Ngoài các biện pháp tổ chức thu mua trong cơ chế thị trường giá nông sản được thiết lập dưới tác động của quy luật cung cầu và vận động theo quy luật tự điều chỉnh. Sự vận động này tác động đến việc mở rộng hoặc thu hẹp diện tích, đầu tư thâm canh nông sản. Trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là xuất nhập khẩu, việc xây dựng chính sách giá để bảo đảm mang lại hiệu quả cao nhất, bán được nhiều sản phẩm nhất tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một vấn đề mang tính chất chiến lược. Đối với việc định giá sản phẩm xuất khẩu, nông sản Việt Nam đang tìm lại chỗ đứng trên thị trường do có rất ít thị trường truyền thống, vì mục tiêu thâm nhập thị trường nên giá xác định phải sát với thị trường không nên quá chú ý đến việc bù đắp lại chi phí mà để mất lợi thế cạnh tranh trong thị trường mới. Do lợi thế về năng suất nông sản của Việt Nam cao, chi phí nhân công thấp do đó khả năng bù đắp chi phí lớn, khi định giá cần phải linh hoạt cho phù hợp với từng loại thị trường đảm bảo có lãi và thâm nhập vào được thị trường mục tiêu. Mặt khác nông sản Việt Nam hầu hết được chế biến bằng phương pháp ướt, trong khi đó hầu hết các nước khác đều áp dụng phương pháp ướt (chế biến từ sản phẩm tươi). Do áp dụng nước khác từ 10% - 15%. Để đảm bảo cho người sản xuất, xuất khẩu không bị ảnh hưởng quá nhiều về biến động giá cả, ngành nông sản cần có những giải pháp về giá cả với cây nông sản Việt Nam. Cụ thể:
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh mặt hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g động mang tính quyết định nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt ở thị trường trong và ngoài nước, công nghệ đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Đối với từng doanh nghiệp thì công nghệ là vũ khí sắc bén để tạo lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một vài công ty của Hoa Kỳ với tiềm lực công nghệ dồi dào, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ có hàm lượng công nghệ cao lại không tạo được lợi thế trước các đối thủ cạnh tranh - cụ thể là các công ty của Nhật. Điều này cho thấy công nghệ không thể tự thân biến đổi thành lợi thế cạnh tranh mà lợi thế cạnh tranh chỉ đến với các doanh nghiệp có một chiến lược thích hợp trong sử dụng công nghệ.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự hình thành lợi thế cạnh tranh dựa trên công nghệ của doanh nghiệp như yếu tố bên ngoài gồm: môi trường tài chính, tiền tệ , cơ cấu công nghiệp, chính sách của Nhà nước về kinh doanh và công nghệ, yếu tố bên trong như: chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm... Tuy nhiên, quản trị công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng. Thật vậy, quản trị công nghệ đã hình thành nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp biểu hiện ở các mặt như: giá thành hạ - chất lượng cao - cung cấp đúng lúc cho thị trường. Các tác động đó được biểu hiện qua 3 sơ đồ.
Sơ đồ 1:
Tác động của quản trị và công nghệ nhằm tạo giá thành sản phẩm dịch vụ thấp
Công nghệ
áp dụng các công nghệ phù hợp, công nghệ tiên tiến... để sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào
Quản trị
Phối hợp quản trị sản xuất với chiến lược sử dụng công nghệ nhằm giảm chi phí của quá trình sản xuất
Nâng cao chi phí máy móc thiết bị để giảm:
- Chi phí lao động.
- Chi phí năng lượng.
- Chi phí nguyên vật liệu.
Giảm chi phí của quá trình sản xuất nhằm giảm thiểu:
- Chi phí về sản phẩm không đạt chất lượng.
- Chi phí về tồn trữ
CF sản xuất thấp
Lợi thế cạnh tranh
Sơ đồ 2:
Tác động của quản trị và công nghệ nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ
đúng lúc cho thị trường
Công nghệ
Đổi mới công nghệ
- Đổi mới cơ bản.
- Đổi mới từng phần.
- Đổi mới hệ thống.
Quản trị
- Quản trị chất lượng sản phẩm
- Quản trị theo ISO
Nâng cao độ tin cậy của quá trình sản xuất
Nâng cao hiệu quả
sản xuất
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ
Lợi thế cạnh tranh
Sơ đồ 3:
Tác động của quản trị và công nghệ nhằm cung cấp
sản phẩm dịch vụ đúng lúc cho thị trường
Công nghệ
Nâng cao năng lực công nghệ nội sinh
Quản trị
- Huy động nguồn lực.
- Đánh giá chiến lược sản phẩm mới.
Nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai
Đổi mới công nghệ
Sản phẩmmới
Cung cấp đúng lúc
Lợi thế cạnh tranh
Các phân tích trên cho thấy quản trị đã đóng vai trò quan trọng trong công việc xây dựng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên cơ sở công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển khi mà trình độ công nghệ còn thấp. Để xây dựng được lợi thế cạnh tranh trên cơ sở công nghệ, các doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược sử dụng công nghệ thích hợp, đó là việc nghiên cứu chặt chẽ ba chiến lược: chiến lược nghiên cứu thị trường, chiến lược và phương án sản phẩm mới cùng chiến lược và phương án đổi mơi công nghệ.
3.4. Các nhân tố của nền kinh tế quốc dân.
3.4.1. Các nhân tố kinh tế.
Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng và quyết định đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng:
Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định sẽ tạo ra sức hấp dẫn với cácd1 khi tham gia vào thị trường. Bởi khi kinh tế tăng trưởng luôn gắn liền với tăng thu nhập của dân cư, từ đó tăng được khả năng thanh toán của khách hàng khi mua sản phẩm hàng hóa và là môi trường kinh doanh thuận lợi khi xu hớng cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Khi nền kinh tế tăng trưởng các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho nhu cầu đầu tư tăng lên đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Thứ hai, tỷ giá hối đoái.
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì khả năng cạnh tranh sẽ tăng lên trên thị trường trong và ngoài nước vì, khi đó giá bán của doanh nghiệp sẽ thấp hơn đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hóa do nước khác sản xuất. Khi tỷ giá hối đoái tăng làm cho giá bán hàng hóa (tính bằng ngoại tệ) sẽ cao hơn đối thủ cạn tranh. Do đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm ngay tại thị trường trong nước cũng như ngoài nước.
3.4.2. Nhân tố chính trị - luật pháp:
Chính trị và luật pháp có vai trò nền tảng để hình thành các yếu tố khác trong môi trường kinh doanh. Chính trị ổn định, luật pháp đồng bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
3.4.3. Nhân tố văn hóa - xã hội.
Đây là các nhân tố biến đổi chậm nhưng nó cũng tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các phong tục, tập quán, lối sống, thói quen tiêu dùng... có ảnh hưởng sâu sắc tới nhu cầu của thị trường, từ đó ảnh hưởng tới các chính sách khác của doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường.
Từ những lý luận về cạnh tranh trên đây, chương II sẽ cho thấy thực trạng cạnh tranh hàng nông sản của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường.
Chương II
Thực trạng cạnh tranh của hàng nông sản
Việt Nam trên thị trường
1. Tình hình sản xuất hàng nông sản của Việt Nam.
Việt Nam với đặc trưng là một nước nông nghiệp, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất hàng nông sản phát triển. Một số mặt hàng nông sản đã là thế mạnh của Việt Nam trong thời gian qua như: cà phê, cao su, hạt điều...
Thứ nhất, mặt hàng cà phê được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam trên nhiều tỉnh trung du, cao nguyên và miền núi. Trước kia cà phê được trồng gồm 3 loại: cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta) và cà phê mít (Exceta). Nay chỉ còn cà phê chè và cà phê vối được trồng ở những vùng sinh thái khác nhau. Do chú trọng đầu tư thâm canh nên cà phê Việt Nam đã cho năng suất và sản lượng cao. Liên tục nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700kg nhân/ha, nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/ha, cá biệt có nơi từ 4-4,5 tấn nhân/ha. World bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê vối (Robusta) của Việt Nam 1,48 tấn/ha xếp thứ nhì thế giới, sau Contatica (1,5 tấn/ha), xếp trên Thái Lan (0,99 tấn/ha).Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt Nam cũng đang tăng ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng và đến năm 1999 - 2000 vẫn ở vị trí thứ 2 sau Brazil.
Thứ hai, mặt hàng hạt điều.
Trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu thì hạt điều chiếm một vị trí quan trọng, kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 100 triệu USD, xếp thứ ba trên thế giới về sản lượng và đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu. Kế hoạch của ngành điều đến năm 2005 là nâng sản lượng điều thô lên 230 nghìn tấn, xuất khẩu 45.000 tấn hạt điều nhân, kim ngạch 220 triệu USD năm.
Trong một thời gian dài, nghề hạt điều phát triển một cách tự phát, lại không được quy hoạch. Sản lượng điều thu hoạch niên vụ 1998 vào khoảng 100.000 tấn, niênvụ 1999 chỉ còn 70.000 tấn đáp ứng chưa được 30% nhu cầu của các nhà máy chế biến. Vụ điều năm 2000 sản lượng đã lên đến 160.000 tấn và là sản lượng cao nhất kể từ trước đó. Nhưng nhìn chung năng suất của điều Việt Nam còn rất thấp, bình quân chung cả nước khoảng 7 tạ/ha. Nguyên nhân khách quan là do thời tiết thất thường, sâu bệnh nhưng chính những yếu tố chủ quan lại là yếu tố tác động lâu dài và trực tiếp nhất. Đó chính là giống điều lâu nay đem trồng không được tuyển chọn qua các cơ quan chuyên ngành, hoàn toàn do nông dân tự chọn, nguồn dinh dưỡng từ đất đã cạn kiệt sau nhiều năm thu hoạch nhưng không được bồi dưỡng, làm cỏ, cải tạo. Hậu quả là nhiều diện tích cho năng suất thấp, cây điều bị thoái hóa, không ra quả. Do đó nhà nước cần hỗ trợ nông dân qua các công tác khuyến nông và tín dụng nông nghiệp, mặt khác cần đầu tư bằng vốn ngân sách, xây dựng các hệ thống trang trại thí nghiệm, chọn giống, nhân giống, phổ biến kỹ thuật cho các vùng sinh thái - sản xuất điều khác nhau. Đây là yếu tố hàng đầu giúp nông dân nâng cao năng suất.
Thứ ba, một số sản phẩm nông nghiệp khác.
Một số mặt hàng nông sản khác của nước ta đã có bước phát triển rõ rệt, sản xuất tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế đang dần được chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của các vùng, các địa phương cũng như trong cả nước, đã hình thành nhiều vùng hàng hóa tập trung tương đối lớn. Kinh tế nông thôn có những bước chuyển biến khá, đời sống nông dân ở nhiều vùng được cải thiện, nhưng vấn đề nổi bật là các loại sản phẩm này có chất lượng thấp, tổ chức tiêu thụ còn nhiều yếu kém, thường xuyên xảy ra tình trạng, nhiều khi tiêu thụ không kịp, nhất là trong vụ thu hoạch, giá cả xuống thấp gây thiệt hại cho nông dân. Tình trạng này kéo dài làm cho người làm nông sản buộc phải chuyển đổi các loại cây trồng, hoặc quy về sản xuất tự cung tự cấp, hoặc chuyển sang nghề kia.
Qua những yếu tố trên đây có thể nói tình hình sản xuất hàng nông sản của Việt Nam vẫn mang tính chất của nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp và mới đang trong quá trình chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, năng suất lao động thấp do đó kéo dài thời gian sản xuất sản phẩm nên không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường.
2. Thực trạng công nghệ chế biến nông sản ở Việt Nam.
Hàng nông sản của Việt Nam ở vị trí khá cao so với các quốc gia khác, hàng nông sản của ta có mặt hầu hết trên tất cả các thị trường của thế giới nhưng lượng ngoại tệ thu về từ hàng nông sản vẫn còn rất khiêm tốn do giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều...đều bán thấp hơn giá thế giới từ 20 - 40USD, thậm chí còn thấp hơn. Công nghệ và các cơ sở chế biến nông sản của Việt Nam trong thời gian dài ít được quan tâm đầy đủ, một phần do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên trình độ công nghệ thấp và chậm được đổi mới, tổn thất sau thu hoạch còn rất lớn. Cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu còn ít như ngành cà phê mới chỉ có khoảng 20 cơ sở hcế biến công nghiệp hoàn chỉnh, chủ yếu là sơ chế đảm bảo chiếm khoảng 30% sản lượng cà phê/năm. Mặt hàng hạt điều tuy đã phát triển nhanh và chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu nhân hạt điều nhưng mức độ cơ giới hóa trong quy hoạch quy trình công nghệ chế biến điều còn thấp, các nhà máy mới chỉ thu đựoc sản phẩm chính để xuất khẩu là nhân điều, chưa áp dụng được quy trình "chế biến không phế liệu" để thu hoạch các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ, nên đã đạt hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy các nhà máy chế biến chưa thể nâng cao được giá thu mua các mặt hàng nông sản thô từ nông dân, một yếu tố để kích thích nông dân tích cực gieo trồng hàng nông sản.
Đa số công nghệ của ta còn giản đơn, thô sơ, lạc hậu, mang nặng tính kinh nghiệm, thậm chí những điều kiện tối thiểu sân phơi, máy sấy, kho bảo quản cũng không đủ. Do đó vấn đề cần giải quyết là nhà nước cần phải có kế hoạch cân đối lại giữa công suất chế biến và nguồn nguyên liệu, mở rọng hoạt động điều phối giữa các xí nghiệp chế biến hàng nông sản thông qua Hội nông dân Việt Nam.
3. Tình hình tiêu thụ hàng nông sản trong thị trường nội địa.
Hàng nông sản là sản phẩm thiết yếu của mọi người dân như gạo, chè, cà phê... tuy vậy do mức sống của nhân dân ta còn thấp nên các sản phẩm nông sản được sản xuất ra chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu mà tiêu thụ cho thị trường trong nước chủ yếu là các sản phẩm thô, thứ cấp với giá rẻ hơn gấp nhiều lần như mặt hàng cà phê tiêu thụ trong nội địa chỉ đạt khoảng 6000 tấn/năm chiếm 1,5 - 2% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Tuy vậy, với mức sống như hiện nay, hơn 300USD/người/năm thì nhu cầu của người dân đã được cải thiện do đó nhu cầu về tiêu thụ nông sản ở thị trường trong nước cũng sẽ tăng lên nghĩa là mức tiêu thụ nội địa sẽ tăng.
4. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Có thể nhận xét rằng nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan (ở mặt hàng gạo và cà phê), Indonexia về cà phê, cao su... kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu hướng tăng từ dưới 30% (trước năm 1998) lên mức cao hơn trong năm 2000 nhưng với giá cả hạ hơn, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng tăng mạnh nhưng tốc độ lại chậm hơn các sản phẩm khác từ 5,87% năm 1992 lên 13,6% năm 2000. Các số liệu đã chứng tỏ rằng mức chênh lệch mặt hàng gạo và cà phê được thích hợp nhiều nhất trong bốn mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Điều đó cũng cho thấy rằng thời gian qua sức cạnh tranh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam được cải thiện đáng kể, nhưng nếu đi sâu phân tích thì thực sự vẫn còn nhiều băn khoăn về tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam.
Việt Nam chỉ có mặt hàng gạo là trội hơn hẳn còn các mặt hàng khác lại có sự chênh lệch khá lớn về số lượng so với các đối thủ cạnh tranh chính.
Bảng 1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản
chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2000.
TT
Năm
Sản lượng xuất khẩu (1000 tấn)
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
1
1990
1624
89,6
75,9
10,8
305
76,16
75,3
12,96
2
1991
1033
93,8
62,9
10,5
235
74
50
14
3
1992
1940
116,2
81,9
1,3
418
92
66,9
16
4
1993
1722
122,6
96,7
20,6
362
110,6
74,7
26
5
1994
1983
177
135,5
21,2
424
328,2
135,4
26,5
6
1995
2058
248,1
138,1
18,8
530
595,5
193,5
26,5
7
1996
3047
281,4
194,5
21
868
420
163,3
29
8
1997
3682
391,6
192
32,3
801
497,5
194,6
48
9
1998
3800
382
197
33,2
1100
593,8
127,5
50,5
10
1999
4500
487,5
265
37
1080
592
145
46
11
2000
3500
694
280
44,7
840
842,76
153,2
56
Nguồn: Tạp chí Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000 - 2001.
Qua những số liệu trong bảng trên cho thấy các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều tăng do đó kéo theo nguồn thu ngoại tệ cũng tăng lên góp phần làm tăng cán cân thương mại và nguồn ngoại tệ của quốc gia, số liệu trên cũng cho thấy mặt hàng gạo và cà phê là có mức chênh lệch nhất trong 4 mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh.
Sau đây ta đi phân tích cụ thể mặt hàng cà phê - là mặt hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn nhất so với các mặt hàng nông sản khác:
Có thể nói cà phê là thức uống mà được nhiều người ưa thích, là mặt hàng xuất khẩu ở nhiều thị trường và đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn.
Phân chia xuất khẩu theo thị trường.
Trước kia thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là các nước thuộc khu vực I. Liên Xô là thị trường chính, khối lượng xuất của Việt Nam sang thị trường này là 55 - 56%. Từ cuối năm 1985 trở đi Việt Nam bắt đầu xuất sang các nước thuộc khu vực II. Thời kỳ này, Việt Nam chưa gia nhập Hiệp hội cà phê Quốc tế (ICO) nên việc xuất khẩu chỉ là xuất thử hoặc xuất qua trung gian, thường là Singapore với tỷ lệ 30 - 40% tổng sản lượng bằng 60% lượng xuất khẩu sang khu vực II với giá thấp và chất lượng không cao trong khi chất lượng yêu cầu của các nước tiêu thụ trực tiếp lại rất cao. Đến năm 1994 trở đi Việt Nam mới thâm nhập vào thị trường châu Âu, Nhật và Mỹ, giảm lượng xuất qua trung gian Singapore, nâng kim ngạch xuất khẩu lên đáng kể. Sự có mặt của cà phê Việt Nam trên thị trường Mỹ là chứng nhận cho nỗ lực to lớn của những nhà xuất khẩu Việt Nam.
Bảng 2. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Đơn vị: Tấn
Niên vụ
Khu vực
1995 - 1996
1996 - 1997
1997 - 1998
1998 - 1999
Châu Mỹ
67.048
84.255
87.384
69.381
Châu á
45.045
32.248
45.943
28.564
Châu Phi
6.767
11.729
4.816
5.340
Châu Âu
94.982
189.048
243.297
278.125
Châu úc
6.913
7.038
8.839
15.483
Tổng cộng
220.755
324.318
390.279
396.893
Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển số 125 tháng 3/2001.
Qua bảng số liệu trên cho thấy nếu như niên vụ 1995 - 1996 thị trường châu á nhập 45.045 tấn cà phê Việt Nam (chiếm 20,4%) tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam), thị trường châu Âu nhập 94.982 tấn (tỷ lệ 43,03%) thì trong niên vụ 1998 - 1999 thị trường châu á chỉ còn nhập 28.564 tấn cà phê (chiếm 7,2%), thị trường châu Âu nhập 278.125 tấn (chiếm 70,08%). Điều này chứng tỏ rằng các nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang từng bước việc hạn chế việc xuất qua trung gian và cố gắng mở rộng thị trường sang các quốc gia có nhu cầu tiêu thụ cà phê lớn như: Mỹ, Anh, Đức, Pháp.
Phân chia xuất khẩu theo số lượng.
Lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng dưới đây.
Bảng 3. Lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam
Niên vụ
Sản lượng cà phê thu hoạch (tấn)
Lượng cà phê xuất khẩu (tấn)
Tỷ lệ xuất khẩu (%)
1990 - 1991
82.500
67.774
82,15
1991 - 1992
131.400
79.070
60,18
1992 - 1993
145.200
130.529
89,90
1993 - 1994
179.000
169.190
92,28
1994 - 1995
212.450
192.088
90,42
1995 - 1996
235.000
220.755
93,94
1996 - 1997
362.000
324.318
89,58
1997 - 1998
400.000
390.279
97,56
1998 - 1999
420.000
396.893
94,45
1999 - 2000
600.000
546.000
90,83
2000 - 2001 (ước)
750.000
683.400
91,12
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 125 thán 3/2001.
Qua bảng số liệu trên cho thấy mười năm trở lại đây lượng cà phê xuất khẩu tăng nhiều và có xu hướng tiếp tục tăng từ 67,774 tấn (niên vụ 1990 - 1991) lên 545.000 tấn (niên vụ 1999 - 2000) tăng lên 8 lần. Hàng năm tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng khá ổn định và giữ ở mức cao, đa số từ 90% trở lên. Con số này đã phản ánh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Theo giá cả.
Nhìn chung giá nông sản của Việt Nam thường thấp hơn so với một số nước, bên cạnh đó nước ta thường xuất khẩu theo giá FOB nên giá trị thu về thường không cao. Thêm vào đó diễn biến về giá cả trong những năm qua cũng đã làm cho hàng nông sản Việt Nam đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, giá nông sản liên tục giảm đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam. Sau đây là bảng xuất khẩu hàng nông sản về giá trị và sản lượng trong những năm gần đây.
Bảng 4. Xuất khẩu hàng nông sản năm 1999 và năm 2000
Mặt hàng
Năm 1999
Năm 2000
Lượng (1000 tấn)
Trị giá (Tr.USD)
Giá BQ (USD/tấn)
Lượng (1000 tấn)
Trị giá (Tr.USD)
Giá BQ (USD/tấn)
Gạo
4.200
989
235,467
4.200
1.050
250
Cà phê
399
555,9
1.392,928
400
560
1.400
Cao su
212
125,4
591,509
230
135
592
Chè
34
43,3
1.420,588
35
52
1.486
Lạc nhân
62
36,23
584,355
120
135
3.857
Hạt điều
17
101,3
5.958,824
30
165
5.500
Nguồn: Tạp chí Thương nghiệp và thị trường Việt Nam số 7/2000.
Qua bảng số liệu trên cho thấy qua 2 năm 1999 và 2000 thì giá bình quân của nông sản nhìn chung là tăng, nhưng tình hình thị trường thế giới diễn biến không thuận lợi về giá cả, các doanh nghiệp cũng gặp phải khó khăn nhưng có thể nói rằng kết quả đạt được như trên là sự cố gắng trong công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất rất linh hoạt. Tình hình xuất khẩu vừa qua cũng cho thấy kim ngạch xuất khẩu sẽ cao hơn nếu khâu chất lượng xuất khẩu của hàng hóa cao hơn.
5. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong thời gian qua.
Về giá cả
Tăng trưởng bình quân xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt 21%/năm trong suốt 10 năm qua, gạo, cà phê, cao su, chè là 4 mặt hàng chủ lực, năm 1999 đạt 1,8 tỷ USD chiếm 16,63% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Sự ảnh hưởng của chất lượng giá cả nông sản nên lượng xuất khẩu của Việt Nam thường có giá thấp hơn một số nước trên thế giới, có thể nói đây cũng là một lợi thế của nông sản Việt Nam nhưng cũng là bất lợi cho người sản xuất vì giá thành sản xuất ra một đơn vị nông sản còn rất cao, có khi giá bán lại không bù đắp được chi phí sản xuất nên gây thiệt hại lớn cho người sản xuất. Trong thời gian qua, thực tế thì có một số diện tích trồng cây nông sản đã bị phá bỏ như: cà phê, cao su để trồng loại cây khác có lợi ích kinh tế hơn.
Vấn đề hiện nay là cần phải có những biện pháp lâu dài và trước mắt để giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Về chất lượng.
Có thể nói chất lượng nông sản xuất khẩu được cải thiện đáng kể ở hầu hết các mặt hàng.
Chẳng hạn tỷ lệ gạo chất lượng cao (5-10% tấn) đã tăng từ 1% năm 1989 lên 85% năm 2000, tỷ lệ gạo chất lượng, thấp chỉ còn 22%. Tuy nhiên, đó chỉ là tiến bộ trong cải thiện độ gãy của gạo. Gạo 5% của Thái Lan hơn hẳn ta về mùi vị, hình dáng, kích thước và tỷ lệ thủy phân.
Cùng với gạo, chất lượng các hàng nông sản khác cũng có những tiến bộ đáng kể như mặt hàng cà phê, tỷ trọng cà phê loại 1 tăng từ 2% (vụ 95-96) lên 16% năm (99/2000), loại B giảm từ 80% (vụ 95/96) xuống còn 5% (vụ 99/2000) sang tỷ lệ thủy phân cao quá 13% thậm chí có cả hạt đen, mốc, vỡ, lẫn nhiều tạp chất, quy cách, màu sắc, độ bóng, độ đồng đều chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ lệ cao su thượng hạng tăng từ 89,3% năm 97-98 lên 94,04% năm 2000, tuy đã tăng được tỷ trọng hàng hóa phẩm cấp cao nhưng mẫu mã đơn điệu nên chưa thâm nhập được vào phần thị trường cao cấp và do đó giá bán luôn thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh gây thua thiệt cho hoạt động xuất khẩu. Mặc dù nông sản Việt Nam có chất lượng cũng khá tốt nhưng các loại có chất lượng không đồng đều, tỷ lệ phế phẩm còn cao. Hầu hết trong những năm gần đây, một số dây chuyền chế biến nông sản được nhập ngoại có quy trình công nghệ tiên tiến nhưng còn rất ít.
Nhìn chung, khoảng 70% sản lượng nông sản hàng năm được sơ chế tại các hộ gia đình, chất lượng không cao. Gần 30% qua chế biến tại các cơ sở công nghiệp có dây chuyền, phần lớn đã lạc hậu, sản phẩm dùng làm nguyên liệu, do đó giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao là điều tất yếu.
Tóm lại, cần phải nâng cao chất lượng của nông sản Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Về hệ thống thu thập thông tin - dự đoán và nghiên cứu thị trường.
Kinh doanh mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua bán theo hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch nông sản trong ngày của thị trường khu vực. Yếu tố quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản là thông tin và các dữ liệu thị trường phải chính xác, kịp thời so với thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự đoán thị trường và đưa ra các quyết định mua bán.
Đây là điều quan trọng nhất mà cũng chính là điều mà các nhà xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang thiếu. Có thể thấy rằng bộ phận tham tán thương mại của Việt Nam ở nước ngoài đã không thực hiện tốt việc thu thập và cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, nguồn tin hạn hẹp duy nhất về thị trường thế giới mà các doanh nghiệp Việt Nam có được là nhờ mua của các hãng nước ngoài. Chính từ nguồn tin này và một số nguồn tin hạn chế khác, kết hợp với kinh nghiệm và cảm tình kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định như vậy. Việc mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ gặp rất nhiều khó khăn do chi phí cao. Chính vì vậy công việc thu thập thông tin nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn, dẫn đến khả năng cạnh tranh hàng nông sản của Việt Nam còn thấp. Vấn đề là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh doanh, tìm kiếm thị trường, đối tác, khách hàng mới và khuyếch trương nhãn hiệu riêng cho sản phẩm nông sản Việt Nam.
Sự hỗ trợ của Chính phủ:
Trong những năm qua, trước tình hình giá cả nông sản có những biến động liên tục, gây bất lợi cho cả người sản xuất và các đơn vị hoạt động xuất khẩu, để tháo gỡ khó khăn cho người sản xuất và nhà xuất khẩu thì Chính phủ cũng đã nhiều lần hỗ trợ vốn và lãi suất để dự trữ nhằm giảm áp lực bán ra để tăng giá bán trên thị trường. Đặc biệt trong tháng 9/2000 Chính phủ đã quyết định hỗ trợ vốn và lãi suất để dự trữ những mặt hàng nông sản bị giảm giá mạnh khi bán ra trên thị trường như: dự trữ 60.000 tấn cà phê.
Một điều dễ nhận thấy là trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính xuất khẩu tương đối hiệu quả. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu bao gồm giảm thuế xuất khẩu, giảm thuế nhập khẩu các thiết bị máy móc chế biến hàng nông sản nhằm nâng cao chất lượng của mặt hàng này, giảm thuế nhập khẩu các nguyên liệu dùng cho chế biến trong nước, thực hiện các loại tín dụng thương mại ưu đãi, giảm thuế quan bảo hộ và tránh hạn ngạch xuất - nhập khẩu để giảm bớt sức hấp dẫn của thị trường nội địa, tăng tính hấp dẫn của thị trường ngoài nước. Kinh nghiệm về giảm thuế xuất khẩu ở một số nước cho thấy hiệu quả xuất khẩu tăng nhanh, đây là yếu tố tích cực mà Việt Nam cần phát huy.
Khả năng tìm đầu ra của nông sản.
Tìm đầu ra cho nông sản là vấn đề được nhiều cơ quan chức năng quan tâm, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhà nước đã có chiến lược lâu dài được quy hoạch tốt cho việc giải quyết đầu ra cho nông sản là trách nhiệm của mình. Cùng với vấn đề tiêu thụ nông sản thì các cán bộ cấp cao cũng kiến nghị với Chính phủ phải tính toán, cơ cấu lại sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, thực tế cho thấy Chính phủ đã làm điều này từ nhiều năm trước, nhưng muốn chuyển đổi được cơ cấu phải có thời gian để nông dân tin và làm theo. Hiện nay Chính phủ cũng đang tất bật tìm đầu ra cho nông sản, nhất là gạo, điều, chè, mía, cà phê phải đảm bảo để năm 2001 này xuất khẩu được hơn 4 triệu tấn gạo. Việc tìm kiếm này đã có những dấu hiệu khả quan khi một số khách hàng đã quay lại nhập hàng nông sản của Việt Nam. Sắp tới đây, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ nhiều hơn cho việc tìm kiếm thị trường.
Nói tóm lại, thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong thời gian qua là vấn đề rất được quan tâm, thực tế cho thấy rằng trong quá trình hội nhập kinh tế, các mặt hàng nông sản của Việt Nam kể cả tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu đã và đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt. Khi nói đến cạnh tranh là phải nói tới vấn đề chất lượng, mẫu mã, giá cả, vệ sinh,... trong những vấn đề này, điều để được người mua quan tâm trước tiên là giá cả. Trên thị trường, người mua thường so sánh giá cả mặt hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay không mua. Như vậy, giá là nội dung đầu tiên mà các doanh nghiệp và người sản xuất phải quan tâm trong sự cạnh tranh để dành thị phần trên thị trường.
6. Đánh giá về khả năng cạnh tranh.
6.1. Cái đạt được
Trước hết về điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất thuận lợi cho những cây nông sản phát triển, đặc biệt là cà phê, cao su ở mảnh đất Tây Nguyên màu mỡ. Bên cạnh đó đã hình thành được những vùng chuyên canh, sản xuất hàng nông sản tập chung tạo ra nguồn sản lượng lớn (hiện nay đứng vị trí thứ 3 thế giới) nhờ đó tạo nguồn thuận lợi cho việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến với số lượng và chất lượng cao, dự định theo yêu cầu kỹ thuật chế biến. Mặt khác nó còn thuận tiện cho việc bố trí, xây dựng các nhà máy chế biến phù hợp, gần vùng nguyên liệu.
Về năng suất, nhìn chung hàng nông sản Việt Nam hiện nay có năng suất cao so với các nước trên thế giới, chất lượng khá tốt, có hương vị riêng là một lợi thế mà các nước khác ít có được. Vì vậy, trong một vài năm qua một số thương hiệu của nông sản Việt Nam đã hình thành và phát triển ở thị trường trong nước cũng như đã thâm nhập được vào một số thị trường khó tính nước ngoài như: Mỹ, Đức, ... Thương hiệu cà phê Trung Nguyên, gạo tám Cần Thơ,... là những minh chứng sống động. Chỉ trong một vài năm, các thương hiệu này đã đứng vững và khẳng định được vị trí ở thị trường trong nước và bắt đầu thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Bên cạnh đó với sự quan tâm của Nhà nước bằng những chính sách quản lý xuất khẩu cụ thể, giúp đỡ người sản xuất và người chế biến về chính sách vốn đã tạo thuận lợi cho vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường.
6.2. Những vấn đề còn tồn tại.
Bên cạnh những cái đạt được trên thì khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn nhiều khó khăn và tồn tại sau:
a. Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù năng suất cao, chất lượng tốt song chất lượng không đồng đều. Tỷ lệ phế phẩm cao, chế biến nông sản theo các phương pháp thủ công, phần lớn thiết bị dây chuyền lạc hậu, không đồng bộ. Do vậy tiêu hao nguyên liệu cao dẫn đến hiệu quả thấp, giá thành chế biến cao, khả năng cạnh tranh kém. Mặc dù có một số công nghệ mới tiên tiến, hiện đại được nhập ngoại nhưng còn rất ít.
Hầu hết nông sản xuất khẩu đang ở dạng thô, nông sản qua chế biến rất ít.
Một tồn tại không chỉ đối với nông sản Việt Nam mà đối với tất cả các mặt hàng của Việt Nam là năng lực quản lý sản xuất chế biến, xuất khẩu... chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là khâu marketing. Mối liên kết kinh tế sống còn giữa các khâu chế biến, xuất khẩu và cung ứng dịch vụ đầu vào chưa được thiết lập để bảo đảm sự ổn định về số lượng, chất lượng theo yêu cầu của thị trường.
Cũng như các mặt hàng khác của Việt Nam, giá nông sản vẫn còn thất thế so với các nước xuất khẩu nông sản trên thế giới. Có thể nói nông sản Việt Nam phải chịu sự chấp nhận giá.
b. Những nguyên nhân của những tồn tại trên.
Những tồn tại trên phần lớn do những nguyên nhân chủ quan gây ra, bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khách quan khác.
Thứ nhất, do nguồn vốn đầu tư vào công nghệ chế biến nông sản còn hạn chế. Hiện tại hầu hết công nghệ chế biến đã lạc hậu, áp dụng phương pháp chế biến cổ điển.
Thứ hai, do kết cấu hạ tầng phục vụ cho bảo quản, dự trữ, vận chuyển, bốc xếp... còn kém.
Thứ ba, do Việt Nam hòa nhập vào thị trường nông sản thế giới trong bối cảnh bị mất thị trường truyền thống (Liên Xô và các nước Đông Âu) trong khi đó thị trường nông sản thế giới, được hình thành từ lâu đời đã được phân chia rõ rệt, chủ yếu nông sản Việt Nam bàn cho các nước trung gian, do vậy giá cả luôn thấp hơn mặt bằng giá chung của thế giới và phải chấp nhận giá.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân từ chính sách khuyến khích người sản xuất của Nhà nước, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, sách nhiều... làm nản lòng các nhà đầu tư.
Đây là một số nguyên nhân chủ yếu làm cho nông sản xuất khẩu Việt Nam kém khả năng cạnh tranh.
Chương III
Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên
thị trường trong quá trình hội nhập
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, nhằm ổn định, nâng cao chất lượng, giá cả, khẳng định vị trí của cà phê Việt Nam. các doanh nghiệp, các ngành có liên quan cũng như nhà nước cần có những biện pháp thích hợp và triển khai một cách đồng bộ.
Trước hết, ngành cà phê cần chú ý thay đổi cơ cấu sản phẩm ngay từ khâu trồng trọt. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Cả nước hiện có khoảng 375 ngàn ha phân bố trên nhiều địa bàn từ Bắc chí Nam. Khu vực phía Bắc có diện tích nông sản không nhiều, năng suất không cao, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp với một số nông sản, nhưng cà phê lại phát triển tốt tại đây. Cần đưa giống nông sản năng suất cao và chống sâu bệnh vào khu vực trung du và miền núi phía Bắc, đáp ứng yêu cầu chất lượng của nông sản xuất khẩu. Khu vực các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, là vùng trọng điểm của nông sản Việt Nam, chiếm phần lớn diện tích, có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho cây nông sản, đặc biệt là cây dài ngày. Cần chú ý đầu tư thâm canh thay đổi giống để tăng năng suất. Hạn chế trồng mới, chỉ tập trung thâm canh cây nông sản dài ngày, mở rộng diện tích ở những vùng thích hợp để trong 10 năm tới cơ cấu nông sản Việt Nam đạt tỷ lệ cao, vì như vậy cà phê sẽ đạt chất lượng cao, tránh tình trạng như hiện nay có tới 95% cà phê với chỉ 5% cà phê chè, chất lượng kém, giá bán thấp. Quy hoạch vùng sản xuất nông sản cần lưu ý là hạn chế và đi đến chấm dứt nạn phá rừng nguyên sinh để lấy đất trồng nông sản.
Tạo nguồn vốn cho đầu tư, chế biến, thu mua là một trong những điều kiện không thể thiếu được. Hiện tại nguồn vốn đầu tư từ nhà nước còn hạn chế, việc tận dụng các nguồn vốn khác nhau để phát triển ngành nông sản là điều tối cần thiết. Đối với nhà nước, trước hết cần đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng tại các vùng trồng nông sản trọng điểm. Ngoài ra, các doanh nghiệp nông sản cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng. Cần nhanh chóng cổ phần hóa các doanh nghiệp nông sản để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến nông sản ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất hợp lý để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cần quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín dụng nông thôn để hỗ trợ kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các vùng nông sản trọng điểm nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây dựng cơ bản, vốn định canh, định cư và xóa đói giảm nghèo cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản (một lực lượng tích cực tham gia vào các chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất nông sản) và tạo điều kiện cho ngành nông sản được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng, bên cạnh đó cần khuyến khích nhiều hơn nữa các doanh nghiệp, kể cả nước ngoài, đầu tư vào ngành chế biến nông sản tạo ra nhiều sản phẩm, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng dần tỷ trọng các sản phẩm chế biến có hàm lượng công nghệ và chất xám cao. Hoàn thiện hệ thống tổ chức các doanh nghiệp nông sản có tác động quan trọng đến phát triển ngành, các doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo, khuyến mãi cho phù hợp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được điều này các doanh nghiệp xuất khẩu phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ thể. Các doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, những giải pháp cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm... cho người sản xuất và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trách nhiệm cung ứng hàng bảo đảm đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất khẩu và đúng thời gian, địa điểm, có như vậy thì việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản mới hoạt động có hiệu quả, việc xâm nhập thị trường thế giới của nông sản Việt Nam chắc chắn sẽ có những biến đổi mạnh mẽ.
Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành nông sản là điều hết sức cần thiết. Để tạo đà cho các doanh nghiệp nông sản phát triển và ứng phó kịp thời với những thay đổi về chất lượng, giá cả... cần tập trung máy móc thiết bị để chế biến nông sản thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực trồng nông sản. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh nông sản tập trung đầu tư trang thiết bị để chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu nông sản chế biến. Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến nông sản chất lượng cao tại các vùng sản xuất nông sản lớn có giá trị xuất khẩu cao, giá cả ổn định, bảo quản lâu dài. Trước hết, cần đầu tư vào thiết bị sơ chế, phân loại, đánh bóng, đóng bao.
Việc bố trí cơ cấu giống hợp lý là hết sức cần thiết nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng và phòng chống sâu bệnh. Bên cạnh đó cần phải có chính sách khuyến khích nghiên cứu các giống mới có năng suất và chất lượng cao, phòng chống sâu bệnh, đồng thời nâng cao việc quản lý cây trồng và thu hoạch. Trong thời gian tới công tác giống cần phát triển theo các hướng xây dựng cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh thái ở từng vùng, từng bước tăng diện tích nông sản ở miền Bắc và miền Trung. Cần tạo điều kiện cho các trung tâm giống về vốn và thiết bị, tạo cơ hội cho cán bộ nghiên cứu tiếp cận với các trung tâm giống của các nước trong khu vực và thế giới.
Tăng cường công tác khuyến nông thông qua Hiệp hội nông sản Việt Nam phối hợp với Tổng công ty cà phê Việt Nam thực hiện việc đào tạo tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc nông sản có sự phối hợp giúp đỡ của Cục khuyến nông và Cục bảo vệ thực vật Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như các trung tâm, chi cục của từng địa phương. Công tác bảo vệ thực vật là không thể thiếu trong quá trình gieo trồng, chăm bón cây nông sản. Trước hết các nhà sản xuất nông sản cần hợp tác với các trung tâm bảo vệ thực vật để triển khai chương trình phòng chống sâu bệnh cho cây trồng. Nhà nước có biện pháp tích cực để điều hành công tác nhập khẩu phân bón nhanh, đúng chủng loại, từng bước khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu cơ thay thế phân hóa học, tăng hiệu quả cây trồng, giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí phân bón trong sản xuất, từ đó giảm giá thành.
Nâng chất lượng sản phẩm nông sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần nghiên cứu và triển khai áp dụng hệ tiêu chuẩn ISO 9000. Chỉ có áp dụng tốt hệ tiêu chuẩn này thì mới đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm, vào thị trường thế giới và khu vực. Ngoài ra Việt Nam cũng cần tham gia vào chương trình phối hợp khuyến khích thương mại của các nước ASEAN gồm 15 mặt hàng nông-lâm-thủy-sản, trong đó có mặt hàng cà phê, để từ đó xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chung ASEAN phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng của WTO, tham gia luồng hàng cùng loại của các nước ASEAN vào thị trường thế giới. Đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp nông sản phải có kế hoạch tuyển dụng và thường xuyên bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính chiến lược cao, các doanh nghiệp cần chú ý thực hiện.
Để tăng độ hấp dẫn của sản phẩm, cần chú ý đến bao bì đóng gói cà phê. Để có bao bì phù hợp với từng loại sản phẩm, thị trường, tập quán, cần chú ý:
Thứ nhất, nông sản Việt Nam xuất khẩu chủ yếu bằng đường biển do đó bao bì phải có độ bền tốt, bảo vệ được hàng hóa trong quá trình bốc xếp, bảo quản, vận chuyển. Bao bì của những sản phẩm nông sản chế biến phải gọn, hợp vệ sinh, dễ trưng bày, giữ được màu sắc, hương vị, hình dáng của sản phẩm.
Thứ hai, bao bì phản ánh đầy đủ các thông tin chủ yếu về sản phẩm như thành phần, công dụng... hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm, thời hạn sử dụng, trọng lượng, giá cả... Việc thiết kế nhãn hiệu sản phẩm nên theo hướng đơn giản dễ gợi nhớ và mang ý nghĩa.
Nhưng sản phẩm tốt mới chỉ là bước đầu, sản phẩm đó phải được hoàn thiện một cách liên tục mới có khả năng duy trì khách hàng cũ cũng như thu hút khách hàng mới. Các doanh nghiệp phải kiên trì lắng nghe ý kiến ở khách hàng để biết những hạn chế trong sản phẩm của mình nhằm tìm cách cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra nghiên cứu sản phẩm của đối phương cũng là một yếu tố giúp cải tiến sản phẩm ngày càng phù hợp với người tiêu dùng.
Để cải thiện hệ thống thu mua phân phối nông sản, các doanh nghiệp nông sản cần tập trung cải tiến cách thức tổ chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại nông sản, trước khi thu hoạch nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi thu hoạch cần tập trung cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông dân. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác chế biến bảo quản nông sản ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng nông sản ngày càng cao, đảm bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu. Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất, ngành nên nghiên cứu hình thành một trung tâm giao dịch nông sản tại Buôn Ma Thuột để đưa thị trường nông sản vào hoạt động có tổ chức.
Ngoài các biện pháp tổ chức thu mua trong cơ chế thị trường giá nông sản được thiết lập dưới tác động của quy luật cung cầu và vận động theo quy luật tự điều chỉnh. Sự vận động này tác động đến việc mở rộng hoặc thu hẹp diện tích, đầu tư thâm canh nông sản. Trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là xuất nhập khẩu, việc xây dựng chính sách giá để bảo đảm mang lại hiệu quả cao nhất, bán được nhiều sản phẩm nhất tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một vấn đề mang tính chất chiến lược. Đối với việc định giá sản phẩm xuất khẩu, nông sản Việt Nam đang tìm lại chỗ đứng trên thị trường do có rất ít thị trường truyền thống, vì mục tiêu thâm nhập thị trường nên giá xác định phải sát với thị trường không nên quá chú ý đến việc bù đắp lại chi phí mà để mất lợi thế cạnh tranh trong thị trường mới. Do lợi thế về năng suất nông sản của Việt Nam cao, chi phí nhân công thấp do đó khả năng bù đắp chi phí lớn, khi định giá cần phải linh hoạt cho phù hợp với từng loại thị trường đảm bảo có lãi và thâm nhập vào được thị trường mục tiêu. Mặt khác nông sản Việt Nam hầu hết được chế biến bằng phương pháp ướt, trong khi đó hầu hết các nước khác đều áp dụng phương pháp ướt (chế biến từ sản phẩm tươi). Do áp dụng nước khác từ 10% - 15%. Để đảm bảo cho người sản xuất, xuất khẩu không bị ảnh hưởng quá nhiều về biến động giá cả, ngành nông sản cần có những giải pháp về giá cả với cây nông sản Việt Nam. Cụ thể:
Về giá bán vật tư: Nông phẩm là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó mỗi người sản xuất chỉ cung ứng ra thị trường phần nông sản rất nhỏ so với tổng cung toàn xã hội nên họ không thể độc quyền về giá mà phải theo mức giá hình thành khách quan trên thị trường. ở Việt Nam giá nông sản thường biến động, đủ sức can thiệp vào mặt bằng giá thị trường thì chỉ có nhà nước thông qua chính sách bảo hộ giá. Quỹ bình ổn giá của Chính phủ trong thời gian qua có tác động nhất định nhưng đối tượng thụ hưởng tập trung vào doanh nghiệp nhà nước, người nông dân được bố trí ít. Vì vậy nhà nước cần có nhiều biện pháp bảo hộ, đáng chú ý nhất là bảo hộ thông qua chính sách đầu tư. Biểu hiện của biện pháp này là nhà nước bán các vật tư phục vụ cho quá trình sản xuất nông sản với mức giá thấp hơn so với giá thị trường. Biện pháp này sẽ có tác dụng nâng cao lợi ích của người trồng nông sản, duy trì và phát triển diện tích, kích thích người trồng cà phê đầu tư thâm canh tăng năng suất, từ đó gia tăng sản lượng. Mặt khác, biện pháp này còn có tác dụng đối phó với hiệp định nông nghiệp do WTO đặt ra. Hiệp định này có những quy định làm tăng khả năng cạnh tranh từ đó tăng khả năng tiếp cận thị trường của các mặt hàng nông sản.
Về trợ giá sản xuất: Đặc điểm sản xuất tiêu thụ hàng nông sản nói chung là thời kỳ thu hoạch tập trung trong khoảng thời gian ngắn, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ rải rác dẫn đến trong thời kỳ thu hoạch, lương cũng tăng rất mạnh trong khi đó nhu cầu tiêu thụ không thay đổi dẫn đến giá nông sản nói chung sẽ giảm, thậm chí có thời kỳ giảm xuống thấp hơn chi phí sản xuất. Điều này ảnh hưởng lớn đến lợi ích người trồng nông sản. Vì vậy để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất, nhà nước cần công bố mức giá sẵn để các doanh nghiệp biết và chấp hành. Mặt khác lượng nông sản Việt Nam luôn dư thừa, do đó nhà nước cần phải giải quyết lượng dư thừa này bằng cách sử dụng quỹ dự trữ để mua hết lượng hàng dư thừa này. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp như không tính lãi suất đối với khoản tiền mà các doanh nghiệp vay để mua nông sản dự trữ.
Để giải quyết về vấn đề giá cả, cùng với nhà nước ngành nông sản cần thành lập Quỹ hỗ trợ ngành cà phê.
Để hoàn thiện chiến lược phân phối nông sản xuất khẩu các nhà sản xuất kinh doanh cần chủ động tạo chân hàng ổn định bằng cách gắn sản xuất với lưu thông, tránh tình trạng ký hợp đồng xong mới đi thu gom hàng, tập trung đầu tư có chiều sâu vào những vùng sản xuất nông sản trọng điểm, xây dựng hệ thống cơ sở chế biến kho tàng bảo quản. Ngoài ra cần từng bước mở rộng thị trường thông qua tìm hiểu và tạo các kênh phân phối hiện có; các doanh nghiệp cần thực hiện giao hàng xuất khẩu đúng thời gian quy định theo hợp đồng tránh những khoản bồi thường về giao chậm hàng lẽ ra không có làm vỡ kế hoạch phân phối của nhà nhập khẩu, chế biến nông sản nước ngoài.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh cả nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới các doanh nghiệp nông sản Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp khác như:
Tạo thương hiệu riêng cho nông sản Việt Nam. Bất kỳ một sản phẩm nào khi bán ra thị trường thế giới đều gắn liền với thương hiệu của nó. Thương hiệu phản ánh chất lượng, đặc trưng, uy tín của sản phẩm và tạo ấn tượng dễ nhớ sản phẩm ở người tiêu dùng. Nền tảng cơ bản ban đầu để hình thành và phát triển thương hiệu chính là thị trường tiêu thụ trong nước. Sản phẩm với một thương hiệu cụ thể, nếu đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước thì cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài sẽ thuận lợi hơn. Vì vậy các doanh nghiệp nông sản Việt Nam nên thực hiện chương trình kích cầu trong nước, khai thác thị trường nội địa nhằm tạo một thị trường tiêu thụ nông sản rang xay, giảm bớt lượng xuất nông sản nhân với giá thấp hơn, tạo thương hiệu riêng cho nông sản Việt Nam. Có như vậy mới có thể đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản, tăng lợi nhuận thu về cho đất nước, cho người sản xuất, và tạo được nhiều công ăn việc làm góp phần giảm thất nghiệp.
Tổ chức hệ thống thu thập thông tin - dự đoán thị trường: với điều kiện hạn chế về thông tin cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản thì để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nhà nước nên tổ chức một hệ thống thu thập và phân tích thông tin để cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp làm cơ sở ra quyết định mua bán. Đặc biệt là nâng cao nhiệm vụ và chức năng của bộ phận tham tán thương mại ở nước ngoài. Ngoài ra nhà nước cần hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu mở văn phòng đại diện ở nước ngoài để củng cố và phát triển mối quan hệ kinh doanh, tìm kiếm thị trường, khách hàng mới và khuếch trương nhãn hiệu hàng hóa Việt Nam.
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới bằng những giải pháp hợp lý nhằm tránh gây những thiệt hại không đáng có trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu là cần thiết, việc nghiên cứu và áp dụng đồng bộ các giải pháp trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản là quan trọng đòi hỏi từ người nông dân trực tiếp gieo trồng thu hái nông sản đến các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước có liên quan phải nghiên cứu và triệt để áp dụng.
Kết luận
Trong quá trình hội nhập hiện nay vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam là một đòi hỏi rất lớn, là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước. Vì vậy, các doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách cần xem xét và nhận thức một cách đúng đắn về khả năng cạnh tranh để đưa sản phẩm Việt Nam lên một bước tiến mới đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác không những ở thị trường trong nước mà còn ở các thị trường lớn hơn.
Nông sản cũng như các sản phẩm khác của Việt Nam không nằm ngoài đặc điểm đó.
Trong những năm qua nông sản Việt Nam đã có những bước tiến rất lớn trong việc sản xuất, chế biến và thúc đẩy xuất khẩu. Đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn cho ngân sách. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu: sản lượng lớn, năng suất cao, lượng xuất khẩu liên tục tăng... Nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Nông sản Việt Nam vẫn còn kém sức cạnh tranh so với các nước sản xuất nông sản khác trên thế giới: chưa có được tiếng nói riêng của mình, giá cả không ổn định, chất lượng tuy cao nhưng không đồng đều, công nghệ chế biến thô sơ lạc hậu... Bên cạnh đó còn ít những chính sách cụ thể để khuyến khích người sản xuất, chế biến cũng như người xuất khẩu nông sản Việt Nam. Chính vì vậy việc nghiên cứu thực hiện đồng bộ các giải pháp trong sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản là cần thiết và quan trọng đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều cơ quan các cấp có liên quan.
Trong bài viết này, em đưa ra một số quan điểm về khả năng cạnh tranh của sản phẩm, các tiêu thức và chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như vai trò của nó đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc biệt với sản phẩm nông sản. Bài viết đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản Việt Nam trong thời gian qua, những cái đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại về khả năng cạnh tranh. Từ đó đề xuất một số giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Quốc Bảo: Cạnh tranh về chất lượng - sự sống còn của doanh nghiệp - Tạp chí TCĐLCL số 3 (20) - 2001.
2. TS. Trương Đình Chiến. Nhận thức về hệ thống cạnh tranh trong kinh doanh - Tạp chí KT và PT. Số 50 tháng 8/2001. Trang 41, 42, 43, 44, 45.
3. Nguyễn Đắc Hưng. Những giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam - Tạp chí PTKT. Số 124 - Tháng 2/2001 trang 22, 23.
4. Tô Văn Hưng. Vai trò quản trị trong công việc xây dựng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên công nghệ. Tạp chí PTKT.
5. TS. Ngô Thị Hoài Lam. Một số ý kiến về vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Công nghiệp 9/2000 trang 16, 17.
6. Hoài Linh. Để cà phê Việt Nam có vị thế trên trường quốc tế. TBKTVN. Số 73/1997.
7. Nguyễn Hiếu Lộc. Phân tích cung cầu và giải pháp điều tiết nông sản trên thế giới trong thời gian qua. Định hướng phát triển ngành nông sản Việt Nam. Tạp chí PTKT - Số 127 tháng 5/2001, trang 21, 22.
8. Nguyễn Đình Long. Công nghệ chế biến - động lực nâng cao vị thế giá trị nông sản Việt Nam. Tạp chí TM số 7 năm 2000, trang 8.
9. GS. Nguyễn Thiệu Nhân. Lời giải để doanh nghiệp Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh tranh. Tạp chí hoạt động khoa học số 2/1998, trang 42-44.
10. Perters G.H. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp - Dartmouch 1995.
11. TS. Nguyễn Xuân Quang. Giáo trình marketing Thương mại. NXB Thống kê.
12. Trần Bá Thế. Thực trạng sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu và những giải pháp về giá cả để phát triển cây nông sản ở Việt Nam. Tạp chí PTKT - Số 125 tháng 3/2001, trang 29-31.
13. Anh Thi. Nông sản Việt Nam lép vế. TBKT Việt Nam số 7/1997.
14. Nguyễn Phạm Hải. Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Tạp chí PTKT. Trang 25, 26.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0103.doc