Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng làm nghiên cứu của mình

Việc qui hoạch, đầu tư cho các nhà máy xi măng thuộc tổng công ty để phù hợp cho nhu cầu thị trường và đạt được hiệu quả cao cũng là vấn đề được đặt ra. Với tình hình đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng liên doanh như hiện nay thì thị phần của Tổng công ty xi măng ngày càng bị thu hẹp mặc dù số tuyệt đối vẫn gai tăng từ 1993 đến 1998. Trong thời gian vừa qua nhiều nhà máy xi măng thuộc Tổng công ty lâm vào tình trạng thua lỗ rồi phải phá sản cung vượt quá cầu dẫn đến sức ép giảm giá. Các liên doanh có khả năng giảm giá xuống thấp vẫn thu được lợi nhuận còn các nhà máy thuộc Tổng công ty với mức giá đó thì phải chịu lỗ. Liên doanh: khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, ở Việt Nam hàng loạt các liên doanh sản xuất xi măng Việt Nam, được xây dựng xuất phát từ nhu cầu xi măng trên thị trường tăng mạnh những năm 1993-1995. Các liên doanh đang dần dần chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Hơn thế nữa giá xi măng được giữ ở mức cao tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành này. Trước hết các liên doanh có trình độ công nghệ sản xuất xi măng tiên tiến do vừa mới được hoặc đang chuẩn bị đầu tư phát triển cho phép đạt được năng suất cao, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng thấp, giá thành hạ. Thiết bị các liên doanh sử dụng để sản xuất xi măng ở nước ta đều thuộc "nhóm" thuộc "loại" hàng đầu thế giới. Liên doanh sản xuất xi măng với lợi thế chất lượng chi phí sản xuất thấp hơn xi măng của các doanh nghiệp trong nước bởi công nghệ tiên tiến, chi phí lao động và đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu "đá vôi" khá rẻ ở Việt Nam. Trong thời gian gần đây mặt bằng giá xi măng được duy trì ở mức cao càng tạo điều kiện tăng cao lợi nhuận ở các liên doanh. Điều này làm cho việc tiêu thụ xi măng của các liên doanh tăng nhanh hơn so với tiêu thụ của các công ty sản xuất xi măng trong nước càng gây bất lợi cho ngành sản xuất xi măng, các nhà máy liên doanh có xuất đầu tư thấp hơn các nhà máy nội địa chỉ là 135-160 USD/tấn so với 165-209 USD/tấn. Suất đầu tư thấp hơn này và cộng với thời gian thu hồi vốn nhanh hơn chính là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của các liên doanh (thời gian hoàn vốn đầu tư xi măng dây chuyền tiên tiến công suất 1-1,8 triệu tấn/năm là 8-10 năm). Trong khi đó các nhà máy thuộc Tổng công ty bị hạn chế về trình độ công nghệ còn phải chi phí rất nhiều để giải quyết ô nhiễm môi trường riêng nhà máy xi măng Hải Phòng và Hà Tiên I phải chi nhiều tiền nhất. Ngoài ra là lợi thế lớn do được hưởng những ưu đãi rất quan trọng do luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của nước ta mang lại chỉ riêng cho các liên doanh. Các liên doanh còn có những lợi thế rất quan trọng mà các doanh nghiệp sản xuất liên doanh trong nước không thể ngày một ngày hai được là trình độ quản lý cao, am hiểu thị trường quốc tế.

doc40 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng làm nghiên cứu của mình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền công, tiền lương cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như là mức độ cạnh tranh trên thị trường. ã Nhân tố chính trị và pháp luật. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Luật pháp rõ ràng chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác chúng cũng có thể đem lại những trở ngại, khó khăn thậm chí là rủi ro cho các doanh nghiệp. Ta có thể lấy ví dụ như các chính sách về xuất nhập khẩu về thuế, các khoản nộp ngân sách, quảng cáo là những yếu tố tác động trực tiếp kìm hãm hay tạo điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. ã Các nhân tố khoá học công nghệ kỹ thuật. Khoa học công nghệ tác động một cách mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán. Bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất đều phải gắn với một công nghệ kỹ thuật nhất định. Công nghệ sản xuất quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như của toàn doanh nghiệp. Khoa học công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách chính xác. Đồng thời khoa học công nghệ mới sẽ tạo ra hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như của từng doanh nghiệp nói riêng, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định nâng cao sức cạnh tranh của mình. ã Các nhân tố về điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị trí địa lý, nguồn tài nguyên sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí thu được nhiều lợi nhuận. Phong tục tập quán lối sống thị hiếu tác động một cách gián tiếp tới sức cạnh tranh của công ty thông qua khách hàng và cơ cấu nhu cầu của thị trường. b-/ Môi trường ngành: - Tốc độ tăng trưởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh tranh của ngành đó. - Số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm ẩn cũng là một nguyên tố tác động đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong một ngành, nếu như các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt hơn và khi đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp cao hơn hoặc thấp đi. - Sản phẩm thay thế cũng là nhân tố đe doạ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường bao giờ cũng phải tính đến mối đe doạ của sản phẩm thay thế. * Các nhân tố chủ quan: Đây là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì đây chính là nội lực của doanh nghiệp. ã Nguồn nhân lực: là những người tạo ra sản phẩm một cách trực tiếp và gián tiếp. Đội ngũ cán bộ quản lý là những người quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ chính là những người quyết định cạnh tranh như thế nào, sức cạnh tranh của công ty sẽ tới mức bao nhiêu bằng cách nào. Cùng với máy móc thiết bị, công nhân là những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. ã Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp: Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất như vậy chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn cùng với nó giá thành sản phẩm hạ đi kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường, khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào lại có sức cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản xuất lạc hậu máy móc thiết bị cũ kỹ vì chính nó sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm tăng chi phí sản xuất. ã Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất kinh doanh cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá qui mô của từng doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị nguyên vật liệu hay phân phối quảng cáo,... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng trang bị các dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại đảm bảo chất lượng hạ giá thành giá bán sản phẩm, tổ chức các hoạt động quảng cảo, khuyến mại nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra với một khả năng tài chính hùng mạnh, một doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian, hạ giá sản phẩm nhằm giữ và mở rộng thị phần của doanh nghiệp sau đó lại tăng giá thu được lợi nhuận nhiều hơn. Phần II Thực trạng ngành xi măng Việt Nam I-/ Thực trạng ngành xi măng Việt Nam: 1-/ Thực trạng về cơ cấu ngành và cơ chế quản lý: Trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhu cầu xây dựng ngày càng tăng. Tất cả những công trình xây dựng trên khắp mọi miền đất nước như nhà cửa, đường xá, công trình thuỷ lợi, cầu cảng, thuỷ điện, trường học, khách sạn, nhà máy, công trường,... đều cần đến xi măng. Xi măng trở thành một ngành công nghiệp then chốt của đất nước. Trong những năm 1991-1997 nền kinh tế tăng trưởng nhanh đã làm cho nhu cầu xi măng ở Việt Nam tăng lên 3 lần từ 3 triệu tấn đến 9 triệu tấn. Đến năm 1999-2000 nhu cầu xi măng đã được dự đoán là từ 13 đến 15 triệu tấn. Vào thời kỳ 1991-1996 sản xuất xi măng ở Việt Nam luôn thấp hơn nhu cầu. Do điều hành nhập khẩu không kịp thời nên thị trường xi măng luôn trong tình trạng "sốt nóng". Nhà nước đã phải dùng nhiều biện pháp để làm dịu "cơn sốt" này đồng thời có kế hoạch tổng thể qui hoạch ngành xi măng trong tương lai. Hiện nay, Nhà nước thực hiện quản lý thị trường xi măng dưới hình thức giao cho Tổng công ty xi măng độc quyền quyết định giá bán buôn còn Ban vật giá Chính phủ lại khống chế giá bán lẻ ở những thành phố lớn. Đồng thời Nhà nước quản lý về nhập khẩu về xi măng và nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất xi măng là clinker. Điều kiện tự nhiên nước ta được đánh giá là rất thuận lợi cho phát triển xi măng. Hơn thế nữa, Việt Nam đang trong thời kỳ tăng trưởng nên thị trường tiêu thụ xi măng ngày càng phát triển. Xuất phát từ tình hình thị trường xi măng những năm 1991-1996 và những dự báo về nhu cầu xi măng những năm đó, Nhà nước đã phê duyệt việc đầu tư xây dựng hàng loạt các nhà máy xi măng trong cả nước. Trong 3 năm qua một làn sóng ào ạt đầu tư vào ngành sản xuất xi măng. Năm 1996, dây chuyền 2 của Nhà máy xi măng Hoàng Thạch đi vào sản xuất làm cho công suất của nhà máy tăng thêm 1,7 triệu. Năm 1997, Công ty xi măng Chinfon Hải Phòng bắt đầu hoạt động với công suất 1,4 triệu tấn/năm và có thể đạt 1,7 triệu. Năm 1998, nhà máy xi măng Bút Sơn (Hà Nam) công suất 1,4 triệu tấn đã hoàn thành và cho ra lò bao xi măng đầu tiên sau 2 tháng. Nhà máy Sao Mai (Kiên Giang) ra lò mẻ clinker đầu. Ngoài ra còn có 3 dự án xi măng đã được cấp giấy phép: Nhà máy xi măng Hải Long (Quảng Ninh), Phúc Sơn (Hải Dương) và nhà máy xi măng Hoàn Cầu (Quảng Ninh) với tổng công suất 4,5 triệu tấn. Dây truyền thứ 2 của Chinfon công suất 1,8 triệu tấn cũng chuẩn bị đưa vào sản xuất cùng với Lang Bang B 2 triệu tấn, Tràng Kênh 1,2 triệu tấn. Tham gia phân chia thị trường xi măng gồm: Thứ nhất: Đầu mối sản xuất và tiêu thụ xi măng lớn nhất trong cả nước là Tổng công ty Xi măng Việt Nam (chủ quản Bộ xây dựng) được Chính phủ giao cho nhiệm vụ nặng nề là phải "dự trữ, bình ổn và điều hoà cung - cầu xi măng". Những con chim đầu đàn của ngành xi măng ở ngoài Bắc phải kể đến Hoàng Thạch, Bỉm Sơn; ở miền Nam phải kể đến Sao Mai, Hà Tiên,... Trước đây những nhà máy thuộc Tổng công ty xi măng là nguồn cung cấp chủ yếu cho nhu cầu xi măng của cả nước thị phần 55%. Thứ hai: các nhà máy liên doanh với nước ngoài. Đây là một bộ phận tham gia phân chia thị trường và cạnh tranh với những nhà máy thuộc Tổng công ty. Hiện nay đã có 7 liên doanh xi măng với tổng số vốn đầu tư 1,52 tỉ USD, tổng công suất dự kiến 9 triệu tấn/năm. Đến năm 2001 con số này được dự báo là sẽ tăng gấp rưỡi và thị phần của Tổng công ty sẽ bị co hẹp đáng kể. Điều này chứng tỏ giai đoạn tới sẽ là giai đoạn cạnh tranh quyết liệt giữa Tổng công ty xi măng và các liên doanh để phân chia thị trường. Thứ ba: là các nhà máy xi măng ở địa phương. Các nhà máy này chiếm thị phần nhỏ (15-10%) chủ yếu để đáp ứng nhu cầu giao thông thuỷ lợi ở địa phương. Đây cũng là một giải pháp để cân đối xi măng của nền kinh tế. Xi măng ở các nhà máy địa phương là xi măng lò đứng, giá thành hạ, công suất đầu tư thấp, phụ tùng thiết bị không phức tạp và ít nhập ngoại, tiêu thụ nội vùng nên chi phí vận chuyển thấp. Do đó xi măng lò đứng có ưu thế hơn xi măng lò quay về giá cả. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư thấp, nếu xét trên bình diện hiệu quả kinh tế vi mô của cả nền kinh tế và hiệu quả khai thác sử dụng các nguồn lực của toàn xã hội. Hiện nay xi măng lò đứng ở địa phương đang gặp nhiều khó khăn do phải đối đầu với cạnh tranh nên thị phần càng thu hẹp. Ngoài ra, là nguồn nhập khẩu. Cách đây 3 năm một cơn sốt xi măng có một không hai ở Việt Nam bùng lên. Nguyên nhân là do cung trong nước còn thấp rất xa so với cầu. Để làm dịu cơn sốt này Nhà nước phải nhập khẩu xi măng. ã Năm 1995 tổng sản lượng sản xuất là 5,854 triệu tấn, nhập khẩu 1,320 triệu tấn. ã Năm 1996 tổng sản lượng sản xuất là 6,835 triệu tấn, nhập khẩu 1,350 triệu tấn. ã Năm 1997 tổng sản lượng sản xuất là 9,120 triệu tấn, nhập khẩu 0,88 triệu tấn. ã Năm 1998 tổng sản lượng sản xuất là 11 triệu tấn, nhập khẩu 0,35 triệu tấn. Lượng nhập khẩu xi măng ngày càng giảm. Trong khi cung về xi măng ngày càng tăng đuổi kịp và vượt cầu trong thời gian gần đây thì vẫn có lượng xi măng nhập khẩu đáng kể. Nguyên nhân là do giá xi măng nhập rẻ hơn giá xi măng sản xuất trong nước mà chất lượng lại ngang bằng hoặc tốt hơn. Đây cũng là một yếu tố làm cho thị trường xi măng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bốn nguồn trên là bốn nguồn cung ứng xi măng cho thị trường tiêu thụ nội địa trong đó giữ vị trí then chốt vẫn là Tổng công ty xi măng. Theo dự báo đến năm 2000, tổng sản lượng xi măng ở Việt Nam có thể đạt tới 20 triệu tấn/năm nhưng nhu cầu xi măng Việt Nam đến năm 2000 được dự báo chỉ đạt tối đa khoảng 16-17 triệu tấn. Từ 1/6/1999 cả 6 doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty xi măng đều sản xuất xi măng theo tiêu chuẩn mới để hoà đồng với quốc tế và khu vực. Đó là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng xi măng Pooclăng hỗn hợp. Việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng này sẽ giúp cho xi măng Việt Nam có ưu thế hơn trên thị trường quốc tế và khu vực. Hiện tại các nước xung quanh như Inđonexia, Thái Lan, Malaysia,... đều thừa xi măng tạm thời chỉ có thể xuất sang Lào và Campuchia - hai thị trường được đánh giá là nhiều triển vọng với xi măng Việt Nam. 2-/ Thực trạng thị trường: cung vượt quá cầu. Từ cơn sốt năm 1995 đến nay cung đã vượt quá cầu. Đầu những năm 1990 mức tăng trưởng cao của nền kinh tế nói chung và của ngành xây dựng nói riêng đã làm cho cầu về xi măng tăng mạnh, vượt xa cung. Mức tiêu thụ xi măng năm 1990 là 2,755 triệu tấn, đến năm 1995 đã tăng lên 7,113 triệu tấn. Mức tăng bình quân hàng năm là 21%. Sự thiếu hụt và áp lực tăng giá bắt đầu lan rộng từ năm 1993-1994 để lên tới đỉnh điểm là cơn sốt xi măng đầu năm 1995, với giá có lúc lên tới 173 USD/tấn trong khi giá qui định chỉ là 80-90 USD/tấn. Nhu cầu xi măng vẫn tiếp tục tăng lên đến 9,5 triệu tấn vào năm 1997. Từ năm 1995 đến 1997 nhu cầu có giảm nhưng vẫn còn tăng 12%/năm. Nhập khẩu xi măng chủ yếu từ Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc và Singapore bù vào chỗ thiếu hụt. Thêm vào đó đầu tư của Tổng công ty xi măng và các liên doanh đã tăng mạnh trên cơ sở dự đoán nhu cầu thị trường sẽ còn tăng lâu dài. Việc định giá chuẩn xi măng rất cao của Nhà nước ta trong những năm vừa qua là một yếu tố rất quan trọng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy việc gia tăng mạnh mẽ tốc độ đầu tư vào ngành công nghiệp xi măng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối cung cầu. ã Năm 1997 sản lượng xi măng sản xuất trong nước đạt hơn 9 triệu tấn (kể cả các liên doanh), nhập khẩu 880.000 tấn. Tồn kho cuối năm 1996 chuyển sang năm 1997 là 600.000 tấn. Tổng nguồn xi măng cung ứng năm 1997 là 10,5 triệu tấn, tổng nhu cầu tiêu thụ là 9,5 triệu tấn. Như vậy cuối năm lượng xi măng thừa lên tới 1 triệu tấn. ã Năm 1998 sản lượng sản xuất trong nước đạt 11 triệu tấn. Tồn kho năm 1997 chuyển sang 1 triệu tấn, nhập khẩu xi măng trắng, xi măng chuyên dùng khoảng 0,4 triệu tấn và như vậy tổng nguồn cung cấp là 12,5 triệu tấn. Nhu cầu xi măng năm 1998 chỉ đạt được gần 10 triệu tấn. Con số xi măng thừa là hơn 2 triệu tấn. ã Năm 1999, trong 6 tháng đầu năm các nhà máy thuộc tổng công ty xi măng sản xuất 2.723.000 tấn mới tiêu thụ 2.485.000 tấn. Các nhà máy xi măng lò đứng sản xuất trên 1 triệu tấn, tiêu thụ 997.000 tấn. ở các công ty liên doanh tình hình cũng không mấy khả quan. Xi măng Chinfon sản xuất 684.760 tấn, chỉ tiêu thụ được 653.100 tấn, xi măng Sao Mai sản xuất 470.000, tiêu thụ 450.000. Chỉ có một số ít các công ty xi măng lớn như Bỉm Sơn, Hà Tiên II,.. đạt được hoặc vượt kế hoạch đề ra. Hết ngày 30/6/99 các công ty xi măng trung ương còn tồn kho trên 1 triệu tấn clinker. Xi măng cả nước có tổng công xuất 11,5 triệu tấn (công suất tối đa lên đến 18 triệu tấn) mà nhu cầu tiêu thụ chỉ khoảng 13 triệu tấn. Có một nghịch lý đang diễn ra là trong khi miền Bắc thừa hơn 1 triệu tấn thì ở miền Trung và miền Nam lại thiếu. Nói là thừa nhưng cũng không phải thừa và cũng không phải thiếu. Và điều quan trọng nhất bây giờ là phải điều hoà được cung cầu giữa hai miền. Nên việc này được thực hiện tốt sẽ giảm phần nào tình trạng mất cân đối trên và giảm thiểu xi măng thừa. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Tổng công ty xi măng. Hiện nay việc điều hoà xi măng đang gặp nhiều khó khăn. Nếu đưa xi măng từ Bắc vào Nam là chắc chắn lỗ. Mỗi tấn xi măng phải chịu thêm một khoản chi phí khoảng 170-180.000 đồng (chưa kể chi phí vào kho ra kho). Trong khi đó xi măng Bắc lại không hợp thị hiếu miền Nam. Chẳng hạn nếu ở Bắc, xi măng Hoàng Thạch là nhất bẳng thì vào miền Nam lại không thể "đọ" được với si măng Sao Mai, Hà Tiên,... nên bán chẳng ai mua nếu có trót đưa vào thì giá thấp cũng bán. Vào thời điểm này thì xi măng Bắc được bán giữa hai miền giá cả thống nhất thậm chí trong Nam còn thấp hơn mặc dù chi phí vận chuyển gấp đôi. Như vậy là lỗ, phần lỗ này đương nhiên Tổng công ty phải gánh chịu, dù lỗ vẫn phải làm. Giá xi măng trong nước do Ban vật giá Chính phủ Bộ xây dựng và Bộ thương mại qui định nhằm ổn định thị trường trong nước. Giá trần được qui định cho chủng loại xi măng phổ biến nhất PC 30 tại thị trường Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Cả Tổng công ty xi măng, các doanh nghiệp và các nhà máy qui định. Sự kiểm soát giá cả này có làm cho thị trường Việt Nam tránh được sức ép của thị trường thế giới nhưng các nhà sản xuất phải đối phó với sự trì trệ của thị trường dư thừa năng lực sản xuất và trước thách thức xuất khẩu (cho đến nay là không đáng kể) cũng đã kêu gọi phải qui định giá cả một cách linh hoạt hơn. Dù cơn sốt xi măng năm 1995 đã kết thúc, giá xi măng trong nước hiện nay vẫn còn cao hơn nhiều so với giá thế giới khiến cho xi măng Việt Nam không cạnh tranh được ở nước ngoài. Năm 1998, giá bán lẻ xi măng PC30 là 60 USD/tấn và PC 40 là 73,8 USD/tấn trong khi giá xi măng nhập khẩu chính thức là 41,5 USD/tấn và nhập lậu là 30 USD/tấn. Giá xi măng xuất khẩu (giá FOB) của Singapore và Hàn Quốc lần lượt là 38,8 USD và 292, USD. Giá xi măng Thái Lan xuất khẩu là 46 USD vào năm 1997 nhưng đã giảm mạnh xuống còn 25 USD vào tháng 3 năm 1999. Giá xi măng Việt Nam cũng có giảm trong năm 1998 do đầu tư nước ngoài giảm sút, tác động của khủng hoảng khu vực và cạnh tranh gay gắt giữa các nước gặp khủng hoảng. Nhưng so với giá thế giới thì giá xi măng Việt Nam vẫn luôn cao hơn. Đến 90% xi măng Việt Nam sản xuất là xi măng PC 30. Trung Quốc cũng chủ yếu sản xuất xi măng PC 30. Trong khi đó xi măng Hàn Quốc và Thái Lan có mác cao hơn, xi măng Nhật P60. Với tốc độ xây dựng các nhà máy xi măng như hiện nay công suất xi măng của cả nước sẽ lên tới 26 triệu tấn năm 2000. Trong khi đó nhu cầu tiêu thụ xi măng được dự báo vào năm 2000 tối đa chỉ là 16-17 triệu tấn vì mức tăng trưởng của nhu cầu chỉ ở mức trên dưới 1 triệu tấn mỗi năm. Như vậy mức chênh lệch cung cầu xấp xỉ 10 triệu tấn trong năm 2000. Toàn ngành xi măng đang chuẩn bị bước vào một thời kỳ mới, áp lực khủng hoảng thừa sớm trở thành một đề tài bức xúc đòi hỏi Nhà nước phải có những quyết sách mới nhằm ngăn chặn những hậu quả rất nghiêm trọng có thể nảy sinh. Sức ép giá cả: - Năm 1998 hầu hết các công ty xi măng đều thực hiện giảm giá. Trên thị trường đồng bằng sông Cửu Long xi măng Hà Tiên chiếm thị phần chủ yếu nhưng giá đã giảm 1.000 đồng/bao. ở TP. Hồ Chí Minh 5 mác xi măng đen đang cạnh tranh để giành giật thị trường là Hà Tiên, Sao Mai, Chinfon, Hoàng Thạch và xi măng D.Hills (Trung Quốc). Xi măng Chinfon đã thực hiện giảm giá 10.000đ/tấn nếu đại lý mua trên 500 tấn/tháng và hạ giá bán lẻ. Xi măng Sao Mai cũng giảm giá bán lẻ xuống sát giá Chinfon. D.Hills cũng giảm giá xuống 38.000-38.500 đ/bao (760.000đ/tấn). Xi măng Hà Tiên đắt hơn loại khác 1.000đ/bao nhưng vẫn được tin dùng. ở các tỉnh biên giới xi măng Nhật, Thái Lan, Trung Quốc nhập khẩu lậu bán rất rẻ (xi măng đen tương đương loại PC 30 của Việt Nam). - Mặc dù từ đầu năm 1999 đến nay lượng xi măng dư thừa do cung vượt quá cầu gia tăng nhưng giá giảm ít. Theo đánh giá của một số chuyên giá trong ngành, trước thực trạng cung vượt cầu, lượng xi măng tiêu thụ trên thị trường 6 tháng qua đã là một kết quả đáng mừng. Trong khó khăn chung của thị trường trong và ngoài nước đang cạnh tranh quyết liệt như hiện nay để tiêu thụ được sản phẩm thời gian qua không ít công ty điều chỉnh giá bán kịp thời sao cho không lỗ lại kèm khuyến mại cho trả chậm (có điều kiện đảm bảo) để thu hút khách hàng. Do đó 6 tháng đầu năm nay giá xi măng có xu hướng giảm nhẹ. Giảm giá xi măng là giải pháp sống còn cho doanh nghiệp này nhưng lại là mối lo cho rất nhiều doanh nghiệp khác. Ông Đỗ Trọng Hảo, Phó giám đốc công ty liên doanh Chinfon (Hải Phòng) cho biết: "Liên tục 6 tháng đầu năm nay công ty đã phải giảm giá xi măng từ 2-3% so với quí II/1998 do sức ép cạnh tranh quá lớn giữa các đơn vị trong ngành; mà cứ giảm xuống 2% thì một năm doanh nghiệp ước tính lỗ ngót 1 triệu USD. Hiện nay nếu tính toán một cách chính xác, với xi măng lò quay giá bán dưới 770.000 đồng/tấn và với xi măng lò đứng nếu dưới 630.000 đồng/tấn doanh nghiệp sẽ bị lỗ". Hiện nay giá xi măng đen trong nước ta đang cao hơn giá xi măng của các nước Đông Nam á khoảng 18-25 USD/tấn. Xi măng đen Thái Lan tương đương loại PC 30 của Việt Nam giá trong nước chỉ 42-45 USD/tấn giảm 8-10 USD tấn. Đồng bản tệ của các nước trong khu vực mới mất giá so với USD làm cho giá xi măng ở các nước này liên tục giảm mạnh. Giá xi măng Việt Nam sẽ tiếp tục giảm từ nay đến năm 2000 chủ yếu là do tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á và sự mất cân đối của cung cầu. Giá xi măng năm 1998 Đvt: USD/tấn Nguyên nhân: Hiện tượng mất cân đối cung cầu xi măng trong ba năm trở lại đây do nhiều nguyên nhân gây ra. Có thể kể đến ba nguyên nhân chính sau: 1. Cơn sốt xi măng 1995 gây ra một làn sóng ồ ạt đầu tư cho sản xuất xi măng. Từ chỗ có 22 nhà máy nay đã lên đến 55 nhà máy công suất tăng lên 10 lần. Sắp tới 6 nhà máy xi măng lò quay được cấp phép và đang đầu tư là Hải Phòng (mới), Tam Hiệp, Phúc Sơn, Hải Long, Hoàn Cầu,... với tổng công suất 9 triệu tấn. Các nhà máy đã cơ bản hoàn tất xây dựng và đầu tư bắt đầu sản xuất như Bút Sơn, dây truyền II của Hoàng Thạch, dây truyền II của Hà Tiên, Chinfon,.. Công suất hiện tại của toàn ngành xi măng Việt Nam là 14,5 triệu tấn/năm và sắp tới là 18 triệu tấn/năm. Nhưng với tốc độ đầu tư cho sản xuất xi măng những năm vừa qua thì đến năm 2000 tối đa có thể đạt tới 20 triệu tấn/năm. Khi tính toán cho đầu tư sản xuất ximăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân cho các năm tiếp theo được lấy ở mức trên dưới 9% để làm cơ sở tính toán cho nhu cầu thị trường. Các dự án xi măng lò đứng đã không xác định đượng thị trường chính là các địa phương lân cận trong khu vực nhà máy phục vụ các công trình thuỷ lợi dân dụng ở địa phương mà đem bán sản phẩm tại các trung tâm lớn khiến chi phí vận chuyển cao trong giá thành và không thể cạnh tranh với xi m ăng nhập khẩu. 2. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm sút và cơn sốt đất đai hạ nhiệt khiến cho hoạt động xây dựng chậm lại. Năm 1998 Chính phủ thông báo hoãn khởi công xây dựng xa lộ Bắc Nam, cảng Quy Nhơn, sân bay Đà Nẵng, Đài truyền hình Huế và nhà điều hành trung tâm thuộc đại học quốc gia TP. HCM. Chính phủ cũng quyết định giãn tiến độ đầu tư 22 dự án khác nhau. Ngoài ra còn các dự án khách sạn, xi măng lò đứng, bia, nhà máy đường không được tiếp tục đầu tư mới nếu không trả được nợ. Nguồn vốn đầu tư năm 1998 giảm 28.000 tỷ đồng so với nguồn vốn đề ra từ đầu năm. Nếu tính trên phạm vi cả nước số lượng các công trình xây dựng bị giãn tiến độ còn lớn hơn nhiều. Năm 1999 nguyên nhân chính của sự suy giảm cầu xi măng là do những tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng GDP cả nước chỉ đạt 4%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng yếu, sức tiêu thụ hàng hoá giảm, các công trình lớn của Nhà nước phải giảm tiến độ, hoãn khối công trình xây dựng nhà dân cũng tăng chậm, khối lượng thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách tập trung trong 11 tháng đầu năm nay chỉ đạt 75,5% kế hoạch cả năm. Đến cuối tháng 11 năm 1999 vẫn còn hàng trăm dự án trong kế hoạch chưa được triển khai. 6 tháng đầu năm 1999 vốn đầu tư nước ngoài chỉ bằng 63% so với cùng kỳ năm ngoái cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cầu về xi măng cũng như hàng loạt các loại hàng hoá khác. Chính phủ đề ra mục tiêu 20 triệu tấn năm 2000 và 40-42 triệu tấn năm 2006-2010. Những con số này phải điều chỉnh xuống nhiều. 3. Cuộc khủng hoàng tài chính Châu á tác động đến nền kinh tế Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như đến giá xi măng. Tình hình chung trong khu vực như sau: Năm 1998 tổng sản lượng xi măng của toàn khu vực Đông Nam á đạt 221,5 triệu tấn. Do khủng hoảng tài chính tiền tệ, hoạt động đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở các quốc gia nói chung giảm sút rất rõ rệt. Nguồn đầu tư giảm sút, nhiều dự án chưa triển khai phải đình hoãn, những dự án đang triển khai bị thu hẹp quy mô đầu tư. Đặc biệt ngành kinh doanh bất động sản là ngành châm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn đang còn kéo dài, bị đình đốn nghiêm trọng nhất. ở Thái Lan khoảng 70% số dự án xây dựng có vốn đầu tư trên 50 tỷ Baht tiếp tục bị đình chỉ. Tất cả những điều đó làm cho toàn bộ ngành vật liệu xây dựng nói chung và đặc biệt ngành xi măng lâm vào tình trạng hết sức khó khăn do cung trở lên quá lớn so với cầu. Hiệp hội các nhà sản xuất xi măng ASEAN gồm 6 nước thành viên: Inđonexia, Malaysia, Philippine, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, cho biết nhu cầu của 6 nước trong năm 1998 đạt 100 triệu tấn giảm 12 triệu tấn so với năm 1997. Trong khi đó năng lực sản xuất thực tế của 6 nước là 163 triệu tấn tức là khả năng sản xuất vượt quá nhu cầu tới 63 triệu tấn (tương ứng 63%) riêng ở Thái Lan sản lượng năm 1998 là 51 triệu tấn nhưng nhu cầu chỉ khoảng 26,6 triệu tức là có 23,4 triệu tấn sản xuất không có thị trường tiêu thụ. Nghiêm trọng hơn, xi măng của các nước Đông Nam á được đánh giá là khó có sức cạnh tranh trên thị trường ngoài khu vực. Nhìn xa hơn một chút, cho đến năm 2000 có lẽ tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung của các nước vẫn chưa phục hồi được như trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. Nếu chỉ xét riêng ngành kinh doanh bất động sản điều đó càng khó có thể xảy ra bởi đặc tính dai dẳng của các cơn sốt lạnh. Tuy mức độ hạ nhiệt không quá sâu nhưng việc kéo dài tới hai năm và hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi của thị trường nhà đất nước nước ta cũng cho thấy điều đó. Căn cứ vào tình hình khu vực và trong nước có thể dự đoán rằng dù có thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong khu vực và nhu cầu đầu tư xây dựng trở lại nhịp độ tăng trưởng bình thường thì mỗi năm nước ta vẫn thừa khoảng 2-3 triệu tấn xi măng. Thị trường Việt Nam càng gặp khó khăn hơn vì khủng hoảng nên các nước trong khu vực ồ ạt xuất khẩu xi măng với giá rẻ. Năm 1998 riêng giá thành của xi măng của Tổng công ty đã cao hơn giá xi măng nhập khẩu vào cảng Hải Phòng. Những biện pháp của Nhà nước với sự cố nhập lậu clinker và khủng hoảng thừa xi măng: Để đối phó với tình hình của thị trường xi măng hiện nay từ năm 1997 Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp: - Năm 1997 cấm nhập khẩu xi măng. - Năm 1998 ngừng cấp phép cho những liên doanh xi măng mới trong năm. - Tách chức năng sản xuất và chức năng tiếp thị của Tổng công ty. - Điều chỉnh giản dự báo về nhu cầu xi măng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành lệnh: "Từ năm 1999 không nhập khẩu xi măng và hạn chế nhập clinker". Vậy mà không biết từ đâu lượng clinker thậm chí cả xi măng vẫn được nhập gây ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm trong nước. Đầu năm 1999, 204 ngàn tấn clinker đã được cấp giấy phép và chuyển về nước. Ngoài ra còn có 475 ngàn tấn clinker đã và đang về Việt Nam với các hợp đồng được ký trong tháng 1. Riêng Tổng công ty xi măng tồn kho trên 700 ngàn tấn clinker không tiêu thụ được, một phần là do sự cố nhập lậu clinker này. Sau "sự cố" lãnh đạo hai Bộ xây dựng và Thương mại đã trao đổi và đi đến thống nhất: Năm 1999 không nhập clinker mà sử dụng clinker trong nước. Đối với những trường hợp đã ký hợp đồng nhập khẩu từ năm 1998 mà hàng về trong quí I/1999 thì yêu cầu huỷ hợp đồng (nếu không có chế tài xử phạt). Trường hợp đã mở L/C nhưng giao hàng chậm, thì không gia hạn L/C. Khách hàng giao hàng chậm thì phải huỷ hợp đồng và kiên quyết không gia hạn. Cấm các doanh nghiệp ký hợp đồng lùi trước ngày 15/1/1999. Cùng với sự phối hợp giữa các Bộ ngành địa phương (quản lý thị trường, hải quan, các tỉnh biển giới,...). Hy vọng từ sau những biện pháp này tình trạng clinker, xi măng tràn vào nước ta sẽ chấm dứt. Nhà nước đang tìm một hướng mở cho thị trường xi măng Việt Nam. Xuất khẩu xi măng trong khu vực được xem là một biện pháp hữu hiệu. Sau đó là các biện pháp kích cầu hiện đang được áp dụng. II-/ Thực trạng về sự đối đầu với cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành xi măng: 1-/ Sự cạnh tranh giữa Tổng công ty xi măng và các liên doanh: Trong những năm gần đây thị trường xi măng được cung cấp bởi bốn nguồn Tổng công ty xi măng Việt Nam, liên doanh, các nhà máy địa phương và nguồn nhập khẩu. Cơ cấu thị phần tiêu thụ xi măng Việt Nam trong 2 năm 1997 và 1998 được biểu diễn qua biểu: Tổng công ty xi măng Việt Nam chiếm thị phần từ 55-60%. Ngoài những nhà máy đã hoạt động trong những năm qua Tổng công ty xi măng tiếp tục chuẩn bị đầu tư ba nhà máy lớn với tổng công suất 4,6 triệu tấn/năm gồm xi măng Bút Sơn 2 (1,4 triệu tấn/năm), Lang Bang B (2 triệu tấn/năm), Tràng Kênh (1,2 triệu tấn/năm). Cạnh tranh với Tổng công ty là lực lượng liên doanh năm 1998 ở Việt Nam có bảy liên doanh sản xuất xi măng với tổng công suất 9 triệu tấn/năm. Các liên doanh xi măng đang và đã bắt đầu nhập cuộc như Chinfon, Luksvaxi, Sao Mai. Các liên doanh cỡ lớn khác bắt tay vào sản xuất như Nghi Sơn (đầu 1999), Phúc Sơn (giữa năm 1999), Hoàng Mai (cuối năm 1999). Với tình trạng dư thừa xi măng như hiện nay và mức tiêu thụ tăng chậm trong khi tốc độ đầu tư cho sản xuất xi măng gia tăng cả ở phía Tổng công ty và đặc biệt là ở phía các liên doanh thì thời kỳ này là thời kỳ cạnh tranh khốc liệt giữa Tổng công ty và các liên doanh. Các liên doanh xi măng đang thả giá cạnh tranh bằng hạ giá bán sản phẩm mặc dù có qui chế của Chính phủ qui định giá giới hạn tối đa xi măng bán ra trên thị trường. Điều này gây cản trở rất lớn cho Tổng công ty xi măng trong việc đẩy mạnh tiêu thụ xi măng vì nếu hạ giá theo các liên doanh thì Tổng công ty bị lỗ. Tình hình đang trở nên rất gay go và cần thiết một giải pháp hữu hiệu từ phía Chính phủ. Đó còn chưa kể đến lượng xi măng nhập lậu với giá rẻ hơn nhiều qua biến giới xâm nhập thị trường và cùng tham giá cạnh tranh với xi măng trong nước. 2-/ Những hạn chế của Tổng công ty và ưu thế của liên doanh: Tổng công ty xi măng, các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước thuộc tổng công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh và sản xuất xi măng. Đầu tiên và đáng kể nhất đó là trình độ công nghệ và thiết bị lạc hậu cho đến nay nếu kể cả dây chuyền I của nhà máy xi măng Bút Sơn đang chuẩn bị bước vào sản xuất chỉ có 2,6 triệu tấn công suất co công nghệ tiên tiến (chiếm gần 40%) 2,1 triệu tấn theo phương pháp khô nhưng thiết bị thuộc thập kỷ 70 (chiếm gần 32%) còn tới 1,9 triệu tấn công suất theo phương pháp ướt đã quá lạc hậu. Các cơ sở sản xuất xi măng bằng công nghệ lò đứng có chất lượng không đảm bảo, không có lợi thế về địa lý tức là chi phí vận tải từ các cơ sở sản xuất xi măng lớn tới các địa bàn không tới mức quá lớn khiến xi măng sản xuất bằng công nghệ hiện đại vẫn còn sức cạnh tranh. Việc tồn tại các cơ sở sản xuất xi măng bằng công nghệ lò đứng có thể nói là lãng phí nguồn lực hiệu quả thấp và trong tương lai sẽ không thể đảm bảo được. Mặt khác, ngay cả các doanh nghiệp sản xuất xi măng vào loại lớn bằng công nghệ lò quay một khu cung xi măng vẫn còn lớn hơn cầu thì sự tồn tại cũng là rất khó khăn. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh được với xi măng của các liên doanh đang có lực lượng rất "hùng hậu". Ngoài ra còn một loạt những khó khăn khác đang đè nặng lên Tổng công ty xi măng Việt Nam. Trong đó có những vấn đề do lịch sử để lại như lực lượng lao động có phần bất cập tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề ở một số cơ sở sản xuất, một số nhà máy cũ lại thuận lợi về giao thông nhưng thiếu vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh. Năm 1997 đã có chủ trương của chính phủ đóng cửa nhà máy xi măng Hải Phòng xây dựng một nhà máy mới để giải quyết vấn đề ô nhiễm, mặc dù nhà máy xi măng cũ vẫn đang hoạt động tốt. Việc qui hoạch, đầu tư cho các nhà máy xi măng thuộc tổng công ty để phù hợp cho nhu cầu thị trường và đạt được hiệu quả cao cũng là vấn đề được đặt ra. Với tình hình đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng liên doanh như hiện nay thì thị phần của Tổng công ty xi măng ngày càng bị thu hẹp mặc dù số tuyệt đối vẫn gai tăng từ 1993 đến 1998. Trong thời gian vừa qua nhiều nhà máy xi măng thuộc Tổng công ty lâm vào tình trạng thua lỗ rồi phải phá sản cung vượt quá cầu dẫn đến sức ép giảm giá. Các liên doanh có khả năng giảm giá xuống thấp vẫn thu được lợi nhuận còn các nhà máy thuộc Tổng công ty với mức giá đó thì phải chịu lỗ. Liên doanh: khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, ở Việt Nam hàng loạt các liên doanh sản xuất xi măng Việt Nam, được xây dựng xuất phát từ nhu cầu xi măng trên thị trường tăng mạnh những năm 1993-1995. Các liên doanh đang dần dần chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Hơn thế nữa giá xi măng được giữ ở mức cao tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành này. Trước hết các liên doanh có trình độ công nghệ sản xuất xi măng tiên tiến do vừa mới được hoặc đang chuẩn bị đầu tư phát triển cho phép đạt được năng suất cao, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng thấp, giá thành hạ. Thiết bị các liên doanh sử dụng để sản xuất xi măng ở nước ta đều thuộc "nhóm" thuộc "loại" hàng đầu thế giới. Liên doanh sản xuất xi măng với lợi thế chất lượng chi phí sản xuất thấp hơn xi măng của các doanh nghiệp trong nước bởi công nghệ tiên tiến, chi phí lao động và đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu "đá vôi" khá rẻ ở Việt Nam. Trong thời gian gần đây mặt bằng giá xi măng được duy trì ở mức cao càng tạo điều kiện tăng cao lợi nhuận ở các liên doanh. Điều này làm cho việc tiêu thụ xi măng của các liên doanh tăng nhanh hơn so với tiêu thụ của các công ty sản xuất xi măng trong nước càng gây bất lợi cho ngành sản xuất xi măng, các nhà máy liên doanh có xuất đầu tư thấp hơn các nhà máy nội địa chỉ là 135-160 USD/tấn so với 165-209 USD/tấn. Suất đầu tư thấp hơn này và cộng với thời gian thu hồi vốn nhanh hơn chính là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của các liên doanh (thời gian hoàn vốn đầu tư xi măng dây chuyền tiên tiến công suất 1-1,8 triệu tấn/năm là 8-10 năm). Trong khi đó các nhà máy thuộc Tổng công ty bị hạn chế về trình độ công nghệ còn phải chi phí rất nhiều để giải quyết ô nhiễm môi trường riêng nhà máy xi măng Hải Phòng và Hà Tiên I phải chi nhiều tiền nhất. Ngoài ra là lợi thế lớn do được hưởng những ưu đãi rất quan trọng do luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của nước ta mang lại chỉ riêng cho các liên doanh. Các liên doanh còn có những lợi thế rất quan trọng mà các doanh nghiệp sản xuất liên doanh trong nước không thể ngày một ngày hai được là trình độ quản lý cao, am hiểu thị trường quốc tế. Với những lợi thế to lớn này chắc chắn rằng các liên doanh sản xuất liên doanh sẽ dễ dàng trụ vững trên thị trường xi măng ở nước ta bởi vì họ sẽ là thành phần kinh tế có tiềm năng giảm thiểu giá bán xi măng nhất để tiêu thụ hết số xi măng đã sản xuất mà vẫn thu được lợi nhuận lớn. Cứ nhìn vào giá thành sản xuất của các doanh nghiệp trong nước và giá xi măng nhập vào các cảng nước ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy sức cạnh tranh về giá cả của các liên doanh sản xuất xi măng ở nước ta. Có lẽ nếu như Nhà nước không có những giải pháp tích cực hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước thì kinh nghiệm tiếp thị và tập quán tiêu dùng là yếu tố kém lợi thế nhất của các liên doanh. Hơn nữa khi Việt Nam ra nhập AFTA hàng rào thế quan bị dỡ bỏ, xi măng của các nước ASEAN với chất lượng cao và giá thấp hơn sẽ còn cạnh tranh mạnh hơn nữa với xi măng trong nước. Phần III Một số biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty xi măng và của toàn ngành xi măng Việt Nam I-/ Đối với tổng công ty xi măng Việt Nam: Là một doanh nghiệp chiếm 60% Tổng công ty xi măng Việt Nam còn được giao nhiệm vụ bình ổn thị trường xi măng cả nước Tổng công ty Việt Nam đang phải đối mặt với một thách thức lớn đó là sự cạnh tranh khốc liệt với các liên doanh trong điều kiện dư thừa xi măng. Muốn tăng được sức cạnh tranh Tổng công ty có thể tập trung vào các biện pháp sau. 1-/ Nâng cao chất lượng sản phẩm xi măng: Xi măng là loại sản phẩm có thời gian thẩm định chất lượng dài và hơn nữa chất lượng xi măng là sự bền vững của các công trình. Muốn nâng cao được khả năng cạnh tranh của xi măng trước hết phải nâng cao chất lượng xi măng. Tổng công ty tập trung đầu tư để đổi mới dây chuyền công nghệ cho các nhà máy lớn, phát triển ngành xi măng theo chiều sâu hơn là chiều rộng. Sản phẩm xi măng phải tương đương với sản phẩm của các liên doanh và tương đương với xi măng của các nước trong khu vực. Có như vậy Tổng công ty mới tiếp tục phát triển các nhà máy thuộc Tổng công ty đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ dây chuyền công nghệ từ khâu sản xuất clinker đến cho ra lò xi măng. Phải phát huy tính ưu việt của sản phẩm xi măng của Tổng công ty trong mắt người tiêu dùng. Các nhà máy như xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn đã có được uy tín đối với thị trường trong nước cần phải giữ vững được chất lượng sản phẩm và ngày càng nâng cao hơn nữa trong điều kiện cạnh tranh của toàn ngành xi măng trong khu vực thì yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm càng phải đặt ra cấp thiết. Với tình hình dư thừa xi măng hiện nay và những năm sắp tới chỉ có nâng cao chất lượng mới có thể cạnh tranh có hiệu quả. 2-/ Hạ giá thành sản phẩm xi măng: Liên doanh xi măng đang định tranh đối đầu với Tổng công ty bằng cách hạ giá bán xi măng. Đây là một trở ngại rất lớn đối với Tổng công ty. Những nhà máy thuộc Tổng công ty với công nghệ cũ với chi phí lớn về bảo vệ môi trường và những bất cập lớn về vấn đề nhân công, cơ cấu,... dẫn đến giá thành xi măng cao. Nếu hạ giá bán xuống bằng các liên doanh thì một số nhà máy thuộc Tổng công ty phải chịu lỗ và phải ngừng sản xuất. Tổng công ty phải có hướng đi trong thời gian tới để bằng mọi cách hạ giá thành xi măng sản xuất ra. - Đổi mới dây chuyền công nghệ và cơ chế quản lý tổ chức của các nhà máy trong ngành. - Ngừng hoạt động những nhà máy kém hiệu quả để sát nhập hoặc đầu tư xây dựng mới. - Khắc phục những bất cập về nhân công, môi trường tự nhiên, cơ cấu ngành, yếu tố lịch sử để lại,... phát huy những thế mạnh sẵn có như uy tín, nguồn nguyên vật liệu, ưu đãi của Chính phủ. Tổng công ty phải vừa nâng cao chất lượng vừa phải hạ giá thành để không những cạnh tranh với các liên doanh và còn cạnh tranh với xi măng của các nước trong khu vực. Hiện tại có thể chấp nhận lỗ để tạo điều kiện khắc phục những khó khăn hiện tại. Đây được coi là giải pháp sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của Tổng công ty xi măng và của toàn ngành. 3-/ Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ Tổng công ty được Nhà nước giao nhiệm vụ bình ổn thị trường xi măng cả nước. Chính phủ đồng thời quy định về giá giới hạn tối đa xi măng bán ra trên thị trường. Đây là một điều kiện thuận lợi cho Tổng công ty. Nhưng với số lượng lớn xi măng dư thừa như hiện nay đẩy mạnh hoạt động là biện pháp trước mắt. Đầu tiên Tổng công ty phải điều hoà cung cầu xi măng giữa miền Bắc và miền Nam để tránh tình trạng dư thừa xi măng ở miền Bắc nhưng lại thiếu ở miền Nam. Làm được điều này cũng tránh được chênh lệch về giá cả giữa hai miền và giải quyết phần nào xi măng dư thừa. Tuy nhiên cước vận chuyển sẽ làm tăng chi phí dẫn đến tăng giá khó khăn hơn cho việc bán sản phẩm ở những địa điểm xa nơi sản xuất. Tiếp theo Tổng công ty nắm các đơn hàng Nhà nước để cung cấp xi măng đến tận chân công trình nhất là ở các vùng nông thôn. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ hợp lý cùng với quảng cáo khuyến mại đặc biệt các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xây dựng các điểm bán, các đại lý với hình thức thanh toán thích hợp. Có thể áp dụng hình thức bán trả chậm có đảm bảo, giảm giá cho những đơn vị mua nhiều ... Ngoài ra, Tổng công ty có thể tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ. Có thể hạ giá bán để tiêu thụ hết lượng xi măng thừa. Sau đó phải hạ giá thành xi măng để đảm bảo kinh doanh có lãi, chính điều này sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp trong Tổng công ty có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. II-/ Giải pháp vĩ mô và hướng mở cho thị trường xi măng. 1-/ Hướng vào xuất khẩu. Trong tình hình hiện nay xuất khẩu xi măng được xem là một giải pháp quan trọng. Hiện nay các nước xung quanh ta như Indonesia, Thái Lan, Malaysia... đều thừa xi măng. Tạm thời chỉ có thể xuất sang Lào và Campuchia - hai thị trường được đánh giá là nhiều triển vọng với xi măng Việt Nam. Một số nước cũng xuất khẩu xi măng sang Lào đặc biệt là Thái Lan đang chiếm giữ một thị phần khá lớn tại thị trường này. Giá xi măng Thái Lan khoảng 90 USD/tấn. Còn xi măng Việt Nam xuất sang thị trường Lào có giá 80 - 85 USD/tấn, chịu lỗ xấp xỉ 100.000 đồng tấn do người tiêu dùng Lào chưa quen với xi măng Việt Nam nên lượng xi măng tiêu thụ được rất ít. Xét về mặt lâu dài khi người tiêu dùng Lào quen sử dụng xi măng Việt Nam - chất lượng tương đương mà giá lại thấp hơn, khi xi măng đã có chỗ đứng và cạnh tranh được với xi măng Thái Lan thì việc xuất khẩu xi măng sang thị trường này sẽ thực sự là hướng mở cho xi măng Việt Nam. Nếu trong tương lai, lượng xi măng xuất khẩu ngày càng lớn thì sẽ giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm và đương nhiên phần lỗ sẽ giảm. Bên cạnh đó thì lợi ích kinh tế - xã hội đạt được cũng lớn, công nhân có việc làm tăng thu nhập, máy móc được phát huy hết công suất thiết kế, tránh hư hao, khấu hao nhanh, hơn nữa lại không chỉ giải quyết lượng lớn xi măng thừa mà còn góp phần khẳng định sự phát triển của xi măng Việt Nam. Tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho xi măng Việt Nam đang là vấn đề cần được bàn bạc. Việc xuất khẩu trước tiên phải được thực hiện ở các liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài nếu như trong giấy phép đầu tư liên doanh đã từng cam kết. Xi măng Hải Vân là đơn vị mở đường cho xi măng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Lào. Lào chỉ có một lò đứng công suất 8 vạn tấn/năm với công nghệ lạc hậu chất lượng sản phẩm kém hơn nhiều so với xi măng Việt Nam. Mỗi năm Lào chủ yếu nhập khẩu xi măng của Thái Lan với 90 USD/tấn. Với mức giá 80 - 85 USD/tấn thì xi măng Việt Nam dễ dàng được chấp nhận ở thị trường này. Từ đầu năm đến nay Hải Vân đã ký được hợp đồng với Lào xuất khẩu 20.000 tấn xi măng song mới đưa sang được 14.000 - 15.000 tấn. Một trong những khó khăn của Hải Vân đang vướng phải là vấn đề thanh toán với nước bạn. Sắp tới Hà Tiên 2 có mặt tại thị trường Campuchia. Thị trường mỹ cũng đang là hướng mở cho các công ty liên doanh. Hiện nay Tổng công ty xi măng đang xin Nhà nước bù lỗ vấn đề xuất khẩu xi măng. Nhà nước sẽ bù lỗ hay Tổng công ty vẫn tiếp tục chịu lỗ. Và trong việc này Tổng công ty quyết tâm dù lỗ vẫn phải xuất để làm quen với thị trường này nhưng cái đích mà Tổng công ty xi măng mong muốn nhất là được Chính phủ cho phép đưa xi măng vào danh mục xuất khẩu hàng đổi hàng và khả năng này có thể xảy ra. Song với việc này ngành xi măng phải bằng mọi cách nâng cao chất lượng xi măng xuất khẩu và hạ giá bán để dành được ưu thế trên thị trường khu vực. Đây là hướng đi lâu dài và “sáng sủa” nhất của toàn ngành xi măng. 2-/ Kích cầu. Một trong những nguyên nhân và thủ phạm mang tính sâu xa của sự mất cân đối cung cầu hiện nay chính là bắt nguồn từ sự yếu kém của sản xuất kinh doanh cụ thể là năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp và quan trọng nhất là sự suy giảm về cầu. Chủ trương của Chính phủ hiện nay là kích cầu để giải quyết tình hình, đó là biện pháp tình thế trong tình hình hiện nay. Trước tiên khuyến khích các nhà đầu tư tung vốn vào thị trường, đẩy tiến bộ xây dựng đúng như dự đoán, tiến độ rót vốn xây dựng sớm và đều đặn. Đồng thời vốn đảm bảo vốn đầu tư cho các công trình xây dựng trong kế hoạch cho đúng tiến độ, tăng cường vốn cho các công trình phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn (bê tông hoá hệ thống kênh mương, đường xá liên huyện xã...). Khuyến khích tiêu thụ xi măng ở các thị trường nông thôn nơi có nhu cầu xây dựng lớn. Tuy nhiên khó khăn là thị trường này khả năng thanh toán thấp. Nên chăng có thể thực hiện các hình thức bán hàng trả chậm, hỗ trợ vốn vay cho nông dân hoặc mua nông sản thực phẩm của dân, khuyến mại bằng giảm giá bằng cước vận chuyển và các điều kiện thuận lợi trong đặt hàng, thanh toán giao nhận... Biện pháp này được xem là thiết thực vì nhu cầu xây dựng ở nông thôn hiện nay là rất lớn và cấp thiết trong khi xi măng đang dư thừa với khối lượng lớn. Nhà nước nên có nhiều dự án cấp vốn xây dựng ở nông thôn thay vì triển khai các dự án đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng và cấp phép cho các liên doanh xi măng trong thời điểm hiện nay. Tiếp theo Nhà nước cần sớm hoàn thiện cơ chế chính sách về nhà ở đất ở để kích cầu xây dựng trong nhân dân. Đồng thời ban hành đồng bộ các văn bản thực hiện Luật thương mại quy định quyền lợi và trách nhiệm của mọi doanh nghiệp, là một doanh nghiệp chiếm gần 60% thị phần lại được giao nhiệm vụ bình ổn thị trường xi măng cả nước, Nhà nước nên cho phép Tổng công ty xi măng được quy định giá bán xi măng trong nội bộ các doanh nghiệp thành viên và tại các nhà máy phù hợp với sản lượng và thời điểm nhằm đẩy mạnh tiêu thụ và thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia kinh doanh để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Hơn bao giờ hết các đơn vị xi măng phải đoàn kết hợp tác với nhau chặt chẽ để luôn giữ giá xi măng ở nước bình ổn. Xi măng lò đứng phải tích cực tranh thủ các cấp lãnh đạo địa phương để nắm bắt các dự án công trình xây dựng ở địa phương để cung cấp xi măng đến tận công trình. Ngoài ra phương thức bán xi măng trả chậm cho các công trình có sự bảo lãnh của chính quyền địa phương cũng nên được đặt ra. Đối với xi măng lò quay phải tích cực khảo sát mở rộng thị trường xuất khẩu 6 tháng năm 1999. Nhiệm vụ của ngành xi măng còn nặng nề hơn nữa nhưng rõ ràng phải tự cứu mình trước khi người khác đến cứu. 3-/ Một số biện pháp khác. - Quản lý chặt nhập khẩu xi măng. Trong thời gian này Chính phủ phải có những biện pháp hữu hiệu để cấm nhập khẩu xi măng và clinker để các doanh nghiệp trong nước phát huy hết năng lực sản xuất và tiêu thụ được sản phẩm đã sx, ngăn ngừa kịp thừi hiện tượng buôn lậu xi măng qua biên giới. Bộ Thương mại, Bộ xây dựng và Tổng công ty cùng các doanh nghiệp trong ngành phải phối hợp đồng bộ để thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước. - Giãn tiến độ xây dựng các nhà máy xi măng trong thời điểm hiện nay và hoàn cấp phép cho các dự án sắp tới. Giảm công suất của các nhà máy hoạt động kém hiệu quả và nếu cần thiết phải đóng cửa một số nhà máy. - Hoàn thiện cơ chế quản lý giá xi măng thích hợp. Trong tình hình cung lớn hơn cầu các nhà sản xuất xi măng sẽ được đặt trong trạng thái phải cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá bán nâng cao chất lượng sản phẩm nâng cao trình độ phục vụ khách hàng giữ vững tín nhiệm của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu sẽ là: Thứ nhất: Giá cả xi măng trên thị trường tất yếu sẽ giảm mạnh so với hiện nay và thông qua đó người tiêu dùng xi măng được lợi ích của quốc gia cũng được đảm bảo. Thứ hai, do giá cả xi măng giảm tiến dẫn tới mức giá thực ảo ảnh đầu tư sản xuất xi măng sẽ thu lợi lớn bị xoá nhoà, cơn sốt đầu tư sản xuất xi măng sẽ chấm dứt. Trong trạng thái đó, mọi người có vốn sẽ buộc phải tính toán kỹ càng mình có những lợi thế nào trong cạnh tranh. Đây chính là tiền đề không thể thiếu để cho nền công nghiệp xi măng phát triển lành mạnh có hiệu quả trong những năm tới. Thứ ba: Những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả tất yếu sẽ thua lỗ và phá sản. Cạnh tranh khốc liệt bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình. 4-/ Dự đoán chung và ba kịch bản cho ngành xi măng. Một khi hội nhập kinh tế khuvực và toàn cầu các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (như hạn ngạch cấm nhậ, kiểm soát giá cả, không cho đầu tư) bị bãi bỏ có thể dự báo ba hậu quả đối với ngành xi măng. 1) Nhập khẩu sẽ tăng mạnh khiến cho các cơ sở sản xuất xi măng trong nước sẽ phải đóng cửa nếu không giải quyết được sự chênh lệch giá hiện nay giữa xi măng trong nước và giá thế giới. 2) Tác động của những cú sốc bên ngoài như cuộc khủng hoảng Châu á hoặc một cuộc suy thoái toàn cầu sẽ mạnh mẽ hơn nhiều trong khi những rối loạn thị trường có tính chất thuần tuý nội địa như cơn sốt xi măng năm 1995 sẽ nhỏ hơn nhiều. 3) Có thể đa dạng hoá thương mại - thay nhập khẩu từ Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước không phải ASEAN bằng nhập khẩu từ Thái Lan, Indonesia, Singapore... nếu thực hiện AFTA mà chưa nhâp WTO. Việt Nam có thể có ba lựa chọn sau cho ngành xi măng: Thứ nhất: Nếu ngành công nghiệp xi măng có thể nâng cao hiệu quả và hạ 50% giá thành trong một thời gian ngắn, nếu cần thì với sự hướng dẫn và giúp đỡ của Chính phủ việc tự do hoá thương mại và đầu tư theo quy định của AFTA có thể thực hiện được và việc thương lượng để gia nhập WTO cũng có thể đi đến kết quả trong vòng ít năm. Lúc đó ngành xi măng Việt Nam có thể đương đầu với sức ép từ bên ngoài, tuy nhiên những nhà máy quy mô nhỏ kém hiệu quả sẽ phải đóng cửa. Thứ hai: Việt Nam có thể đàm phán để việc tự do hoá thương mại mặt hàng xi măng được thực hiện từng bước chậm hơn các mặt hàng khác. Lúc đó hàng rào bảo hộ phi thuế quan phải được chuyển thành thuế suất và cắt giảm từng bước chẳng hạn trong vòng 10 năm. Trong thời gian đó các doanh nghiệp sẽ phải tăng cường đầu tư sáp nhập, cơ cấu lại để nhanh chóng nâng cao hiệu quả. Thứ ba: Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm túc AFTA và bãi bỏ các hàng rào phi thuế quan khi gia nhập WTO mà không bảo hộ ngành xi măng. Nếu ngành xi măng không thể nhanh chóng cắt giảm giá thành và nâng cao chất lượng các cơ sở sản xuất xi măng trong nước đủ mọi loại sẽ phải đóng cửa nhường chỗ cho xi măng ngoại nhập tràn ngập thị trường. Nếu các cuộc đàm phán về thương mại và chính sách đầu tư cho công nghiệp vẫn tiếp tục tách rời như hiện nay mà vẫn không dự kiến được hậu quả của bên này đối với bên kia. Kịch bản thứ ba là kịch bản có khả năng xảy ra nhất. Kết luận Ngành xi măng Việt Nam nói chung và Tổng công ty xi măng nói riêng còn vô vàn những khó khăn phải vượt qua. Nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phải cân đối được cung cầu, tiêu thụ được lượng xi mưang dư thừa để duy trì nhịp độ sản xuất bình thường. Sau đó phải có một hướng đi thích hợp để quy hoạch và phát triển ngành xi măng ăn nhập với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và toàn khu vực. Những năm tới khi mà hàng rào thuế quan được dỡ bỏ và xa hơn nữa Việt Nam là thành viên của WTO thì sự cạnh tranh trong ngành còn quyết liệt hơn nhiều. Điều đó bắt buộc tất cả các doanh nghiệp trong ngành phải tự mình xác định được hướng đi cho mình và chuẩn bị nhường hành trang cần thiết cho một cuộc chạy đua không có điểm dừng. Ngay từ bây giờ cần phải có những tiền đề cần thiết và một nền tảng vững chắc. Để tạo điều kiện phát triển ngành xi măng và tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong ngành không thể thiếu được vai trò to lớn của Chính phủ. Chắc chắn rằng trong tương lai không xa, với nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, của Chính phủ ngành xi măng Việt Nam sẽ không ngừng lớn mạnh xứng đáng là một ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh chính là động lực để phát triển ngành xi măng Việt Nam trong tương lai. Tài liệu tham khảo Sách 1-/ Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Trần Xuân Kiên Nhà xuất bản Thống kê 1998 2-/ Cạnh tranh bằng giảm tối đa phí tổn thương mại J. Guiony - Phương Hà Dịch TP. HCM - 1995 3-/ Chính sách thương mại và cạnh tranh. Viện QTKT - TW - Nguyễn Lân Hà - 1996 4-/ Giáo trình kinh tế thương mại Nhà xuất bản giáo dục - 1997 5-/ Vũ khí cạnh tranh kinh tế. Báo và Tạp chí 1-/ Thời báo kinh tế: số 120, số 25, số 30, số 62 - năm 1998 2-/ Tạp chí doanh nghiệp: số 3/1999, 4/1999, 5/1999. 3-/ Báo doanh nghiệp 15/7 - 21/7/1999 4-/ Báo Diễn đàn doanh nghiệp 25/3/1999, 26/7/1999 5-/ Báo Thời báo kinh tế Sài Gòn 11/11/1999. 6-/ Báo Đầu tư 9/12. 7-/ Tạp chí Thị trường giá cả 4/1999, 9/1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0101.doc
Tài liệu liên quan