Đề tài Biện pháp tăng tính cạnh tranh của hoạt động phát hành thẻ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Thực tế hiện nay, cỏc ngõn hàng quản lý việc phỏt hành và thanh toỏn thẻ theo mạng riờng của mỡnh, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng qua kinh nghiệm của nước ngoài, chỳng ta cũng nờn thành lập một trung tõm chuyển mạch, thanh toỏn liờn hàng về thẻ. Trung tõm sẽ xử lý cỏc giao dịch thanh toỏn thẻ do cỏc ngõn hàng trong nước phát hành nhằm khuyến khích các ngân hàng phát hành thẻ nội địa trên cơ sở đầu tư mạng thanh toán trực tuyến trong nội bộ từng ngân hàng và tạo điều kiện giảm chi phí thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Trung tâm này là đầu mối xử lý cỏc giao dịch cấp phộp, thanh toỏn, tra soỏt giao dịch thẻ của cỏc ngõn hàng thương mại Việt Nam, đảm bảo các loại thẻ do các ngân hàng thương mại khác nhau có thể thanh toán tại bất cứ cơ sở chấp nhận thẻ nào trong toàn hệ thống. Các giao dịch thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành thực hiện tại các cơ sở chấp nhận thẻ trong nước sẽ được trung tâm này xử lý, khụng cần thụng qua trung tõm xử lý cấp phộp và trao đổi của các tổ chức thẻ quốc tế.

doc91 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp tăng tính cạnh tranh của hoạt động phát hành thẻ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với năm 1999. Hiện nay, số CSCNT do VCB và ACB phát hành là tương đương nhau và do đó về mặt này, sức cạnh tranh của VCB tương đương với ACB. Tuy nhiên, mạng lưới CSCNT của VCB trong cả nước là 3.052 đơn vị vẫn còn rất mỏng, chưa thể đáp ứng được yêu cầu thực tế trên thị trường thẻ hiện nay. Đại đa số các CSCNT của NHNT là khách hàng truyền thống, là các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, các cơ sở này cũng có quyền được lựa chọn các ngân hàng phục vụ cho công việc kinh doanh của mình, vì vậy Ngân hàng cần phải giữ chân những khách hàng cũng là những đối tác này để họ không ra đi với các ngân hàng khác. Một thực trạng đáng quan tâm là do mức phí thu từ các CSCNT không hợp lý, trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số ngân hàng khác đã có những biện pháp thu hút các CSCNT nên một số đơn vị đã từng ký kết với NHNT đã chuyển sang ký kết với một số ngân hàng khác khi họ được hưởng nhiều ưu đãi về giá cả và các tiện ích hơn. Bên cạnh những tiện ích về máy móc mà ngân hàng có thể cung cấp cho các CSCNT của mình, sự cạnh tranh trong việc tăng số lượng những đơn vị này còn được thể hiện qua phí chiết khấu đại lý mà các đại lý phải nộp. Bảng phí chiết khấu mà các đại lý của VCB và ACB phải nộp VCB ACB Thẻ tín dụng nội địa _ 1,65% Thẻ tín dụng quốc tế (%/số tiền giao dịch) 0,65% cho ngân hàng thanh toán 2,35% cho ngân hàng phát hành 2,75% Phí chiết khấu làm giảm doanh thu của CSCNT, nhưng để tăng số lượng phục vụ khách hàng, các đại lý vẫn chấp nhận thanh toán thẻ. Vì vậy, mức phí thấp hơn là một trong những điều mang lại tính cạnh tranh cho các ngân hàng trong việc tăng số lượng CSCNT. Hiện nay, mức phí chiết khấu 3% đối với các CSCNT của VCB là hơi cao so với mức phí tối thiểu 2,5% do Hội thanh toán thẻ quy định, vì vậy dễ bị các đối thủ khác lợi dụng giảm phí để cạnh tranh. Mặc dù số lượng CSCNT của NHNT so với các ngân hàng khác trong nước là tương đối nhưng vẫn là quá nhỏ so với nỗ lực phát triển thị trường của Ngân hàng. Điều này sẽ gây những ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận kinh doanh thẻ của VCB và lợi nhuận của các hoạt động khác của Ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, khi mới chỉ có 4 ngân hàng phát hành, VCB phải nhanh chóng tăng cường mạng lưới CSCNT, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động phát hành hiện tại cũng như tương lai. Tóm lại, VCB xác định khách hàng mục tiêu là những người có thu nhập cao và đã có những chính sách thích hợp nhằm phát triển việc phát hành thẻ tới đối tượng này. Tuy nhiên, sức mạnh trong cạnh tranh còn nằm ở thị phần hoạt động phát hành thẻ mà Ngân hàng nắm giữ. Những phân tích trên đây nhằm tìm ra những điểm mạnh yếu trong cạnh tranh của Ngân hàng, từ đó có những giải pháp thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động phát hành thẻ của Ngân hàng cũng như tăng sức cạnh tranh của VCB trên thị trường này. Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ Với những đặc điểm và thực trạng thị trường Việt Nam hiện nay, các ngân hàng chắc chắn gặp không ít khó khăn trong phát triển phát hành thẻ, ví dụ như việc thay đổi thói quen dùng tiền mặt. Tuy nhiên, thực trạng đó cũng cho thấy thị trường thẻ Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển, và đó là cơ hội để các ngân hàng khai thác, phát triển dịch vụ thẻ của mình. Tiềm năng của thị trường được thể hiện ở khả năng thâm nhập của thẻ trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân trong nền kinh tế. Theo thống kê, dân thành thị hiện nay chiếm 24% dân số cả nước, tức là khoảng 20 triệu người. Tại những đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, số dân đông đúc, tổng cộng khoảng 8 - 9 triệu người, mức thu nhập bình quân khá cao từ 1,5 – 2 triệu đồng/người/tháng, nhu cầu tiêu dùng lớn, là những điều kiện tốt để phát triển hoạt động phát hành thẻ, đặc biệt là thẻ có hạn mức thấp. Chỉ cần khuyến khích được 5% số người ở thành phố tham gia sử dụng thẻ là các ngân hàng có thể phát hành được 1 triệu thẻ. Với mức chi tiêu sinh hoạt cá nhân tối thiểu 500.000 đến 1.000.000 đồng/tháng tính trên 1 triệu thẻ, các ngân hàng có doanh số sử dụng và thanh toán thẻ nội địa từ 500 đến 1.000 tỷ đồng/tháng. Khai thác được việc sử dụng số thẻ đó, các ngân hàng sẽ có một dịch vụ phát hành thẻ tương đối lớn và hiệu quả. Với mức thu nhập ổn định và đời sống ngày càng phát triển, nhu cầu tham quan đi lại của người dân cũng tăng lên. Thêm vào đó, ngành du lịch Việt Nam đang nỗ lực phát triển, hoàn thiện các điểm du lịch trong nước, hợp tác với các nước khác như Trung Quốc và các nước ASEAN đẩy mạnh du lịch nước ngoài; cùng với sự kiện các nước ASEAN phối hợp với nhau trong việc giảm giá vé và thủ tục cho phép tham quan, đi lại giữa các nước trong khu vực thời gian qua dẫn đến nhu cầu du lịch trong và ngoài nước của người dân có xu hướng gia tăng. Kết quả là nhu cầu sử dụng thẻ cũng được tăng lên vì tính an toàn, tiện lợi của nó trong quá trình sử dụng. Hiện nay, du học nước ngoài không còn là một vấn đề khó khăn cho các gia đình Việt Nam nữa, khả năng tự chu cấp học phí cho con em mình đi du học của phần lớn các gia đình là điều có thể thực hiện. Nhóm khách hàng này từ trước đến nay vẫn là một đối tượng chính của công tác phát hành thẻ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường du học nước ngoài, đối tượng này vẫn là nhóm khách hàng đầy tiềm năng mà các ngân hàng phát hành thẻ hướng tới. Còn một yếu tố nữa làm tăng nhu cầu sử dụng thẻ của công chúng trong tương lai. Đó là việc phát triển thương mại điện tử (TMĐT), một hình thức giao dịch mua bán hàng qua mạng trong đó thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán chủ yếu. Internet và TMĐT đã chính thức được công nhận tại Việt Nam từ năm 1999 và cho đến nay đã phát triển rất mạnh mẽ. Theo tính toán của VDC- nhà cung cấp dịch vụ internet lớn nhất Việt Nam, trong khoảng thời gian trước mắt, riêng doanh số thanh toán cho dịch vụ trên internet vào khoảng 50 tỷ VND/năm. Khi TMĐT phát triển mạnh hơn, sẽ có nhiều loại hàng hoá dịch vụ tham gia vào thị trường này tăng nhanh doanh số thanh toán thẻ cho các ngân hàng. Gần đây, một số đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ ở Việt Nam đã xây dựng những gian hàng trên mạng để bán hàng hoá, dịch vụ. Có thể nói triển vọng phát triển TMĐT tại Việt Nam trong thời gian tới là rất cao. Đây không chỉ là thuận lợi mà còn là cơ hội cho các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động phát hành thẻ. Ngoài ra, các NHTM Việt Nam còn đang có một điều kiện thuận lợi là hiện nay các ngân hàng nước ngoài chưa được phép phát hành thẻ tại Việt Nam . Các NHTM Việt Nam cần tranh thủ cơ hội này để phát triển và mở rộng dịch vụ thẻ, đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi họ được tham gia vào dịch vụ này. Cơ hội thị trường có nhiều nhưng trong hoạt động phát hành thẻ, NHNT phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ phía những ngân hàng phát hành khác. Vì vậy, để tăng thị phần, tăng tính cạnh tranh của hoạt động này đòi hỏi Ngân hàng phải có những chính sách thích hợp. IV Những hạn chế về phát hành thẻ của NHNT và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả khả quan mà VCB đạt được trong kinh doanh thẻ, vẫn còn một số vấn đề tồn tại đòi hỏi Ngân hàng phải nỗ lực khắc phục bằng những biện pháp linh hoạt để hoạt động phát hành thẻ có hiệu quả hơn. Thứ nhất là hiện nay NHNT đang phải hoạt động kinh doanh thẻ trong một môi trường đầy khó khăn. Thẻ mới chỉ chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng là những người đi công tác học tập ở nước ngoài, còn phần đông dân cư chưa hiểu biết về thẻ, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của mình, cũng như chưa có điều kiện sử dụng nó. Điều này xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam và cũng xuất phát từ một thực tế là việc sử dụng thẻ ở Việt Nam còn nhiều bất tiện do số CSCNT quá thấp. Hiện tại các CSCNT mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, với các loại hình kinh doanh chủ yếu là nhà hàng, khách sạn, cửa hàng lớn,.. nên còn xa lạ đối với phần đông người Việt Nam. Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ cũng có ý muốn thu tiền mặt vừa nhanh gọn lại tránh được sự kiểm soát của nhà nước. Chính vì vậy, thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm đến 30% trong bán buôn và 95% trong bán lẻ ở nước ta. Trong hoàn cảnh đó, công tác marketing, tuyên truyền, quảng cáo cho thẻ lại chưa thực sự tới được người dân. Chưa có một sản phẩm thẻ của Ngân hàng nào đáp ứng được nhu cầu của đa số dân chúng: hạn mức vừa phải, phạm vi sử dụng rộng rãi, đặc biệt là ở trong nước…Thẻ là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nên rất cần có những hoạt động hỗ trợ, tuyên truyền, quảng cáo, trong khi đó hoạt động này của VCB cũng như các NHTM Việt Nam khác còn hạn chế, chưa mạnh dạn bỏ chi phí ra để tiếp thị sản phẩm thẻ, nghiên cứu tìm ra những loại thẻ phù hợp với thị trường Việt Nam hơn. Thứ hai là, công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu, vấn đề bảo dưỡng, sửa chữa những loại máy móc này vẫn phải mời nhà cung cấp nước ngoài giúp đỡ khắc phục, do đó không sửa chữa được kịp thời, làm gián đoạn việc phát hành thanh toán thẻ, gây tổn hại về thời gian, tiền bạc cho cả khách hàng, CSCNT và Ngân hàng. Điều đó còn dẫn đến sự suy giảm uy tín của Ngân hàng. Những khó khăn về công nghệ chủ yếu do thiếu kinh phí đầu tư và kinh nghiệm trình độ quản lý còn yếu. Do đó NHNT cần phải xác định một khoản chi phí hợp lý nhất để phát triển hoạt động phát hành, thanh toán thẻ, khắc phục những khó khăn trước mắt và lâu dài. Thứ ba là kinh nghiệm của 9 năm hoạt động trong phát hành thẻ chưa đủ đối với lĩnh vực kinh doanh phức tạp này. Hoạt động kinh doanh thẻ đòi hỏi những trang thiết bị kỹ thuật cao và hiện đại cùng với một đội ngũ nhân viên có đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống theo các tiêu chuẩn quốc tế. Việt Nam hiện chưa có một hoạt động đào tạo chuyên về thẻ nào nên mặc dù VCB vẫn cho nhân viên tham gia các khoá học do các tổ chức thẻ quốc tế tổ chức nhưng việc cập nhật thông tin, kiến thức thường xuyên cũng có phần hạn chế. Nhiều trục trặc, rắc rối đã xảy ra do thiếu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên. Thứ tư là hiện nay môi trường pháp lý chưa hoàn thiện đã gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh thẻ. Quy chế chính thức về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ (do Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 317/1999/QĐ-NHNN1 vào tháng 11/1999) quy định việc phát hành thẻ phải có bảo đảm tín dụng như đối với tín dụng trung và dài hạn trong khi đó tín dụng thẻ có tính chất khác với hai loại tín dụng trên. Thêm vào đó, điều kiện cho vay đối với khách hàng sử dụng thẻ như vậy là khá ngặt nghèo, các cá nhân muốn sử dụng thẻ buộc phải thế chấp, ký quỹ với tỷ lệ khá cao. Điểm này làm hạn chế việc mở rộng phát hành và thanh toán thẻ ở VCB nói riêng cũng như ở các NHTM Việt Nam nói chung. Ngoài ra, trong tình hình chung là số tội phạm liên quan đến thẻ ngày càng tăng thì ở Bộ Luật Hình sự lại chưa có một quy định nào về khung hình phạt cho những vi phạm trong lĩnh vực này. Cuối cùng là hiện nay hiệu quả kinh doanh dịch vụ phát hành thẻ của VCB không cao. Trên thực tế, VCB chưa đánh giá toàn diện hiệu quả của hoạt động thẻ trong thời gian qua, việc hạch toán kinh doanh của hoạt động này vẫn còn bị phụ thuộc. Vấn đề quản lý chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh chưa được chú trọng đầy đủ. Trên đây là một số hạn chế NHNT đã và đang gặp phải. Để giải quyết những vướng mắc này và phát triển hoạt động phát hành thẻ, Ngân hàng nên giải quyết như thế nào? Hướng giải quyết sẽ được nêu ở chương III. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ Định hướng phát triển nghiệp vụ phát hành thẻ. 1. Định hướng phát triển thanh toán bằng thẻ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thẻ là một phương tiện thanh toán phi tiền mặt được lưu hành trên toàn cầu và rất phổ biến ở những nước phát triển từ những năm 1970. Cùng với việc tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, …hệ thống thanh toán thẻ ngày càng phát triển và hoàn thiện. Ở Việt Nam, thẻ mới được du nhập vào nên còn khá mới mẻ nhưng những tiện ích của nó cho thấy cần phải phát triển thẻ ở nước ta. Việt Nam là một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt trong mọi hoạt động thanh toán, gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế và các cơ quan quản lý nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cùng hệ thống NHTM Việt Nam đang có những hoạt động cụ thể nhằm đẩy mạnh phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ở Việt Nam. Định hướng phát triển nghiệp vụ thẻ ở nước ta trong thời gian tới mang tính tập trung, đồng bộ, đều khắp, vừa kết hợp, tận dụng mọi nguồn lực của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng có mạng lưới rộng, khuyến khích các ngân hàng tham gia vào hoạt động thẻ, kể cả các chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh. Các ngân hàng phối hợp với nhau trong việc xây dựng một hệ thống máy móc kỹ thuật nhằm làm cho quá trình thanh toán được thuận lợi nhanh chóng, tránh tình trạng việc ai nấy làm như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước sẽ xúc tiến để chuẩn bị cho ra đời một trung tâm thanh toán thẻ trong tương lai nhằm quản lý và tạo điều kiện thanh toán mau chóng cho các ngân hàng. Trong giai đoạn tới hứa hẹn có nhiều ngân hàng tham gia vào thanh toán thẻ và như vậy thị trường thẻ sẽ trở nên sôi động hơn. Cho đến nay, ngoài các ngân hàng đi trước trong hoạt động phát hành như NHNT, ngân hàng TMCP Á Châu, ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu, và mới đây là Ngân hàng Công thương Việt Nam… đã và đang có nhiều ngân hàng khác nhập cuộc với nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra còn nhiều ngân hàng khác đang trong quá trình chuẩn bị và học tập kinh nghiệm. Ngân hàng Nhà nước sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho các ngân hàng này tham gia hoạt động thẻ một cách mau chóng, đồng thời là chiếc cầu nối liên kết các ngân hàng để cùng giúp nhau phát triển nghiệp vụ thanh toán này. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai hàng loạt máy ATM giành cho thẻ nội địa và thẻ quốc tế. Trong những năm tới, thị trường thẻ sẽ là thị trường lớn còn bỏ ngỏ cho các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Định hướng phát triển nghiệp vụ phát hành thẻ thẻ tại NHNT. Phát hành thẻ hiện nay chưa phải là nghiệp vụ lớn tại NHNT. Tuy nhiên, trong chiến lược phát triển, Ban lãnh đạo Ngân hàng vẫn luôn coi trọng công tác này. Trong Tầm nhìn 2010, Ngân hàng đã đề ra chiến lược phát triển thẻ với những nội dung như sau: Thành lập Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý thẻ, mở rộng và chuyên môn hoá cho từng bộ phận: phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, quản lý rủi ro. Củng cố các sản phẩm hiện có, đưa ra các sản phẩm mới. Với mục đích đa dạng hoá các loại hình thẻ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, trong thời gian tới, ngoài việc củng cố các loại thẻ hiện có, VCB dự định sẽ đưa ra một số loại thẻ mới như: thẻ ghi nợ, thẻ liên kết nội địa, thẻ công ty và triển khai hệ thống ATM quốc tế. Mở rộng mạng lưới CSCNT. Đây tiếp tục là một chính sách trọng tâm của NHNT: giảm phí đối với các CSCNT có doanh số thanh toán lớn, ổn định, trang bị thêm một số máy EDC, CAT cho các CSCNT của VCB, đồng thời tiếp tục tăng thêm số CSCNT mới. Triển khai chấp nhận thanh toán trên internet: dần đưa thẻ do VCB phát hành vào thanh toán trên internet với các giao dịch điện tử. Đầu tư vào các chiến lược marrketing để mở rộng thị trường sử dụng và thanh toán thẻ: tăng chi phí cho marketing để nghiên cứu phát triển các loại thẻ mới, quảng cáo, khuyến mại cho khách hàng sử dụng và thanh toán thẻ. Trên đây là chiến lược phát triển kinh doanh thẻ của NHNT. Ngân hàng cần phải làm gì để thực hiện tốt các định hướng này? Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi rất nhiều vào sự nỗ lực của chính Ngân hàng. Giải pháp tăng sức cạnh tranh của phát hành thẻ của VCB Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát hành thẻ ở NHNT cùng những định hướng mà Ngân hàng đề ra cho hoạt động phát hành thẻ trong những năm tới, dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát hành thẻ tại NHNT cũng như nâng cao tính cạnh tranh của hoạt động này. 1. Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành thẻ Hiện nay, NHNT phát hành thẻ chủ yếu dựa trên thế chấp và ký quỹ với mức ký quỹ 100% hạn mức thẻ, đồng thời quy trình thẩm định phát hành thẻ của Ngân hàng cũng rất chặt chẽ. Với cách này, Ngân hàng sẽ không lo rủi ro không thu được nợ nhưng lại gây nhiều khó khăn cho khách hàng muốn sử dụng thẻ dẫn đến số lượng thẻ còn hạn chế. Chính vì vậy, để tiến tới tăng số lượng thẻ phát hành trước hết Ngân hàng cần hoàn thiện và đơn giản hơn nữa quy trình phát hành thẻ. Khách hàng sử dụng thẻ không chỉ đơn thuần làm phương tiện thanh toán mà còn như một hình thức tăng khả năng tài chính ngắn hạn. Vì vậy, thẩm định để phát hành thẻ nên xem xét đến tính ổn định của thu nhập, uy tín của khách hàng và coi đó là hình thức đảm bảo (tín chấp) một cách linh hoạt hơn là cứ cứng nhắc với các điều kiện về thế chấp, ký quỹ. Để làm tốt điều này, VCB cần phát triển hơn nữa mạng lưới tài khoản cá nhân và phối hợp với một số công ty, doanh nghiệp để khuyến khích họ trả lương cho nhân viên vào tài khoản tại Ngân hàng rồi căn cứ vào đó có thể xác định tình hình hoạt động tài chính của từng cá nhân để khuyến khích sử dụng thẻ. Ngoài ra, những bất cập trong phát hành thẻ cũng cần được nhìn nhận và phải khắc phục những thủ tục phiền hà trong phát hành thẻ tại chi nhánh phát hành như thủ tục tiếp nhận hồ sơ, trong đó có cả đơn xin phát hành có sự phê duyệt của giám đốc chi nhánh, thủ tục giữ hồ sơ… Quá trình này cần sửa đổi, đơn giản hoá để dễ dàng thuận lợi cho khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo tính an toàn, hiệu quả của quá trình thẩm định. 2. Thực hiện chiến lược marketing Tại Việt Nam, dịch vụ thẻ tuy rằng đã xuất hiện được 12 năm nhưng trong khoảng thời gian 6 năm trở lại đây mới thực sự được các ngân hàng Việt Nam quan tâm phát triển, nhưng số lượng các ngân hàng tham gia trên thị trường vẫn còn rất ít (khoảng 10 ngân hàng cả quốc doanh, thương mại cổ phần và nước ngoài), hiện nay mới chỉ có VCB, ACB và Eximbank, Ngân hàng Công thương thực hiện nghiệp vụ phát hành. Hiện nay, thẻ còn là một phương tiện thanh toán tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy rất cần quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm thẻ đến mọi đối tượng khách hàng khác nhau. Trong khi đó, khâu marketing thẻ của các NHTM Việt Nam và của VCB còn chưa hiệu quả. Đại đa số người tiêu dùng và phần lớn người cung cấp dịch vụ, tiện ích trong nước đều chưa quen loại hình thanh toán bằng thẻ thay cho tiền mặt. Thẻ mới chỉ phổ biến trong một số ít dân cư, chủ yếu là cán bộ ngành ngân hàng, quan chức chính phủ và một số ít trí thức. Vì vậy, muốn cho thẻ được sử dụng rộng rãi thì rất cần có một chiến lược marketing thẻ đến mọi tầng lớp dân cư. 2.1. Chính sách tiếp thị, quảng cáo Hiện nay sự hiểu biết về thẻ trong dân chúng vẫn còn hạn chế nên trước hết giải pháp này hướng tới việc quảng bá thẻ tới đông đảo công chúng. Vì vậy,quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng là lựa chọn số một đối với giải pháp này. Với báo chí, có thể viết những nét độc đáo nhất về ưu điểm của thẻ và sự thuận lợi của khách hàng khi sử dụng thẻ. Ta cũng có thể đưa những hình ảnh thật về thẻ trên ti vi… Chi phí cho mỗi lần quảng cáo không phải là nhỏ nên VCB có thể liên kết với các CSCNT để cùng quảng cáo chung, giảm bớt chi phí quảng cáo. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên chú ý đến việc quảng cáo trên những panô, áp phích trên đường phố và các nơi vui chơi công cộng cũng như trên mạng internet. VCB cũng nên liên kết thực hiện các chương trình tìm hiểu về thẻ trên truyền hình như các buổi tọa đàm, các phóng sự về thẻ, thực hiện các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp thắc mắc về thẻ trên truyền hình, phổ biến kiến thức về thẻ cho mọi đối tượng dân cư,.. liên kết với các trường đại học tổ chức các buổi toạ đàm, nói chuyện, hội thảo về thẻ. Thẻ là một vấn đề mới mà đội ngũ sinh viên luôn tiếp thu cái mới nên các buổi hội thảo sẽ đạt được kết quả cao. Thông qua đội ngũ sinh viên có thể phổ biến thẻ đến nhiều người. Mặt khác, đây cũng sẽ là nhóm khách hàng tiềm năng của Ngân hàng trong tương lai. Đồng thời, Ngân hàng cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cuộc thi kiến thức, trò chơi kinh tế,.. để nhân đó truyền bá và thẻ cũng như các dịch vụ khác của Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng nên có chiến lược tiếp thị với các công ty lớn để những công ty này quảng cáo dịch vụ thẻ cho nhân viên của họ, đồng thời xác định các đối tác chiến lược như Hàng không Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, các công ty bảo hiểm: Bảo Việt, Prudential, AIA,…, Tổng Công ty xăng dầu, các công ty du lịch, lữ hành, các công ty thương mại dịch vụ,… để có những chính sách thích hợp. Để thực hiện thì Ngân hàng cần cử một số nhân viên đến các doanh nghiệp, công sở để giới thiệu về thẻ và những vấn đề liên quan đến thẻ. Nếu nhân viên của Ngân hàng không đủ, Ngân hàng có thể liên kết với các trường đại học để sử dụng đội ngũ sinh viên của các trường có chuyên ngành ngân hàng, được học và hiểu về thẻ. Ngân hàng chỉ cần có một số buổi đào tạo ngắn ngày, đội ngũ nà sẽ có thể thực hiện tốt công việc. áp dụng chiến lược này, Ngân hàng có thể giảm được chi phí mà lại thu được những kết quả đáng kể. Ngân hàng cũng phải thường xuyên thăm dò ý kiến khách hàng về chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng cũng như nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ mới (hàng quý). Phối hợp với các đối tác chiến lược tổ chức các Hội nghị khách hàng. Tổ chức các chương trình khuyến mại tăng doanh số và phát triển mạng lưới khách hàng. Mục tiêu của giải pháp này là đưa hình ảnh về thẻ, đi liền với hình ảnh của VCB, đến với công chúng. Tuy nhiên, các ngân hàng khác cũng đẩy mạnh việc quảng cáo của họ, do đó để quảng cáo tiếp thị có hiệu quả hơn, VCB cần kết hợp với những chính sách ưu đãi khách hàng, đa dạng hoá các loại sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ. 2.2. Chính sách khách hàng 2.2.1.Phân đoạn thị trường và xác định đối tượng khách hàng Năm 2001, Ngân hàng chỉ phát hành được trên 3.000 thẻ trên cả nước, chứng tỏ số lượng khách hàng còn rất ít so với tiềm năng của một đất nước trên 80 triệu dân. Hoạt động marketing về thẻ trong điều kiện cạnh tranh phức tạp giữa các ngân hàng, những trở ngại về thu nhập và tâm lý ưa chuộng tiền mặt khiến cho việc tăng số lượng khách hàng trở nên khó khăn. Tăng tính cạnh tranh trong nghiệp vụ thẻ do đó đòi hỏi Ngân hàng phải có chính sách khách hàng phù hợp, phải chú trọng phục vụ đối tượng nào và cách phục vụ như thế nào là câu hỏi mà Ngân hàng phải đưa ra câu trả lời. Để tăng tính cạnh tranh, Ngân hàng cần tăng số lượng khách hàng. Để làm được điều đó, việc đầu tiên là Ngân hàng cần phân đoạn thị trường, tìm ra những đặc trưng của từng nhóm khách hàng để có chính sách khách hàng thích hợp, đồng thời xác định đối tượng khách hàng mục tiêu để có chú trọng giữ vững và phát triển nhóm khách hàng này. Hiện nay, khách hàng mục tiêu của hầu hết các ngân hàng phát hành thẻ là các khách hàng phát hành thẻ cá nhân, có thu nhập cao, người thường xuyên phải đi nước ngoài hoặc có người thân đi nước ngoài. Đây là những người được tiếp xúc với công nghệ thanh toán tiên tiến của các nước, có mong muốn sử dụng thẻ và có khả năng thanh toán. Với nhóm khách hàng này, sự nhanh chóng, tiện lợi của việc sử dụng thẻ là điều đáng quan tâm nên Ngân hàng cần phát triển các tiện ích của thẻ. Một đối tượng khác cũng đáng chú ý, đó là những viên chức nhà nước có nhu cầu thường xuyên đi nước ngoài, tiền chi tiêu do cơ quan cấp. Họ chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng dân số nhưng tại các đô thị thì cũng khá đông đảo. Với việc sử dụng thẻ, cơ quan có thể dễ dàng kiểm soát được chi tiêu của họ, đồng thời ra nước ngoài họ có thể thanh toán nhanh chóng do không phải mất thời gian vào việc chuyển đổi đồng tiền. Để tăng nhóm khách hàng này thì Ngân hàng cần tăng cường quan hệ với các doanh nghiệp và phối hợp với chính sách tiếp thị thẻ tới các công ty như đã nêu trên. Ngoài những khách hàng có khả năng tài chính mà Ngân hàng đang hướng tới (người Việt Nam có thu nhập cao, các quan chức ngoại giao, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam), Ngân hàng nên hướng tới giới trẻ vì đây là lực lượng ưa thích những cái mới và họ còn hàng chục năm để sử dụng thẻ. Với giới trẻ, thẻ, một phương tiện thanh toán hiện đại, văn minh, có thể sẽ trở thành một trào lưu như điện thoại di động và đây sẽ là một phương cách quảng cáo hiệu quả để đưa hình ảnh thẻ trở nên gần gũi với người dân. NHNT cũng nên chú ý đến một đối tượng khách hàng có tiềm năng lớn trong việc phát hành thẻ. Đó là những người có thu nhập trung bình khá trong khu vực thành thị. Họ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong khu vực thành thị và với số lượng lớn, tổng khối lượng giao dịch của họ có khả năng sẽ chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng doanh thu của Ngân hàng. Lấy số đông để bù đắp cho những khoản giao dịch không lớn lắm, tin chắc rằng nếu Ngân hàng mở rộng thị trường đối với đối tượng khách hàng này thì lãi từ hoạt động phát hành thẻ sẽ tăng lên, đồng thời tăng được khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thông qua việc nắm được phần lớn thị phần phát hành thẻ. 2.2.2.Chính sách đối với người sử dụng thẻ Đối với người sử dụng thẻ, điều đáng quan tâm nhất là những tiện ích mà thẻ mang lại. Đặc điểm nổi bật của thẻ là khả năng thanh toán nhanh chóng, tiện lợi nhưng hiện nay, số lượng CSCNT vẫn còn ít ỏi của NHNT dẫn đến việc khách hàng bị hạn chế trong việc sử dụng thẻ trong thanh toán. Vì vậy, để tăng tính cạnh tranh, Ngân hàng cần xây dựng một mạng lưới CSCNT vệ tinh rộng lớn hơn phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ: siêu thị, hãng bảo hiểm, đơn vị cung cấp dịch vụ bưu điện, viễn thông, trạm bán xăng dầu, các loại cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, … để tăng tính thanh khoản của thẻ. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần cung cấp thêm các dịch vụ cho khách hàng sử dụng thẻ, xây dựng và triển khai các chương trình khuyến mại nhằm khuyến khích việc sử dụng thẻ. Ngoài việc phát triển khách hàng về lâu dài, Ngân hàng cũng cần chú trọng chăm sóc những khách hàng hiện tại của mình, ví dụ như tổ chức các chương trình khuyến mại nhằm nâng cao doanh số sử dụng thẻ, nâng cao quan điểm phục vụ khách hàng của nhân viên. 2.2.3.Chính sách đối với đơn vị chấp nhận thẻ Chiến lược chung của Ngân hàng là mở rộng số lượng và loại hình CSCNT, phát huy hiệu quả của việc mở rộng phát hành thẻ vì người dân có thể dễ dàng thỏa mãn mọi nhu cầu sinh hoạt tại các đại lý này. Để làm được điều này, Ngân hàng cần tăng cường việc tiếp thị, giảm chi phí và cung cấp, nâng cấp máy thanh toán thẻ EDC, CAT, … trang bị cho các CSCNT để đảm bảo quá trình thanh toán nhanh chóng, an toàn, tiện lợi nhất nhằm khuyến khích họ chấp nhận thanh toán thẻ. Ngân hàng nên có chính sách đãi ngộ đặc biệt như giảm phí chiết khấu để giữ những khách hàng là CSCNT có uy tín, doanh số thanh toán thẻ cao, ổn định, giữ vững những CSCNT hiện tại đồng thời phát triển mạng lưới CSCNT thêm nhiều loại hình khác. Ngân hàng cũng nên sử dụng vốn đầu tư trang bị thêm các máy ATM đặt tại các chi nhánh VCB, các trung tâm thương mại, trung tâm giải trí lớn, các khu chợ,.. sẵn sàng phục vụ nhu cầu chi tiêu bằng tiền mặt bất cứ khi nào khách hàng cần. 2.3. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ Hiện nay, NHNT đang phát hành 2 loại thẻ là Master, Visa và tháng 2 vừa qua phát hành thêm thẻ rút tiền mặt ATM. Thực tế cho thấy thẻ do Ngân hàng phát hành chủ yếu được sử dụng thanh toán ở nước ngoài (chiếm khoảng 75% doanh số). Để phát triển nghiệp vụ thẻ, NHNT cần tập trung phát triển việc phát hành thẻ với các sản phẩm đa dạng. Phát hành thẻ sẽ phải là nguồn thu chủ yếu và là cơ sở chính cho hoạt động thẻ của VCB. 2.3.1. Phát hành thẻ ghi nợ nội địa Hiện nay, chủ thẻ của Ngân hàng chủ yếu là chủ thẻ tín dụng. Những khách hàng này phải là những người đủ tiêu chuẩn cấp tín dụng hoặc ký quỹ thì Ngân hàng mới cấp thẻ. Muốn mở rộng khách hàng đến nhiều đối tượng thì Ngân hàng cần phát hành thêm thẻ ghi nợ trong thời gian tới. Với loại thẻ này, hạn mức chi tiêu của chủ thẻ sẽ phụ thuộc vào số dư trên tài khoản tại Ngân hàng, nhưng khách hàng cũng có thể tiêu quá số dư nếu được sự cho phép của ngân hàng. Mỗi khi khách hàng chi tiêu hay rút tiền mặt, các thương vụ sẽ được chuyển về các trung tâm để cấp phép đồng thời khấu trừ luôn số tiền vào tài khoản của chủ thẻ. Như vậy, Ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro khách hàng không thanh toán. Thẻ ghi nợ được phát hành với công nghệ thẻ từ và sử dụng nội địa (để quản lý và hạn chế rủi ro) sẽ được sử dụng để thanh toán trong chi tiêu hàng ngày của chủ thẻ. Với việc triển khai hệ thống ngân hàng bán lẻ Silverlake trên toàn hệ thống, NHNT có điều kiện triển khai việc phát hành thẻ ghi nợ. Chỉ cần có tài khoản tại Ngân hàng, khách hàng đã có thể phát hành thẻ ghi nợ nên thẻ này sẽ có khả năng phát triển mạnh hơn thẻ tín dụng quốc tế. Thẻ ghi nợ tạo điều kiện để mở rộng mạng lưới CSCNT của Ngân hàng tại các điểm dịch vụ như siêu thị, bảo hiểm, xăng dầu, điện, bưu điện, gas,… Trong thời gian tới, Ngân hàng cũng nên nghiên cứu khả năng sử dụng nhãn hiệu Visa, Master hoặc JCB cho thẻ ghi nợ nội địa để có sự hỗ trợ của các tổ chức thẻ trong việc triển khai thực hiện vì hiện nay, các tổ chức thẻ đang khuyến khích các ngân hàng ở Việt Nam phát hành thẻ ghi nợ. 2.3.2. Phát hành thẻ công ty Đối với các doanh nghiệp, thẻ công ty mang lại khá nhiều tiện ích. Các công ty có thể sử dụng thẻ để thực hiện thanh toán cho nhau với trị giá giao dịch tương đối lớn, đáp ứng phương tiện thanh toán cho các nhu cầu mua sắm thường xuyên và đặc biệt là quản lý tốt hơn các chi tiêu của mình. Khi triển khai phát hành loại thẻ này, Ngân hàng không phải đầu tư thêm về mặt công nghệ và máy móc, đồng thời lại tạo thêm và thắt chặt mối quan hệ đối với các doanh nghiệp. 2.3.3. Phát hành thẻ liên kết với các tổ chức, công ty Loại hình thẻ liên kết tạo ra mối quan hệ hợp tác làm ăn hai bên cùng có lợi giữa Ngân hàng với các công ty liên kết. Thẻ liên kết làm tăng doanh thu cho cả hai bên, đồng thời giúp ngân hàng và các công ty thực hiện các chính sách khách hàng, xây dựng và duy trì các mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Các khách hàng ngoài việc được sử dụng như thẻ tín dụng quốc tế hoặc thẻ ghi nợ thông thường, họ còn được Ngân hàng cùng với công ty liên kết tặng điểm thưởng (nếu doanh số sử dụng của khách hàng cao thì năm sau có thể được giảm hoặc miễn phí thường niên) hoặc ưu đãi về dịch vụ, giảm giá,.. khi sử dụng thẻ tại các điểm dịch vụ của công ty liên kết. Ngân hàng nên kết hợp cùng với các công ty như Vietnam Airlines, siêu thị, du lịch lữ hành, bảo hiểm, bưu điện,… phát hành thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ liên kết. Một số lượng tương đối lớn khách hàng của những công ty này là khách hàng thường xuyên của họ mà số tiền chi ra cho mỗi giao dịch tương đối cao. Vì vậy, liên kết phát hành thẻ với những công ty này là cơ hội để tăng doanh thu và lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác, NHNT cũng có thể triển khai phát hành loại thẻ này mà không cần phải có sự đầu tư thêm về mặt công nghệ và máy móc. Thành lập Trung tâm Thẻ Thị trường thẻ Việt Nam là một thị trường tiềm năng với dân số trên 80 triệu người, thu nhập cá nhân ngày càng gia tăng, tỷ lệ chi tiêu thanh toán không dùng tiền mặt còn thấp. Trong lúc đó xu hướng xã hội hoá việc sử dụng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt trong dân cư đang được đẩy mạnh. Ban lãnh đạo VCB có định hướng phát triển dịch vụ thẻ. NHNT có uy tín và là ngân hàng đứng đầu trong hoạt động dịch vụ thẻ. Ngân hàng đã thực hiện cung cấp dịch vụ thẻ và đã đạt được những kết quả bước đầu nhất định. Ngân hàng cũng có điều kiện về vốn để đầu tư phát triển dịch vụ thẻ, đồng thời cũng có một đội ngũ khách hàng lớn mạnh (cả công ty và cá nhân). Đây là những điều kiện tốt đối với NHNT để triển khai dịch vụ thẻ. VCB đã có sự đầu tư tương đối cho hoạt động nghiệp vụ thẻ, máy móc thiết bị và đào tạo, vì vậy việc khai thác tốt các nguồn lực hiện có và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thẻ là một đòi hỏi tất yếu. Việc thành lập Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập sẽ góp phần giải quyết những tồn tại hiện nay của nghiệp vụ thẻ và nâng cao hiệu quả của dịch vụ thẻ. Doanh thu, chi phí của hoạt động thẻ sẽ được hạch toán độc lập, kể cả những chi phí về nhân sự, chi phí quản lý, khấu hao…Mọi hoạt động của công ty sẽ dựa trên cơ sở lợi nhuận từ kinh doanh thẻ, hoàn toàn không phụ thuộc vào ngân sách do NHNT trung ương cấp. Trung tâm Thẻ được chủ động hơn trong nghiệp vụ sẽ là cơ sở để phát hành thẻ phát triển mạnh và hiệu quả hơn. Chiến lược nguồn nhân lực Hiện nay, VCB đã có một đội ngũ cán bộ thẻ năng động, vững chuyên môn, đảm trách tốt công việc của mình. Nhưng so với công việc của phòng thẻ thì số lượng nhân viên còn thiếu. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng cần có chiến lược đào tạo, bổ sung nhân lực, đồng thời phải luôn phối hợp với tổ chức thẻ quốc tế, tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ nhân viên kinh doanh thẻ. Cán bộ nhân viên phải luôn trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cách nắm bắt tâm lý khách hàng. NHNT nên có những đợt tập huấn định kỳ để trình độ nghiệp vụ được cập nhật, không bị thụt lùi so với ngân hàng bạn và trình độ của cán bộ thẻ trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, do hoạt động kinh doanh thẻ gắn liền với các trang thiết bị hiện đại nên NHNT phải đào tạo một lực lượng nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao trong bảo dưỡng, lắp đặt hệ thống máy móc trang thiết bị của nghiệp vụ thẻ. Đội ngũ này nên được tổ chức riêng biệt so với đội ngũ kỹ thuật của Ngân hàng để khi cần thiết luôn có nhân viên kỹ thuật kịp thời xử lý. Lực lượng này phải có kiến thức chuyên sâu về trang thiết bị máy móc thanh toán thẻ nên cần được đưa đi đào tạo tại các nước có hệ thống kỹ thuật hiện đại. Công nghệ Nghiệp vụ thẻ luôn đòi hỏi công nghệ kỹ thuật hiện đại, có tính tự động hoá cao. Trình độ kỹ thuật cong nghệ là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cạnh tranh. Do vậy, một trong những định hướng lớn trong hoạt động của VCB nói chung và phòng Quản lý Thẻ nói riêng là tăng cường đầu tư vào công nghệ cho nghiệp vụ thanh toán thẻ về phần cứng, phần mềm cũng như nguồn nhân lực. Trong đầu tư công nghệ, đầu tư trang thiết bị thanh toán cho hệ thống CSCNT là không thể thiếu. Nhưng với một mạng lưới CSCNT ngày càng rộng thì điều quan trọng là phải đảm bảo một hệ thống quản lý và xử lý thông tin có hiệu quả, đảm bảo cho luồng thông tin và luồng chu chuyển tiền liên quan đến việc sử dụng tiền của chủ thẻ được thông suốt. Việc đầu tư cho công nghệ không đơn giản. Nó đòi hỏi một lượng vốn lớn, thu hồi vốn lâu dài. Do vậy, Ngân hàng cần có kế hoạch trích từ quỹ đầu tư phát triển hoặc huy động từ một số nguồn dài hạn khác để phục vụ cho công tác này. Có như vậy, hệ thống mới phát huy được vai trò đảm bảo cung cấp dịch vụ đạt chất lượng cao cho khách hàng- chủ thẻ, CSCNT và phòng ngừa hữu hiệu các rủi ro, thiệt hại do lừa đảo, giả mạo thẻ. Kiến nghị 1. Với Ngân hàng Nhà nước (NHNN): Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ: Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Thẻ do VCB phát hành hiện nay chịu sự quy định chặt chẽ của Hiệp hội thẻ quốc tế, nhưng như thế chưa đủ. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của NHNN về việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ (ban hành ngày 19/10/1999). Đó chỉ là một văn bản có tính chất hướng dẫn chung, còn về quy trình cụ thể thì lại do từng ngân hàng tự đề ra chứ không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã được sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung. Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các cơ sở chấp nhận thẻ nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán thẻ và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài nhưng vẫn phải tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó. Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho tín dụng thẻ- một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro chủ chủ thẻ và ngân hàng. Hoạch định chiến lược chung về thẻ cho toàn hệ thống NHTM NHNN đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện dịch vụ thẻ để tạo ra sự thống nhất về quản lý, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ trong cả nước. Cùng với NHNN, Hiệp hội các NHTTT Việt Nam ra đời đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam. Hiệp hội các NHTTT thường xuyên làm việc với NHNN và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức thẻ quốc tế nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt Nam. Hội cũng đã thu hút hầu hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ tại Việt Nam tham gia, thống nhất mức phí, áp dụng các chính sách chung nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng nắm bắt những khó khăn, thuận lợi của các ngân hàng trong hiệp hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục, bước đầu thực hiện tiêu chí “diễn đàn hợp tác, trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam”. Tuy vậy, hoạt động của hội cũng cần mạnh mẽ, có hiệu quả hơn, có những quy định nghiêm khắc về chế tài, đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam. Hội cần tiếp tục là nòng cốt, đi đầu trong việc cải tiến hình thức, phương thức hoạt động kinh doanh thẻ. Thông qua Hiệp hội thẻ, NHNN có thể áp dụng những chính sách chung của mình cho hoạt động thẻ như hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy việc phát hành, thanh toán thẻ, ứng dụng công nghệ thẻ đã, đang và sẽ phát triển trên thị trường thế giới và khu vực. Thành lập trung tâm thanh toán liên hàng về thẻ Thực tế hiện nay, các ngân hàng quản lý việc phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng qua kinh nghiệm của nước ngoài, chúng ta cũng nên thành lập một trung tâm chuyển mạch, thanh toán liên hàng về thẻ. Trung tâm sẽ xử lý các giao dịch thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành nhằm khuyến khích các ngân hàng phát hành thẻ nội địa trên cơ sở đầu tư mạng thanh toán trực tuyến trong nội bộ từng ngân hàng và tạo điều kiện giảm chi phí thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Trung tâm này là đầu mối xử lý các giao dịch cấp phép, thanh toán, tra soát giao dịch thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đảm bảo các loại thẻ do các ngân hàng thương mại khác nhau có thể thanh toán tại bất cứ cơ sở chấp nhận thẻ nào trong toàn hệ thống. Các giao dịch thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành thực hiện tại các cơ sở chấp nhận thẻ trong nước sẽ được trung tâm này xử lý, không cần thông qua trung tâm xử lý cấp phép và trao đổi của các tổ chức thẻ quốc tế. Điều này sẽ làm giảm tính phức tạp về hình thức thanh toán các giao dịch nội bộ trong nước, tăng tốc độ thanh toán, giải quyết được vấn đề chênh lệch về tỷ giá, tiết kiệm khoản chi phí phải thanh toán cho các tổ chức thẻ quố tế và thống nhất chủ trương giao dịch thẻ ở Việt Nam chỉ dùng VND… đồng thời qua trung tâm đó, các thành viên sẽ có mối quan hệ chặt chẽ hơn trong mọi lĩnh vực: cập nhật nhanh nhất các thông tin về thẻ giả mạo, tránh thất thoát cho các thành viên, kết hợp in ấn danh sách thẻ cấm lưu hành, thống nhất về đồng tiền thanh toán, phí, tỷ giá… Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ thẻ bằng việc trợ giúp các ngân hàng trong nước trong việc phát triển nghiệp vụ thẻ để tạo điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động thẻ. NHNN cần cho phép các ngân hàng thương mại thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro chung cho các ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán thẻ nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước nên thường xuyên tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẻ cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia, giới thiệu để các ngân hàng thương mại thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ, cùng các ngân hàng thương mại trao đổi kinh nghiệm, giải quết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện. Cho phép các NHTM Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh của các loại thẻ do ngân hàng Việt Nam phát hành so với các loại thẻ của các ngân hàng nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành. Ngân hàng Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các đề án, tính toán hiệu quả kinh tế và vốn đầu tư để trên cơ sở đó huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực thẻ. Với Nhà nước Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ Hiện nay, số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. Ở Việt Nam, pháp luật thiếu và còn nhiều sơ hở, trang bị kỹ thuật còn thiếu sẽ là mảnh đất lý tưởng cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháp luật, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành, bộ Luật Hình sự nước ta cần sớm đưa ra khung hình phạt cho các tội phạm liên quan đến thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số,… nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ Công an, cảnh sát kinh tế, cảnh sát quốc tế,.. cũng cần có những biện pháp phối hợp với ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực này. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàngnằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng. Riêng đối với lĩnh vực thẻ, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ vì chỉ có ngành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi. Tạo môi trường kinhh tế xã hội ổn định Một môi trường kinh tế xã hội ổn định luôn là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế xã hội có ổn định và phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, quan hệ quốc tế mới được mở rộng, mới có điều kiện tiếp xúc với các công nghệ thanh toán hiện đại của ngân hàng. Kinh tế xã hội phát triển thì ngân hàng mới có thể mở rộng được đối tượng phục vụ của mình. Đầu tư cho hệ thống giáo dục Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này phải nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngân hàng thì cần có một đường lối chiến lược chỉ đạo của nhà nước. Nhà nước cần khuyến khích các trường đại học mở ra những ngành học chuyên môn về thẻ ngân hàng, công nghệ thẻ nằm trong khối ngành kinh tế chung. Tóm lại, sự trợ giúp của nhà nước vô cùng quan trọng đối với mọi ngành, mọi cấp. Nếu có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ về chính sách thuế, quy định về luật pháp… để các NHTM có định hướng triển khai dịch vụ thẻ thanh toán góp phần phát triển kinh tế xã hội lâu dài thì nhất định dịch vụ này sẽ thu được kết quả khả quan. IV. Kết luận Với sự phát triển chung của nền kinh tế, xã hội Việt Nam , với sự định hướng và quan tâm phát triển thẻ của Ban lãnh đạo, cùng với những kết quả đã đạt được và sự nỗ lực của nhân viên, trong thời gian tới dịch vụ thẻ NHNT nhất định sẽ tự khẳng định được mình, giành lại những vị trí vốn có của Ngân hàng trong phát hành và thanh toán thẻ, và có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của NHNT. Thẻ là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm mục đích hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông, thu hút tiền gửi của các tầng lớp dân cư vào ngân hàng, tăng nhanh tốc độ chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư được hưởng dịch vụ ngân hàng. Thẻ còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách ngoại hối, chính sách thuế của nhà nước, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam. Triển khai nghiệp vụ phát hành thẻ, các NHTM không những thực hiện đúng chủ trương hiện đại hoá công nghệ ngân hàng của chính phủ mà còn là điều kiện thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, góp phần xây dựng môi trường tiêu dùng văn minh và hoà nhập vào cộng đồng tài chính ngân hàng quốc tế. Do đó, phát hành và thanh toán thẻ là những nghiệp vụ kinh doanh không thể thiếu của một ngân hàng hiện đại nhằm góp phần làm tăng thu nhập và phong phú thêm dịch vụ ngân hàng. Tại NHNT, phát hành thẻ là một trong những lợi thế của ngân hàng. Tuy còn một số khó khăn, vướng mắc nhưng trong tương lai không xa, bằng chiến lược kinh doanh đúng đắn, sự nỗ lực từ phía Ngân hàng cộng thêm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này, tin rằng hoạt động kinh doanh thẻ tại NHNT sẽ đạt được những kết quả ngày càng to lớn, củng cố và phát triển hơn nữa vị thế của mình trên thị trường thẻ Việt Nam. Chương 1: Lý thuyết chung về thẻ 0 1. Thanh toán tiền mặt 0 2. Thanh toán không dùng tiền mặt 1 3. Một số công cụ thanh toán không dùng tiền mặt 2 I Tổng quan về thẻ 3 1. Sự hình thành và phát triển thẻ 3 2. Một số nội dung liên quan đến thẻ 5 2.1. Khái niệm 5 2.2. Mô tả thẻ về kĩ thuật 6 2.3. Phân loại thẻ 7 2.3.1. Theo công nghệ sản xuất: 7 2.3.2. Theo chủ thể phát hành: 7 2.3.3. Theo tính chất thanh toán của thẻ: 8 2.3.4. Theo hạn mức tín dụng 9 2.3.5. Theo phạm vi sử dụng của thẻ 9 2.4. Quy trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 9 2.4.1. Các chủ thể chính tham gia hoạt động kinh doanh thẻ 10 2.4.2. Cơ sở pháp lý 11 2.4.3. Trình tự các bước của nghiệp vụ thẻ 11 2.4.4. Quy trình nghiệp vụ phát hành thẻ: 13 2.5. Một số thiết bị sử dụng 14 2.6. Ưu nhược điểm của việc thanh toán bằng thẻ 16 2.6.1. Đối với người sử dụng thẻ 16 2.6.2. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ 18 2.6.3. Đối với ngân hàng 18 2.6.4. Đối với phát triển kinh tế- xã hội 19 2.6.5. Rủi ro trong kinh doanh thẻ 20 2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thẻ thanh toán 22 2.7.1. Các nhân tố khách quan 22 2.7.1.1. Các điều kiện về mặt xã hội 22 2.7.1.2.Các điều kiện về kinh tế: 23 2.7.1.4.Điều kiện về pháp lý 23 2.7.1.5.Điều kiện về cạnh tranh 23 2.7.2. Các nhân tố chủ quan 24 2.7.1.3.Điều kiện khoa học công nghệ: 24 2.7.2.1.Vốn 24 2.7.2.2.Nhân lực 24 Chương 2: thực trạng cạnh tranh của hoạt động phát hành thẻ tại ngân hàng ngoại thương việt nam 25 I. Tổng quan hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 25 1. Lịch sử hình thành, phát triển của Ngân hàng Ngoại thương (NHNT) Việt Nam 25 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT những năm gần đây 27 2.1. Nguồn vốn 28 2.2. Sử dụng vốn: 29 2.3. Các hoạt động khác 30 2.4. Lợi nhuận hàng năm 31 II. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ tại NHNT Việt Nam 32 1. Tổng quan thị trường thẻ Việt Nam 32 1.1. Vai trò của thẻ đối với thị trường thế giới: 32 1.2. Sự cần thiết phát triển thẻ tại Việt Nam. 33 1.3. Sự ra đời và phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam 35 1.3.1. Thị trường tổng quan 35 1.3.2. Tình hình phát hành thẻ tại Việt Nam trong những năm qua 37 1.3.3. Tình hình chung của dịch vụ thẻ tại VCB 38 2. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ tại NHNT 39 2.1. Cơ sở pháp lý 39 2.2. Phát hành thẻ 39 2.2.1. Những quy định chung 40 2.2.2. Thực trạng nghiệp vụ phát hành thẻ tại NHNT 42 2.2.2.1.Tình hình phát hành thẻ 43 2.2.2.2.Thu nhập từ hoạt động phát hành thẻ tín dụng: 46 2.2.2.3.Các rủi ro trong phát hành thẻ 47 2.2.3. Thực trạng cạnh tranh của hoạt động phát hành thẻ của NHNT 48 2.2.3.1.Xét về loại thẻ: 50 2.2.3.2.Xét về hạn mức thẻ tín dụng: 52 2.3.2.3.Xét về mức phí: 54 2.2.3.4. Xét về mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ: 58 III. Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ 60 IV Những hạn chế về phát hành thẻ của NHNT và nguyên nhân 62 Chương 3: giải pháp và kiến nghị 65 i. Định hướng phát triển nghiệp vụ phát hành thẻ. 65 1. Định hướng phát triển thanh toán bằng thẻ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. 65 2. Định hướng phát triển nghiệp vụ phát hành thẻ thẻ tại NHNT. 66 ii. Giải pháp tăng sức cạnh tranh của phát hành thẻ của VCB 67 1. Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành thẻ 67 2. Thực hiện chiến lược marketing 68 2.1. Chính sách tiếp thị, quảng cáo 68 2.2. Chính sách khách hàng 70 2.2.1.Phân đoạn thị trường và xác định đối tượng khách hàng 70 2.2.2.Chính sách đối với người sử dụng thẻ 71 2.2.3.Chính sách đối với đơn vị chấp nhận thẻ 72 2.3. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ 72 2.3.1. Phát hành thẻ ghi nợ nội địa 72 2.3.2. Phát hành thẻ công ty 73 2.3.3. Phát hành thẻ liên kết với các tổ chức, công ty 74 3. Thành lập Trung tâm Thẻ 74 4. Chiến lược nguồn nhân lực 75 5. Công nghệ 75 iii. Kiến nghị 76 1. Với Ngân hàng Nhà nước (NHNN): 76 1.1. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ: 76 1.2. Hoạch định chiến lược chung về thẻ cho toàn hệ thống NHTM 77 1.3. Thành lập trung tâm thanh toán liên hàng về thẻ 78 1.4. Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ 79 2. Với Nhà nước 79 2.1. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ 79 2.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 80 2.3. Tạo môi trường kinhh tế xã hội ổn định 80 2.4. Đầu tư cho hệ thống giáo dục 80 IV. Kết luận 82

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0079.doc
Tài liệu liên quan