Trên cơ sở vừa thực hiện nghiêm túc các cam kết hội nhập theo đúng nội dung và lộ trình đã ký kết, vừa phù hợp với mức tích lũy từng ngành để khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và tạo ra nguồn thu lâu dài cho ngân sách nhà nước, các Bộ, ngành cần tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội xem xét, ban hành thêm một số sắc thuế mới như:
- Thuế chống bán phá giá : Loại thuế này nhằm mục đích bảo vệ thị trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa có mức giá thấp hơn rất nhiều lần so với giá thế giới. Thuế này đảm bảo nâng giá lên mức trung bình và đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Thuế tuyệt đối (đặc biệt): Áp dụng cho hàng nhập khẩu, loại thuế này được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa với một số lượng nhất định mà gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, hoặc thực hiện trừng phạt đối với những người tham gia vào mối quan hệ đối ngoại khi vi phạm lợi ích của nhau và có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ, thuế tuyệt đối áp dụng đối với mặt hàng xe ô tô cũ.
- Ban hành Thuế môi trường: Trong thời gian qua, tình hình môi trường ở Việt Nam có những biểu hiện bị xấu đi nhanh chóng. Để góp phần giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau song xem ra hiệu quả đem lại chưa cao. Vì vậy, việc xây dựng Luật Thuế môi trường ở Việt Nam là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó có thể kết hợp được các mục tiêu môi trường trong phát triển kinh tế, xác định được những mâu thuẫn và ưu tiên giữa mục tiêu môi trường và mục tiêu tăng trưởng để có cách giải quyết thỏa đáng.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1788 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các cam kết về thuế khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các cam kết về thuế khi Việt Nam gia nhập WTO
Lời Mở Đầu
Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được đánh giá là sự kiện quan trọng nhất có tác động cực kì to lớn tới kinh tế Việt Nam.Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần phải vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu.
Như đã biết , Việt Nam chúng ta được đánh giá là 1 nước đang phát triển và thực sự , chúng ta mới chỉ thoát khỏi khủng hoảng và lệ thuộc kinh tế hơn chục năm.Đối với đấu trường kinh tế giới , các sân chơi dường như còn quá xa vời và cao lớn với tầm vóc nền kinh tế Việt Nam.Việc chúng ta gia nhập WTO ko mang ý nghĩa thúc đẩy ngay việc phát triển kinh tế những năm đầu này mà mang ý nghĩa quyết định cho tương lai của nền kinh tế Việt Nam mai sau.Vậy để chuẩn bị tốt cho sân chơi WTO , sẵn sang hội nhập vào biển kinh tế thế giới mà vẫn giữ cho chúng ta “ hòa nhập chứ ko hòa tan “ , tránh bị khủng hoảng và lệ thuộc kinh tế cũng như giữ vững được lập trường chính trị , thể chế ; chúng ta cần 1 lộ trình dài và chắc chắn nhằm giúp kinh tế Việt Nam tránh sock và có thể hòa nhập trong ổn định với thị trường thương mại lớn nhất Thế Giới này.
Thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước Việt Nam.Khi gia nhập WTO , điều kiện tiên quyết là phải gỡ bỏ gần như hoàn toàn hệ thống thuế với hàng nhập khẩu của các nước thành viên WTO.Chúng ta không thể đi ngược lại quy định chung của WTO , 1 mình 1 luật được , đã chấp nhận gia nhập WTO là chúng ta phải chấp nhận luật chơi của họ , không ưu đãi , không nhượng bộ.Với 1 sân chơi như vậy , việc gia nhập quá nhanh sẽ khiến nguồn ngân sách nhà nước Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng nặng nề , gây xáo trộn toàn bộ nền kinh tế vốn bị chi phối bởi ngân sách nhà nước.WTO đã chấp nhận cho chúng ta được phép có 1 khoảng thời gian ổn định và cắt giảm dần hàng rào thuế quan để gia nhập 1 cách toàn diện vào hệ thống WTO.Trước khó khăn và thác thức như vậy , Việt Nam chúng ta đã làm gì và cần làm gì để có 1 lộ trình gỡ bỏ hàng rào thuế quan 1 cách an toàn và chắc chắn đối với nền kinh tế của mình
I. Giới Thiệu Chung Về WTO
1.WTO là gì ?
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:
WTO là nơi đề ra những quy định
WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Đến nay, WTO có tất cả 150 thành viên.
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán
Bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói, WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế
Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO, chính là mục tiêu chính trị của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và chính trị là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
2. Mục tiêu của WTO :
Nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.
Bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
Giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;
Xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này.
3. Chức năng của WTO :
Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, WTO có 5 chức năng sau:
- WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên;
- WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra;
- WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên (''Thoả thuận'' này được quy định trong Phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO);
- WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên), ''Cơ chế'' này được quy định tại Phụ lục 3 của Hiệp định thành lập WTO;
- Ðể đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
4. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO :
WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới, bao gồm:
4.1. Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc: WTO quy định rằng, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc: Mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) :
"Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc: Hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc: Bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C... khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
4.2. Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán)
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
4.3. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán. Nội dung bao gồm các công việc sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan :
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan :
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
4.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp... hoặc các biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
4.5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
II. Các Cơ Hội Và Thách Thức Của Việt Nam Khi Gia Nhập WTO
1. Cơ Hội :
- Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
- Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
- Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
- Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập.
2. Thách Thức :
- Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
- Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Trước khó khăn và thách thức trên , cùng với quy định chung khi gia nhập WTO , hệ thống thuế Việt Nam ta đã chuẩn bị những gì cho tiến trình thực hiện cam kết thuế.
III. Cam Kết Về Thuế Của Việt Nam Khi Gia Nhập WTO
1. Các cam kết về thuế:
Gia nhập WTO và các khu vực mậu dịch tự do, việc mở cửa thị trường hàng hóa được thực hiện chủ yếu thông qua các cam kết về cắt giảm hàng rào bảo hộ bằng thuế nhập khẩu và tuân thủ các nguyên tắc thương mại về không phân biệt đối xử giữa hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước khi ban hành các biện pháp chính sách trong nước. Theo nguyên tắc của WTO, các nước thành viên chỉ được phép bảo hộ các ngành sản xuất trong nước bằng biện pháp thuế quan, các biện pháp hạn chế định lượng hàng nhập khẩu hay trợ cấp không được phép duy trì. Tuy nhiên, bảo hộ thông qua thuế chỉ được diễn ra ở mức độ thấp hợp lý. Do đó, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan và ràng buộc không tăng thuế vượt quá mức ngưỡng đã được thỏa thuận.
1.1.Cam kết về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia
Các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu:
1.2.1. Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm
1.2.2. Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối.
1.3. Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu:
Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm
1.4. Cam kết về thuế nông nghiệp:
Việt Nam sẽ phân loại năng lực cạnh tranh cho từng ngành nông sản và xây dựng lộ trình giảm thuế phù hợp. Một mặt, cam kết lộ trình giảm thuế mạnh đối với những mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao và đã có năng lực xuất khẩu như gạo, cà phê. Mặt khác, cam kết lộ trình giảm thuế chậm hơn, nhằm bảo hộ có thời hạn đối với một số mặt hàng như cao su, đồ gỗ lâm sản và lâm sản chế biến.
Mức cam kết chung về thuế nhập khẩu, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế. Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 - 7 năm.
2. Biểu cam kết thuế quan của Việt Nam trong WTO.
Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hóa chất, một số phương tiện vận tải. Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện – điện tử (xem bảng tổng hợp 1).
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 21%. So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%. Trong lĩnh vực này, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng: trứng, đường, thuốc lá lá và muối (muối trong WTO không được coi là mặt hàng nông sản). Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50 – 60%, thuốc lá lá: 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%.
Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm trung bình của những nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán Uruguay (năm 1994) như sau: trong lĩnh vực nông nghiệp các nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 30% và 46%; với hàng công nghiệp tương ứng là 37% và 24% (xem bảng tổng hợp 2)
Mức độ cam kết và cắt giảm thuể của Việt Nam tổng hợp theo 1 số nhóm ngành hàng và nhóm mặt hàng chính:
Bảng 1 - Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt giảm cuối cùng cho WTO (%)
1. Nông sản
25,2
21,0
2. Cá, sản phẩm cá
29,1
18,0
3. Dầu khí
36,8
36,6
4. Gỗ, giấy
14,6
10,5
5. Dệt may
13,7
13,7
6. Da, cao su
19,1
14,6
7. Kim loại
14,8
11,4
8. Hóa chất
11,1
6,9
9. Thiết bị vận tải
46,9
37,4
10. Máy móc thiết bị cơ khí
9,2
7,3
11. Máy móc thiết bị điện
13,9
9,5
12. Khoáng sản
16,1
14,1
13. Hàng chế tạo khác
12,9
10,2
Cả biểu thuế
17,2
13,4
Bảng 2 - Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính
TT
Mặt hàng
Thuế suất MFN (%)
Cam kết với WTO
Thuế suất khi gia nhập (%)
Thuế suất cuối cùng (%)
Thời hạn thực hiện
1
Một số sản phẩm nông nghiệp
- Thịt bò
20
20
14
5 năm
- Thịt lợn
30
30
15
5 năm
- Sữa nguyên liệu
20
20
18
2 năm
- Sữa thành phẩm
30
30
25
5 năm
- Thịt chế biến
50
40
22
5 năm
- Bánh kẹo (t/s bình quân)
39,3
34,4
25,3
3-5 năm
- Bia
80
65
35
5 năm
- Rượu
65
65
45-50
5-6 năm
- Thuốc lá điếu
100
150
135
3 năm
- Xì gà
100
150
100
5 năm
- Thức ăn gia súc
10
10
7
2 năm
2
Một số sản phẩm công nghiệp
- Xăng dầu (t/s bình quân)
0-10
38,7
38,7
- Sắt thép (t/s bình quân)
17,7
13
5-7 năm
- Xi măng
40
40
32
4 năm
- Phân hóa học (t/s bình quân)
6,5
6,4
2 năm
- Giấy (t/s bình quân)
22,3
20,7
15,1
5 năm
- Tivi
50
40
25
5 năm
- Điều hòa
50
40
25
3 năm
- Máy giặt
40
38
25
4 năm
- Dệt may (t/s bình quân)
37,3
13,7
13,7
Thực hiện ngay khi gia nhập (theo HĐ dệt may đã có với EU, US)
- Giày dép
50
40
30
5 năm
- Xe Ôtô con
+ Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng
90
90
52
12 năm
+ Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng, loại 2 cầu
90
90
47
10 năm
+ Xe dưới 2.500 cc, và loại khác
90
90
70
7 năm
- Xe tải
+ Loại không quá 5 tấn
100
80
50
10 năm
+ Loại khác, có t/s hiện hành 80%
80
80
70
7 năm
+ Loại khác, có t/s hiện hành 60%
60
60
50
5 năm
- Phụ tùng ôtô
20,9
24,3
20,5
3-5 năm
- Xe máy
+ Loại từ 800 cc trở lên
100
100
40
8 năm
+ Loại khác
100
95
70
7 năm
Bảng 3 - Cam kết thuế hàng nông sản trong WTO
Nhóm mặt hàng
MFN
hiện
hành
Thuế suất
cam kết
cuối cùng
trong
WTO
Mức độ cắt giảm so với MFN (%)
Thời
gian
hoàn thành
cắt giảm
Ghi chú
I - Sản phẩm chăn nuôi
1. Động vật sống
3.41
3.41
0
2. Thịt các loại
17.61
17.45
2012
Trong đó, thịt bò không xương giảm từ 20 xuống 14%
Trong đó: Thịt trâu, bò
20.0
19.7
2
2012
Thịt lợn
30.0
20.0
33
2012
Trong đó, thịt lợn cấp đông giảm từ 30 xuống 15%
Thịt gia cầm
18.8
28.33
Tăng 50,6% so với MFN
3. Sữa, các sản phẩm từ sữa;
20.9
17.8
15
4. Trứng gia cầm
40.0
40.0
0
Trứng giống: 0%; Thuế ngoài hạn ngạch: 80%
II - Sản phẩm trồng trọt
1. Gạo
40.0
40.0
Thóc giống: 0%
2. Ngô hạt
5.0
5.0
Ngô giống: 0%
3. Đậu tương
5.0
5.0
Đậu tương giống: 0%
4. Lạc, vừng
10.0
10.0
Các loại giống: 0%
5. Rau và một số loại củ, thân củ, rễ ăn được
19.9
17.4
13
2010
6. Quả các loại
Trong đó: hạt điều
38.3
29.1
26
2010
7. Cà phê nhân
20.0
20.0
8. Cà phê đã chế biến
50.0
30.0
40
2011
9. Chè
50.0
40.0
20
2010
10. Hạt tiêu
30.0
20.0
33
2010
11. Đường thô
30
25
17
2010
Thuế ngoài hạn ngạch 85%
12. Đường tinh
40
60
Thuế ngoài hạn ngạch 85%
13. Rau quả chế biến
41.12
33.75
18
2010
14. Thức ăn gia súc đã chế biến
5.7
7.1
Tấm, cám phế liệu: 10%;
Trong đó: Thức ăn hỗn hợp
10.0
7.0
30
2010
15. Bông xơ
0.0
0.0
16. Muối ăn
30.0
30.0
Ngoài hạn ngạch:60%
Muối công nghiệp
15
15
Thuế ngoài hạn ngạch: 50
17. Cao su tự nhiên
5.0
5.0
0
18. Gỗ nguyên liệu
5.17
3.85
25.5
2010
19. Sản phẩm mây tre đan
38.18
20
47
20. Đồ nội thất
35.6
19.4
46.0
2012
Mặt khác, cũng như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam còn cam kết tham gia vào một số hiệp định tự do hóa theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3 – 5 năm.
Trong các hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3 – 5 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện. Như vậy các sản phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động, máy ghi hình, máy ảnh kỹ thuật số… sẽ đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3 – 5 năm, tối đa là sau 7 năm. Việc tham gia Hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hóa mức thuế đã cam kết theo các hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này. Cụ thể, vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
Bảng 4 - Các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hoá theo ngành
Hiệp định tự do hóa theo ngành
Số dòng thuế
T/s MFN (%)
T/s cam kết cuối cùng (%)
1. Hiệp định công nghệ thông tin ITA- tham gia 100%
330
5,2
0
2. Hiệp định hài hoà hoá chất CH- tham gia 81%
1.300-1.600
6,8
4,4
3. Hiệp định thiết bị máy bay dân dụng CA- tham gia hầu hết
89
4,2
2,6
4. Hiệp định dệt may TXT- tham gia 100%
1.170
37,2
13,2
3. Những thay đổi quan trọng về thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Kể từ thời điểm 7/11/2006, người tiêu dùng và nhà sản xuất Việt Nam đã có cơ sở để tin rằng mình sắp được mua hàng hóa, nguyên vật liệu, đặc biệt là hàng hóa, nguyên vật liệu nhập khẩu với giá rẻ hơn so với trước đó. Lý do thật đơn giản là Việt Nam cam kết giảm thuế khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, theo lộ trình cam kết thì nhanh nhất là ngay sau khi gia nhập, chậm nhất là 12 năm sau kể từ khi gia nhập, chúng ta mới có thể vui mừng trọn vẹn vì người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua hàng nhập khẩu chất lượng cao với giá rẻ…
Đối với thuế nội địa, cam kết WTO cuả Việt Nam tập trung vào thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Quy định hiện hành có sự phân biệt đối xử nhất định đối với một số mặt hàng chủ yếu hình thành từ hoạt động nhập khẩu. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải cam kết thay đổi những quy định liên quan để tuân thủ nghiã vụ theo quy định điều III cuả GATT 1994. Theo đó, sản phẩm bia, rượu đòi hỏi phải được điều chỉnh theo lộ trình để phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc lựa chọn tiêu dùng, sản xuất loại bia nào trở nên đơn giản với người tiêu dùng và nhà sản xuất, nhập khẩu cũng nhhư nhà quản lý trong vòng 3 năm tới vì Việt Nam sẽ áp dụng thống nhất thuế tiêu thụ đặc biệt với tất cả các loại bia mà không phụ thuộc vào hình thức đóng gói. Với rượu, tiêu chí để phân định mức thuế suất phân hoá theo nồng độ cuả rượu. Rượu trên 20 độ cồn hoặc phải áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính trên lít hoặc một mức thuế suất tỉ lệ đơn nhất. Những thay đổi này được thực hiện trong lộ trình 3 năm kể từ ngày cam kết. Với cam kết này, những đối tượng khác chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt ngoài rượu và bia sẽ không có thay đổi nào về nghiã vụ thuế TTĐB.
Đối với thuế nhập khẩu, câu trả lời tại sao hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn và dễ tìm mua hơn là do Việt Nam cam kết ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu với 10.600 dòng thuế sẽ có mức thuế bình quân giảm khoảng 3% - từ 17,4% còn 13,4%. Lộ trình cắt giảm trong vòng 5-7năm kể từ thời điểm cam kết. Đặc biệt là mặt hàng nông nghiệp đã từ lâu ta xem là mặt hàng chủ lực cuả Việt Nam bị cắt giảm tương tự- từ 23,5% xuống còn 20,9% trong vòng 5 năm. Với hàng công nghiệp là .từ 16,8% xuống còn 12,6% trong thời gian từ 5-7năm. Mức cắt giảm bình quân thuế nhập khẩu Việt Nam tuân thủ mức cắt giảm thuế chung tại vòng Urugoay là vào khoảng 27% (30% cho hàng nông sản, 24% co hàng công nghiệp) đối với các nước đang phát triển.
Hạn ngạch thuế quan không phải là thuế nhưng có mối quan hệ với việc xác định tính hợp pháp của hàng nhập khẩu để đánh thuế. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng đối với đường , trứng gia cầm , lá thuốc lá và muối. Quy định này thực tế chỉ liên quan đến số lượng hàng nhập khẩu trên thị trường.
Các cam kết trên cũng ảnh hưởng đến thuế giá trị gia tăng(GTGT). Bởi lẽ thuế GTGT cũng là một trong ba nghiã vụ thuế hình thành khi thực hiện hành vi nhập khẩu. Giá tính thuế GTGT trong trường hợp này là tổng của giá giao dịch (mua hàng) với thuế nhập khẩu và thuế TTĐB (nếu đây là hàng chịu thuế TTĐB). Vì thế một khi thuế suất thuế nhập khẩu giảm dẫn đến số tiền thuế NK tương ứng giảm, hệ quả là số tiền thuế TTĐB (nếu có) và tiền thuế GTGT giảm theo do giá tính thuế thấp xuống tương ứng. Tất cả những thuế này đều là thuế gián thu nên sẽ cấu thành trong giá bán trên thị trường, vì thế thuế thấp sẽ kéo theo giá hàng hoá giảm.
Như vậy theo lộ trình mà Việt Nam cam kết thì với một khoảng thời gian nhanh nhất là ngay sau khi gia nhập và chậm nhất là 12 năm kể từ khi gia nhập, chúng ta có thể vui mừng vì người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua hàng nhập khẩu chất lượng cao với giá rẻ. Ước lượng mức bình quân có thể rẻ hơn hiện nay khoảng chừng gần 30% so với giá thị trường hiện tại (với điều kiện giá giao dịch không đổi). Mặc dù bên cạnh đó còn nhiều nỗi lo chung quanh việc cắt giảm thuế sẽ khiến cho hàng hóa sản xuất trong nước bị cạnh tranh quyết liệt bởi hàng nhập khẩu. Vấn đề không nằm ở chỗ quy định về thuế, mà câu trả lời nằm chính ở việc định chuẩn cho hàng hóa nhập vào thị trường Việt Nam, ở chỗ chúng ta không dung túng cho việc coi thường người tiêu dùng do việc nhà sản xuất đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng vì thiếu tính cạnh tranh. Nhìn xa hơn đó còn là bài toán cho sự đổ bộ về công nghệ, nguồn nguyên liệu chất lượng cao, giá rẻ, từ đó có tác dụng kích thích các giao dịch được xác lập nhiều hơn, đa dạng hơn, với quy mô lơn hơn, nguồn thu thuế từ đó cũng dồi dào hơn. Thiết nghĩ cái được sẽ nhiều hơn là mất, ít nhất là với hơn 90 triệu người tiêu dùng Việt Nam.
4. Hoàn thiện hệ thống thuế trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO
4.1. Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế, phí hiện hành
+ Thuế giá trị gia tăng VAT
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, thuế VAT cần được hoàn thiện trên một số nội dung chính:
- Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT, vừa đảm bảo tính trung lập của sắc thuế này, vừa khai thác nguồn thu trong điều kiện hội nhập.
- Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế VAT: Áp dụng phương pháp liệt kê để xác định cụ thể phạm vi áp dụng mức thuế suất phổ thông, nhằm đảm bảo tính đơn giản của chính sách thuế, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế; hướng tới việc áp dụng cơ chế một mức thuế suất giá trị gia tăng.
- Hoàn thiện phương pháp tính thuế là cần thiết vì tính thực tế của phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng rất thấp, trong tương lai cần xây dựng ngưỡng doanh thu chịu thuế. Theo đó, các đối tượng có mức doanh thu hàng năm vượt trên ngưỡng sẽ là đối tượng bắt buộc phải đăng ký, nộp thuế VAT; các đối tượng có mức doanh thu dưới ngưỡng không bắt buộc phải thực hiện đăng ký, nộp thuế VAT (các đối tượng này thực hiện nộp thuế theo phương thức khoán và không được quyền khấu trừ thuế VAT đầu vào).
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt
Để thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với tiến trình ra nhập WTO, cần phải được hoàn thiện theo hướng:
- Mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng hóa, dịch vụ như các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp,…không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
- Về thuế suất, sự điều tiết cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế khác. Theo đó, cần điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành xuống mức hợp lý, không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh các mặt hàng, dịch vụ này.
+ Thuế xuất, nhập khẩu
Căn cứ vào chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, việc sửa đổi Luật thuế xuất, nhập khẩu cần đáp ứng được những mục tiêu và yêu cầu sau: Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử, phù hợp với tiến trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế; Khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có chọn lọc, phù hợp với tiến trình hội nhập; Góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước; Kế thừa những quy định của Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn, đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp với điều kiện hội nhập, chưa đồng bộ với pháp luật hiện hành và chưa đề cao được vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại, thất thu thuế.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 01/01/2004, khi đi vào cuộc sống đã góp phần tạo ra sự thống nhất và hợp lý hơn trong việc huy động ngân sách nhà nước từ một sắc thuế quan trọng có tính chất trực thu. Tuy vậy, cũng cần phải có những điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn và thông lệ quốc tế:
- Về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, việc giảm thuế suất từ 32% trước đây xuống còn 28% như hiện nay và sắp tới là 25% là bước cải cách quan trọng. Mặc dù vậy, so với các nước trên thế giới hiện nay, mức thuế này vẫn còn cao và cần được giảm hơn nữa. Đồng thời, xem xét lại việc miễn giảm thuế theo hướng thu hẹp diện miễn, giảm thuế thu nhập theo hướng có chọn lọc đối với những ngành, sản phẩm cần ưu đãi để thúc đẩy sản xuất, thu hút đầu tư, sẽ vừa đảm bảo phát huy tính chất điều tiết, khuyến khích sản xuất kinh doanh của thuế suất, vừa đơn giản trong việc thực hiện thuế thu nhập doanh nghiệp.
+ Thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao
Sắc thuế này sẽ cùng với thuế thu nhập doanh nghiệp trở thành loại thuế trực thu chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống thuế và tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu ngân sách nhà nước sẽ có xu hướng tăng cao, vì vậy cần:
- Quy định chuẩn lại đối tượng thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân.
- Bao quát và cụ thể hóa các quy định về xác định thu nhập, các khoản được giảm trừ theo hướng minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Xây dựng biểu thuế lũy tiến từng phần, tổng mức điều tiết khoảng 30% tổng thu nhập của cá nhân.
-Thu hẹp dần khoảng cách khởi điểm chịu thuế giữa người trong nước và người nước ngoài.
4.2. Ban hành các sắc thuế mới
Trên cơ sở vừa thực hiện nghiêm túc các cam kết hội nhập theo đúng nội dung và lộ trình đã ký kết, vừa phù hợp với mức tích lũy từng ngành để khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và tạo ra nguồn thu lâu dài cho ngân sách nhà nước, các Bộ, ngành cần tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội xem xét, ban hành thêm một số sắc thuế mới như:
- Thuế chống bán phá giá : Loại thuế này nhằm mục đích bảo vệ thị trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa có mức giá thấp hơn rất nhiều lần so với giá thế giới. Thuế này đảm bảo nâng giá lên mức trung bình và đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Thuế tuyệt đối (đặc biệt): Áp dụng cho hàng nhập khẩu, loại thuế này được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa với một số lượng nhất định mà gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, hoặc thực hiện trừng phạt đối với những người tham gia vào mối quan hệ đối ngoại khi vi phạm lợi ích của nhau và có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ, thuế tuyệt đối áp dụng đối với mặt hàng xe ô tô cũ.
- Ban hành Thuế môi trường: Trong thời gian qua, tình hình môi trường ở Việt Nam có những biểu hiện bị xấu đi nhanh chóng. Để góp phần giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau song xem ra hiệu quả đem lại chưa cao. Vì vậy, việc xây dựng Luật Thuế môi trường ở Việt Nam là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó có thể kết hợp được các mục tiêu môi trường trong phát triển kinh tế, xác định được những mâu thuẫn và ưu tiên giữa mục tiêu môi trường và mục tiêu tăng trưởng để có cách giải quyết thỏa đáng.
Kết Luận
Việc gia nhập WTO mang lại nhiều cơ hội cũng như những thách thức to lớn cho Việt Nam.Với tư cách là thành viên WTO, Việt Nam sẽ thu được nhiều lợi ích mà quan trọng nhất là đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển , hoà nhập với nền kinh tế chung của thế giới , nâng cao vị thế của chúng ta trên trường quốc tế.Nhưng cũng vì là thành viên của WTO, Việt Nam cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thách thức không nhỏ do địa vị kinh tế, đặc điểm chính trị - xã hội là một nước đang phát triển.Hệ thống thuế Việt Nam với các cam kết thuế khi gia nhập WTO như con dao 2 lưỡi , bắt buộc chúng ta phải đẩy mạnh phát triển nếu không muốn bị thất thu về thuế và trở thành sân sau về kinh tế , thị trường chỉ tiêu dùng hàng hoá của các quốc gia sản xuất khác.Dù vậy, thấy rõ vai trò to lớn của tổ chức thương mại quốc tế WTO và những cơ hội tốt mà Việt Nam sẽ có được, chúng ta cần thúc đẩy mạnh sản xuất , tập trung phát triển kinh tế bền vững để có thể tận dụng tối đa lợi thế mà WTO mang lại và hạn chế những thiệt hại tiềm tàng.
Với điều kiện thời gian ngắn, nên bài trình bày của em không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vậy em kính mong cô có những nhận xét để bài trình bày này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Bộ văn kiện chi tiết về các điều khoản khi gia nhập WTO của Việt Nam
2. Trang web tổng cục thuế Việt Nam www.gdt.gov.vn
3. Trang web của WTO www.wto.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24968.doc