Triệu người tham gia lao động vào lĩnh vực này và dần dần nâng cao mức sống của người dân. Bởi vì xuất khẩu phát triển đã kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác phát triển, khôi phục lại những ngành nghề truyền thống, khắc phục số nông nhàn trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng triệt để hơn. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết, hàng loạt các ngành nghề mới ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được hoặc sản xuất với giá thành cao phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu của người dân.
*Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong qúa trình phát triển nền kinh tế đất nước. Hiện nay Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
65 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng – Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất sử dụng vốn = Doanh thu / Vốn
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí = Lợi nhuận / Chi phí
Bảng Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
Đơn vị %
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tốc độ tăng của lợi nhuận
-
6,02
5,65
-10,12
2.Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí
1,37
1,39
1,39
1,24
3.Tỷ suất lợi nhuận của vốn
6,37
6,5
4,67
2,96
4.Hiệu suất sử dụng vốn
469,96
474,53
340,28
241,64
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí cho thấy một đồng chi phí bỏ ra thì thu về bao nhiêu lợi nhuận.
Hiệu suất sử dụng vốn cho biết một đồng vốn thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ Công ty làm ăn có hiệu quả, chỉ tiêu này trong hai năm 2001 và 2002 giảm xuống do vốn cố định tăng lên, Công ty đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gương Bình Dương và các sản phẩm sau kính.
II.Thực trạng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
1.Phân tích thực trạng xuất khẩu chung của Công ty.
Nhiệm vụ chính của Công ty là thực hiện kinh doanh và xuất nhập khẩu cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, trong những năm qua Công ty luôn phát huy và giữ vững truyền thống là đơn vị làm ăn tương đối hiệu quả. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty là kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch ngói xây dựng, gạch ceramic, gạch Geramite và một số loại khác. Việc xuất khẩu những mặt hàng này đóng góp một phần lớn trong sự phát triển chung của Công ty. Mặc dù trong hoạt động xuất khẩu của mình Công ty cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nhưng ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty vẫn nỗ lực tìm tòi, phấn đấu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty. Trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao chất lượng và mở rộng thị trường.
Bằng những nỗ lực vượt bậc trên, trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã không ngừng tăng lên. Ngoài những mặt hàng xuất khẩu chính là sứ vệ sinh, gạch Gramite thì Công ty còn xuất khẩu nhiều sản phẩm gốm xây dựng khác khi tìm được đối tác. Các sản phẩm kính xây dựng mặc dù xuất khẩu còn hạn chế song đây cũng là một trong những mặt hàng góp phần quan trọng trong mục tiêu xuất khẩu cuả Công ty. Chúng ta xem xét cơ cấu xuất khẩu của Công ty:
Bảng Cơ cấu xuất khẩu của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Đơn vị: 1000 USD
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
KNXK
%
KNXK
%
KNXK
%
KNXK
%
Gốm xây dựng
1732,6
89,7
1767,3
86,7
2843,4
81,5
3106,2
78,4
Kính xây dựng
177,67
9,2
231,7
11,4
498,9
14,3
641,8
16,2
Các loại khác
21,3
1,1
38,7
1,9
146,5
4,2
213,9
5,4
Tổng số
1931,57
100
2037,7
100
3488,8
100
3961,9
100
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Qua bảng trên ta thấy các mặt hàng đều tăng về tuyệt đối qua các năm. Mặt hàng gốm xây dựng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhưng tỷ trọng này giảm dần về mặt tuyệt đối thì giá trị xuất khẩu gốm xây dựng vẫn tăng qua các năm. Giá trị xuất khẩu của kính xây dựng tăng qua các năm cả về tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu. Các loại hàng hoá khác cũng tăng nhanh cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong doanh thu xuất khẩu của Công ty.
2.Phân tích thực trạng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
2.1Quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường thế giới. Tuy gặp nhiều khó khăn để tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng những năm qua mặt hàng gốm xây dựng của Công ty đã có những bước tiến vượt bậc, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Trong các mặt hàng xuất khẩu của Công ty thì gốm xây dựng luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty. Chính xuất khẩu gốm xây dựng đã góp phần chủ yếu vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung của Công ty trong thời gian qua.
Bảng kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo mặt hàng.
Đơn vị 1000 USD
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
1.Sứ vệ sinh
662,3
38,2
720,96
40,79
1343,19
47,24
1561,82
50,28
2.Gạch ngói xây dựng
401,73
23,2
248,17
14,04
217,35
7,64
121,63
3,92
3.Gạch Gramite
420,27
24,3
442,21
25,02
894,59
31,46
1058,25
34,07
4.Gạch ceramic
154,7
8,9
179,9
10,18
311,55
10,96
324,88
10,46
5.Các loại khác
93,6
5,4
176,06
9,97
76,72
2,7
39,62
1,27
Tổng số
1732,6
100
1767,3
100
2843,4
100
3106,2
100
Bảng Tốc độ tăng xuất khẩu theo mặt hàng
Đơn vị 1000 USD
Năm
Mặt hàng
1999
2000
2001
2002
Giá trị
Tốc độ
Giá trị
Tốc độ
Giá trị
Tốc độ
Giá trị
Tốc độ
1.Sứ vệ sinh
662,3
-
720,96
0,089
1343,19
0,86
1561,82
0,16
2.Gạch ngói xây dựng
401,73
-
248,17
-0.38
217,35
-0,12
121,63
-0,44
3.Gạch Gramite
420,27
-
442,21
0,05
894,59
1,02
1058,25
0,18
4.Gạch ceramic
154,7
-
179,9
0,16
311,55
0,73
324,88
0,04
5.Các loại khác
93,6
-
176,06
0,88
76,72
-0,56
39,62
-0,48
Trong bảng trên các loại khác là các loại gốm xây dựng còn lại như gạch chịu lửa Chammot, gạch chịu lửa cao nhôm, gạch cách nhiệt, gạch chịu tính kiềm, gạch chống nóng, ngói lợp. Chúng ta không xem xét riêng tuỳ loại hàng này vì việc xuất khẩu nó nếu tách ra thì sẽ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, cầu về xuất khẩu loại hàng này không thường xuyên, việc xuất khẩu nó chủ yếu là do đơn đặt hàng của các hãng nước ngoài. Chúng ta thấy việc xuất khẩu các mặt hàng này rất thất thường. Năm 1999 các hàng hoá này có giá trị xuất khẩu là 93,6 nghìn USD chiếm khoảng 5,4% tổng giá trị xuất khẩu của Công ty, năm 2000 tăng lên 176,06 nghìn USD chiếm 9,97% tổng giá trị xuất khẩu. Như vậy năm 2000 tăng 88% so với năm 1999. Năm 2001 các mặt hàng này lại giảm mạnh xuống còn76,72 nghìn USD chiếm 2,7% tổng giá trị xuất khẩu, giảm 56% so với năm 2000. Năm 2002 các mặt hàng này tiếp tục giảm xuống còn 39,63 nghìn USD chiếm 1,27% tổng giá trị xuất khẩu, giảm 48% so với năm 2001.
Trong các năm qua thì mặt hàng sứ vệ sinh là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu. Trong năm 1999 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này là 662,3 nghìn USD chiếm 38,2% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 2000 giá trị xuất khẩu của sứ vệ sinh là 720,96 nghìn USD chiếm 40,79% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 8,9%so với năm 1999. Năm 2001 là năm có giá trị xuất khẩu mặt hàng sứ vệ sinh tăng mạnh giá trị xuất khẩu của sứ vệ sinh lên đến 1343,19 nghìn USD chiếm 47,24% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 86% so với năm 2000. Sở dĩ mặt hàng sứ vệ sinh của Công ty năm 2001 có tốc độ tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn vì sản phẩm sứ vệ sinh của sứ Thanh Trì đạt tiêu chuẩn ISO 9002 và nó có kiểu dáng đa dạng, sản phẩm sứ vệ sinh được bảo hành 10 năm cho thấy chất lượng rất cao. Vì vậy sản phẩm được chấp nhận đặc biệt là ở Châu Âu.Năm 2002 giá trị xuất khẩu của sứ vệ sinh là 1561,82 nghìn USD chiếm 50,28% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 16% so với năm 2001.
Năm 1999 mặt hàng gạch ngói xây dựng có giá trị xuất khẩu có giá trị xuất khẩu là 401,73 nghìn USD chiếm 23,2% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 2000 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này giảm xuống đến 248,17 nghìn USD giảm 38% so với năm 1999. Năm 2001 giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạch ngói xây dựng là 217,35 nghìn USD giảm 12% so với năm 2000. Năm 2002 giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạch ngói xây dựng là 121,63 nghìn USD chiếm 3,92% tổng giá trị xuất khẩu và giảm 44% so với năm 2001. Nhìn chung trong những năm qua giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạch ngói xây dựng giảm xuống. Việc suy giảm này không phải là do thị trường nước ngoài không cần nữa mà chủ yếu là do gạch ngói xây dựng của các đơn vị thành viên của Tổng công ty không chuyển biến kịp theo nhu cầu thị trường. Gạch ngói xây dựng cả về chất lượng, mẫu mã đều rất kém so với đòi hỏi của thị trường trừ giá rẻ. Ngay đến cả người tiêu dùng trong nước cũng yêu cầu gạch ngói xây dựng phải có những cải tiến cho thuận lợi sử dụng cũng như mẫu mã phải đẹp. Vì lẽ đó năm 1998 khi Việt Nam bắt đầu hứng chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng thì mặt hàng này giảm nhanh chóng. Nên cần đặt ra cho xuất khẩu hàng hoá này là phải cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng.
Đối với gạch Gramite, năm 1999 xuất khẩu được 420,27 nghìn USD chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2000 cũng chỉ xuất khẩu được 442,21 nghìn USD chiếm 25,02% tăng 5% so với năm 1999 thì đến năm 2001 giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạch Gramite tăng mạnh lên đến 894,59 nghìn USD chiếm 31,46% tổng giá trị xuất khẩu tăng 102% so với năm 2000. Năm 2002 giá trị xuất khẩu của gạch Gramite là 1058,25 nghìn USD chiếm 34,07%, tăng 18% so với năm 2001. Nhìn chung mặt hàng gạch Gramite là một mặt hàng có khả năng xuất khẩu, là một trong những mặt hàng chủ lực của Công ty. Sở dĩ mặt hàng này có giá trị xuất khẩu tăng cao là vì Công ty Thạch Bàn đã thành công đưa vào sản phẩm gạch Gramite nhân tạo. Đây là sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã lại rất đẹp. Gạch Gramite nhân tạo chỉ mới xuất hiện ở trong một số năm gần đây và chủ yếu là do các nước có công nghệ vật liệu xây dựng hiện đại sản xuất, xuất khẩu. Đây là sản phẩm đang được thị trường chấp nhận vì vậy Công ty cần coi nó như là mặt hàng chủ lực để có chiến lược đúng đẵn trong xuất khẩu mặt hàng này.
Gạch Ceramic cũng tăng qua các năm, đây là mặt hàng khá thông dụng nhưng chất lượng của nó đảm bảo, mẫu mã đa dạng nên xuất khẩu được ở nhiều nước. Năm 1999 giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạch ceramic là 154,7 nghìn USD chiếm 8,9% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 2000 giá trị xuất khẩu là 179,9 nghìn USD chiếm 10,18% tổng giá trị xuất khẩu tăng 16% so với năm 1999. Năm 2001 giá trị xuất khẩu là 311,55 nghìn USD chiếm 10,96% tổng giá trị xuất khẩu tăng 73% so với năm 2000. Năm 2002 giá trị xuất khẩu là 324,88 nghìn USD chiếm 10,46 % tổng giá trị xuất khẩu tăng 4% so với năm 2001. Mặt hàng gạch ceramic nhìn chung có giá trị xuất khẩu không cao so với các mặt hàng khác do mặt hàng này tuy có mẫu mã đa dạng nhưng nó khá phổ biến trên thi trường, sản phẩm không có sự khác biệt lớn so với sản phẩm của các hãng khác. Do đó để có thể tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm này cần phải có sự nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường phát triển thêm nhiều mặt hàng với nhiều mẫu mã khác nhau.
Kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng sứ vệ sinh và gạch Granite thường chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, Vì vậy, Công ty cần có chương trình phù hợp để thúc đẩy xuất khẩu hai mặt hàng này.
2.2 Tình hình thị trường xuất khẩu gốm xây dựng.
Cùng với chiến lược đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế của đất nước, Công ty chủ trương phát triển phương châm đa dạng hoá quan hệ thị trường song vẫn phải xây dựng thị trường trọng điểm và bạn hàng chủ yếu. Mục tiêu của Công ty là đẩy mạnh công tác xuất khẩu các sản phẩm các sản phẩm của đơn vị trong và ngoài ngành nhằm thu ngoại tệ và tăng cao doanh số xuất khẩu. Công ty xác định và phân chia thị trường có tiềm năng và cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu.
Bảng Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng gốm xây dựng theo thị trường.
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
1.ASEAN
598,1
34,52
460,79
26,07
1097,53
38,6
1075,36
34,62
2.Nga, Đông Âu
939,77
54,24
1103,57
62,44
1368,22
48,12
1400,9
45,1
3.EU, Nhật, Bắc Mỹ
116,4
6,72
137,73
7,79
247,94
8,72
348,82
11,23
4. Trung đông, Tây á, Nam á
55,62
3,21
52,37
2,97
128,23
4,51
220,53
7,1
5. Các nước khác
22,71
1,31
12,84
0,73
1,48
0.05
60,59
1,95
Tổng số
1732,6
100
1767,3
100
2843,4
100
3106,2
100
Nguồn phòng kinh doanh Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Như vậy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu là Nga và Đông Âu sau đó là ASEAN. Nga và Đông Âu là các nước XHCN cũ vì vậy có quan hệ tốt với Việt Nam. Quan hệ chính trị tốt đẹp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế phát triển.
-Thị trường ASEAN: Đây là thị trường có quan hệ gần gũi lâu năm với Việt Nam và có vị trí địa lý gần với Việt Nam, do đó hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này có nhiều điều kiện thuận lợi như: Chi phí vận chuyển thấp, mặt khác các nước ASEAN trong đó có Việt Nam đã ký hiệp định ưu đãi thuế quan chung ASEAN (CEPT) nên hàng hoá Việt Nam xuất khẩu được hưởng mức thuế ưu đãi hơn rất nhiều so với hàng hoá của các nước khác ngoài ASEAN. Đối với thị trường này công ty sẽ tìm kiếm các đối tác để xuất khẩu gạch Ceramic. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu Công ty vào nước này vào ASEAN là 598,1 nghìn USD chiếm 34,52% đứng thứ hai sau thị trường Nga và Đông Âu. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN giảm xuống 460,79 nghìn USD, chiếm 26,07% tổng giá trị xuất khẩu do các nước ASEAN mới khôi phục lại sau cuộc khủng hoảng tài chính. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu sang khu vực thị trường này tăng mạnh lên 1097,53 nghìn USD chiếm 38,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này giảm xuống là 1075,36 nghìn USD chiếm 34,62% tổng kim ngạch xuất khẩu.
-Thị trường Nga và Đông Âu: Đây là khu vực thị trường mà Công ty có giá trị xuất khẩu lớn nhất; Năm 1999 xuất khẩu 939,72 nghìn USD chiếm 54,24%. Năm 2000 thị trường này lại chiếm đến 62,44% tổng giá trị xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài. Năm 2001 mặc dù giá trị xuất khẩu sang thị trường này vẫn tăng lên nhưng tỷ trọng của nó lại giảm xuống còn 48,12% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 2002 tỷ trọng xuất khẩu của thị trường này lại giảm tiếp còn 45,1% tổng giá trị xuất khẩu với giá trị là 1400,9 nghìn USD. Đây là thị trường tiềm năng trong giai đoạn tới mặc dù sản phẩm sứ vệ sinh của Công ty đang tiêu thụ tốt tại đây nhưng Công ty sẽ đẩy mạnh hơn nữa trong việc phát triển đa dạng hoá xuất khẩu sản phẩm và mục tiêu trong giai đoạn tới là đưa sản phẩm Granite và Ceramic sang thị trường này thông qua Phòng thương mại của các nước này tại Việt Nam, Văn phòng đại diện của Tổng công ty tại Nga và một số đối tác nước ngoài có quan hệ với Tổng công ty đồng thời vận dụng chủ trương của Nhà nước trong công tác đưa hàng do các đơn vị trong Tổng công ty sản xuất sang thanh toán các khoản nợ với các nước này.
-Thị trường EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ: Đây cũng là thị trường có tiềm năng lớn. Tuy nhiên xuất khẩu sang thị trường này còn thấp mặc dù vẫn tăng dần qua các năm. Kế hoạch của Công ty là sẽ thiết lập các đại lý tại thị trường các nước này.
-Thị trường Trung Đông, Tây á, Nam á và một số nước khác: đây là nhóm thị trường còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Công ty đang tìm cách xâm nhập và khai thác thị trường này.
2.3Phương thức xuất khẩu gốm xây dựng.
Hiện nay phương thức xuất khẩu chủ yếu đang được Công ty áp dụng là hình thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác, trong đó xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty là chủ yếu chiếm khoảng 75% giá trị xuất khẩu của Công ty.
Bảng tình hình xuất khẩu gốm xây dựng theo loại hình xuất khẩu của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
1. Kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng
1767,3
100
2843,4
100
3106,2
100
2. Xuất khẩu trực tiếp
356,75
20,19
635,78
22,36
718,15
23,12
3.Xuất khẩu uỷ thác
1410,55
79,81
2207,62
77,64
2388,05
76,88
Với phương thức xuất khẩu gốm xây dựng trực tiếp Công ty thường cử đại diện của mình ra nước ngoài để ký kết hợp đồng hay nhiều trường hợp phía đối tác cử đại diện đến Công ty để thoả thuận một số điều khoản hợp đồng. Đối với một số đối tác ở xa không có điều kiện đàm phán trực tiếp, hợp đồng thường ký kết thông qua các hình thức như : Điện thoại, Fax, EmailHình thức xuất khẩu trực tiếp đã và đang góp phần tạo ra cho Công ty một vị thế vững chắc trên thị trường thế giới, đồng thời nâng cao uy tín của Công ty. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo phương thức xuất khẩu trực tiếp là 356,75 nghìn USD chiếm 20,19% thì năm 2001 đã tăng lên 635,78 nghìn USD, chiếm 22,36%. Năm 2002 xuất khẩu trực tiếp tăng lên thành 718,15 nghìn USD chiếm 23,12%. Phương thức xuất khẩu trực tiếp đã chiếm tỷ trọng tăng dần lên, giá trị xuất khẩu cũng được tăng lên. Điều đó chứng tỏ hoạt động của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu, Công ty đã kiếm được bạn hàng nước ngoài để bán hàng hoá.
Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu uỷ thác là rất lớn. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo phương thức xuất khẩu uỷ thác là 1410,55 nghìn USD chiếm 79,81%. Năm 2001 đã tăng lên 2207,62 nghìn USD chiếm 77,94%. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu là 2388,05 nghìn USD chiếm 76,88. Mặc dù giá trị xuất khẩu theo phương thức uỷ thác tăng lên nhưng tỷ trọng của phương thức xuất khẩu uỷ thác lại giảm đi. Điều đó một mặt cho thấy các đơn vị sản xuất đã tự ký được hợp đồng ngoại thương, tự tìm đối tác, mặt khác nó chứng tỏ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty còn chưa hiệu quả. Công ty tiến hành xuất khẩu uỷ thác thì sẽ thu được phí uỷ thác xuất khẩu. Nhưng phí uỷ thác xuất khẩu là rất thấp nếu so với lợi nhuận xuất khẩu trực tiếp. Trong thời gian tới, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu cần nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, cần tìm đối tác để xuất khẩu chứ không phải ngồi chờ xuất khẩu theo uỷ thác các đơn vị sản xuất của Tổng công ty.
2.4Tổ chức nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng.
2.4.1 Tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Trong hoạt động xuất khẩu thì bảo đảm nguồn hàng xuất khẩu là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh sau này. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hàng hoá xuất khẩu, tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đến uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
*Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.
Đây là công việc quan trọng đầu tiên trong hoạt động thu gom và tạo nguồn hàng xuất khẩu. Việc nghiên cứu nguồn hàng sẽ cho biết khả năng cung ứng hàng hoá xuất khẩu tại các chân hàng như thế nào.
Đối với Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thì nguồn hàng là các đơn vị sản xuất trực thuộc Tổng công ty vì vậy rất dồi dào, không sợ bị chin ép giá ở khâu này. Nhưng việc nghiên cứu nguồn hàng không chỉ đơn thuần là nghiên cứu số lượng hàng hoá. Đặc biệt đối với sản phẩm gốm xây dựng thì chủng loại, mẫu mã, chất lượng là rất quan trọng. Cũng phải xác định được giá cả trong nước so với giá cả quốc tế, chi phí vận chuyển bảo quản.
*Tổ chức thu mua xuất khẩu gốm xây dựng.
Dựa vào các đơn đặt hàng của khách hàng, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu sẽ căn cứ vào khả năng cung ứng hàng của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, từ đó mới quyết định việc chấp nhận đơn hàng. Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu trực tiếp mua hàng của các đơn vị sản xuất thông qua hợp đồng mua bán. Hoặc theo phương thức uỷ thác xuất khẩu thì Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu sẽ không cần thu mua hàng của các đơn vị trong nước mà chỉ cần tiến hành giao dịch với khách hàng nước ngoài.
*Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu.
-Nhận hàng hoá: để nhận hàng hoá được tốt, Công ty phải đảm bảo đầy đủ các phương tiện vận tải, kho bãi chứa hàng. Đặc biệt ở đây là mặt hàng gốm xây dựng, công tác vận tải luôn được đề cao.
-Hàng hoá sẽ được cất tại kho của đơn vị sản xuất thành viên hoặc tại kho của Công ty, mặt hàng gốm xây dựng được bố trí sắp xếp hợp lý.
-Xuất kho: Khi đến hạn giao hàng xuất khẩu, Công ty tiến hành các công việc để xuất kho hàng đó. Việc xuất kho giao hàng đòi hỏi phải đúng với những thủ tục quy định phải đầy đủ các giấy tờ hợp lệ, các hoá đơn theo yêu cầu.
-Trước khi giao hàng Công ty phải tiến hành các công việc:
+ Đối chiếu lệnh xuất kho với hàng thực có trong kho.
+ Chuẩn bị các phương tiện, công cụ, nhân lực bốc xếp hàng.
+Xác định địa điểm giao hàng
Khi giao hàng, Công ty yêu cầu người xuất kho và người mua phải ký vào phiếu xuất kho hay phiếu giao hàng để xác nhận.
2.4.2Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu.
Sau khi đã chuẩn bị hàng đầy đủ, Công ty tiến hành:
-Ký kết hợp đồng vận chuyển: Công ty ký kết hợp đồng vận chuyển để chuyển hàng hoá ra cảng xuất khẩu sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để hải quan kiểm định. Trước đây Công ty thường sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng FOB nên Công ty chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoá khi hàng hoá vượt qua lan can tàu tại cảng bốc quy định. Hiện nay Công ty thường sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng CIF. Vì vậy trách nhiệm thuê tàu thuộc về Công ty.
-Hoàn thiện thủ tục giấy tờ khi làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ:
+ Hợp đồng thương mại
+ Bản dịch hợp đồng
+ Hạn ngạch nếu cần
+ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá
+ Các giấy tờ hải quan.
-Tổ chức khai báo và giám định hải quan. Khâu này Công ty sẽ xuất trình giấy tờ, mở hàng hoá để hải quan kiểm tra.
-Giao hàng lên tàu và lấy vận đơn thông thường Công ty uỷ thác toàn phần cho hãng tàu. Đại diện của Công ty lấy biên lai thuyền phó và sau đổi lấy vận đơn đường biển. Việc giao nhận Công ty thường uỷ thác cho VICONSHIP hay Công ty giao nhận á Châu.
2.4.3Nghiệp vụ thanh toán.
Trong thanh toán, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thường sử dụng hai phương thức: L/C và nhờ thu kèm chứng từ.
Công ty yêu cầu đối tác mở L/C cho mình thường thông qua ngân hàng đầu tư và phát triển.
2.5Khả năng cạnh tranh của mặt hàng gốm xây dựng xuất khẩu.
Mặc dù đã có nỗ lực cố gắng trong công tác tìm kiếm khách hàng và tiếp thị sản phẩm đến các bạn hàng nước ngoài, tuy nhiên những kết quả mà Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuđược còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm Viglacera trên thị trường xuất khẩu, chủ yếu là những nguyên nhân chính như: giá cả thiếu cạnh tranh, chất lượng của nhiều sản phẩm còn chưa cao và chưa ổn định, mẫu mã chưa phong phú.
Các đơn vị thành viên chưa có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với xuất khẩu, xác định giá bán xuất khẩu chưa cạnh tranh, không tính khấu hao, lợi nhuận để thâm nhập vào thị trường. Việc nghiên cứu đưa ra một bảng giá xuất khẩu hợp lý và công khai đối với các sản phẩm trên cơ sở đã thống nhất về một mức giá sàn được Tổng công ty phê duyệt là hết sức cần thiết. Trên cơ sở mức giá sàn này, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu mới có thể chủ động và linh hoạt chào hàng cho các đối tượng khách hàng khác nhau, tuỳ từng thị trường và điều kiện thương mại cụ thể.
-Về chất lượng sản phẩm : Công tác nghiên cứu nhằm cải thiện nâng cao chất lượng sản phẩm đã được Công ty chú trọng hơn trong thời gian qua. Một số đơn vị thành viên trong Tổng công ty đã tích cực trang bị đầu tư những máy móc công nghệ hiện đại để cải thiện chất lượng sản phẩm như Công ty sứ Thanh Trì là một trong những đơn vị đi đầu trong công tác cải tiến chất lượng sản phẩm , nhiều sản phẩm của Công ty kinh doanh được công nhận là sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm được bảo hành 10 năm, Do đó sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng.
-Về mẫu mã sản phẩm: Đối với thị trường nước ngoài, do thị hiếu và yêu cầu của khách hàng nhiều khi khác xa với thị hiếu của khách hàng trong nước nên việc đa dạng hoá mẫu mã, thiết kế và màu sắc sản phẩm là một công việc hết sức cần thiết và không thể bỏ qua được. Nắm bắt được điều này các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đã tăng cường công tác nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường, nhờ đó trong những năm qua mẫu mã sản phẩm không ngừng được cải thiện, nhiều sản phẩm mới ra đời và đã được khách hàng ưa chuộng. Khi nhận được thư hỏi hàng của khách hàng về một mẫu mã sản phẩm mới, các đơn vị sản xuất đã khẩn trương nghiên cứu để có thể trả lời khách hàng một cách chính xác trong thời gian ngắn nhất về khả năng sản xuất của loại sản phẩm đó.
III.Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu
1.Đánh giá về kết quả và hiệu quả xuất khẩu gốm xây dựng hiện nay của Công ty.
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu luôn tăng lên trong các năm, mặt hàng của Công ty đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế.
-Về mặt hàng: nhằm đáp ứng nhu cầu rất phong phú và đa dạng đồng thời cũng rất khắt khe của thị trường trong và ngoài nước. Công ty đã tiến hành mở rộng các mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty ngày càng được đổi mới về hình thức, mẫu mã, chất lượngđã tạo cho Công ty uy tín trên thị trường.
-Về thị trường: Công ty đã duy trì mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với các thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu, các nước ASEANđồng thời Công ty cũng đang cố gắng mở rộng thị trường sang thị trường mới như Mỹ, New Zeland, IRAQCông ty đã tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ không chỉ theo chiều rộng mà cả theo chiều sâu.
-Công ty đã tổ chức xây dựng mối quan hệ tốt với các đơn vị nguồn hàng, quan tâm hơn đến công việc của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, nên nguồn hàng của Công ty tương đối ổn định.
-Về công tác tổ chức quản lý và cơ chế hoạt động: Công ty đã tạo được uy tín và khẳng định được mình với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Công ty áp dụng chặt chẽ việc kiểm kê định kỳ và đột ngột để bảo đảm tránh thất thoát, thiếu hụt do hàng thiếu, hàng kém chất lượng, phẩm chất. Để tăng hiệu quả lao động, Công ty quản lý lao động theo thời gian hay khoán sản phẩm đều phải thực hiện việc ký kết hợp đồng, việc ký kết này đều phải dựa trên sự thoả thuận của mỗi bên. Công ty có chế độ khen thưởng thích đáng để động viên tinh thần cán bộ công nhân viên có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Bên cạnh đó Công ty cũng sẽ kỷ luật nghiêm khắc với các quy chế của Công ty và pháp luật.
Công ty có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên đông đảo và có trình độ. Họ là những con người rất năng động và sáng tạo trong công việc. Từ đó có thể thấy Công ty có khả năng phát triển hơn nữa nhờ vào lực lượng cán bộ công nhân viên này.
Mặc dù mới tham gia trực tiếp vào kinh doanh thương mại quốc tế nhưng với tinh thần luôn cố gắng học hỏi đến nay Công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
-Các cơ quan, chính quyền, uỷ ban nhân dân thành phố, các ngành tài chính, cục thuế, ngân hàng cùng với các Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại đã luôn quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ Công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh doanh sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường. Dù hiệu quả kinh doanh thu được đạt hay không đạt như kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra đều cần phải xem xét, đánh giá và tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến kết quả này.
Trên cơ sở phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, ban lãnh đạo Tổng công ty sẽ có những thông tin cần thiết để ra những quyết định sửa chữa và điều chỉnh kịp thời những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đề ra.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
1.1Tốc độ tăng (giảm) giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng.
Tốc độ tăng (giảm) Giá trị kim ngạch xuất khẩu của năm N
giá trị kim ngạch xuất = *100%
khẩu của năm N Giá trị xuất khẩu của năm N-1
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm.
Bảng : Tốc độ tăng (giảm) giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty
Đơn vị 1000USD
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tổng giá trị xuất khẩu gốm xây dựng
1732,6
1767,3
2843,4
3106,2
2.Tốc độ tăng giảm%
2
60,89
9,24
Qua số liệu bảng trên ta thấy: năm 2000 tăng 2% so với năm 1999, năm 2001 tăng 60,89% so với năm 2000, đây là năm có tốc độ tăng trưởng lớn so với năm 2000. Năm 2002 tăng 9,24% so với năm 2001.
Như vậy xét về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng gốm xây dựng thì có thể nói rằng Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu đã có tốc độ tăng trưởng cao. Điều này cũng rõ hơn nếu xét Công ty mới thành lập từ năm 1998 và phải chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và sự cạnh tranh khốc liệt với các hãng nước ngoài ngay trên cả chính thị trường trong nước.
1.2Lợi nhuận xuất khẩu.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các nhà kinh doanh song nó không phản ánh chính xác chất lượng kinh doanh cũng như tiềm lực kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác nó không cho phép so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các kỳ với nhau.
Lợi nhuận xuất khẩu = Doanh thu xuất khẩu – Chi phí xuất khẩu
Bảng Lợi nhuận xuất khẩu của gốm xây dựng.
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1 Doanh thu xuất khẩu hàng gốm xây dựng
1732,6
1767,3
2843,4
3106,2
2.Chi phí xuất khẩu gốm xây dựng
1692,24
1727,85
2756,64
3005,25
3.Lợi nhuận xuất khẩu gốm xây dựng
40,36
39,45
86,76
100,95
4.Tốc độ tăng lợi nhuận
-2,25
119,9
16,36
Như vậy ngoại trừ năm 2000, tốc độ tăng lợi nhuận của xuất khẩu hàng gốm xây dựng đều tăng qua các năm. Mỗi năm lợi nhuận đều dương. Hoạt động xuất khẩu của Công ty trong các năm qua đều có hiệu qủa, đạt mục tiêu có lãi đầu tư.
1.3Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Lợi nhuận xuất khẩu
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu = *100%
Tổng doanh thu xuất khẩu
Hoặc Lợi nhuận xuất khẩu
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu = *100%
Tổng chi phí cho xuất khẩu
Doanh thu xuất khẩu
Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu = * 100%
Chi phí xuất khẩu
Chỉ tiêu tỷ suât doanh lợi xuất khẩu cho biết mỗi đồng thu về thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận hoặc mỗi đồng chi phí bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu cho biết một đồng chi phí xuất khẩu bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng.
Bảng : Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu hàng gốm xây dựng.
Đơn vị: %
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu gốm xây dựng.
LNXK
DTXK
KNXK
CPXK
2,33
2,39
2,23
2,28
3,05
3,15
3,25
3,36
2. Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
1,0239
1,0228
1,0315
1,0336
Bảng trên ta thấy, hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty về hàng gốm xây dựng còn thấp. Lý do là Công ty phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, vì vậy ở giai đoạn đầu chi phí khấu hao tài sản cố định là rất lớn. Chỉ tiêu hiệu quả tăng dần qua các năm cho thấy Công ty đã tiến hành nâng cao hiệu quả xuất khẩu như giảm chi phí trong xuất khẩu, tăng doanh số bán ra
Năm 1999 và năm 2000 dù gặp khó khăn song Công ty vẫn có lợi nhuận trong xuất khẩu gốm xây dựng dù chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu giảm so với năm trước, sang năm 2001 Công ty đã tiến hành chấn chỉnh lại và kết quả là lợi nhuận tăng 119,9% so với năm 2000.
2. Hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
-Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm xây dựng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách lớn. Việc đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính phi vụ bị động.
-Các sản phẩm của Viglacera như gạch xây dựng, gạch lát nền, gạch ngói trang tríchưa đăng ký các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (trừ sứ vệ sinh Thanh Trì). Vì vậy, sẽ rất khó khăn cho việc chào hàng ra nước ngoài.
-Chất lượng của gốm xây dựng chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Mỹ.
-Công ty chưa thiết lập được các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường trưyền thống và không thể xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu mới.
-Công ty mới được thành lập do đó vấn đề tổ chức và quản lý của Công ty chưa hợp lý. Nó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của Công ty, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh, gây ra sự lãng phí.
-Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa tiết kiệm nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
-Do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu để phục vụ sản xuất cộng với việc phải tăng cường khấu hao máy móc thiết bị nên giá cả các sản phẩm của Viglacera còn cao, kém sức cạnh tranh với các hãng trong và ngoài nước.
2.2 Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Những hạn chế trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và cũng như chủ quan.
*Nguyên nhân khách quan:
-Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc của ta thường đi sau các nước phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoan đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thị trường.
-Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập. Từ năm 1995 Nhà nước ta đã tổ chức và sắp xếp lại hệ thống lưu thông, phân phối các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán ở thị trường nội địa để từ đó phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thương nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán gốm xây dựng xuất khẩu. Mặt khác công tác quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện:
+ Hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung chung chưa rõ ràng, cụ thể là một số quy định còn bất hợp lý hay không có tính khả thi. Và đặc biệt là sự bất ổn định, thay đổi quá nhiều, quá nhanh của những văn bản này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Việc phối hợp giữa các ban ngành trong nước về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa tốt gây sức ép cho việc sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty ngay tại thị trường nội địa nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô để giảm giá thành hàng xuất khẩu.
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế xuất chưa hợp lý, còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các thủ tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong thái độ quan liêu của nhân viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
*Những nguyên nhân chủ quan.
-Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt hàng gốm xây dựng của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.
-Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông tin về thị trường của Công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác, tạo nên sự không ổn định về thị trường và khả năng xâm nhập là không mấy hiệu quả.
-Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường quốc tế.
-Giá bán một số chủng loại sản phẩm của Viglacera chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng gạch Granite, sứ vệ sinh giá chào hàng còn cao chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường thế giới.
3.Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
3.1 Những thuận lợi.
Việc đánh giá những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu có được là:
-Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, nắm bắt và đánh giá tình hình một cách nhanh chóng, chính xác. Do vậy, có thể nói đây là một thuận lợi lớn của Công ty. Nếu Công ty biết động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ này để họ nhiệt tình hơn trong công việc thì hoạt động của Công ty chắc chắn sẽ có hiệu quả.
2. Hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
-Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm xây dựng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách lớn. Việc đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính phi vụ bị động.
-Các sản phẩm của Viglacera như gạch xây dựng, gạch lát nền, gạch ngói trang tríchưa đăng ký các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (trừ sứ vệ sinh Thanh Trì). Vì vậy, sẽ rất khó khăn cho việc chào hàng ra nước ngoài.
-Chất lượng của gốm xây dựng chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Mỹ.
-Công ty chưa thiết lập được các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường trưyền thống và không thể xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu mới.
-Công ty mới được thành lập do đó vấn đề tổ chức và quản lý của Công ty chưa hợp lý. Nó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của Công ty, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh, gây ra sự lãng phí.
-Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa tiết kiệm nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
-Do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu để phục vụ sản xuất cộng với việc phải tăng cường khấu hao máy móc thiết bị nên giá cả các sản phẩm của Viglacera còn cao, kém sức cạnh tranh với các hãng trong và ngoài nước.
2.2 Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Những hạn chế trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và cũng như chủ quan.
*Nguyên nhân khách quan:
-Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc của ta thường đi sau các nước phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoan đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thị trường.
-Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập. Từ năm 1995 Nhà nước ta đã tổ chức và sắp xếp lại hệ thống lưu thông, phân phối các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán ở thị trường nội địa để từ đó phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thương nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán gốm xây dựng xuất khẩu. Mặt khác công tác quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện:
+ Hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung chung chưa rõ ràng, cụ thể là một số quy định còn bất hợp lý hay không có tính khả thi. Và đặc biệt là sự bất ổn định, thay đổi quá nhiều, quá nhanh của những văn bản này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Việc phối hợp giữa các ban ngành trong nước về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa tốt gây sức ép cho việc sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty ngay tại thị trường nội địa nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô để giảm giá thành hàng xuất khẩu.
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế xuất chưa hợp lý, còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các thủ tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong thái độ quan liêu của nhân viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
*Những nguyên nhân chủ quan.
-Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt hàng gốm xây dựng của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.
-Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông tin về thị trường của Công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác, tạo nên sự không ổn định về thị trường và khả năng xâm nhập là không mấy hiệu quả.
-Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường quốc tế.
-Giá bán một số chủng loại sản phẩm của Viglacera chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng gạch Granite, sứ vệ sinh giá chào hàng còn cao chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường thế giới.
3.Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
3.1 Những thuận lợi.
Việc đánh giá những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu có được là:
-Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, nắm bắt và đánh giá tình hình một cách nhanh chóng, chính xác. Do vậy, có thể nói đây là một thuận lợi lớn của Công ty. Nếu Công ty biết động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ này để họ nhiệt tình hơn trong công việc thì hoạt động của Công ty chắc chắn sẽ có hiệu quả.
Chương III. Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu.
I. Dự báo thị trường gốm xây dựng thế giới và phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu.
1.Dự báo thị trường gốm xây dựng thế giới.
Những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng gốm xây dựng của Việt Nam đã có những thuận lợi nhất định. Với thực tại nền kinh tế nước ta trong xu thế mở hội nhập với khu vực và quốc tế đã tạo bước phát triển cho ngành công nghiệp gốm sứ nước ta. Với một loạt các sự kiện như việc Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, gia nhập ASEAN, AFTA và ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13/7/2000 đã góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng ra thị trường thế giới. Với những thắng lợi lớn trong hoạt động kinh tế đối ngoại để phát huy những thắng lợi trên, Việt Nam sẽ mở rộng hơn nữa sự hợp tác quốc tế để nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, cụ thể là tích cực chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện cam kết CEPT/AFTA.
Mặt khác, thị trường hàng hoá thuộc các mặt hàng kinh doanh vật liệu xây dựng của Công ty sẽ có nhiều biến động lớn. Xu hướng giát tăng là phổ biến. Một số nước sẽ thực hiện chính sách mở cửa thị trường hàng vật liệu xây dựng. Số nước tham gia xuất khẩu vật liệu sẽ tăng, lượng hàng vật liệu xây dựng xuất khẩu của các nước đã xuất khẩu cũng sẽ tăng cao.
2.Phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
2.1Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
*Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Việt Nam .
Để phát triển ngành công nghiệp gốm sứ xây dựng Việt Nam, cần phải xây dựng chiến lược thị trường, mở rộng thị trường, trước tiên là thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu xây dựng, đồng thời phải mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm để khai thác phát huy tối đa năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu vừa là động lực phát triển sản xuất trong nước, tạo ra uy tín của hàng Việt Nam trên thương trường Quốc tế, xây dựng nền tảng vững chắc để hội nhập khu vực và thế giới.
Về sự cân đối giữa cung cầu của gạch ốp lát ceramic và granite trong nước là năm 2003 năng lực sản xuất đạt 120 triệu m2, trong đó có 22 triệu m2 gạch Granite thì cung đã vượt cầu với tỷ lệ 10/7. Nếu chúng ta không mở rộng được thị trường nước ngoài thì chỉ khai thác 70% năng lực sản xuất. Đặc biệt là gạch ốp lát Granite chênh lệch giữa cung và cầu hiện nay rất lớn với tỷ lệ 10/4, một số Công ty phải dừng sản xuất gạch Granite chuyển sang gạch ceramic, lãng phí vốn đầu tư, do nhu cầu thị trường về gạch granite tuy có tăng nhưng không đuổi kịp được tốc độ đầu tư.
Về sứ vệ sinh, năng lực sản xuất năm 2003 sẽ lên đến 4,5 triệu sản phẩm , nhu cầu thị trường trong nước khoảng 3,5 triệu sản phẩm, chiếm 77%. Do đó muốn khai thác được hết năng lực sản xuất phải xúc tiến mạnh mẽ công tác xuất khẩu, với mục tiêu đến năm 2005 phấn đấu nâng cao năng lực xuất khẩu gốm sứ xây dựng lên 20-30%, tức là khoảng 25-30 triệu m2 gạch ốp lát và khoảng 1,2-1,5 triệu sản phẩm sứ vệ sinh với kim ngạch xuất khẩu đạt 90-100 triệu USD.
Đây là mục tiêu mà toàn ngành gốm sứ xây dựng phấn đấu đạt được trong thời gian tới. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn ngành, hợp tác chặt chẽ với nhau thành sức mạnh tổng hợp của ngành gốm sứ Việt Nam, để cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.
*Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu: Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu là đơn vị thành viên của Tổng công ty Thuỷ tinh va Gốm xây dựng-Viglacera, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh do Tổng công ty đề ra.
-Mục tiêu trong năm 2003 đến năm 2005 :
Hoàn thành cơ bản việc bố trí lại tổ chức sản xuất kinh doanh. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Viglacera để có thể đối phó với các sản phẩm khác của các nước ASEAN khi Việt Nam tham gia AFTA.
Tiến hành nâng cao kết quả của các sản phẩm của Viglacera đạt tiêu chuẩn quôc tế và đăng ký các tiêu chuẩn ISO, đăng ký bảo hộ nhãn mác hàng hoá tại thị trường trong nước và ngoài nước.
Đạt tổng kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng là 15 triệu USD.
Để đạt được các mục tiêu trên, Công ty đã đề ra các bước thực hiện:
Thứ nhất: Tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm thuỷ tinh và gốm sản xuất trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn. Đối với mặt hàng chính Công ty quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu sau:
-Sứ vệ sinh: 30% thị phần nội địa
-Gạch granite 100 thị phần nội địa.
-Gạch ốp lát ceramic 30% thị phần nội địa.
-Kính xây dựng các loại 100% thị phần nội địa
-Vật liệu chịu lửa 80% thị phần nội địa.
-Các sản phẩm ngói thông dụng khác 52% thị phần nội địa.
Thứ hai: Các đơn vị trong Tổng công ty đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng hơn, mẫu mã sản phẩm để có thể chủ động tiêu thu sản phẩm, thu hồi và quay vòng vốn nhanh, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và công nghệ.
Thứ ba: Tăng cường công tác quản lý tài chính, tiết kiệm trong sản xuất, sử dụng vốn có hiệu quả, tiếp tục tăng cường công tác cổ phần hoá doanh nghiệp, áp dụng chế độ ký kết hợp đồng lao động để cụ thể hoá công việc cho từng người lao động và động viên người lao động làm tốt công tác và nhiệm vụ được giao.
Thứ tư: Tiếp tục khai trương và mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm gốm sứ xây dựng sang thị trường xuất khẩu, thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài với các thị trường có tiềm năng tiêu thụ lớn như Bắc Mỹ, EU
Thứ năm: Tăng cường công tác đánh giá lựa chọn và thẩm định các dự án đầu tư thực sự có thị trường tiêu thụ sản phẩm đâù ra với hiệu quả kinh tế cao, không gây căng thẳng cho công tác trả nợ, dần chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực xây dựng dân dụng, nhà ở, cơ sở hạ tầng và khu công nghiệp.
2.2Phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, Công ty đặt ra những mục tiêu riêng phù hợp với các mục tiêu chung trong phương hướng phát triển của mình, cụ thể là:
-Phấn đấu kim ngạch đạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3925.doc