Đề tài Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Bảo hộ ĐTNN xét dưới góc độ lý luận chung là một khái niệm rộng bao gồm nhiều biện pháp do Nhà nước đề ra bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho nhà đầu tư trong quá trình đầu tư tại nước sở tại. Đó là sự đảm bảo pháp lý với những biện pháp được qui định bằng các qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm sự ổn định về lợi ích và sự an toàn cả vốn lẫn lãi trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tạo mọi điều kiện cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Bảo hộ đầu tư tạo cơ sở vững chắc để nhà đầu tư tin tưởng quyền lợi của mình sẽ được bảo vệ bằng các cam kết của nước nhận đầu tư, khuyến khích đầu tư tạo thêm những điều kiện ưu đãi thuận lợi để nhà đầu tư lựa chọn một hình thức đầu tư phù hợp nhất, vào lĩnh vực thích hợp nhất và hưởng những ưu đãi tài chính thiết thực nhất. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các biện pháp bảo hộ đầu tư, Nhà nước Việt Nam đã quy định trong Hiến pháp 1992, các văn bản luật và các văn bản dưới luật cụ thể hoá. Ngoài ra đối với nỗ lực tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã đàm phán và ký kết các Hiệp định song phương như Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, các Hiệp định đa phương như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, công ước MIGA, trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia ký kết, quyền lợi nhà đầu tư được bảo hộ chặt chẽ và qui định cụ thể hơn.

doc37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g BOT, BTO, BT - Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong 1 thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà ĐTNN chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. - Hợp đồng xây dựng chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. Thời gian qua, doanh nghiệp liên doanh là hình thức chiếm ưu thế Nhà nước cũng có những ưu tiên cho doanh nghiệp liên doanh (DNLD), xuất phát từ lợi ích của bên Việt Nam khi tham gia DNLD sẽ có cơ hội đào tạo đội ngũ quản lý, nâng cao trình độ công tác, còn bên nước ngoài có điều kiện tiếp cận thị trường thực hiện các thủ tục hành chính nhanh chóng. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây hình thức này có xu hướng giảm bớt về tỷ trọng. Trước xu hướng này, để khuyến khích hình thức DNLD chúng ta cần có chính sách tạo vốn cho bên Việt Nam để tăng tỷ lệ góp vốn, có kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý để đưa vào quản lý DNLD. Mặt khác, các quy định của pháp luật phải có sự chuyển đổi thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà ĐTNN, rút ngắn khoảng cách sự ưu đãi dành cho doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp là doanh nghiệp Việt Nam. Trước đây chỉ có DNLD mới có quyền chuyển lỗ của năm này sang lãi của năm sau nhưng không quá 5 năm, hiện nay quyền này dành cho tất cả doanh nghiệp có vốn ĐTNN và cả bên hợp doanh nước ngoài. Nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị cũng thu hẹp lại hơn so với trước. Một số thay đổi của luật đã phần nào tháo gỡ bức xúc vướng mắ cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Việc hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh được thực hiện trên nhiều lĩnh vực và qua thực tiễn rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhất là trong các lĩnh vực khó khăn, đòi hỏi vốn lớn, có mức độ rủi ro cao mà chúng ta không đủ khả năng về vốn cũng như công nghệ để tham gia liên doanh. Đến cuối 1999 hình thức này chiếm 7,1% số dự án và 10% vốn đầu tư. Thời gian qua chúng ta mới chỉ thu được 4 dự án BOT, chưa có dự án BTO, BT. Các qui định của luật và văn bản dưới luật về hình thức đầu tư này nhìn chung còn sơ sài, lỏng lẻo, gây khó khăn trong việc giải thích hướng dẫn và vận dụng. Trong thực tế lại khá phức tạp vì nó liên quan đến nhiều vấn đề như thủ tục, vốn góp, tổ chức khai thác phân chia lợi nhuận, giải quyết tranh chấp. Ưu thế của hình thức này ở chỗ nó là hình thức đầu tư đơn giản, các bên tham gia không phải ràng buộc với nhau trong một pháp nhân chung, vì vậy trong khi tiến hành khai thác các bên vẫn duy trì được tính độc lập của mình. Luật ĐTNN hiện nay không cho hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh được hưởng ưu đãi của chế độ miễn giảm thuế như đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Đây cũng là vấn đề làm nhà ĐTNN tính toán có nên đầu tư hay không. Ví dụ như theo các nhà đầu tư của Mỹ, hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh là có lợi cho họ về thuế theo luật của Mỹ nhưng nếu đầu tư vào Việt Nam họ lại không được hưởng ưu đãi như các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. So với các quốc gia khác, hình thức thu hút FDI của Việt Nam còn đơn điệu và ít có cơ hội cho nhà ĐTNN lựa chọn. Đây là một thực tế khách quan phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta, giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý, giám sát được hoạt động ĐTNN nhưng lại là điều khiến nhà ĐTNN ngần ngại khi bỏ vốn vào vì họ không có nhiều hình thức đầu tư để lựa chọn. Lấy kinh nghiệm các nước như Trung Quốc, nhà ĐTNN có thể lựa chọn một trong nhiều hình thức sau: thành lập liên doanh hợp tác, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp toàn bộ sở hữu nước ngoài, tham gia cổ phần tại các công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn Trung Quốc, thành lập chi nhánh công ty nước ngoài tại Trung Quốc, thành lập công ty Holding company (Công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án), thành lập văn phòng đại diện, tiến hành các hoạt động gia công và lắp ráp tại Trung Quốc, tham gia công ty cổ phần có vốn ĐTNN. ở Inđônêxia, nhà ĐTNN có thể chọn các hình thức sau: liên doanh với một công ty Inđônêxia để thành lập một công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn, thành lập chi nhánh nếu hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng hoặc công ty khai thác dầu khí, công ty liên doanh có thể mua cổ phần của các công ty Inđônêxia. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm để đa dạng hoá các hình thức FDI tạo điều kiện cho nhà ĐTNN lựa chọn, so sánh hình thức nào phù hợp với họ nhất, đảm bảo cho họ có được lợi nhuận cao nhất mà chúng ta vẫn quản lý được hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa đủ điều kiện để tổ chức hoạt động đầu tư gián tiếp nên Luật ĐTNN 2000 vẫn giữ nguyên các hình thức như trước. Chúng ta hy vọng trong thời gian tới Chính phủ sẽ hoàn thiện dần hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý, đa dạng hoá các hình thức ĐTNN. Để phát triển công nghiệp có hiệu quả, các Chính phủ đều khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào khu công nghiệp. Có thể chia khu công nghiệp làm 3 loại: - Khu công nghiệp (KCN) thông thường: là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. - Khu chế xuất (KCX): là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp có kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới đại lý xác định, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. ở Việt Nam, để xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, cần đảm bảo những điều kiện và yếu tố cần thiết: vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đội ngũ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ tay nghề cao. KCX, KCN là công cụ quan trọng để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời khai thông với thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay, cả nước có 58 KCN, trong đó có 3 KCX đã và đang hoạt động, 12 khu liên doanh với nước ngoài xây dựng, 1 khu do Đài Loan bỏ 100% vốn xây dựng, số còn lại do Việt Nam tự bỏ vốn xây dựng. Trong số 58 KCN nói trên, tính đến cuối 1999 mới có hơn 20 KCN đã thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dẫn đầu là KCN Biên Hoà 2, KCX Tân Thuận, KCN Sài Đồng B. Còn nhìn chung các KCN khác số dự án vào còn rất ít nhiều lô đất trong KCN còn bị bỏ trống, có khi chỉ sử dụng 35% diện tích. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khác nhau: do kết cấu hạ tầng bên ngoài KCN xây dựng rất chậm và thiếu đồng bộ, do chi phí điện nước, dịch vụ kỹ thuật của KCN còn quá cao, có quá nhiều loại phí và lệ phí đào tạo nên tâm lý không muốn đầu tư vào các KCN. Tóm lại, thu hút các dự án FDI vào các KCN là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhằm phát triển nhanh nền công nghiệp nước ta, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhưng một thực tế là việc phát triển các KCN của ta chưa đủ sức thu hút các dự án FDI, làm giảm nhịp độ vốn đầu tư FDI vào Việt Nam trong những năm tới, chúng ta cần cải tiến cơ chế hoạt động của các KCN, KCX. 3. Những ưu đãi về tài chính: Đối với các doanh nghiệp cũng như đối với các nhà ĐTNN, đầu tư vào Việt Nam thì vấn đề lợi nhuận là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình kinh doanh mà trong đó thuế là yếu tố quan trọng nhất để so sánh sự ưu đãi về đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hiện đang áp dụng hệ thống thuế bao gồm hơn 10 loại thuế và một số loại phí như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế XNK, thuế môn bài, lệ phí chước bạ, lệ phí chứng thư. Tuy nhiên theo quy định của luật ĐTNN có sự khác biệt đáng kể giữa đầu tư trong nước và ĐTNN về một số loại thuế, thể hiện sự ưu đãi và khuyến khích của Nhà nước đối với nhà ĐTNN. 3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp. Được qui định tại điều 45, 46, 47, 48, Nghị định 24CP ngày 31/7/2000. * Mức thuế suất phổ thông: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất là 25% lợi nhuận thu được. * Mức thuế suất ưu đãi: - Trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% lợi nhuận thu được. - Trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế suất là 15% lợi nhuận thu được. - Trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi nhuận thu được. Sau thời gian được hưởng mức thuế suất ưu đãi nói trên, các dự án phải nộp thuế suất doanh nghiệp với mức thuế suất là 25% riêng đối với dự án đầu tư đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong suốt thời hạn thực hiện dự án: thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án phát triển hạ tầng KCX, KCN, khu công nghệ cao, đầu tư vào KCX, KCN, khu công nghệ cao, thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo nghiên cứu khoa học. * Một số ưu đãi đặc biệt khác: - Các kiều bào nước ngoài đầu tư về nước được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế là 10%. - Thuế đối với doanh nghiệp BOT: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 10% lợi nhuận thu được và áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo. Trong trường hợp đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Điều 49 Nghị định 24CP qui định rõ hơn sự ưu đãi: các doanh nghiệp BOT, BTO, BT đầu tư vào địa bàn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp khu công nghệ kỹ thuật cao, doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao trong khu công nghệ cao, các dự án trồng rừng và các dự án xây dựng - kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng tại điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án có qui mô lớn và có tác động lớn đối với kinh tế - xã hội thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyên quí hiếm khác thì miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định của luật dầu khí và pháp luật có liên quan. Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân Nhà nước mở rộng đầu tư tại Việt Nam, điều 51 Nghị định 24CP qui định: 1. Nhà ĐTNN dùng lợi nhuận và các khoản thu hợp pháp khác trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư vào các dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo luật ĐTNN được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư (trừ trường hợp qui định tại luật dầu khí) nếu đáp ứng các điều kiện sau: a. Tái đầu tư vào những dự án được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp nêu tại điều 46 của Nghị định này. b. Vốn tái đầu tư được sử dụng từ 3 năm trở lên. c. Đã góp đủ vốn pháp định, vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh ghi trong giấy phép đầu tư. 2. Mức hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số lợi nhuận tái đầu tư tại Việt Nam được qui định như sau: a. 100% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%; b. 75% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 15%. c. 50% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp 20%. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và các qui định về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng là một đòn bảy kinh tế đối với nhà ĐTNN và nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút vốn của Luật ĐTNN tại Việt Nam. 3.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là công cụ của Nhà nước để điều chỉnh vĩ mô các hoạt động chuyển tiền tệ ra nước ngoài nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung. Nhằm khuyến khích thu hút ĐTNN, nhà nước ta đã qui định những mức thuế ưu đãi, đồng thời cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN có thể miễn giảm thuế này trong các trường hợp khuyến khích đầu tư. Điều 43, luật sửa đổi bổ sung một số luật ĐTNN tại Việt Nam 2000 “Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn của nhà ĐTNN vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc vốn thực hiện hợp động hợp tác kinh doanh”. Điều 50 Nghị định 24CP qui định cụ thể: 1. Lợi nhuận mà nhà ĐTNN thu được do đầu tư tại Việt Nam (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn) nếu chuyển ra nước ngoài hoặc được giữ lại ngoài Việt Nam đều phải chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. 2. Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được áp dụng như sau: a. 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo qui định của luật ĐTNN. - Nhà ĐTNN đầu tư vào KCN, KCX, khu công nghệ cao. - Nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 10 triệu USD trở lên. - Nhà ĐTNN đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư. b. 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 5-10 triệu USD và đối với nhà ĐTNN đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ngoài ra doanh nghiệp BOT và doanh nghiệp KCN chịu thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. c. 7% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh không thuộc các trường hợp qui định tại điểm a và điểm b, khoản 2, điều này. So với luật ĐTNN năm 1996, luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 2000 đã giảm hẳn thuế suất chỉ còn 3%, 5%, 7% (luật ĐTNN 96 qui định mức thuế suất là 5%, 7%, 10%). Với tinh thần tạo những ưu đãi tốt nhất cho ĐTNN, chúng ta đã giảm mức thuế suất và đây thực sự là một điều khích lệ với nhà ĐTNN. 3.3. Thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi để khuyến khích đầu tư, luật ĐTNN 1/7/2000 qui định về thuế xuất nhập khẩu tại điều 17: 1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng theo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 2. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định gồm: a. Thiết bị máy móc b. Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và phương tiện chuyên dùng để đưa đón công nhân. c. Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu phụ tùng đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển chuyên dùng nêu tại điểm b khoản này. d. Nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phần rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu, phụ tùng đi kèm với thiết bị, máy móc. e. Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được. Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu qui định tại khoản này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng qui mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ. 3. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. 4. Chính phủ qui định việc giảm, miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác. Như vậy, so với luật ĐTNN 1996, điều 47 luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 2000 đã qui định cụ thể rõ ràng hơn các trường hợp được miễn thuế nhập khẩu, luật hoá các qui định trong các văn bản dưới luật như Nghị định 10CP, Nghị định 12CP, Nghị định 62CP và đặc biệt khoản 3 là điểm bổ sung quan trọng thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư và địa bàn khuyến khích đầu tư. So với luật khuyến khích đầu tư trong nước thì nhà ĐTNN theo luật ĐTNN hưởng chế độ miễn giảm thuế xuất nhập khẩu rộng rãi hơn. Theo điều 15, điều 16 luật khuyến khích đầu tư trong nước thì nhà đầu tư có thể được miễn thuế nhập khẩu đối với các loại hàng hoá sau đây mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu: thiết bị máy móc, phương tiện vận tải nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định hoặc để mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ, phương tiện chuyên dùng để đưa đón công nhân. Điểm khác biệt này cũng xuất phát từ cơ sở lý luận là nhà ĐTNN có quyền góp vốn bằng tiền, máy móc thiết bị khi góp vốn bằng tiền hoặc miễn thuế thì không lý gì lại đánh thuế vào vốn góp bằng máy móc, thiết bị. Các nhà đầu tư nước ngoài ngoài việc hưởng các ưu đãi đặc biệt về thuế xuất nhập khẩu còn được hưởng chế độ “đãi ngộ quốc dân” không kém phần thuận lợi như các thành phần kinh tế khác. 3.4. Tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển. Điều 16 luật ĐTNN sửa đổi bổ sung năm 2000 qui định: 1. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê, trường hợp khai thác tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên theo qui định của pháp luật. Chính phủ quy định việc miễn giảm tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển đối với các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. 2. Trong trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì bên Việt Nam có trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Nhà nước Việt Nam được thuê đất thì UBND tỉnh, Thành phố thường trực thuộc TW nơi có dự án đầu tư tổ chức thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. 3. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Chính phủ quy định các điều kiện và thủ tục doanh nghiệp có vốn ĐTNN thế chấp quyền sử dụng đất. Điều 86, 87, 91, 92 Nghị định 24CP qui định cụ thể hơn, tạo sự thông thoáng và tháo gỡ một số khó khăn cho nhà ĐTNN. Các qui định mới này đã thực sự giải phóng vướng mắc khó chịu nhất từ trước đến nay cho nhà ĐTNN ở những điểm sau: - Việc sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là ngang bằng và bình đẳng như các doanh nghiệp khác (doanh nghiệp BOT được miễn tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án). Các qui định về giá thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển đối với nhà ĐTNN là ngang bằng thời giá chung cho tất cả các đối tượng khác. - Quy định về nghĩa vụ giải phóng mặt bằng đã thực sự cất gánh nặng cho nhà ĐTNN cả về tiền bạc lẫn công sức. Trước đây nhà đầu tư rất lo ngại khi gánh trách nhiệm này vì thủ tục quá phức tạp và các bước tiến hành hết sức khó khăn. Để đền bù giải phóng mặt bằng nhà đầu tư phải làm 4 tờ trình, 3 tờ quyết định, 6 con dấu và 7 chữ ký, chưa kể đến việc phải trực tiếp thương lượng với từng hộ dân để họ di chuyển, trong khi họ chưa hiểu biết gì về thủ tục và tập quán của Việt Nam. Đây đã từng được gọi là “cửa ải nghiệt ngã nhất” trong giai đoạn hình thành dự án nay được coi như là cuộc cách mạng đối với nhà ĐTNN vì họ được giải phóng. Khoản 3 điều 16 đã thừa nhận quyền doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp quyền sử dụng đất, việc thế chấp quyền sử dụng đất không còn bị bó hẹp trong các tổ chức tín dụng của Việt Nam nữa mà mở rộng ra tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tạo điều kiện cho doanh nghiệp thoả mãn với nhu cầu về vốn và tự do lựa chọn tổ chức tín dụng để vay vốn. Các biện pháp khuyến khích đầu tư ngày càng được sửa đổi, hoàn thiện hơn đã góp phần tạo nên một môi trường pháp lý thông thoáng, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. II. Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bảo hộ ĐTNN xét dưới góc độ lý luận chung là một khái niệm rộng bao gồm nhiều biện pháp do Nhà nước đề ra bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho nhà đầu tư trong quá trình đầu tư tại nước sở tại. Đó là sự đảm bảo pháp lý với những biện pháp được qui định bằng các qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm sự ổn định về lợi ích và sự an toàn cả vốn lẫn lãi trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tạo mọi điều kiện cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Bảo hộ đầu tư tạo cơ sở vững chắc để nhà đầu tư tin tưởng quyền lợi của mình sẽ được bảo vệ bằng các cam kết của nước nhận đầu tư, khuyến khích đầu tư tạo thêm những điều kiện ưu đãi thuận lợi để nhà đầu tư lựa chọn một hình thức đầu tư phù hợp nhất, vào lĩnh vực thích hợp nhất và hưởng những ưu đãi tài chính thiết thực nhất. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các biện pháp bảo hộ đầu tư, Nhà nước Việt Nam đã quy định trong Hiến pháp 1992, các văn bản luật và các văn bản dưới luật cụ thể hoá. Ngoài ra đối với nỗ lực tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã đàm phán và ký kết các Hiệp định song phương như Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, các Hiệp định đa phương như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, công ước MIGA, trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia ký kết, quyền lợi nhà đầu tư được bảo hộ chặt chẽ và qui định cụ thể hơn. Luật ĐTNN tại Việt Nam đã dành riêng một chương để quy định các biện pháp bảo hộ đầu tư, bao gồm các biện pháp sau: 1. Biện pháp bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng: Điều 20 luật ĐTNN qui định: “Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam. Nguyên tắc này có nghĩa là dựa trên nguyên tắc “đãi ngộ quốc dân”. Đối xử công bằng được hiểu là sự đối xử của nước nhận đầu tư, không có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa các nhà ĐTNN với nhau, giữa khu vực đầu tư công cộng và đầu tư tư nhân. Đảm bảo đối xử thoả đáng đối với nhà đầu tư tức là khi một cá nhân, tổ chức nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thì Chính phủ Việt Nam phải cho họ hưởng những quyền lợi về vật chất thích hợp để thực hiện các hoạt động đầu tư của họ để thu được lợi nhuận xứng đáng với cái mà họ bỏ ra và cái họ đáng được hưởng thụ. Như vậy, đối xử công bằng và thoả đáng đối với nhà ĐTNN điều này đã làm tăng sức cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam so với môi trường đầu tư của các nước trong khu vực trên thế giới. 2. Biện pháp bảo đảm đối với vốn và tài sản của nhà ĐTNN. Việc bảo đảm vốn và tài sản của nhà ĐTNN vào Việt Nam được khẳng định trong điều 1 và điều 21 luật ĐTNN: Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà ĐTNN, tạo điều kiện thuận lợi và qui định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà ĐTNN vào Việt Nam. * Pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản của các nhà ĐTNN thể hiện: - Nhà ĐTNN có quyền quyết định sử dụng vốn như thế nào hợp lý và có hiệu quả nhất: lựa chọn đối tác, lựa chọn lĩnh vực, địa bàn đầu tư, lựa chọn hình thức đầu tư,... - Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng phần vốn của mình trong doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN có quyền chuyển nhượng vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy, nhà ĐTNN có quyền định đoạt về vốn. - Nhà ĐTNN có quyền thực hiện việc mua bán tài sản (bí quyết kỹ thuật, bằng sáng chế, dịch vụ kỹ thuật) nguyên nhiên liệu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh,... với tổ chức cá nhân khác trong phạm vi hoạt động của mình. - Tài sản của doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá. - Một vấn đề thường xuyên xảy ra trong quản lý Nhà nước là việc điều chỉnh chính sách và luật pháp khi điều kiện mới xuất hiện có trường hợp có lợi cho nhà ĐTNN nhưng cũng có trường hợp gây thiệt hại cho họ. Điều 21 a luật sửa đổi bổ sung luật ĐTNN 1/7/2000 đã qui định các biện pháp giải quyết. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được tiếp tục hưởng vốn ưu đãi đã quy định trong giấy phép đầu tư hoặc đưa các giải quyết thoả đáng như miễn giảm thuế, khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp và một thời điểm mới nữa là có thể được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. Đây thực sự là một quy định làm yên tâm các nhà ĐTNN vì từ trước đến nay biện pháp giải quyết cụ thể trong trường hợp làm phương hại đến lợi ích các nhà ĐTNN chưa được qui định thành điều luật mà chỉ rải rác ở các văn bản dưới luật (như Nghị định 18CP, Nghị định 12CP,...) và từ trước đến nay Nhà nước cũng không cam kết bồi thường thoả đáng mà chỉ dành cho nhà ĐTNN những ưu đãi tài chính nhất định. 3. Bảo đảm cho nhà đầu tư chuyển vốn, tài sản và thu nhập hợp pháp tại Việt Nam ra nước ngoài. Một trong những cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả là đảm bảo cho nhà đầu tư có thể chuyển vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp khác của nhà ĐTNN một cách nhanh chóng, dễ dàng. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận thì yêu cầu tất yếu của họ sẽ sử dụng lợi nhuận đó, tức là họ có thể đưa về nước hoặc tái đầu tư để có thể đạt được lợi nhuận nhiều hơn nên họ rất quan tâm đến việc chu chuyển đồng vốn mà đặc biệt là chu chuyển ra nước ngoài. Nắm bắt được tâm lý chung đó, Nhà nước ta rất cởi mở trong việc cho họ quyền chuyển ra nước ngoài tài sản một cách thuận tiện. Điều 22, luật ĐTNN qui định: Nhà ĐTNN vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài: - Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. - Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ. - Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động. - Vốn đầu tư. - Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Biện pháp bảo đảm về chuyển tài sản hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam khá đầy đủ, tuy vậy có một điều cần hoàn thiện đó là trong pháp luật về đầu tư qua thực tiễn chuyển lợi nhuận ra nước ngoài dù hệ thống kiểm tra báo cáo có hoàn hảo đến đâu cũng khó phân biệt đâu là lợi nhuận, đâu là tiền lãi, là các khoản trả tiền vay. Dù vậy, với những quy định của pháp luật Việt Nam có thể khẳng định đây là một bảo đảm pháp lý quan trọng đối với quyền sở hữu hợp pháp tài sản của nhà đầu tư. 4. Bảo đảm cho nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả. Các nhà ĐTNN hết sức chú ý đến vấn đề đảm bảo một cách an toàn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trên cơ sở đó các nhà đầu tư mới yên tâm kinh doanh và có hứng thú đầu tư vào Việt Nam, làm sao để họ có được lợi nhuận và nước nhận đầu tư cũng đạt được mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Bảo hộ quyền kinh doanh và tài sản hợp pháp của người nước ngoài”. Các biện pháp cho nhà ĐTNN hoạt động, sản xuất kinh doanh có hiệu quả bao gồm: - Đảm bảo về thời gian: trước đây, điều lệ đầu tư 1997 qui định thời hạn kinh doanh 10 - 15 năm. Luật ĐTNN 1987 qui định: “Thời hạn kinh doanh của xí nghiệp có vốn ĐTNN tối đa là 20 năm trong trường hợp cần thiết thời hạn có thể dài hơn”. Luật ĐTNN 1990, 1992, 1996 qui định thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và thời hạn hợp đồng hợp tác kinh doanh với từng dự án không quá 50 năm, đối với 1 số dự án cần thực hiện trong thời gian dài thì tối đa cũng không được quá 70 năm đối với những dự án do UBTVQH hoặc Chính phủ quyết định (Điều 17 luật ĐTNN 1996). - Đảm bảo tự do lựa chọn lĩnh vực kinh doanh: các nhà đầu tư có thể đầu tư vào lĩnh vực mà Chính phủ Việt Nam đặc biệt khuyến khích đầu tư, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện hoặc các lĩnh vực thông thường khác, cũng có thể lựa chọn địa bàn đầu tư phù hợp với điều kiện của họ. Tuy nhiên, trừ các lĩnh vực gây hại đến trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam thì pháp luật không cho phép đầu tư. Chính phủ Việt Nam cũng như các quốc gia khác một mặt khuyến khích nhà đầu tư lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực đầu tư mặt khác cũng quy định lĩnh vực không được đầu tư để bảo vệ quyền lợi cho mình. Các nhà đầu tư được tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là nguyên tắc và phù hợp với thông lệ quốc tế. - Đảm bảo quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có toàn quyền quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, Nhà nước Việt Nam không can thiệp hay áp đặt điều gì tới kế hoạch và quá trình sản xuất kinh doanh của họ mà luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ cho họ. Doanh nghiệp có quyền quyết định giá bán và không bị giới hạn về khu vực tiêu thụ sản phẩm, trừ những hàng hoá dịch vụ Nhà nước thống nhất quản lý giá bán thì giá bán theo khung giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố. Nhà nước không can thiệp vào cơ cấu tổ chức nội bộ của doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN và đặc biệt doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, trong quá trình hoạt động, nhà ĐTNN được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi từ thời hạn đầu tư, lĩnh vực đầu tư, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Việc đảm bảo và tôn trọng quyền lợi chính đáng của Nhà nước Việt Nam tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi và đầy hấp dẫn để nhà ĐTNN có đủ điều kiện thuận lợi nhất khi tham gia đầu tư vào Việt Nam. 5. Biện pháp giải quyết thoả đáng các tranh chấp về đầu tư. Các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình luôn cố gắng để làm sao tìm được lợi nhuận cao nhất, trong quá trình đó không thể khẳng định được là họ không bao giờ phạm sai lầm. Mặt khác cũng vì lợi nhuận mà các nhà đầu tư có thể không tính đến lợi ích của người khác mà có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, giữa các nhà đầu tư có thể nảy sinh bất đồng trong quản lý điều hành doanh nghiệp, cũng có thể vì nhiều yếu tố khách quan mà sự va chạm lợi ích kinh tế là không thể tránh khỏi,... Đó chính là những nguyên nhân phát sinh tranh chấp và yêu cầu đặt ra là phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp sao cho thoả đáng lợi ích các bên và nhanh chóng nhất, đó cũng là nhiệm vụ đặt ra cấp bách đối với nước tiếp nhận đầu tư để tạo điều kiện cho nhà đầu tư yên tâm thực hiện việc đầu tư kinh doanh trên đất nước mình. Có 3 loại tranh chấp đầu tư: - Tranh chấp trong đó có một bên là nước ngoài. - Tranh chấp giữa các pháp nhân Việt Nam. - Tranh chấp trong lĩnh vực BOT, BTO, BT. Các tranh chấp được giải quyết bằng con đường thương lượng hoà giải, tại trọng tài Việt Nam tuân thủ theo Quyết định 204/CP ngày 28/4/93 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định 116-CP ngày 5/9/94 về tổ chức hoạt động của trọng tài kinh tế. Các nước mà Việt Nam đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư cơ chế giải quyết tranh chấp để tuân thủ theo qui định trong các quyết định này. Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư tại điều 8 và điều 11 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Pháp: Điều 8: 1. Mọi tranh chấp đầu tư giữa một bên ký kết với một bên công dân hoặc một công ty của bên ký kết kia phải cố gắng giải quyết bằng hoà giải giữa hai bên liên quan. 2. Nếu sự tranh chấp không giải quyết được trong thời hạn 6 tháng kể từ khi tranh chấp được 1 trong 2 bên nêu ra thì theu yêu cầu của một bên tranh chấp sẽ được đưa ra trọng tài. Vụ tranh chấp được giải quyết bằng hoà giải giữa hai bên liên quan. Khi các bên tham gia công ước về giải quyết các tranh chấp về đầu tư giữa các quốc gia và những người có quốc tịch nước ngoài khác ký tại Washington ngày 18/3/1965, trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp về đầu tư (CIR DI) sẽ được thay thế cho thủ tục nói ở đoạn trên trong việc giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp giữa một bên ký kết với công dân và công ty của bên ký kết kia. Điều 11: 1. Những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này nếu có thể được giải quyết bằng con đường ngoại giao. 2. Nếu trong 6 tháng kể từ khi việc tranh chấp được một bên ký nêu ra mà không được giải quyết, thì theo yêu cầu của một bên ký kết, vụ tranh chấp được đưa ra toà án trọng tài. 3. Toà án, trọng tài được thành lập cho từng trường hợp cụ thể theo cách sau đây: Mỗi bên chỉ định 1 thành viên và 2 thành viên đó thoả thuận chỉ định một công dân của một nước thứ 3. Hai bên cử công dân này làm chủ tịch. Tất cả các thành viên được cử ra trong 3 tháng kể từ ngày một bên ký kết thông báo cho bên ký kết ý định đưa vụ tranh chấp ra trọng tài. Sẽ yêu cầu tổng thư ký LHQ ra công dân của một bên ký kết hoặc nêu lý do khác, tổng thư ký không thể thực hiện chức năng này thì phó tổng thư ký có thâm niên lâu nhất và không có quốc tịch của một bên ký kết sẽ tiến hành việc chỉ định. 5. Toà án trọng tài thông qua quyết định của mình theo thể thức đa số phiếu. Các quyết định này là cuối cùng và có đầy đủ hiệu lực thi hành đối với các bên ký kết. Toà án tự qui định việc tố tụng của mình. Toà án giải thích yêu cầu của bên ký kết này hoặc bên ký kết kia. Trừ trường hợp toà án có qui định khác căn cứ vào những hoàn cảnh đặc biệt, lệ phí trọng tài, kể cả thù lao cho các trọng tài viên được chia đều cho các bên. So với các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam qui định cơ chế giải quyết tranh chấp khá rõ ràng và mềm dẻo. Có thể nói về vấn đề giải quyết tranh chấp trong ĐTNN và pháp luật Việt Nam qui định cụ thể, thể hiện rõ sự công bằng của Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, để thực hiện vấn đề này, vất đề đặt ra là cần phải cải cách hệ thống tư pháp mà trước tiên là toà án kinh tế, cơ quan trọng tài, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngành tư pháp, xem xét và nghiên cứu thật kỹ để có những hướng dẫn kịp thời giải quyết tranh chấp về đầu tư nước ngoài. Các biện pháp giải quyết tranh chấp này góp phần tạo ra môi trường pháp lý vững chắc, đây là các cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Chương III Thực trạng về đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây và một số giải pháp kiến nghị I. Thực trạng về đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây. 1. Tình hình thu hút vốn. Nếu xét về tổng thể từ năm 1988 đến năm 1998 thì FDI vào Việt Nam tăng khá nhanh, bình quân tăng khoảng 50% năm, nhất là thời kỳ 91-95. Quy mô vốn đầu tư của một dự án tăng từ 6,7 triệu USD thời kỳ 88-90 lên 12,5 triệu USD thời kỳ năm 1991 - 1995. Tuy nhiên, từ năm 1996 đến nay FDI vào Việt Nam có xu hướng chững lại và có biểu hiện giảm sút. Nếu như năm 1997 số dự án cấp giấy phép là 331 thì năm 1998 số dự án được cấp giấy phép chỉ còn 260. Tương tự như vậy, số vốn đầu tư đăng ký năm 1996 là 8.497,3 triệu USD tăng 31,1% so với năm 1995 thì năm 1997 còn 4.649,1 triệu USD giảm 45,3% so với năm 1996, năm 1998 còn 3.897,4 triệu USD giảm 16,2% so với năm 1997. Năm 1999 còn 1.477 triệu USD giảm 62,1% so với năm 1998, sáu tháng đầu năm 2000 có 436,925 triệu USD. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký rất thấp bình quân đạt khoảng 30%. Trong tổng số vốn thực hiện, phía Việt Nam góp 14% bằng giá trị quyền sử dụng đất, phía nước ngoài góp 44%, còn lại các doanh nghiệp phải đi vay tới 42% trong đó vay từ các công ty mẹ chiếm 38%. Chủ trương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn 10 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ và tác động của nó đối với sự phát triển của đất nước là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, bên cạnh những gì đã đạt được chúng ta cũng phải nhìn nhận những tồn tại hạn chế trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài để từ đó có những giải pháp hữu hiệu. - Công tác qui hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài thiếu qui hoạch cụ thể: Do qui hoạch ngành và vùng lãnh thổ chưa hình thành dự báo thật chuẩn xác, chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường nên đã cấp phép cho các dự án khách sạn, bia, nước giải khát có gas, sản phẩm nghe nhìn, điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô, chất tẩy rửa dẫn đến cung vượt quá cầu. - Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài có một số bất hợp lý, hiệu quả tới xã hội của khu vực đầu tư nước ngoài chưa cao: Đầu tư nước ngoài tập trung vào những địa phương có điều kiện thuận lợi và những ngành có dự kiến có thể thu lợi nhuận nhanh, nhưng chưa có nhiều dự án về nuôi trồng và chế biến nông sản, chế tạo cơ khí. Những năm gần đây, xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh. Tuy nhiên hàng xuất khẩu vẫn là gia công, may mặc, giầy dép, lắp ráp điện tử giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế còn hạn chế và chưa vững chắc. Trong khu vực ĐTNN đã có sự kết hợp giữa công nghệ hiện đại ở một số ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghệ sử dụng nhiều lao động nhưng cá biệt vẫn có một số thiết bị lạc hậu đưa vào Việt Nam, chương trình nội địa hoá chậm. Số doanh nghiệp ĐTNN làm ăn hiệu quả còn ít. - Hệ thống pháp luật chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán được trước. - Công tác quản lý Nhà nước đối với ĐTNN còn những mặt yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Công tác quản lý doanh nghiệp còn nhiều sơ hở để đối tác nước ngoài lợi dụng như nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra để ăn chênh lệch ngay từ ngoài, gian lận thương mại, trốn thuế, lợi dụng độc quyền để đưa giá sản phẩm lên cao hơn giá hàng cùng loại nhập khẩu, đưa thiết bị lạc hậu vào Việt Nam, trả lương công nhân thấp dưới mức qui định, vi phạm qui định về lao động. - Cán bộ là yếu tố quyết định nhưng là khâu yếu nhất. Nhiều cán bộ Việt Nam vào làm trong các liên doanh thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ, nhiều người giữ cương vị lãnh đạo của liên doanh chỉ vì đối tác Việt Nam có đất góp vốn chưa phát huy được vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong liên doanh. - Từ năm 1997 đến nay, nhịp độ tăng ĐTNN vào Việt Nam liên tục giảm: Từ cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua, các nước trong khu vực đều phải thừa nhận vai trò tích cực, tính an toàn của ĐTNN so với vay nợ thương mại và đầu tư gián tiếp nên đang tăng cường cải thiện môi trường đầu tư để thu hút ĐTNN, đặc biệt giữa các nước đang phát triển và ngay trong khu vực càng quyết liệt. Đối với Việt Nam do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan môi trường đầu tư và nhất là môi trường kinh doanh của nước ta vẫn chưa có sự hấp dẫn đủ mạnh do còn nhiều rủi ro, một số lợi thế so sánh đang mất dần, thị trường trong nước còn hạn hẹp, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng cơ sở còn yếu kém, đồng tiền Việt Nam chưa được chuyển đổi,... Vì vậy để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa ĐTNN, yêu cầu đặt ra là phải xác định chủ trương, phương hướng và hệ thống các giải pháp hữu hiệu, tạo dựng một môi trường đầu tư về tổng thể phải có sức hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực giảm thiểu rủi ro để các doanh nghiệp ĐTNN làm ăn có hiệu quả trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. 2. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1999 - 2005. - Giai đoạn năm 1999 - 2000: nhu cầu tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần khoảng 11 tỷ USD, trong đó nhu cầu FDI cần khoảng 4 tỷ USD. - Giai đoạn năm 2001 - 2005: trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư phát triển nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược kinh tế, xã hội đặt ra là rất lớn. Theo ước tính sơ bộ, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001 - 2005 lên tới 65-70 tỷ USD. Trong khi đó, nguồn vốn ODA có khả năng giảm cả về qui mô lẫn mức độ ưu đãi, nguồn vốn vay thương mại để đầu tư không nhiều, phải chịu lãi suất cao, điều kiện cho vay khắt khe, chịu rủi ro của biến động tỷ giá,... Do vậy, cùng với việc phấn đấu động viên ở mức cao nhất nguồn vốn trong nước, phát huy tối đa nội lực, ngay từ bây giờ phải xây dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ, nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ĐTNN và yêu cầu phải gắn đầu tư trực tiếp nước ngoài với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005, và mục tiêu chiến lược đến 2010 gắn với qui hoạch, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, không chạy theo số lượng, thu hút và sử dụng vốn ĐTNN phải đảm bảo giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và định hướng XHCN. II. Các giải pháp để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Nâng cao chất lượng qui hoạch thu hút đầu tư nước ngoài: Khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động. Cần có chính sách - cơ chế để tạo bước chuyển căn bản hướng mạnh hơn nữa ĐTNN vào xuất khẩu - góp phần tích cực làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Trên cơ sở đó hình thành danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN cho thời kỳ 2001 - 2005. 2. Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường đầu tư. - Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. - Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn ĐTNN. + Đất đai: Ngoài vốn để thế chấp quyền sử dụng đất, cần soát xét lại giá cho thuê đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Nghiên cứu, thay thế dần cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để chuyển sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất đối với các dự án ĐTNN. + Tài chính, tín dụng ngoại hối. Xây dựng qui chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp ĐTNN ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. - Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với các lĩnh vực, địa bàn và dự án cần thu hút ĐTNN. Để thu hút ĐTNN vào các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên và khuyến khích đầu tư cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi có sức cạnh tranh cao để thu hút vốn ĐTNN. + Thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghệ sản xuất phụ tùng linh kiện. + Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông lâm, thuỷ sản, đầu tư vào nông thôn và khu vực có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. + Đối với hạn chế của một số dự án đặc biệt quan trọng cần xử lý đại cách và cần có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết theo lộ trình hội nhập. + Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu. - Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư. Mỗi hình thức đầu tư tuy có vị trí, đặc thù riêng nhưng đều trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành và lãnh thổ, quy hoạch các sản phẩm quan trọng, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, chịu sự quản lý giám sát, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước, do đó ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự án do yêu cầu an ninh quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà ĐTNN được lựa chọn hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cần có chính sách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên doanh với nước ngoài, đồng thời đa dạng hơn nữa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới. - Cải tiến qui chế đầu tư vào KCN - KCX ở Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, cần thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp KCN, bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật đến tận hàng rào các KCN, ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN, giảm giá thuê đất trong các KCN, KCX để đảm bảo cho các chủ đầu tư có lợi, thúc đẩy hộ đầu tư vào KCN, KCX. 3. Hoàn thiện pháp luật: Luật ĐTNN đã được sửa đổi phần nào đã tháo gỡ vướng mắc cho các nhà ĐTNN tại Việt Nam. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật có liên quan cũng cần sửa đổi bổ sung thêm để hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản luật và văn bản dưới luật, tháo gỡ vướng mắc khó khăn trong hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN. Một số văn bản luật trong thời gian tới cần được sửa đổi là luật đất đai, luật ngân hàng, luật khoáng sản, luật thuế như thuế thu nhập cá nhân. 4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Trước hết cần xác định xúc tiến đầu tư, cũng như xúc tiến thương mại, là nhiệm vụ và trác nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cán bộ, ngành, các tỉnh, ban quản lý KCN. Đồng thời ngân sách Nhà nước cũng cần có một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cần nghiên cứu thành lập các tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành ở một số địa phương để cung cấp các dịch vụ triển khai dự án khi được cấp giấy phép đầu tư như dịch vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư. 5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng qui chế phối hợp tổng hợp chặt chẽ giữa các bộ phận tổng hợp, các bộ phận quản lý ngành, UBND cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền trách nhiệm của từng cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN giúp Chính phủ quản lý thống nhất các hoạt động ĐTNN, là đầu mối phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương và giải quyết các vấn đề phát sinh trong hợp đồng của các doanh nghiệp ĐTNN. Các bộ, ngành, địa phương thực hiện quản lý Nhà nước về ĐTNN theo đúng chức năng, thẩm quyền đã qui định theo luật ĐTNN, các Nghị định của Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố và các ban quản lý KCN được phân cấp uỷ quyền quản lý hoạt động ĐTNN trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất về kế hoạch, cơ cấu, chính sách, cơ chế quản lý, tăng cường sự hướng dấn và kiểm tra của các bộ, nâng cao kỷ cương và kỷ luật thực hiện để vừa phát huy sức mạnh, chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở, vừa tránh phá vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở. Cần quy định cụ thể các chế độ kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, tránh tình trạng thoái hoá các quan hệ kinh tế của các doanh nghiệp, đồng thời phải bảo đảm giám sát được hoạt động và áp dụng các chế tài đối với vị phạm pháp luật của doanh nghiệp. Cần cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư. 6. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Kết luận Qua các phần trình bày trên cho chúng ta thấy rằng môi trường đầu tư của Việt Nam có rất nhiều thuận lợi, nhưng cũng tồn tại không ít những nhược điểm cần hoàn thiện hơn nữa. Biện pháp tốt nhất cho vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là cải thiện môi trường đầu tư có sức hấp dẫn hơn hiện nay. Chính sách, pháp luật để bảo hộ cho các nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam phải luôn được tăng cường và hoàn thiện. Nghiên cứu về các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng đồng thời với việc nghiên cứu giải pháp tổng thể cho việc thu hút và sử dụng vốn ĐTNN là điều cần thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các quốc gia đều xác định FDI là chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế xã hội của đất nước và Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo đó. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chúng ta phải thực hiện rất nhiều công việc, trong đó cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn với các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư là công việc rất quan trọng và bức thiết. Muốn phát triển đất nước chúng ta cần có 2 nguồn lực: nguồn lực trong nước và ngoài nước. Trong đó nguồn lực trong nước là rất quan trọng, nhưng trong giai đoạn hiện nay chúng ta chưa huy động được nhiều nguồn lực trong nước với xuất phát điểm kinh tế ở nước ta còn thấp. Do vậy, chúng ta mới kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong nước, khơi dậy mọi nguồn lực trong nước tạo thành hợp lực để phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, sử dụng mọi nguồn lực một cách tối ưu nhất. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay, Việt Nam trong tương lai không xa, nếu tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng và hoàn thiện hơn nữa chính sách, pháp luật thì có thể sánh vai cùng các nước trong khu vực, thực hiện được công cuộc HĐH, CNH đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra, đưa Việt Nam trở thành 1 trong những “con rồng Châu á”, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tài liệu tham khảo - Hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam 1992 - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1986 - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1992 - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII - Giáo trình tư pháp quốc tế - Trường ĐH Luật Hà Nội. - Giáo trình Luật kinh tế - Trường ĐH Luật Hà Nội. - Giáo trình ĐTNN - Vũ Chí Lộc - Báo đầu tư - Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới - Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: cơ sở pháp lý, hiện trạng, cơ hội và triển vọng - Nguyễn Anh Tuấn, Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn. - Những giải pháp chính trị kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp. - Những dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2000 - Kinh tế Việt Nam trên đường phát triển của tiến sĩ kinh tế - Vũ Quang Việt. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0057.doc
Tài liệu liên quan