cần công khai và minh bạch hoạt động tài chính để qua đó doanh nghiệp biết được hiệu quả của đồng vốn, lành mạnh hoá hoạt động tài chính từ việc đầu tư cấp vốn, giao tài sản, phân phối lợi nhuận, thu nhập trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước nhằm sử dụng vốn có hiệu quả.
Tăng cường giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước một cách thường xuyên hơn, nên giám sát tăng trưởng tín dụng theo quý, doanh nghiệp nhà nước phải chịu kỷ cương tài chính nghiêm ngặt hơn, xúc tiến nghiên cứu thành lập các trung tâm tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động giám sát tài chính.
Ưu tiên cho ngành dệt may vay vốn đầu tư ưu đãi cuảe ngân sách với lãi suất giảm, thời gian vay dài để đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ đặc biệt đối với thiết bị đã quá lạc hậu (như ở các nhà máy dệt lớn: nhà máy dệt Nam Định, nhà máy dệt 8-3...)
Kiên quyết xóa bỏ cơ chế “xin-cho” trong quan hệ tài chính giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, chấm dứt tình trạng dung ngân sách nhà nước để bù lỗ, miễn thuế, xóa nợ, khoanh nợ cho doanh nghiệp nhà nước. Kiên quyết xoá bỏ tính hành chính, bao cấp trong việc giao vốn, quản lý vốn, gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với việc sử dụng vốn cuả nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng tiếp cận và thu hút các nguồn vốn xã hội.
Cải cách hệ thống thuế đối với doanh nghiệp nhà nước, hoàn chỉnh cơ cấu đấu thầu, đấu giá, nhượng bán tài sản, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về tài chính, kế toán phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính trong điều kiện mới, thực hiện các chế độ kiểm toán hàng năm đối với doanh nghiệp lớn và dùng thông tin đó để đánh giá hiệu quả hoạt động, dần dần đưa hệ thống kế toán và các chuẩn mực kế toán của các doanh nghiệp nhà nước tới dần tiêu chuẩn quốc tế.
Mục tiêu bảo hộ ngành dệt may thể hiện trong cơ cấu thuế nhập khẩu hàng dệt may đang trở nên không có ý nghĩa, do tình trạng buôn lậu diễn ra phổ biến. Điều đó chứng tỏ cơ cấu thuế nhập hàng dệt may là không hợp lý, không có tác dụng bảo hộ sản xuất dệt may trong nước như mục tiêu đã đề ra. Vải nhập lậu từ nước ngoài là mối đe doạ lớn nhất đối với dệt may Việt Nam. Do vậy sự phát triển của ngành dệt may phụ thuộc nhiều vào hoạt động kiểm soát nhập lậu ở biên giới. Chính vì vậy nhà nước cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng buôn lậu, trốn thuế. Nhà nước cũng cần phải hạn chế sự khác biệt lớn về thuế cho các sản phẩm với mục đích sử dụng khác nhau, bởi điều này sẽ gây ra sự tuỳ tiện cho cán bộ hải quan.
Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vào những ngành sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may trong giai đoạn 2001-2010. Đặc biệt nhà nước cần nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ sợi , sản xuất các loại sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho dệt may.
Nhà nước giảm thuế cho các nguyên phụ liệu cho ngành dệt may mà trong nước chưa sản xuất được để giảm thiểu chi phí về nguyên phụ liệu, hơn nữa ngành dệt may là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết công ăn việc làm là chủ yếu vì vậy cần giảm hoặc miễn hẳn thuế.
Các cơ quan chức năng phải cung cấp thông tin cần thiết về thị trường sản phẩm cho doanh nghiệp dệt may để các doanh nghiệp cập nhật thông tin từ đó mới có được phương hướng sách lược đúng đắn, kịp thời.
kết luận
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, người ta càng thấy rõ sự giàu mạnh của một quốc gia khởi nguồn từ sự giàu mạnh của các doanh nghiệp. Vì thế sự mạnh hay yếu của các doanh nghiệp Việt Nam không phải chỉ có ý nghĩa riêng đối với các doanh nghiệp, mà còn có mối liên hệ mật thiết với sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh. Trong một tương lai không xa khi Việt Nam thực hiện cam kết hội nhập AFTA và cả hiệp định thương mại Việt-Mỹ và tổ chức thương mại thế giới thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ là trách nhiệm của chính phủ, các doanh nghiệp mà còn cả toàn xã hội đòi hỏi phải tiến hành càng sớm càng tốt trong một chiến lược cạnh tranh tổng thể gắn bối cảnh trong nước và bối cảnh thế giới đầy biến động.
Tuy vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của các doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, mới là quyết định, doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân, của hàng hoá dịch vụ không chỉ trông chờ vào cơ quan nhà nước như trong thời gian trước đây. Đó là chìa khoá quyết định thành công của doanh nghiệp để chiếm lĩnh thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Đề án làm rõ hiệu qủa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá, qua đó đưa ra một số biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp dệt may nhà nước. Mặc dù đã cố gắng nhiều song đề án còn nhiều nhận xét chủ quan của bản thân nên khó tránh khỏi sai sót. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng các bạn để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết năm 2000 của bộ Thương Mại
Chiến lược cạnh tranh, Micheal Porter-H: KHKT 1996
Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất ở trong nước- Lê Đăng Doanh,Nguyễn Thị Kim Dung-H: Lao Động-1998
Nghiên cứu kinh tế, số 4 tháng 4/2000; số 10 tháng 10/2000; số 11 tháng 11/2000
Tạp chí kinh tế và phát triển, số 35 và số 41 năm 2000; số 47 tháng 5/2001; số 52 tháng 10/2001
Tạp chí phát triển kinh tế, số 138 tháng 4/2002; số 139 tháng 5/2000
Tạp chí thương mại, số 11 tháng 6/2000; số 19 tháng 10/2000; số 19 tháng 7/2001; số 26 tháng 9/2001.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0002.doc