Đề tài Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG .4 I. những vấn đề cơ bản về kinh tế môi trường 1.1. Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường 1.2. Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường 1.2.1. cơ chế giá cả trong nền kinh tế thị trường 1.2.2. Quyền sở hữu và thất bại thị trường 1.2.3. Hàng hóa công cộng 1.2.4. Ngoại ứng 1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ II.Khái niệm chung về quản lý môi trường . 4 1.1. Khái niệm quản lý môi trường 4 1.2. Mục tiêu quản lý môi trường 5 1.3. Nội dung quản lý môi trường .5 II. Quản lý rác thải .6 2.1. Khái niệm rác thải 6 2.2. Phân loại rác thải 6 2.3. Khái niệm quản lý rác thải 6 2.4. Hệ thống cơ quan quản lý rác thải 7 2.5. Công nghệ xử lý 8 2.5.1.Phương pháp chế biến chất thải thành phân compost .8 2.5.2.Phương pháp đốt 8 2.5.3.Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh 9 2.5.4. Các công nghệ khác 9 CHƯƠNG II : HIỆN TRẠNG RÁC THẢI ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HÀ NỘI .10 I. Giới thiệu chung về Hà Nội 10 1.1. Đặc điểm tự nhiên của Hà Nội .10 1.1.1. Vị trí địa lý 10 1.1.2. Điều kiện tự nhiên .10 1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội .11 1.2.1. Đất đai, dân số .11 1.2.2. Tổ chức hành chính .12 1.2.3. Tình hình kinh tế .12 II. Thực trạng rác thải đô thị thành phố Hà Nội 13 2.1. Nguồn gốc phát sinh 13 2.2. Khối lượng rác thải 14 2.3. Thành phần rác thải 16 III. Tình hình quản lý rác thải thành phố Hà Nội .19 3.1. Cơ quan quản lý Nhà nước về rác thải 19 3.2. Công tác thu gom 19 3.3. Công tác vận chuyển .23 3.4. Phí thu gom rác thải .26 3.5. Tình hình xử lý rác thải 27 3.5.1. Chôn lấp rác 27 3.5.2. Chế biến phân vi sinh .28 3.5.3. Thiêu đốt rác .29 IV. Xử lý rác thải tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn 30 4.1. Tổng quan khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn .30 4.1.1. Các điều kiện tự nhiên của khu liên hiệp 30 4.1.2. Các hạng mục chính của khu liên hiệp hiện nay 31 4.1.3. Quy hoạch tổng thể KLH Nam Sơn .31 4.2. Khu chôn lấp hợp vệ sinh rác thải đô thị 32 4.2.1. Trình tự sử dụng các ô chôn lấp rác xây dựng giai đoạn 1 32 4.2.2. Khu chôn lấp chất thải giai đoạn 2 .33 4.2.3. Hệ thống thu gom xử lý nước rác .34 4.3. Quy trình quản lý và vận hành bãi .35 4.4. Dự án phát triển tương lai của khu liên hiệp 39 4.4.1. Khu xử lý chất thải công nghiệp .39 4.4.2. Khu chế biến phân compost 40 4.4.3. Nhà máy tái chế rác thải thành điện .40 CHƯƠNG III : MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC I. Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải 1.1. Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom và vận chuyển rác thải 1.2. Xác định số thu phí vệ sinh 1.3. Hiệu quả tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải II. Công tác quản lý rác thải và vấn đề thất bại thị trường 2.1. Lợi Ých thực của hoạt động quản lý 2.2. Công tác quản lý rác thải và những vấn đề thất bại thị trường III. Vấn đề xử lý CHƯƠNG IV : CÁC GIẢI PHÁP 41 I. Mục tiêu của chiến lược quản lý rác thải 41 II. Tổ chức quản lý .42 III. Giải pháp về công tác vận chuyển .44 IV. Giảm lượng rác thải .55 4.1. Các công cụ kinh tế 56 4.1.1. Phí rác thải 56 4.1.2. Hệ thống ký quỹ – hoàn trả .58 4.2. Các công cụ pháp lý .59 V. Thu hồi, tái chế rác thải 61 VI. Giải pháp về xử lý KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 Phụ lục

doc73 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
007 – 2009 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 20m 2009 – 2011 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 23m 2011 – 2014 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 26m 2014 – 2017 Các ô giai đoạn 2 đến cốt 39m 2018 – 2020 4.2.3. Hệ thống thu gom nước rác Theo tính toán mỗi ô chôn lấp đang vận hành sẽ có lượng nước rác phát sinh khoảng 400 – 500 m3/ngày. Nước rác từ các ô chôn lấp qua các trạm xử lý nước rác sẽ được xả vào hồ để xử lý vi khuẩn. Nước thải sinh hoạt sau khi đã xử lý qua bể tự hoại và nước rửa xe của khu hành chính sẽ được thu gom vào bể chứa. Bể chứa đặt tại khu vực hành chính có dung tích 10m3. Nhiệm vụ của bể chứa : lưu giữ nước phục vụ bơm tưới tăng độ Èm rác cho các ô chôn lấp và khu chế biến phân vi sinh. Hồ xử lý vi khuẩn xử lý giảm vi khuẩn Coli trong nước thải trước khi thải ra suối. Mương bao nước mưa thu gom nước mưa xung quanh khu liên hợp dẫn xả vào hồ hoặc suối hiện trạng. 4.3. Quy trình quản lý và vận hành bãi Quy trình vận hành bãi có thể tổng kết thành sơ đồ sau : ¤ t« chë r¸c C©n ®iÖn tö §æ r¸c San ñi San phñ ®Êt hoÆc chÊt tr¬ §Çm chÆt R¾c Bokashi Phun dung dÞch EM B¬m n­íc r¸c Xö lý n­íc r¸c X¶ n­íc th¶i ®· xö lý §ãng b·i côc bé Trång c©y xanh §ãng b·i toµn bé L¾p ®Æt hÖ thèng tho¸t t¸n khÝ ga * Các biện pháp đảm bảo vệ sinh môi trường : Nước rác rỉ ra từ các ô chôn lấp được bơm vào hồ chứa, sau đó qua trạm xử lý nước rác thải để xử lý. Nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn nước thải loại B và được thải ra hệ thống thoát nước. Quá trình chôn lấp phát sinh một lượng khí ga sinh ra từ chất thải chôn lấp, các khí thải này chủ yếu là Mêtan được phát tán ra ngoài nhờ hệ thống ống thu và phát tán được đặt trên ô chôn lấp. Trong quá trình vận hành bãi chôn lấp, dung dịch EM và chế phẩm Bokashi được phun thường xuyên để giảm thiểu mùi và làm tăng quá trình phân huỷ của chất thải. Ngoài ra, các bãi chôn lấp còn tiến hành phun thuốc diệt ruồi, muỗi đảm bảo vệ sinh môi trường. Cây xanh được trồng xung quanh bãi tạo vành đai cách ly nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn chế mùi và các ảnh hưởng bất lợi từ bãi rác. Đất phủ bãi hàng ngày được phủ theo đúng quy trình vận hành bãi : 0,2 m trên một lớp rác dày 2m, ngoài ra còn có đóng bãi cục bộ và đóng bãi cuối cùng bằng đất và có thể cả các lớp chống thấm nước mưa trên bề mặt. 4.3. Nhận xét về công tác xử lý rác bằng chôn lấp tại bãi Nam Sơn Mặc dù khu liên hiệp được quy hoạch một cách tổng thể và có quy mô, nhưng thực tế đối với khu chôn lấp chất thải sinh hoạt vẫn còn có nhiều vấn đề bất cập. - Rác được đổ kết hợp với việc phun dung dịch diệt ruồi muỗi và khử mùi hàng ngày nhưng vẫn không đảm bảo được chất lượng cho môi trường xung quanh. Trong khu vực bãi rác và khu vực nhà dân xung quanh vẫn bốc lên những mùi xú uế, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí vẫn đang hàng ngày tồn tại. - Do chưa có thiết bị đầm nén chuyên dụng nên chưa đảm bảo được hệ số nén yêu cầu 0,8 – 0,85, hậu quả là không khai thác được tối đa thể tích của ô. Từ tháng 6/1999 đến tháng 2/2001 ô số 1 đã được chôn lấp đầy đến cốt +17, ô số 2 đã được chôn lấp đầy đến 4/5 diện tích. Lượng rác chôn lấp đã vượt quá mức dự tính. - Về thu gom nước rác : Các ô chôn lấp chất thải được xử lý để chống ô nhiễm nguồn nước ngầm và ô nhiễm đất bằng 1 lớp đất sét đầm chặt dày 50 cm, sau đó lót đáy chống thấm bằng 1 lớp vải địa kỹ thuật. Qua thời gian vận hành cho thấy do dùng lớp đất lót đáy bãi và bảo vệ vải chống thấm nên khả năng tiêu nước đến rãnh thu rất kém. Hơn nữa trong thời gian vận hành nước rác phát sinh cũng chưa được bơm khỏi bãi kịp thời và thường xuyên nên gây lầy bùn đáy bãi khi vận hành. Nước rác chảy dồn trên mặt đáy bãi đọng về các chỗ trũng không được lọc nên mang theo nhiều cặn rác khi được bơm ra khỏi bãi. - Về xử lý nước rác : Công nghệ xử lý nước rác của Viện cơ học đề xuất là phương pháp sinh học cưỡng bức đã được sở khoa học công nghệ và môi trường Hà Nội phê duyệt. Tuy nhiên trong thời gian vận hành đến nay vẫn chưa đạt chất lượng nước ra theo tiêu chuẩn môi trường loại B, nên chưa được phép thải ra suối Lai Sơn và nguồn tiêu bên ngoài khu liên hiệp. Do vậy toàn bộ lượng nước rác tồn đọng từ khi vận hành ô chôn lấp số 1 đến thời điểm 2/2001 vẫn phải lưu giữ trong ô chôn lấp số 3. IV. DỰ ÁN PHÁT TRIỂN TƯƠNG LAI CỦA KHU LIÊN HIỆP XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN NAM SƠN 4.1. Khu xử lý chất thải công nghiệp Đây là khu xử lý chất thải công nghiệp độc hại, công suất từ 30 – 50 tấn/ngày, liên doanh với Nhật từ khâu thu gom, vận chuyển đến xử lý chất thải. Có nhiều công nghệ để xử lý phù hợp từng loại chất thải như sau: * Đối với chất thải lỏng, xử lý bằng phương pháp hoá rắn, chiếm tỉ lệ 37,8%. * Đối với chất thải axit và kiềm xử lý bằng phương pháp trung hòa, chiếm 5,6%. * Chất thải dạng bùn chứa kim loại nặng xử lý bằng phương pháp tách nước, chiếm 23,8%. * Đối với chất thải có chứa dầu và chất dễ cháy được xử lý bằng đốt chiếm 11%. Cặn tro sau xử lý trên (gọi là trung gian) sẽ được chôn lấp. Hiện nay khu xử lý chất thải công nghiệp đã tiến hành giai đoạn đầu xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật xử lý trung gian, bãi chôn lấp, xử lý nước rác và phương tiện thu gom vận chuyển. Lò đốt rác, phòng thí nghiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng đang được xây dựng, lắp đặt. 4.2. Khu chế biến phân compost Dự kiến khu này nằm ở phía tây bắc, diện tích là 9 ha, thuộc khu vực 2 của khu liên hiệp có thể mở rộng ra các ô chôn lấp. Công nghệ sản xuất là quá trình lên men hiếu khí phân huỷ các chất hữu cơ, nghiền phân loại, sản phẩm thu được là phân vi sinh đóng bao còn chất thải trơ chôn lấp. Nguyên liệu là rác thải sinh hoạt có tỉ lệ hữu cơ cao. Công suất chế biến là 800 tấn chất thải /ngày (khoảng 250.000 đến 280.000 tấn/năm) và nhập men công nghệ Mỹ là 6,85 tấn/năm, sản xuất ra 100.000 tấn phân compost 1 năm. 4.3. Nhà máy tái chế rác thải thành điện Được dự kiến xây dựng nằm phía đông nam khu liên hiệp, diện tích đất khoảng 7 ha nằm phía chân núi Dũng. Cần diện tích mặt bằng chính dành cho các cụm công trình : khu chứa rác, khu tua bin máy phát, khu lò hơi tầng sôi tuần hoàn, khu tháp làm mát, khu phụ trợ công trình kỹ thuật, diện tích đất khu phô. Nhà máy dự kiến xây dựng vào năm 2006, công suất yêu cầu tái chế 330 tấn/ngày rác thải rắn và 755 tấn/ngày than nội địa. CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI I. HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THU GOM, VẬN CHUYỂN RÁC THẢI 1.1. Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải 1.1.1. Hoạt động thu gom rác thải Hoạt động thu gom rác thải của nước ta nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng chủ yếu vẫn dùng phương pháp thủ công, thu gom bằng các xe đẩy tay do các công nhân vệ sinh thực hiện. Do được thực hiện bằng các biện pháp thủ công nên chi phí về thời gian và nhân công rất lớn. Theo thống kê số công nhân của Công ty môi trường đô thị Hà Nội thực hiện công việc thu gom rác hàng ngày là 1961 người. Chi phí dành cho hoạt động thu gom rác là CPTG = CPCN + CPCC + CPQL Trong đó : CTG : Chi phí cho công tác thu gom. CCC : Chi phí cho công nhân thu gom. CCC : Chi phí cho công cụ, dụng cụ thu gom. CQL : Chi phí cho quản lý. Chi phí cho công nhân thu gom Tiền lương và phụ cấp Lương và phụ cấp cho công nhân tính trung bình là 900.000đ/người/tháng. Do đó chi phí lương công nhân cho 1 tháng là : 700.000 x 1961 = 13.727.000.000 (đ) Bồi dưỡng độc hại Bồi dưỡng độc hại được tính theo định mức 3000đ/người/ngày. Trung bình 1 tháng người lao động phải làm việc 26 ngày. Þ Chi phí này là : 1961 x 26 x 3000 = 152.958.000 (đ) Bảo hiểm tai nạn Bảo hiểm tai nạn tính theo định mức 14.000 đ/người/năm Þ Chi phí là : (14.000 x 1961)/ 12 = 2.287.833 (đ) Chi phí bảo hộ lao động Chi phí bảo hộ lao động cho 1 người là 300.000 đ/người/năm Þ Chi phí là : (300.000 x 1961) / 12 = 49.025.000 (đ) Vậy tổng chi phí cho người lao động thực hiện thu gom rác thải là : CCN = 13.727.000.000 + 152.958.000 + 2.287.833 + 49.025.000 = 13.931.270.830 (đ) Chi phí cho công cụ, dụng cụ Ta có bảng tính cho chi phí công cụ, dụng cụ lao động trong 1 tháng như sau : Bảng 3.1 : Bảng giá thành và chi phí công cụ, dụng cụ Chỉ tiêu Định mức Đơn giá (đ/cái) Thành tiền (đ) Chổi dài 1,2m 2cái/người/tháng 3.000 11.766.000 Chổi 0,8m 1cái/người/tháng 2.000 3.922.000 Xẻng 1cái/người/6 tháng 6.000 1.961.000 Kẻng 1cái/2người/2năm 10.000 408.500 Cuốc 1cái/2người/2năm 6.000 245.125 Xe gom rác 1xe/2người/1,5năm 1.350.000đ 73.357.500 Chi phí sửa chữa dụng cụ 5.000.000 Tổng 96.660.125 Tổng (1+2) = 14.027.930.960 (đ) Chi phí cho quản lý : Chi phí quản lý của phường cho công tác hành chính, tuyên truyền, vận động (10%) là 1.402.793.096 Chi phí quản lý công tác thu gom (5%) là : 701.396.548 (đ) Þ Tổng chi phí cho công tác quản lý là : CQL = 1.402.793.096 + 701.396.548 = 2.104.189.644 (đ) Tổng hợp chi phí cho công tác thu gom ta được : CTG =13.931.270.830 + 96.660.125 + 2.104.189.644 (đ) = 16.132.120.610 (đ) 1.1.2. Tính toán giá thành và kinh phí vận chuyển Căn cứ vào biên bản tính toán chi phí của tổ chuyên viên liên ngành, giá thành và kinh phí vận chuyển rác cụ thể như sau : Bảng 3.2 : Giá thành vận chuyển rác từ thành phố đi Nam Sơn. TT Chỉ tiêu Xe chuyên dùng 1 Cù li tính cước vận chuyển 60,773 km 2 Cước phổ thông đường loại 1, hàng bậc 3 588,9 đ/Tkm 3 Cước phổ thông đường loại 3, hàng loại 3 928,2 đ/Tkm 4 Cước vận tải tính cho 1 tấn hàng: - 38 km đường loại 1 - 23 km đường loại 3 43.525,3 đ/T 22.362,3 đ/T 21.163 đ/T 5 Các hệ số tính theo cước cơ bản - Phương tiện có thiết bị tự đổ - Chở thiếu tải 6.528,8 đ/T 4.352,5 đ/T 6 Các loại phụ phí: 13,500 đ/T 7 Trích 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi 2.037,2 đ/T Tổng cộng 69.644 đ/T (Nguồn : NCKT dự án khu liên hiệp Nam Sơn) Theo như phần thực trạng ở trên ta đã trình bày, lượng rác thải thu gom được năm 2000 là 534.938 tấn. Ta sẽ tính chi phí vận chuyển rác cho năm 2000. Theo bảng 3.2 ở trên, đơn giá vận chuyển cho 1 tấn rác là 69.644 đ/tấn. Do đó chi phí vận chuyển rác cho 1 tháng sẽ là : CVC = (534938 x 69.644)/12 = 3.104.601.663 (đ) 1.1.3. Tổng hợp chi phí thu gom, vận chuyển rác thải Do đó ta có tổng hợp chi phí cho công tác thu gom và vận chuyển rác trong thành phố là : åC = CTG + CVC = 16.132.1206.610 + 3.104.601.663 = 19.236.722.270 (đ) 1.2. Xác định số thu phí vệ sinh Theo pháp lệnh phí và lệ phí của Nhà nước quy định, phí vệ sinh cho dịch vụ thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt tính theo đầu người là 1000đồng 1 tháng. Theo như trình bày ở chương II, công tác thu phí chỉ đạt được 70 – 75% tổng số dân trên toàn thành phố. Ta giả sử tỉ lệ phí thu được trên địa bàn là 75%. Với dân số Hà Nội tính cho năm 2000 là 2.930.600 người, ta có thể tính được tổng số phí thu được trên địa bàn thành phố Hà Nội như sau : åB = 2.930.600 x 1000 x 75% = 2.197.950.000 (đ) 1.3. Hiệu quả tài chính của công tác thu gom, vận chuyển rác thải Để đánh giá hiệu quả tài chính của một hoạt động ta có thể xem xét trên hai góc độ. Lợi nhuận tuyệt đối : Lợi nhuận tuyệt đối là hiệu của tổng lợi Ých trừ đi tổng chi phí phải bỏ ra. D = åB - åC Lợi nhuận tương đối : Lợi nhuận tương đối được xác định là thương của tổng lợi Ých trên tổng chi phí Áp dụng các công thức trên ta có thể đánh giá được hiệu quả tài chính của hoạt động thu gom và vận chuyển rác của Nhà nước D = 2.197.950.000 - 19.236.722.270 = - 17.038.772.270 (đ) < 0 Qua kết quả trên ta thấy, nếu đứng trên góc độ tài chính thì hoạt động thu gom vận chuyển rác thải của Nhà nước không mang lại hiệu quả về mặt tài chính, lợi nhuận tuyệt đối thu được là âm và tỉ suất lợi nhuận thu được rất nhỏ, gần bằng không. II. CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI VÀ VẤN ĐỀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG 2.1. Lợi Ých thực của hoạt động quản lý rác thải Theo kết quả tính toán trên phải chăng với công tác quản lý rác thải của thành phố Nhà nước đã bị “lỗ” nặng, còn người dân thì hưởng lợi Ých trên? Thực tế không phải như vậy. Trong thực tế người dân không chỉ được hưởng những lợi Ých trên mà còn nhiều những lợi Ých khác mà chúng ta không thể lượng hoá được bằng tiền. Những con số cụ thể ở trên nó chỉ thể hiện một phần những chi phí và lợi Ých về mặt tài chính của công tác thu gom và vận chuyển rác mà người dân được hưởng. Đứng trên góc độ người dân để phân tích, thì những chi phí mà Nhà nước bỏ ra trên chính là những lợi Ých mà dân được hưởng, còn những lợi Ých do công tác thu phí lại là chi phí mà người dân phải bỏ ra cho việc thải rác ra môi trường. Do đó mà với hoạt động thu gom và vận chuyển rác thải của Nhà nước, người dân đã thu được lợi Ých về mặt tài chính là 17.038.772.270 đồng 1 tháng. Mà trong thực tế những chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra không chỉ là những chi phí cho công tác thu gom và vận chuyển mà nó còn bao gồm cả những chi phí để xử lý rác mà chúng ta chưa tính ở đây. Do đó xét về mặt lợi Ých tài chính thì người dân không chỉ được hưởng những lợi Ých tính được ở trên mà nó còn bao gồm cả lợi Ých từ chi phí bỏ ra của Nhà nước để xử lý lượng rác thải tạo ra hàng ngày. Khi Nhà nước tiến hành công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải không những chỉ tạo ra những lợi Ých về mặt tài chính cho người dân như chúng ta đã phân tích ở trên mà người dân còn được hưởng những lợi Ých về mặt môi trường mà chúng ta không thể lượng hóa được bằng tiền. Công tác quản lý rác thải nếu được làm tốt và thực hiện thường xuyên sẽ tạo ra được một môi trường sống trong lành, sạch đẹp cho xã hội và cộng đồng. Môi trường trong sạch sẽ góp phần tạo cho cộng đồng một cuộc sống thoải mái và khoẻ mạnh, tăng lượng ôxi và giảm nồng độ các khí độc hại do chính rác thải gây ra. Nếu như lượng rác thải không được thu gom và vận chuyển đi hàng ngày mà vẫn để lưu lại trong thành phố thì do đặc tính của rác thải sinh hoạt có thành phần hữu cơ cao, dễ phân huỷ đặc biệt trong thời tiết nóng Èm như của nước ta sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, là nguồn lây lan các loại dịch bệnh. Việc làm trong lành không khí không chỉ đem lại lợi Ých về mặt môi trường cho người dân mà nó còn đem lại những lợi Ých về kinh tế. Khi môi trường trong lành các hoạt động kinh tế cũng phát triển hơn. Có thể lấy ví dụ điển hình đối với hoạt động du lịch. Môi trường trong lành sẽ thu hút khách du lịch từ các nơi về thăm quan do đó các hoạt động kinh tế trong ngành du lịch hay các ngành dịch vụ theo đó mà cũng tăng trưởng theo. Một vấn đề khác được đặt ra là phải chăng nhân dân được hưởng lợi từ hoạt động quản lý rác của Nhà nước còn Nhà nước phải chịu phần “lỗ”. Cũng không phải như vậy. Giữa chỉ tiêu chất lượng môi trường và chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi môi trường được quan tâm, bảo vệ thì nó cũng là một động lực cho phát triển kinh tế. Đặc biệt với vai trò là trái tim của cả nước, là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị, trung tâm giao lưu quốc tế, Hà Nội có tầm quan trọng to lớn đối với cả nước. Nhà nước tiến hành các hoạt động vệ sinh môi trường nhằm thu được những lợi Ých to lớn khác mà không thể lượng hoá chính xác bằng tiền như những lợi Ých về bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, những lợi Ých về tăng trưởng kinh tế mà môi trường trong sạch đem lại, những lợi Ých về chính trị… Ngay cả khi vì mục tiêu xã hội và môi trường mà người ta cho rằng chính những chi phí bỏ ra cho công tác quản lý rác thải là lợi Ých mà Nhà nước thu được, còn những khoản tiền do thu phí của nhân dân lại chính là những chi phí. Do đó đứng trên góc độ của nhà quản lý thì lợi nhuận từ công tác thu gom rác thải là dương. 2.2. Công tác quản lý rác thải và những thất bại thị trường Khi người dân sử dụng dịch vụ môi trường của Nhà nước là hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải đáng lẽ phải bỏ ra một khoản chi phí để được phục vụ. Nhưng trên thực tế người dân chỉ phải bỏ ra một khoản phí rất nhỏ so với những chi phí mà Nhà nước đã bỏ ra. Khoản phí đó so với những lợi Ých mà người dân thu được là gần như bằng không. Mặt khác phí xả thải như hiện nay Nhà nước quy định đối với nhân dân có tính chất bình quân có nghĩa là dù lượng rác đổ ra nhiều hay Ýt đều chỉ phải đóng số tiền như nhau. Đó chính là những nguyên nhân gây ra thất bại thị trường của dịch vụ môi trường, lợi Ých của toàn xã hội là không tối đa, mục tiêu về kinh tế và mục tiêu về môi trường đều không đạt được. Ở đây công tác quản lý rác thải đóng vai trò là một loại dịch vụ môi trường do Nhà nước cung cấp cho nhân dân. Hàng hóa này cũng có đầy đủ các tính chất của một loại hàng hoá công cộng. - Tính không loại trừ : Trong thực tế khi công tác quản lý rác thải của Nhà nước diễn ra thì ai cũng được hưởng lợi từ dịch vụ này mà không thể từ chối bất cứ một người nào. Việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải làm cho môi trường trong sạch, bất cứ ai sống trong môi trường đó cũng chính là đang hưởng lợi Ých của hoạt động này dù người đó có đóng phí hay không. - Chi phí cận biên bằng không : Do quy định của Nhà nước thu phí là 1000đ/người/tháng nên dù người dân có đổ rác nhiều hay Ýt cũng không phải trả thêm khoản tiền cho lượng rác tăng thêm đó. Gi¸ c¶ hoÆc chi phÝ L­îng r¸c 0 CÇu (D) Cung (chi phÝ cËn biªn = 0) Có thể xác định cơ chế giá đối với dịch vụ vệ sinh môi trường như sau: Chính cơ chế giá cả của hoạt động này đã tạo nên những thất bại của thị trường, giá cả không phản ánh đúng giá trị mà dịch vụ đem lại. Đối với những hàng hóa công cộng, việc giá xác định không đúng hay chi phí cận biên bằng không đã thúc đẩy việc sử dụng quá mức hoặc sử dụng một cách lãng phí nguồn lực dẫn đến suy thoái và gây ảnh hưởng đến môi trường. Như dịch vụ về rác thải mà chúng ta đang phân tích, việc giá cả không chính xác và chi phí cận biên bằng không đã dẫn đến việc người dân không có ý thức bảo vệ môi trường sống của chính mình. Lượng rác thải vẫn hàng ngày tăng lên, rác được đổ không đúng quy định, xả rác bừa bãi ra đường, thậm chí ngay cả khi công nhân thu gom rác vừa đi qua họ đã đổ ngay rác ra đường… Trong một bộ phận người dân còn có tâm lý cho rằng việc Nhà nước phải tiến hành các hoạt động dịch vụ vệ sinh này là đương nhiên và việc họ đóng một phần phí vệ sinh rác thì họ có quyền đổ rác bừa bãi “để tạo công ăn việc làm cho công nhân vệ sinh”. III. VẤN ĐỀ XỬ LÝ RÁC THẢI Hiện nay việc xử lý rác thải của nước ta chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp chôn lấp. Đối với khu vực Hà Nội, việc xử lý chôn lấp rác thải được tiến hành tại bãi rác Nam Sơn. Như trên ta đã phân tích có nhiều phương pháp khác nhau để xử lý rác thải nhưng chúng ta vẫn chọn phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh. Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh được lựa chọn bởi lẽ giá thành để xử lý rác thải là rẻ, phù hợp với điều kiện của nước ta còn khó khăn. Tuy nhiên có phải giá thành để xử lý rác bằng phương pháp chôn lấp là rẻ như đã xác định không? (Theo như tính toán giá thành để xử lý 1 tấn rác thải khoảng 20.000đ). Bãi rác Nam Sơn được quy hoạch và xây dựng trở thành khu chôn lấp chất thải hợp vệ sinh. Tuy nhiên trong thực tế thì bãi rác đã thực sự đạt được tiêu chuẩn chưa ? Theo như phần phân tích thực trạng ở trên, trong thực tế bãi chôn lấp chất thải Nam Sơn vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Đó là tình trạng ô nhiễm không khí do mùi phát ra từ rác đang phân huỷ và ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm đất do nước rác chảy ra. Những ô nhiễm này sẽ do người dân xung quanh vùng phải gánh chịu. Đó là những ảnh hưởng về sức khoẻ, tổn hại đến hoa màu xung quanh vùng, ảnh hưởng đến nguồn nước… Nếu tình trạng ô nhiễm không được khắc phục, ô nhiễm môi trường trở nên nặng nề thì chi phí cho việc xử lý ô nhiễm sẽ là rất lớn thậm chí có thể tiến tới vô cùng. Chi phí này chính là những chi phí mà chúng ta chưa xét đến trong chi phí xử lý. Hoạt động xử lý rác thải đã tạo nên một ngoại ứng tiêu cực mà những chi phí do ngoại ứng này gây nên sẽ do xã hội gánh chịu. Nếu những chi phí này chúng ta không tính đến thì chính thế hệ sau sẽ phải gánh toàn bộ những hậu quả sau này. Qua đó ta thấy việc xử lý rác bằng chôn lấp đã tạo ra những ngoại ứng tiêu cực. Ngoại ứng tiêu cực là nguyên nhân gây nên sự thất bại của thị trường, cơ cấu giá là thất bại, giá cả của hoạt động này được xác định không chính xác. Việc thất bại thị trường làm cho lợi Ých của xã hội giảm đi. Mục tiêu của xã hội là tối đa hoá lợi Ých, vừa đạt được mục tiêu về phát triển vừa đảm bảo cho môi trường được bảo vệ. Mặt khác trong chi phí cho việc xử lý bằng chôn lấp chưa tính đến chi phí cho việc sử dụng tài nguyên đất. Xử lý rác bằng phương pháp chôn lấp cần phải sử dụng quỹ đất rất lớn. Mặc dù trong hiện tại quỹ đất của Hà Nội còn dồi dào, nhưng chưa ai xác định được quỹ đất chưa sử dụng còn tồn tại trong bao lâu nữa. Tốc độ đô thị hoá của Hà Nội là rất lớn, dân số ngày một tăng nhanh trong khi đất đai không thể tăng lên, sinh sôi nảy nở. Vì thế trong tương lai chắc chắn quỹ đất của Hà Nội sẽ trở nên khan hiếm. Hậu quả này cũng là do thế hệ mai sau phải gánh chịu. Khi đó chi phí cho việc xử lý rác bằng chôn lấp chắc chắn sẽ không còn là rẻ nữa. CHƯƠNG IV CÁC GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI I. MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ RÁC THẢI TẠI HÀ NỘI Quản lý tốt rác thải tại Hà Nội là mục tiêu quan trọng của thành phố và của nước ta hướng tới sự phát triển bền vững. Mục tiêu chung của chiến lược quản lý rác thải thủ đô Hà Nội là : Từng bước hình thành và thực hiện hệ thống quản lý rác thải tại thành phố trung tâm và các đô thị một cách đồng bộ, khoa học, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý môi trường Thủ đô nói chung, bảo vệ sức khoẻ trong lành, tạo nên sự phát triển hài hòa và bền vững của Thủ đô. Mục tiêu cụ thể : Mục tiêu môi trường : - Đảm bảo thu gom, xử lý 100% chất thải của thành phố vào năm 2010. - Đảm bảo tỉ lệ xử lý : 70% chôn lấp, 10% tái chế, 5% đốt (rác bệnh viện, rác công nghiệp), 15% sản xuất phân compost vào những năm sau năm 2000. - Giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường gây ô nhiễm : nguồn nước, đất đai, không khí. Đảm bảo cảnh quan đô thị. - Bảo vệ sức khẻo của nhân dân thành phố, nhân dân sống gần khu vực xử lý, công nhân viên chức trực tiếp làm việc. - Tận dụng thành phần chất hữu cơ trong chất thải để cải tạo đất. Mục tiêu xã hội : - Nâng cao nhận thức của nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường. - Giảm tối đa công tác phục vụ cho chôn lấp. - Tạo một phần công ăn việc làm cho xã hội. - Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia với Nhà nước các công việc vệ sinh môi trường. - Là cơ sở cho việc hoàn chỉnh pháp luật, quy tắc, quy chế cho việc quản lý chất thải rắn. Mục tiêu về tài chính : - Nâng cao hiệu quả của việc quản lý rác thải. - Giảm một phần cho Ngân sách . - Tăng thu nhập cho người lao động tham gia việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải. - Giảm dần sự phụ thuộc của Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội vào ngân sách Nhà nước. - Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào công tác vệ sinh môi trường. II. TỔ CHỨC QUẢN LÝ RÁC THẢI Tổ chức quản lý rác thải là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Nguyên nhân gây ra những thất bại thị trường trong công tác quản lý rác thải chính là do dịch vụ vệ sinh môi trường của thành phố được coi là hàng hoá môi trường và do Nhà nước quản lý. Do đó vấn đề cần đặt ra là phải tạo ra sự cạnh tranh trong các hoạt động, làm thay đổi nhận thức của mọi người rằng dịch vụ này không chỉ độc quyền của Nhà nước, cần lôi kéo các thành phần kinh tế khác vào tham gia. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta cho rằng công tác quản lý rác thải phải được xã hội hoá sâu rộng và là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong việc quy hoạch xây dựng kế hoạch phát triển và quản lý các đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam. Khuyến khích và đa dạng hoá các thành phần kinh tế cùng tham gia quản lý rác thải. Tất cả các khâu thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng và xử lý rác thải cần phải được quan tâm ở mọi cấp chính quyền và phải được thực hiện trên cơ sở một khung pháp lý đồng bộ về Luật pháp, tổ chức, kinh tế, tài chính… Căn cứ vào đường lối chiến lược, chủ trương của thành phố và điều kiện thực tế, việc xây dựng mô hình tổng thể quản lý chất thải rắn của thành phố Hà Nội như sau : * Doanh nghiệp Nhà nước : đảm bảo các khâu có vai trò chủ đạo như khâu thu gom, khâu vận chuyển và xử lý chất thải . Đặc biệt duy trì vệ sinh tại các khu trung tâm, khu vực quan trọng và các tuyến phố chính sẽ do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm. * Các thành phần kinh tế khác : Để thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mọi đối tượng, Chính quyền thành phố cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác đảm nhận các khâu thu gom rác tại các khu vực ngõ xóm, khu vực ven đô và một phần công tác vận chuyển. Bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Việc lôi cuốn các thành phần kinh tế khác vào công tác quản lý rác thải sẽ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mọi đối tượng đặc biệt là giảm được gánh nặng ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm nguồn tài chính cho công tác quản lý rác thải. Tuy nhiên, việc xã hội hoá này còn có nhiều vấn đề khó khăn, bởi lẽ đây là lĩnh vực không thu được lợi nhuận cao. Nhà nước cần có các biện pháp ưu đãi để các công ty tư nhân hoặc các đơn vị khác tham gia vào lĩnh vực này. Trước mắt nên giao cho tư nhân tham gia vào lĩnh vực thu gom và vận chuyển một phần rác dưới sự giám sát của cấp cơ sở (phố, phường). Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia dưới các hình thức liên doanh, BOT, 100% vốn nước ngoài để đầu tư cho khâu xử lý rác thải mang tính công nghệ hiện đại. Hiện nay Công ty Môi trường đô thị đã và đang xây dựng các dự án để kêu gọi các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài nhằm đầu tư phát triển dưới nhiều hình thức trong những năm tới. Trong đó tập trung vào triển khai dự án xử lý rác thành phân vi sinh bằng nguồn vốn ODA của chính phủ Tây Ban Nha, dự án xin cung cấp thiết bị khẩn cấp cho công tác vệ sinh môi trường ở Hà Nội. III. GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC VẬN CHUYỂN Ở nước ta trong hiện tại và tương lai, việc xử lý rác thải bằng phương pháp chôn lấp vẫn là chủ yếu. Với mục tiêu đối đa hoá lợi Ých công tác quản lý, trước mắt cần có biện pháp giảm chi phí, cụ thể là giảm chi phí vận chuyển rác thải. Khu chôn lấp rác thải đô thị được quy hoạch tại bãi Nam Sơn Sóc Sơn. Khu này ở vị trí khá xa so với trung tâm thành phố (khoảng 60 km) mà hiện tại việc vận chuyển rác từ thường được vận chuyển thẳng tới bãi Nam Sơn bằng các xe tải nhỏ có công suất từ 6 - 8 m3. Việc sử dụng các xe tải nhỏ khiến chi phí vận chuyển rác thải cao lên. Điều này có thể khắc phục được nếu chúng ta sử dụng các loại xe to để chuyên chở rác lên bãi Nam Sơn. Do đó đòi hỏi phải có các trạm trung chuyển để tập trung rác từ các nơi trong thành phố. Trạm trung chuyển thường được đặt gần khu vực thu gom nơi mà các xe thu gom có thể đổ rác của chúng xuống sau đó rác lại được chất lên những xe tải lớn hơn để chuyển một cách kinh tế đến bãi rác ở nơi xa hơn. Các trạm trung chuyển được dùng để tối đa hoá năng suất lao động của đội ngũ thu gom và đội xe, giảm tối đa chi phí vận chuyển rác đến nơi xử lý. Chúng có thể được dùng để củng cố thêm lượng rác thu gom từ các xe khác nhau và chúng thường được bố trí sao cho thời gian đi và khoảng cách mà các xe phải chạy bên ngoài vòng thu gom bình thường là nhỏ nhất. Các trạm trung chuyển còn có thể được dùng để thực hiện một chức năng quan trọng là giảm lượng rác thải đến bãi chôn lấp chung của thành phố và sử dụng lại các vật liệu có khả năng thu hồi và tái chế, tạo điều kiện cho những người nhặt rác thực hiện việc phân loại rác để tái sử dụng lại ngay tại các trạm này. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển việc xây dựng các trạm trung chuyển là cần thiết. Xem xét kinh nghiệm của Nhật Bản ta có thể thấy một cách trực quan tính kinh tế của việc sử dụng các xe to vận chuyển rác khi có trạm trung chuyển so với vận chuyển một cách trực tiếp bằng các loại xe nhỏ. Bảng này chỉ ra rõ ràng những ưu thế của việc sử dụng những phương tiện tiết kiệm năng lượng cho việc vận chuyển những khối lượng lớn rác thải từ điểm chuyển tiếp đến bãi chôn lấp. Bảng 4.1 : So sánh hai phương án vận chuyển rác Chỉ tiêu Chuyển trực tiếp bằng xe thu gom Chuyển qua trạm trung chuyển bằng xe lớn Chi phí vận tải đơn vị USD Xe đổ rác kín 8m3 2chuyến/ngày sử dụng 7 năm (giá 15.000USD/xe) Xe vận chuyển lớn 30m3 4 chuyến/ngày sử dụng 7 năm (giá 60.000USD/xe) Khấu hao xe hàng năm 2.200 7.600 Lương cho lái xe 1.600 2.200 Lương cho đội ngũ công nhân 5.500 (5 người) 1.100 (1 người) Bảo hiểm, thuế 1.500 2.000 Bảo dưỡng, vận hành hàng năm 3.800 15.000 Tổng chi phí vận chuyển 14.600 28.900 Chi phí tính cho 1m3 rác thải 2,5/m3 0,66/m3 * Xác định vị trí các trạm trung chuyển Mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng các trạm trung chuyển là giảm thiểu chi phí vận chuyển rác tới nơi xử lý. Khoảng cách giữa điểm thu gom và trạm trung chuyển càng ngắn thì chi phí cho nhiên liệu và các chi phí vận hành khác trong hoạt động thu gom tuyến 1 càng giảm. Ô nhiễm không khí do khí thải của xe tải chuyên dùng chở rác cũng giảm đi. Trên cơ sở đánh giá, lựa chọn các trạm trung chuyển về quãng đường, địa điểm đặt có đường vận chuyển thuận lợi và điều kiện về đất đai, khí hậu lựa chọn 3 trạm trung chuyển sau : - Tây Mỗ : hiện đang thực hiện chở rác thải còn lại sau khi chế biến phân compost. - Đông Ngạc : dự kiến 5 ha, hiện đang xin cấp đất để xây dựng. - Đức Giang : dự kiến 5 ha. Với phương án vận chuyển này phải từng bước đầu tư trang thiết bị : - Các xe cuốn Ðp rác thải các loại nhỏ từ 1 – 2 tấn sử dụng thu gom, vận chuyển trong các ngõ, phố hẹp. - Các xe có trọng tải 2 – 6 tấn sử dụng trong các đường phố, khu dân cư, khu tập thể. - Các xe có trọng tải > 6 tấn vận chuyển các container. - Các xe chuyên dụng đảm nhận vận chuyển từ trạm trung chuyển lên bãi Nam Sơn, loại chở container có tải từ 18 – 24 tấn. IV. GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM LƯỢNG RÁC THẢI Như trên ta đã phân tích, lượng rác thải đang có xu hướng ngày càng tăng mạnh, đặt ra nhiều vấn đề đối với công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Mặt khác điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, công nghệ còn lạc hậu nên việc xử lý rác thải còn nhiều hạn chế. Biện pháp xử lý chủ đạo vẫn là chôn lấp. Phương pháp này có chi phí phù hợp nhưng lại tốn nhiều diện tích đất đai. Mặc dù mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm nhưng việc sử dụng các lô chôn lấp giai đoạn 1 đã vượt mức dự kiến. Giải pháp giảm lượng rác thải là biện pháp phòng ngừa chủ động có tính hữu hiệu nhất. Giảm lượng rác thải cũng chính là một giải pháp để bảo vệ nguồn tài nguyên. Tỉ lệ phát sinh chất thải rắn cao ám chỉ tốc độ cao của việc khai thác các vật liệu thô sơ khai. Theo dự báo do mức sống và sinh hoạt của người dân đô thị ngày càng tăng nên xu hướng những thành phần có giá trị trong chất thải sẽ tăng lên. Do đó cần chú trọng phát triển áp dụng các công nghệ thu hồi tái chế như : phân loại từ nguồn, phân loại ở các trạm xử lý tập trung, áp dụng công nghệ thu hồi dùng lại và tái chế tập trung, từng bước xây dựng công nghiệp tái chế rác thải trong hệ thống quản lý rác thải của thành phố Hà Nội. 4.1. Các công cụ kinh tế Công cô kinh tế là một trong những công cụ quan trọng nhất để bảo vệ môi trường đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới đặc biệt là trong các nước công nghiệp phát triển (OECD). Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên nguyên tắc cơ bản đã được Quốc tế thừa nhận là “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và “nguyên tắc người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP). Ở Việt Nam quan niệm công cụ kinh tế như là một phương tiện chính sách quản lý môi trường là điều hoàn toàn mới mẻ, nhưng chúng ta đã từng bước đổi mới, nhìn nhận khôn khéo và khách quan hơn trong việc quản và điều hành nền kinh tế của đất nước. 4.1.1. Phí vệ sinh môi trường Hiện nay ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng hoạt động vệ sinh môi trường đô thị chỉ mang tính chất là hoạt động công Ých. Chi phí cho các hoạt động này do Ngân sách Nhà nước cấp. Nhà nước cũng tiến hành thu phí đối với các dịch vụ vệ sinh môi trường này. Mức phí bình quân đầu người là 1000đ/người. Tuy nhiên hoạt động thu phí chỉ mang tính chất bình quân đầu người và nhằm mục đích giảm gánh nặng Ngân sách cho Nhà nước chứ chưa làm cho người dân thấy rõ tầm quan trọng của loại dịch vụ này. Việc thu phí tính trên mức bình quân này đã không khuyến khích được người dân giảm lượng rác thải mà lượng rác theo thống kê vẫn ngày càng tăng lên. Nhằm biện pháp giảm lượng rác thải của người dân theo tôi thiết nghĩ cần có sự thay đổi đối với việc thu phí vệ sinh. Chóng ta có thể học tập kinh nghiệm của các nước đối với việc thu phí thông qua số túi rác hoặc số thùng rác. Nhà nước có thể tiến hành sản xuất riêng một loại túi có khả năng phân huỷ nhanh bán cho các hộ gia đình và quy định phải sử dụng các túi này để đựng rác. Giá của một túi rác tương đương với phí đổ lượng rác thải đựng trong tói. Cũng có thể sử dụng công cụ phí để khuyến khích người dân phân loại rác tại nguồn. Đối với những rác thải có thể tái sinh như giấy, bìa, kim loại, chai lọ thì để riêng ra loại túi khác. Kích thước, màu sắc các loại túi cần quy định rõ để phân biệt túi đựng cho các loại rác khác nhau. Giá mua loại túi rác này có thể rẻ hơn túi rác chung nhằm khuyến khích người dân phân loại rác tại nguồn. Lượng chệnh lệch giữa hai loại túi có thể là chi phí để phân loại rác. Với biện pháp này có thể khiến các gia đình hạn chế lượng rác thải, tận dụng tối đa mọi vật chất. Đối với các công sở, trường học có thể sử dụng hợp lý, tiết kiệm tránh bỏ phí các loại vật liệu như giấy viết, giấy phô tô… Hơn nữa với biện pháp này có thể tăng thêm nguồn thu vào bù đắp chi phí bỏ ra. Nếu thực hiện biện pháp này cũng có thể lôi kéo các thành phần kinh tế khác tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển do phần thu vào cho hoạt động được đảm bảo hơn. Hệ thống thu gom chất thải rắn ở New Jersey minh hoạ thêm về tính hiệu quả của hệ thống trả phí theo từng túi rác. Tại đây mỗi thùng hoặc túi 120 lit đặt tại lề đường để thu gom hàng tuần cần có một tem dán của thành phố. Kể từ khi áp dụng hệ thống này năm 1988, khối lượng rác cư dân đã giảm đi 25%, khối lượng rác thu gom đã giảm từ 8,5 tấn mỗi ngày xuống còn 6,3 tấn mỗi ngày. Nếu mỗi người dân thành phố giảm lượng rác thải từ 0,6 kg/người/ngày xuống còn 0,5 kg/người/ngày thì với số dân khoảng 2,5 triệu người, lượng rác thải trong thành phố có thể giảm 250 tấn /ngày. Với chi phí vận chuyển đi bãi Nam Sơn là 70.000 đồng/tấn + chi phí xử lý rác tại bãi chôn lấp là 20.000 đồng/tấn. Do đó nếu giảm lượng rác thải chúng ta có thể tiết kiệm được cho Ngân sách là : 250 tấn* (70.000 + 20.000) = 22.500.000 đồng/ngày. Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra cho chóng ta là xác định được mức phí như thế nào cho hợp lý để người dân có thể chấp nhận được. 4.1.2. Hệ thống ký quỹ – hoàn trả Các hệ thống ký quỹ – hoàn trả biểu hiện mối liên hệ giữa thuế và trợ cấp. Các loại thuế, phí, lệ phí đặc biệt đối với các khách hàng được thiết kế để khuyến khích tái chế, ngăn ngừa ô nhiễm. Công cụ này thường được áp dụng với các loại chai lọ, vỏ hộp nước giải khát có thể tái chế, tái sử dụng. Nếu khách hàng đem trả lại bao bì nước giải khát họ sẽ được trả lại một khoản tiền nhất định nào đó. Số tiền đó chính là số tiền ta đã đặt cho cửa hàng khi mua hàng. Sự kích thích kinh tế này đủ để tạo ra được các hành vi mong muốn. Ở Hà Nội phương pháp này đã được áp dụng đối với vỏ chai bia và vỏ chai nước ngọt. Mặc dù hình thức này diễn ra tù phát ở các doanh nghiệp nhưng nó đã tỏ ra rất hữu hiệu. Với biện pháp này phần lớn các chai bia và chai nước ngọt đã được thu về để tái sử dụng cho chu kỳ sản xuất sau. Trong số rác thải đổ ra hầu như không thấy các loại chai này. Công cụ này có thể được áp dụng đối với bất kỳ loại sản phẩm nào mà chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sử dụng, tái quay vòng. Việc sử dụng công cụ này có thể làm tăng tỉ lệ thu hồi rác thải có khả năng tái chế và giảm lượng rác thải cần phải xử lý chôn lấp. Cần có những biện pháp, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các ngành dịch vụ thải ra chất thải rắn và có khả năng tái sinh : đồ thuỷ tinh, đồ nhựa, giấy… áp dụng hệ thống này, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trong thực tế các hệ thống ký quỹ – hoàn trả tỏ ra có hiệu quả hơn là các hệ thống tự nguyện hoàn trả bởi lẽ chúng đền đáp cho các hành vi tốt. Theo cách nhìn hành chính, những hệ thống này có hiệu quả. Chúng không đòi hỏi sự giám sát hay những sự liên quan của các nhà cầm quyền. 4.2. Các công cụ pháp lý Hai phương cách chính để kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải là Mệnh lệnh và Kiểm soát (CAC) và chiến lược kinh tế. Khi khởi đầu các chính sách môi trường ở phần lớn các nước công nghiệp hoá thường có xu hướng sử dụng Mệnh lệnh và Kiểm soát như một chiến lược chính thống trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải. Tại Việt Nam nhận thức của người dân về môi trường còn thấp, thói quen xả rác ra đường còn nặng nề. Một phần lớn dân cư đều tuỳ tiện vứt rác ra đường, ngay cả tầng lớp thanh niên trí thức như học sinh, sinh viên những người có đầy đủ nhận thức về tầm quan trọng của môi trường, hiểu biết về lối sống văn minh, lịch sự. Thậm chí một số người còn có lý sự “cùn” cho rằng xả rác ra đường để tạo công ăn việc làm cho công nhân môi trường. Như phần thực trạng ta đã đề cập đến, hàng ngày chúng ta đã lãng phí một lượng lớn nhân công đi nhặt rác do dân đổ ra đường. Nếu mỗi người dân có ý thức đổ rác đúng quy định, đúng giờ thì vừa đỡ vất vả cho công nhân thu gom, vừa tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước một khoản chi phí lớn sử dụng vào các công việc hữu Ých khác. Trước thái độ, tâm lý của người dân như vậy, cần áp dụng công cụ pháp lý để làm thay đổi thái độ người dân, buộc họ phải tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Các công cụ pháp lý sẽ hỗ trợ cho công cụ kinh tế đạt được những hiệu quả mong muốn. Đôi khi những công cụ kinh tế ở trên sẽ không thực hiện được nếu như người dân không chịu thực hiện. Chính phủ cần có những quy định về việc phân loại rác tại nguồn, thu hồi tái chế rác thải, bắt buộc các hộ dân phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định đặt ra. Để bổ xung cho công cụ kinh tế ở trên và giúp sử dụng có hiệu quả, Nhà nước có thể đề ra các quy định tiêu chuẩn về các loại túi rác, thùng rác gia đình, các điểm thu gom rác và cả tần xuất thu gom buộc mọi người phải tuân theo. Cần có các chế tài, đề ra các mức phạt cụ thể đối với những hộ gia đình không chấp hành theo đúng quy định. Để kiểm soát việc thực hiện theo các quy định có thể giao cho từng tổ dân phố. Các tổ trưởng kết hợp với chính quyền địa phương sẽ kiểm tra đôn đốc. Chi phí cho hoạt động này có thể được bù đắp từ lợi Ých do giảm lượng rác thải hoặc từ các khoản nộp phạt của các hộ dân vi phạm. Việc phân loại rác tại nguồn đã từng được thí điểm tại khu tập thể Kim Liên, nhưng chưa thành công. Thực tế thì một bộ phận dân chúng cũng đã có ý thức và thực hiện theo cách thức này. Tuy nhiên còn nhiều những bất cập như loại thùng chứa chưa phù hợp, chưa có biện pháp để giảm mùi hôi, diệt ruồi muỗi làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Nếu chúng ta có biện pháp thay đổi cho phù hợp và có biện pháp bắt buộc cũng như các chính sách tài chính thì cũng có thể khuyến khích người dân tham gia. Đối với các hành vi xả rác bừa bãi ra đường cũng cần có những biện pháp cứng rắn như mức phạt nặng về tài chính để làm thay đổi thói quen xấu. Xử lý kiên quyết các đơn vị và các cá nhân vi phạm các điều quy đinh bảo vệ môi trường thành phố theo quy định 3008/QĐ-UB của UBND thành phố về xả rác ra đường và nơi công cộng. Nguồn tài chính thu được từ xử phạt sẽ tạo thêm nguồn vốn cho quản lý rác thải. Một thói quen xấu có thể khó thay đổi nhưng không có nghĩa là không thể thay đổi. Trước tiên có thể tạo thành tâm lý đối phó của dân chúng với các quy định nhưng dần dần sẽ tạo ra được ý thức tốt cho dân cư. Để biến nước mình trở thành đất nước trong sạch, đất nước Singapore đã phải mất tận 20 năm. Chúng ta có thể mất một thời gian lâu hơn nhưng nếu chúng ta quyết tâm nhất định sẽ thành công. Có thể thấy một ví dụ điển hình ở nước ta hiện nay. Đó là việc ban hành nghị định 13/CP của Chính phủ về xử phạt hành chính đối với người vi phạm khi tham gia giao thông. Khi đội ngũ công an thực hiện giám sát triệt để, chỉ sau 3 tháng tình hình chấp hành giao thông trên đường phố đã có những tiến bộ rõ rệt. 4.3. Công tác giáo dục tuyên truyền. Bên cạnh các biện pháp pháp lý cần kết hợp với công tác giáo dục tuyên truyền cộng đồng. Thông qua giáo dục, ý thức bảo vệ môi trường của cá nhân và cộng đồng ngày một nâng cao. Thực tế cho thấy rằng việc giáo dục và tuyên truyền có tầm quan trọng trong công tác quản lý rác thải. Đưa công tác giáo dục và tuyên truyền trở thành một hoạt động chính quy, đưa công tác giáo dục vào các trường học từ các bậc mẫu giáo, tiểu học đến các bậc cao hơn, hình thành nên thói quen tốt cho các em ngay từ nhỏ. Thường xuyên đưa ra các thông tin cập nhật trên các hệ thống thông tin công cộng như báo chí, truyền hình, loa phóng thanh… tiếp cận đến từng người dân. Thường xuyên tổ chức các buổi lao động tổng vệ sinh đường phố, ngõ xóm có sự kết hợp của công ty Môi trường và Đô thị và quần chúng nhân dân. Nâng cao ý thức cho nhân dân về vệ sinh đường làng, ngõ xóm, tạo nên một môi trường trong sạch cho chính gia đình mình. Khen thưởng những cụm dân cư, tổ dân phố giữ gìn vệ sinh môi trường tốt . Phê bình, xử phạt những cộng đồng không thực hiện công tác này. Ngân hàng Thế giới khuyến nghị phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền việc bảo vệ môi trường coi đó là biện pháp rẻ nhất. Nếu làm tốt có thể biến ý thức và bảo vệ môi trường thành một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm xã hội cho công dân Thủ đô, tức là nó sẽ trở thành một đặc trưng nổi bật của nền văn hóa hiện đại, của cuộc sống hiện đại, nền văn hoá môi trường. V. THU HỒI TÁI CHẾ, TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI Tái chế là hoạt động thu hồi lại chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế biến thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Hoạt động tái chế mang lại những lợi Ých : - Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bởi việc sử dụng vật liệu được tái chế thay cho vật liệu gốc. - Giảm lượng rác thông qua việc giảm chi phí đổ thải, giảm tác động môi trường do đổ thải gây ra, tiết kiệm diện tích đất chôn lấp. Một lợi Ých quan trọng là có thể thu lợi nhuận từ hoạt động tái chế, hoạt động tái chế lúc này sẽ mang tính kinh doanh và vì thế có thể giải thích tại sao các vật liệu có thể tái chế hiện được thu gom ngay từ nguồn phát sinh cho tới khâu xử lý và tiêu huỷ cuối cùng. Hoạt động tái chế và thu hồi rác thải được thực hiện thông qua hệ thống thu gom rác thải theo mạng lưới 3 cấp gồm : người thu gom, đồng nát và buôn bán phế liệu. Hoạt động tái chế cũng cần chi phí để thu gom, vận chuyển chế biến và ngăn chặn các tác động tiêu cực lên môi trường do quá trình tái chế gây ra. Do đó nếu như chi phí tái chế cao hơn lợi Ých thì hoạt động này không mang lại hiệu quả. Để ước tính lợi Ých tái chế người ta sử dụng công thức tính trên chi phí cơ hội. NBr = [Pv1 – Pv2] + [Ce1 + Cu1 – Ce2] + [Cw1 – Cw2] + Cdw Trong đó : [Pv1 – Pv2] : chênh lệch về chi phí vật liệu thô Pv1: chi phí vật liệu đầu vào là tài nguyên thiên nhiên Pv2 : chi phí đầu vào là rác tái chế [Ce1 + Cu1 – Ce2] : chênh lệch chi phí tái chế, tái sử dụng Ce1 : chi phí do phải xử lý rác thải nếu không tái chế Cu1 : doanh thu do tạo thành sản phẩm từ rác Ce2 : chi phí xử lý môi trường do hoạt động tái chế gây ra [Cw1 – Cw2] : chênh lệch chi phí thu gom Cw1 : chi phí thu gom rác để xử lý Cw2 : chi phí thu gom rác để tái chế Cdw : chi phí tiết kiệm đổ rác thải. Nếu kết quả tính toán cho NBr là dương thì có nghĩa là hoạt động tái chế mang lại hiệu quả, ngược lại nếu cho kết quả là âm thì hoạt động này không mang lại hiệu quả. Hiện tại với điều kiện của nước ta việc tái chế, tái sử dụng rác thải thông qua đội ngũ những người nhặt rác, những người thu mua đồng nát đã tỏ ra là một biện pháp hữu hiệu và có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu lượng rác và đem lại lợi Ých cho cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên những hoạt động này chỉ mang tính tự phát mà chưa được quản lý một cách chặt chẽ và tiềm Èn nhiều nguy hiểm cho những người nhặt rác. Đội ngũ những người nhặt rác phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Cần có sự giúp đỡ họ trong vấn đề bảo vệ an toàn như sử dụng găng tay, khẩu trang để giảm bớt những tác hại có thể gây ra. Đối với trẻ em cần có những biện pháp giúp đỡ, giáo dục, đào tạo nghề giúp các em tìm kiếm những công việc khác. Một vấn đề khác đặt ra là chúng ta thường chưa đánh giá hiệu quả của những hoạt động tái chế rác thải. Vật liệu được thu gom thường được đem về các làng nghề truyền thống, các cơ sở gia công tư nhân để chế biến lại. Công nghệ chế biến thường là những công nghệ thủ công lạc hậu, có nhiều ảnh hưởng đến môi trường. Vấn đề bức xúc hiện nay ở các cơ sở này là tình trạng ô nhiễm môi trường đã trở nên trầm trọng. Cần có những biện pháp giúp đỡ các cơ sở thay đổi về công nghệ, sử dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn, Ýt ảnh hưởng đến môi trường. Việc phân loại rác tại nguồn cũng giúp cho hoạt động tái chế có hiệu quả hơn. Chẳng hạn như việc xử lý rác thải bằng phương pháp sản xuất phân compost hiện nay mới chỉ được tiến hành với một lượng nhỏ rác thu gom từ các chợ. Còn đối với rác từ các hộ gia đình mặc dù có tỉ lệ chất hữu cơ khá cao (59,1%) nhưng do chưa được phân loại mà phải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Điều này là một lãng phí lớn vừa tốn diện tích đất giành cho chôn lấp mà chúng ta lại mất đi một nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Trong tương lai để giảm sức Ðp đối với việc chôn lấp rác thải, cần đẩy mạnh việc xử lý rác thải bằng phương pháp chế biến phân compost. Sử dụng phương pháp này vừa giảm được lượng rác thải đem chôn lấp, vừa đem lại hiệu quả kinh tế do bán phân sản xuất ra phục vụ cho trồng trọt, cải tạo đất. Mục tiêu lâu dài của chúng ta là lượng rác thải sử dụng để sản xuất phân là 15%, nhưng chúng ta mới chỉ đạt được hơn 1%. Để đẩy mạnh sức sản xuất cần đầu tư hơn nữa vào mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất nâng cao công suất. Quan trọng là phải tuyên truyền hướng dẫn về lợi Ých của việc sử dụng phân vi sinh làm phân bón cho những người có nhu cầu sử dụng như bà con nông dân để lượng phân sản xuất có khả năng tiêu thụ tốt hơn, tránh tình trạng sản xuất ra mà không có khả năng tiêu thụ như hiện nay. Tuy nhiên trong tương lai, chóng ta không nên chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào các biện pháp thu hồi tái chế thủ công như vậy. Về lâu dài, chúng ta nên tiến hành đổi mới quy trình công nghệ, lắp đặt các công nghệ có phân loại rác thải trước khi đưa vào xử lý. Việc phân loại rác này vừa tiết kiệm được nguồn nhân lực, vừa giảm các tác động đến sức khỏe con người, vừa nâng cao được hiệu quả của việc xử lý rác thải. Hiện nay các tổ chức quốc tế cũng như các nước phát triển đặc biệt quan tâm đến vấn đề quản lý chất thải đô thị ở các nước đang phát triển như nước ta. Họ tài trợ trong lĩnh vực này dưới dạng như tài trợ không hoàn lại, vay vốn dài hạn với lãi suất thấp, hỗ trợ kinh phí nghiên cứu các dự án, đào tạo, tuyên truyền… Chóng ta có thể tranh thủ các nguồn tài trợ này để tiến hành thay đổi các công nghệ sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của chúng ta. VI. GIẢI PHÁP VỀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ Phương pháp xử lý bằng chôn lấp hiện tại là phương pháp được sử dụng chủ yếu, nhưng với phương pháp này còn tiềm Èn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Như ta đã phân tích, có thể trong tương lai phương pháp này sẽ không trở thành phương pháp tối ưu mà cần phải thay đổi các biện pháp xử lý rác thải. KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ Quản lý Môi trường nói chung và quản lý rác thải đô thị Hà Nội nói riêng đã và đang được Nhà nước, thành phố và các cấp, các ngành hết sức quan tâm chỉ đạo. Quản lý tốt rác thải đô thị là cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu phân loại từ nguồn, thu gom tất cả các rác thải phát sinh, vận chuyển, trung chuyển, xử lý rác thải đô thị, tận dụng các phần hữu cơ làm phân, giảm các chất độc hại và mầm gieo bệnh trong rác thải, giảm thể tích chôn lấp để tiết kiệm đất. Công tác quản lý rác thải phải được tổng hoà trong quy hoạch phát triển của thành phố đến 2020 và phải đồng bộ trong tất cả các khâu từ phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý và chôn lấp. Tổ chức quản lý, cơ chế chính sách và pháp luật, tuyên truyền nâng cao dân trí. Các công nghệ xử lý rác thải đô thị cần được nghiên cứu và sử dụng phối hợp đồng bộ với nhau và với công nghệ khác nhằm có thể hạn chế được những nhược điểm và tận dụng tối đa những ưu điểm của từng công nghệ. Như nhà máy xử lý rác thành phân hữu cơ đi đôi với bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh, bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh kết hợp với thu hồi khí gas từ bãi rác để sản xuất điện năng. Đề nghị Chính phủ và Thành phố nghiên cứu các quy định chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, sự phối hợp chặt chẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý rác thải. Đề nghị Bộ, Thành phố, Sở ưu tiên đầu tư trước mắt trong năm 2020 cho công ty Môi trường đô thị các trang thiết bị, bổ xung phương tiện vận chuyển rác từ nội thành đi Nam Sơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2001 Báo cáo tóm tắt công tác quản lý chất thải rắn đô thị thành phố Hà Nội – Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội – 2002. Các quy trình công nghệ thu gom, vận chuyển, xử lý phế thải và tưới rửa đường – Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội – 1999. Giáo trình Kinh tế môi trường – trường đại học Kinh tế quốc dân – 1996 Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư – trường đại học Kinh tế quốc dân – 1999. Giáo trình Quản lý môi trường – trường đại học Kinh tế quốc dân – 1998. Gs. Ts. Trần Hiếu Nhuệ (chủ biên)- Quản lý chất thải rắn – Tập 1 : Quản lý chất thải rắn đô thị – NXB xây dựng – 2001 Kinh tế chất thải trong phát triển bền vững – Dự án kinh tế chất thải – NXB Chính trị quốc gia – 2001. Nghiên cứu khả thi dự án xây dựng khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Sơn – Sóc Sơn. Thông tư liên tịch lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp chất thải rắn – Bé Khoa học Công nghệ và Môi trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100803.doc
Tài liệu liên quan