Đề tài Các chính sách cơ bản tác động đến nông nghiệp nông thôn Việt Nam

Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “ Các chính sách chủ yếu tác động đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ”, Em đã nhận thấy vai trò kinh tế nông nghiệp, nông thôn đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Nó là cơ sở, là nền móng, là vốn tích luỹ ban đâu cho quá trình CNH-HĐH đất nươc. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, kinh tế nông nghiệp, nông thôn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và Việt Nam cũng không loại trừ. Nhất là nước ta đang trong quá trình CNH-HĐH đất nước, thì vai trò to lớn kinh tế nông nghiệp, nông thôn là thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, rút gắn giai đoạn thực hiện CNH-HĐH, đưa nhanh nước ta trở thành nước công nghiệp. Để có được sự thành công đó, Chính Phủ phải đưa ra được những chính sách hợp lý, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cho phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các chính sách cơ bản tác động đến nông nghiệp nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoá nông thôn. Nếu năm 1981-1987, đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước và các hợp tác xã nông nghiệp, thì sang giai đoạn 1988-1993 khách hàng chủ yếu của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là các hộ nông dân. + Bình đẳng hoá các thành phần kinh tế trong quan hệ tín dụng với ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, xoá bỏ quy định áp dụng mức lãi xuất khác nhau giữa các khách hàng. Hệ thống lãi suất ưu đãi chỉ còn duy trì đối với các khoản tín dụng đặc biệt dành cho các vùng núi cao, hải đảo, vùng kinh tế mới... + Phát triển nhiều kênh truyền tải vốn cho vay tới hộ nông dân, đó là: Cho vay qua các tổ chức, các hội, đoàn thể... như (hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh liên, hợp tác xã ...). Từ đó các hộ nông dân có cơ hội được vay vốn để tạo nhiều việc làm mới , tăng thu nhập, giảm nghèo đói. + Ngoài ra thu hút và mở các nguồn vốn cho vay của các tổ chức trong và ngoài nước, hình thành nhiều khoản cho vay theo mục tiêu dưới dạng dự án, chương trình tín dụng nhân đạo. Thực hiện chính sách mở cửa, trong những năm gần đây, đã có nhiều tổ chức phi chính Phủ nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam cho nông dân vay để phát triển sản xuất. Nổi bbật nhất là các tổ chức như SIDA (Thụy Điển); Quaker (Mỹ); UNFPA (Liên hợp quốc thông qua FAO) Quỹ nhi đồng Anh (SCFGB); PAM ...với số vốn lên tới hàng triệu $. Điều đó góp phần đáng kể vào việc tạo vốn phát triển cho kinh tế nông thôn . Những nội dung đổi mới của chính sách tạo vốn tín dụng trên đây thực sự có tác dụng tích cực trên cả hai mặt hai mặt : Một là thực hiện cho vay tới các hộ nông dân với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế cùng hỗ trợ, tạo vốn ban đầu cần thiết để hộ nông dân phát triển sản xuất, xoá bỏ các khoản vay nguyên tắc kém hiệu quả trước kia. Chính sách này được đông đảo nông dân hưởng ứng thực hiện, vay- trả sòng phẳng. Theo báo cáo của NH Nông nghiệp Việt Nam, mặc dù lãi suất cho hộ nông dân vay không hề ưu đãi nhưng kêt quả trả nợ rất tốt. Đến cuối năn 1992 có tới 96% hộ nông dân vay đã thanh toán xong, chỉ có 4% nợ quá hạn, song số này vẫn có đủ khả năng trả nợ. Thực tế khẳng định thành công của chính sách tín dụng trong những năm vừa qua, đồng thời cho thấy vai trò to lớn của chính sách phát triển tín dụng tới hộ sản xuất, và dần dần hình thành thị trường vốn nông thôn, trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Hai là: nâng cao nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới của cơ chế kinh tế và các chính sách vĩ mô khác, đặc biiệt là thích nghi với hoạt động tín dụng theo theo quy luật của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 1.2. chính sách trợ giá trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra. Do chính sách giá cả đã chuyển dần và đồng bộ từ cơ chế nhà nước quy định chủ quản, áp đặt nhiều giá sang cơ chế một giá, theo quy luật cung – cầu của thị trường và do thị trường quyết định. Cơ chế này ứng dụng đối với đại đa số các hàng hoá nông sản. Tác động của chính sách tự do hoá giá cả trên đây đã bước đầu tạo ra sự điều tiết từ phía thị trường, theo sự vận động của quan hệ cung cầu. Tuy nhiên, do tính tự phát của thị trường đã có tác động xấu đối với sản phẩm nông nghiệp. Đó là một số sản phẩm, ở một số vùng trong những thời điểm nhất định do giá hạ thấp, nông dân đã phải giảm sản xuất, hoặc phá bỏ để trồng cây khác có lợi hơn, hoặc giảm bớt đấu tư vào thâm canh để tránh thua lỗ. Nhận biết tác động xấu đó đối với một số sản phẩm trọng yếu, nhà nước đã thử nghiệm can thiệp vào thị trường nông sản bằng cách mua theo giá bảo trợ, cao hơn giá hình thành triên thị trường khi giá thị trường xuống thấp hơn giá thành sản xuất, trước hết là đối với lúa gạo (mức giá bảo trợ bằng giá thành trung bình cộng với lãi suất tối thiểu khoảng 20-30% so với giá thành). Đồng thời Nhà nước đã thực hiện cấp tín dụng lãi suất ưu đãi để các công ty lương thực có thể mua lúa dự trữ trong dân, ngoài ra còn thực hiện chính sách giảm thuế xuất khẩu. Thực tế cho thấy, nhờ sự can thiệp trực iếp của Nhà nước vào thị trường nông sản bằng các biện pháp trên, đã có tác dụng làm cho giá nông sản trong nâưm 1993 có tăng lên, và thu hẹp một phần giá cánh kéo, làm giảm bớt thua thiệt cho nông dân và khuyến khích ra tăng sản xuất. Thực tiễn những năm qua đã cho thấy, trong cơ chế thị trường người nông dân không thể đối mặt trực tiếp với những biến động mau lẹ và khắc nhiệt của thị trường. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước. 1.3. chính sách thuế nông nghiệp . Trong những năm qua kinh tế nông thôn chịu sự điều tiết của nhiều loại thuế như : thuế nông nghiệp, thuế lợi tức doanh nghiệp, thuế hàng hoá, thuế môn bài, thuế sát sinh ...Nhưng trong đó tỷ trọng thuế nông nghiệp chiếm trên 80% tổng thu thuế nông thôn và có chiều hướng tăng lên. Trong khi đó các loại thuế khác chỉ chiếm 10% và có xu thế giảm. Do đặc điểm này sự đổi mới chính sách thuế ở nông thôn giai đoạn 1980-1993 vừa qua chủ yếu tập trung vào thuế nông nghiệp. Lần đầu tiên chính sách thuế nông nghiệp được sửa đổi vào năm 1983 với sự ra đời của pháp lệnh thuế nông nghiệp. Lần thứ hai sửa đổi và bổ sung pháp lệng thuế nông nghiệp là vào năm 1989 theo xu hướng chuyển từ thu thuế hoa lời trên đất sang loại thuế bao hàm cả thuế đất, Thuế doang thu và thuế lợi tức. Lần thứ ba vào năm 1993 với sự ra đời của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, có hiệu lực từ ngày 1-1-1994. Nội dung cơ bản của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là từ bỏ cách thu thuế gộp, cả thuế đất, thuế doanh thu vào một khoản thu, đồng thời xác định rõ phạm vi điều tiết; mức nghi thu thuế giảm từ10% xuống 7% sản lượng để khoán sức nông dân. Thiết lập chính sách giảm và miễn thuế đối với những vùng khó khăn nhằm khuyến khích sản xuất. Gắn nghĩa vụ nộp thuế sủ dụng đất nông nghiệp, với việc giao đất canh tác lâu dài cho từng hộ nông dân ở nông thôn để thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Việc đổi mới chính sách thuế nông nghiệp bằng luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là một bước hoàn thiện căn bản chính sách điều tiết của nhà nước với nông dân theo luật và phù hợp với cơ chế sản xuất hàng hoá đang hình thành ở nông thôn. 1.4. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp . Trong giai đoạn 1989-1992 thực hiện chính sách giao khoán ruộng sản xuất nông nghiệp ổn định 15 năm cho người lao động và xoá bỏ cơ chế phân phối bình quân theo công điểm , đã tạo động lực to lớn trong đông đảo nông dân lao động, hăng hái phát triển sản xuất. Nhưng sau khi vận hành chính sách này môt thời gian cho thuế, việc phân chia ruộng đất bình quân như vậy dã hạn chế nhiều khả năng phát triển sản xuất hàng hoá của nông dân. Mặt khác, mối quan hệ nông dân- ruộng đất trong cơ chế khoán nói trên , vấn chưa tạo đủ tiên đề và điều kiện khả thi để nông dân thức sự làm chủ sản xuất , yên tâm đầu tư thâm canh, bồi bổ và khai thác ruộng đất lâu đài. Vì vậy cần phải có một chính sách mới để tạo điều kiện phát huy cao quyền tự chủ của người sản xuất. Từ thực tế đó tháng 7 năm 1993 nhà nước ban hành luật đất đai với nội dung cơ bản là : khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Hộ gia đình nông dân được nhà nước giao đất và mặt nước sản xuất nông- lâm ngư nghiệp để sử dụng lâu dài. Thời gian giao đất, sử dụng đối với các cây hàng năm là 20 năm, với cây lâu năm là 50 năm. Trong thời gian sử dụng hộ gia đình, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất và đượ hưởng năm quyền: “ chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất”. Đây là nội dung đổi mới căn bản của chính sách đất đai mới, phá vỡ những hạn chế đối với nông dân trong quá trình sử dụng, để sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, đồng thời tạo ra môi trường, để thúc đẩy quá trình sử dụng tài nguyên quý hiếm có hiểu quả cao trong cơ chế thị trường. Chính sách đất đai mới đã được sự đồng tình và ủng hộ của tuyệt đại đa số nông dân, và người sản xuất nông nghiệp. Đến nay, hầu hết đất đai, mặt nước, có điều kiện canh tác dễ dàng đã có chủ sử dụng cụ thể, tạo ra tâm lý yên tâm trong việc đầu tư,sử dụng, thúc đẩy tìm tòi các phương thức canh tác có mức sinh lời cao, đó là động lực mới đối với nông dân . 2. chính sách vĩ mô tác động gián iếp vào người sản xuất. 2.1. chính sách đâu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Những năm trức kia chính sách đâu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn chủ yếu dược tính qua khối lượng tiền vốn “ đầu tư xây dựng cơ bản” của nhà nước, do ngân sách trực tiếp cấp và nhằm vào các mục tiêu sau: - đâu tư qua các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước để trực tiếp khai hoang các diện tích mới trồng cây công nghiệp dài ngày. - đâu tư xây dựng một số công trình thuỷ lợi lớn. - đâu tư xây dựng các trạm trại nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, thú y. - đâu tư xây dựng các trạm máy kéo, công cụ canh tác nông nghiệp. - đâu tư xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, cơ sở hạ tầng đường sá, điện nông thôn . Các chính sách đâu tư trên đây thể hiện nhiều hạn chế, đó là tính phân tán cao đẫn đến kém hiệu quả, đặc biệt đối với những khoản đâu tư cho các doanh nghiệp nhà nước trực tiếp sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp. Trong khi đó hệ thống cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, đường sá rất kếm phát triển, chưa được chú trọng đâu tư thoả đáng. Nhận rõ tìmh trạng trên Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã quyết định phải điều chỉnh lớn cơ cấu đâu tư, thay đổi theo hướng : + Tăng tỷ trọng đâu tư vào lĩnh vực thuỷ lợi và thuỷ nông, giải quyết thêm diện tích lúa được tưới tiêu, phục vụ nhu cầu thâm canh và mở rộng diện tích canh tác trên những vùng còn nhiều tiềm năng như Đồng Tháp Mười và Đồng bằng Sông Cửu Long. + Giảm nhanh tỷ trọng vốn đâu tư vào các đơn vị quốc doanh nói chung và các quốc doanh trực tiếp sản xuất nông nghiệp nói diêng. Việc điều chỉnh vốn đâu tư của Nhà nước vào các ngành trồng trọt, cũgn như vào khu vực quốc doanh nông nghiệp, song song với chính sách khuyến khích nông dân bỏ vốn phát triển sản xuất đã không gây hao hụt lớn đối với sự phát triển, mà ngược lại đã thu hút được một lượng tiến vốn lớn trong dân đưa vào sản xuất, qua đó khuyến khích tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực sẵn có của các thành phần kinh tế. Điều đó phù hợp và nhất quán với chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Có thể đánh gia rằng: sự điều chỉnh trong chính sách đâu tư của nhà nước vào nông nghiệp và nông thôn trong những năm qua là kịp thời và mạnh dạn, tác động tích cực của sự điều chỉnh là vừa thu hút vốn đâu tư của xã hội vào sản xuất, vừa làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đâu tư và đưa hệ thống doanh nghiệp Nhà nước trong nông- lâm- ngư thoát khỏi tình trạng bao cấp, ỉ lại vào nhà nước. 2.2. chính sách nghiên cứu nông nghiệp và chuyển giao công nghệ ý thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu nông nghiệp và chuyển giao công nghệcho nông dân. Nghị quyết trung ương V đã chỉ ra: Khoa học- công nghệ phải tập trung nghiên cứu, lai tạo, tuyển chọn các giống cây, côn mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau. đổi mới kỹ thuật canh tác... Có chương trình nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp khoa học- công nghệ ... Tổ chức các trung tâm hoặc các điểm chuyển giao công nghệ, các công ty hổ trợ phát triển nông thôn ở các tỉnh kết hợp với hệ thống khuyến nông. Trên tinh thần đó Chính Phủ ban hành Nghị định số 13-CP ngày 2-3-1993 về “ quy định công tác khuyế nông”. Trong đó xác định rõ: Hình thành vốn cho hoạt động khuyến nông, phương thức sử dụng vốn và chế độ đãi ngộ, đào tạo cán bộ khuyến nông cho cơ sở. Trên cơ sở hoạt động nghiên cứu nông nghiệp đã triển khai theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường. Gắn hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp với từng hộ với các yêu cầu cụ thể và thiết thực. Công tác khuyến nông được triển khai, trở thành chính sách lớn của Nhà nước với các nội dung cụ thể là: - Phổ biến những tiến bộ trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và những kinh nghiệm điển hình sản xuất giỏi. - Bồi dưỡng và phát triển kỹ năng, kiến thức quản lý kinh doanh cho nông dân để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. - Phối hợp với cơ quan chức năng cung cấp cho nông dân thông tin về thị trường, giá cả nông sản để cho nông dân bố trí sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao. 2.3. chính sách khuyến nông, chuyển giao công nghệ sản suất mới cho nông thôn. Nắm được nhu cầu to lớn của hộ nông dân muốn chuyển sang sản xuất hàng hoá cần phải được hỗ trợ, hướng dẫn kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất mới, phải được cung cấp những thông tin về khoa học, công nghệ để thay đổi lề lối canh tác cũ, ngày 2-3-1993 chính Phủ ban hành Nghị định số 13/CP quy định về công tác khuyến nông tới hộ nông dân nhằm hai mục đích: vừa đáp ứng yêu cầu dịch vụ chuyển giao kỹ thuật sản xuất phổ thông cho nông dân, vừa gắn cán bộ kỹ thuật với thực tiễn sản xuất để phát huy khả năng sãn có. Đồng thời khuyến khích các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các thành phần kinh tế – xã hội, tư nhân, trong và ngoài nước hình thành, hoạt động theo luật Việt Nam, nhằm hỗ trợ các mặt cho nông dân phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong thời gian gắn chính sách khuyến nông được triển khai tuơng đối khẩn trương, tuy còn nhiều vấn đề còn sử lý song trước hết mạng lưới khuyến nông được hình thành từ Trung ương tới cơ sở. Cụ thể : - ở Trung ương: 3 tổ chức khuyến nông được thành lập ở 3 Bộ cũ (Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm, Lâm nghiệp và thuỷ sản) - ở cấp tỉnh: Hình thành từ 1 đến 2 trung tân khuyến nông, lân, ngư. - ở cấp huyện, liên huyện hoặc cụm xã đã hình thành các trạm khuyến nông, tổng số đến nay nên tới hơn 1 vạn đơn vị. - ở cơ sở xã, thôn có cán bộ kỹ thuật hoặc hộ nông dân sản xuất giỏi làm nghiệm vụ thử nghiệm, làm mẫu kỹ thuật mới, làm giống, bảo vệ thực vật, thú y. Họ làm chân rét cảu các trạm khuyến nông huyện, liên huyện, cụm xã, không thuộc biên chế nhà nước trong hệ thống nhân viên khuyến nông, cho tới nay trung bình cứ 50 hộ có trên 1 nhân viên khuyến nông loại này. II. Kết quả tác động của chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. 1. Thành tựu chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. 1.1. Tác động của chính sách đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp là bộ phận cấu thành bền vững và rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Nó trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất đối với nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội loài người, tạo nguyên liệu cung cấp công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, là nguồn cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Từ nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Thể hiện Đảng và Nhà nước đã định ra chiến lược và ban hành nhiều văn bản pháp luật, các chỉ thị, nghị quyết, hệ thống chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Những cơ chế chính sách góp phần tạo ra bước ngoặt của quá trìng phát triển nông nghiệp và thay đổi diện mạo nông thôn nước ta. Mà đánh dấu bước ngoặt đầu tiên là chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá V năm 1981. Cơ chế quản lý mới đã tạo ra động lực phát triển. Sản lượng quy thóc đã tăng từ 15 triệu tấn năm 1981 lên 18,2 triệu tấn năm 1985, tốc độ tăng lương thực bình quân thời kỳ 1981-1985 là 5%. Song từ năm 1986, nông nghiệp có biểu hiện tăng chậm lại, nhiều chỉ tiêu cơ bản giảm sút, sản lượng lương thực quy thóc năm 1986 đạt 18,397 triệu tấn, tăng 0,98% so với năm 1985; năm 1987 đạt có 17,562 triệu tấn, giảm 4,4% so với năm 1986. Nguyên nhân do chính sách không còn phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, không khuyến khích nông dân lao động hăng hái làm việc. Trước thực tế đó, tháng 4 năm 1988, Bộ chính trị ra nghị quyết 10 về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp nhằm thay đổi cơ bản tư duy kinh tế trên các vấn đề như : Sở hữu, vai trò của hộ nông dân, lưu thông hàng hoá ... từ sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, lực lượng sản xuất được giải phóng, những rằng buộc máy móc trong cơ chế quản lý được tháo gỡ. Nông nghiệp từ đó phát triển khá vững chắc. Sản lượng lương thực quy thóc, mức lương thực bình quân đầu người và sản lượng gạo xuất khẩu đều tăng với nhịp độ khá (xem biểu). Đơn vị: 1000 tấn Năm Sản lượng lương thực quy thóc Sản lượng gạo xuất khẩu Sản lượng thóc bình quân đầu người(kg) 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 19.583,1 21.515,6 21.488,5 21.989,5 24.214,6 25.501,7 26.198,5 27.570,9 29.217,9 30.561,3 31.800,0 - - 1.624 1.033 1.946 1.722 1.893 2.052 3.003 3.500 3.800 269,5 293,0 290,3 289,5 311,1 321,7 324,5 337,5 350,3 360,4 418,4 Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp song tăng nhanh giá trị tuyệt đối. Năm 1988, giá trị sản phẩm nông nghiệp theo giá hiện hành đạt 7.139 tỷ đồng, bằng 46,3% so với tổng sản phẩm trrong nước là 15.420 tỷ đồng(công nghiệp chiếm 23,96% và dịch vụ chiếm 29,74%), thì năm 1997 nông nghiệp đạt 77.520 tỷ đồng, bâừng 26,22% so với 295.696 tỷ đồng tổng sản phẩm trong nước (công nghiệp chiếm 31,23% và dịch vụ chiếm 42,74%) Với sự phát triển của nông nghiệp, đời sống nhân dân được cải thiện, tạo điều kiện phát triển công nghiệp và dịch vu, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác được nội lực của nền kinh tế, từng bước hội nhập khu vực và thế giới. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định quan điểm phát triển hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý có ảnh hưởng tích tực đến năng suất lao động, số lượng và chất lượng nông sản hàng hoá, cải thiện đời sống nhân dân và làm thay đổi diện mạo nông thôn nước ta. 1.2. Tác động của chính sách kinh tế đến thu nhập, việc làm và đời sống dân cư nông thôn. * Tác động của chính sách kinh tế đến thu nhập và đời sống dân cư nông thôn. Thực tế không thể phủ nhận à sau những năm đổi mới nói chung và đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nói riêng, các chính sách kinh tế mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tác động một cách toàn diện và sâu rộng đến đời sống kinh tế xã hội của nông dân và nông thôn nước ta. Nhờ sự phát triển tăng trưởng ngày một cao, từ 4-1988 đến năm 1998, nông nghiệp đã tăng bình quân 4,3% / năm, sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 19,583 triệu tấn lên 31,8 triệu tấn, bằng 1,62 lần; cà fê tăng 20 lần; cao su tăng 3,5 lần; chè tăng 1,8 lần. Kim nghạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản năm 1998 đạtrực tiếp,9 tỷ $, chiến 31% tổng kim nghạch xuất khẩu cả nước. Do quá trình tăng trưởng nhanh mà đời sống nhân dân được tăng lến rõ rệt, bình quân lượng thực đầu người tăng từ 280kg (1987) lên 360 kg (1995) và lên 380kg (1998). Cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện, 84% diện tích lúa được chủ động tưới tiêu; 93% xố xã có đường ô tô về đến trung tâm, gần 80% số xã có điện , hơn 40% dân cư nông thôn có nước sạch để sinh hoạt, gần 100% số xã có trường học cấp I, 95% số xã có trạm xá và gần 80% số xã có trường cấp II... Số hộ nông thôn làm ăn khá giả ngày càng tăng lên, số hộ khó khăn và nghèo đang có xu hướng giảm nhanh. Có thể nói các chính sách kinh tế mới đã thực sự tác động mạnh mẽ nâng cao đời sống nông dânvà thay đổi đang kể bộ mặt nông thôn trong thời gian qua.Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu cơ bản đã đạt được, xét về mục tiêu xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy nhiều điều còn phải tiếp tục suy nghĩ, nhiều khó khăn cần khắc phục. Đó là các tệ lạn xã hội có xu hướng ra tăng và một bộ phận không nhỏ dân cư cồn nghèo đói (trên dưới 20%) trong đó khoảng từ 5-7% thuộc diện đói ngay ngắt vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. * Tác động của chính sách kinh tế đến lao động và việc làm. Hiện nay có tới trên 70% dân số sống ở nông thôn , trong đó tỷ lệ lao động trong nông nghiệp là 71,6% năm 1991 đã tăng lên 72,4% năm 1993. Đó là sức ép lớn đối với việc nâng cao thu nhập cho hộ nông dân. Tỷ lệ lao động nông nghiệp thất nghiệp hầu như không giảm đi, lao động phi nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 8%. Như vậy, xu thế chung cho thấy nông dân chưa có cơ hôi tìm thêm công ăn việc làm phi nông nghiệp tại chỗ và vẫn lấy sản xuất nông nghiệp làm chỗ dựa chính. Tình trạng này đã hạn chế mức tăng thu nhập của hộ nông dân vì ruộng đất quá ít. Theo một số nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng lao động của các hộ gia đình nông thôn trong các vùng rất thấp. Ruộng đất chỉ thu hút khoảng 45% thời gian lao động, các hoạt động sản xuất khác thu hút khoảng hơn 30% thời gian lao động, còn lại hơn 20% thời gian là không có việc làm. Vì vậy việc di chuyển lao động đi tìm việc làm từ nông thôn ra thành thị và các khu vực công nghiệp đang trở nên phổ biến. Các nguyên nhân thúc đẩy quá trình di chuyển này là do thiếu việc làm, thu nhập đối với các công việc ở nông thôn quá thấp không đảm bảo cuộc sống gia đình. Nguyên nhân do thu nhập thấp chiếm 40% số lao động di chuyển, 36% do thiếu việc làm, 13% do thiếu đất canh tác. Đánh giá chung thị trường lao động Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, việc đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp –nông thôn cũng đã có nhiều đóng góp tích cực tác động đến thị trường lao động Việt Nam. Đặc biệt là chính sách tín dụng, chính sách khuyến nông, đã thúc đẩy quá trình mở rộng quy mô sản xuất thu hút dược nhiều lao động trong khu vực nông thôn. 2. Những tồn tại của chính sách đối với quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn . Thành tựu của sản xuất nông – Lâm – ngư nghiệp nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung trong suốt quá trình đổi mới chính sách vừa qua thực sự to lớn, không thể phủ nhận. Thành tựu đó khẳng định các chính sách và biện pháp đổi mới quản lý kinh tế trong lĩnh vực này là đúng đắn, phù hợp với sự phát triển khách quan của tiến trình kinh tế. Song chính sự tiếp cận của một nền nông nghiệp còn rất nghèo nàn, lạc hậu với cơ chế thị trường mở cửa đã và đang vấp phải nhiều vấn đề, chứa đựng những khó khăn mang tính chất hỗn hợp cả kinh tế và xã hội, mà nguyên nhân chủ quan là do những hạn chế của nhóm chính sách sau : Nhóm chính sách tác động trực tiếp: + chính sách thuế nông nghiệp: chính sách thuế điều tiết chưa linh động, thay đổi kịp với tiến trình khuyến khích kinh tế nông thôn phát triển, thể hiện: thuế là ngánh nặng chi phí của nông dân, các sắc thuế còn cao so với các nước khác. Cơ sở tính thuế, cách tính thuế còn chưa chính xác chưa đúng với giá đất thực tế và chế độ miễn, giảm thuê đối với những hộ tự bỏ vốn ra cải tạo và xây dựng đồng ruộng chưa được phù hợp để khuyến khích họ đầu tư phát triển. Về cơ cấu thuế chưa dược hợp lý, mức thu các loại thuế trực thu từ nông nghiệp (thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế công thương nghiệp ở nông thôn ...) vẫn còn cao, chưa tạo tâm lý thoả mái, khuyến khích nông dân phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài thuế thì các khoản phí, lệ phí nông dân phải chịu, cần phải được điều chỉnh theo hướng giảm dần. Hiện nay là vẫn cồn cao. + chính sách thị trường, bảo hộ sản phẩm đầu ra cho nông dân: Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế nông thôn gặp nhiều trở ngại và khó khăn so với khu vực đô thị. Nguyên nhân là do chính sách bảo hộ sản phẩm đầu ra cho ngành nông nghiệp chưa được kịp thời, do tính chất sản xuất của ngành nông nghiệp là cung sản phẩm đầu ra tăng nhanh trong thời gian gắn (thời điểm thu hoạch). Do vậy thường bị các con buôn ép giá làm cho người dân bị thua thiệt. Thứ hai là sự dự báo cung cầu thị trường nông sản trong tương lai chưa được chính xác, dẫn đến cơ cấu sản xuất chưa được hợp lý. Đòi hỏi Chính Phủ có một dự trữ hợp lý để điều chỉnh cung, cầu thị trường nông sản khi có biến động lớn xẩy ra. + chính sách tín dụng: ở nông thôn chính sách tín dụng đã được phát triển từ nâu. Nhưng đồng tiền đến tay hộ nông dân vẫn còn xa vời, nhất là hộ nông dân nghèo. Các hộ nông dân vay vốn phải qua nhiều tay mới đến mình và phải chịu với lãi suất cao, đây là các hộ có nhu cầu thực sự về vốn để phát triển sản xuất, còn những hộ khá giả không có nhu cầu thực sự phát triển sản xuất họ lại được vay rất nhiều. Về lãi suất vốn vay vẫn còn khá cao đối với nông dân vay vốn phát triển sản xuất. Đòi hỏi chính Phủ phải mở rộng các kênh cho vay, đa dạng hoá loại hình cho vay để vốn tới tay được hộ nông dân và giảm lãi xuất để khuyến khích nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống khu vực nông thôn. Nhóm chính sách tác động gián tiếp : + chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng: Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực châu á về chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư cơ sở hạ tầng đối với nông nghiệp, nông thôn nói riêng cho thấy: nếu xét về giá trị tương đối thì Việt Nam tương đương với các nươc khoảng từ 5-10% tổng sản phẩm trong nước (GDP), nhưng nếu xét về giá trị tuyệt đối thì Việt Nam thua xa so với các nươc, do tổng giá trị GDP Việt Nam quá nhỏ. Vì vậy để có mức đâu tư tương đươngvới các nước đã làm, buộc Việt Nam phải nâng tỷ trọng đâu tư trên GDPcao hơn hiện tại, ít nhất phải từ 20-25% GDP hiện nay và duy trì trong nhiều năm tới, điều đó đòi hỏi đất nước phải tiết kiệm và tập trung đâu tư đúng vào các lĩnh vực then chốt theo trình tự ưu tiên nhất định. So sánh riêng tỷ trọng đâu tư vào nông- lâm- ngư nghiệp của Việt Nam với các nước có thể thấy Việt Nam đã đâu tư ít vào lĩnh vực này, đặc biệt lại có xu hướng giảm nhanh vào những năm 90 từ 17,3% - 13,4%. Trong khi đó ở những nước có nền nông nghiệp phát triển, tỷ trộng nông nghiệp trong GDP giảm xuống dưới 30% nhưng vẫn giữ tỷ trọng đâu tư vào nông nghiệp trên 20% so với tổng đâu tư xây dựng cơ bản cảu nền kinh tế. Mặt khác cơ cấu vốn đâu tư trong nông nghiệp còn chưa được hợp lý, thể hiện là đâu tư cho nghiên cứu, lai tạo giống mới còn thấp ...Hình thức đâu tư chưa được đa dạng nhà nước cần kêu gọi mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia đâu tư. + chính sách nghiên cứu triển khai, thúc đẩy đa dạng hoá nông thôn : chính sách nghiên cứu và triển khai công nghệ sẽ đóng vai trò mở đường, tạo khâu đột phá quan trọng để đưa nông thôn phát triển và việc thúc đẩy đa dạng hoá kinh tế nông thôn là con đường hữu hiệu và tất yếu trong phát triển tiến tới một nền nông thôn toàn diện, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu mới. Nhưng trong những năm qua công tác nghiên cứu nông nghiệp và nông thôn chưa dược triển khai đúng tầm theo yêu cầu thực tế. Vì vậy ở nhièu nơi diễn ra tình trạng “cây không ra cây, con không gia con, vùng không thành vùng”, sản phẩm ngành nghề vụn vặt, chất lượng thẩm mỹ thấp. Bên cạnh đó việc nghiên cứu triển khai nông- lâm –ngư chưa được đa dạng hoá sản xuất đúng hướng, kết quả nghiên cứu về tạo giống cây trồng, vật nuôi, về cơ cấu cây trồng, con nuôi, có chất lượng kém chưa phù hợp từng vùng sản xuất ... Chương III Những vấn đề (thách thức) đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến năm 2010 và các chính sách phát triển. I. Những thác thức, tiềm năng và những vấn đề đặt ra đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. 1. Những thách thức đối với kinh tế nông nghiệp,nông thôn. Là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, nằm trong nhóm các nước đang phát triển, Việt Nam sẽ phải đối mặt với các thách thức và mâu thuẫn lớn trong bước đường đi lên của mình, đó là : * Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mới đã đưa thế giới tiến những bước tiến dài trong lĩnh vực kinh tế với thời gian gắn. Điều đó đã tạo ra cục diện mới, vừa thuận, vừa nghịch đối với các nước đang phát triển, mà Việt Nam cũng không bị loại trừ. Những ưu thế lâu nay về lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên trù phú ở một số nước đang phát triển có xu hướng giảm dần. Do sự thay thế bởi các nguồn nguyên liệu mới và các chi phí rẻ đi, nhờ áp dụng các công nghệ mới của các nước phát triển, lợi thế họ tăng lên. Mặt khác, sự lạc hậu về kinh tế làm cho mức đâu tư vào các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới ở các nước đang phát triển còn rất thấp, làm cho khả năng phát triển khoa học- kỹ thuật lại ngày càng khó khăn và chậm chạp, càng lâm vào tình trạng chậm phát triển . Tuy xu thế chung không hoàn toàn đúng với tất cả các nước ở mọi nơi, mọi thời điểm và có thể chính khó khăn thách thức này đôi khi lại nảy sinh thuận lợi và cơ may. Song điều có thể thấy khá phổ biến và mang tính biện chứng là những nước đang và chậm phát triển, đi sau bao giờ cũng gặp nhiều khó khăn, bất lợi hơn là đón nhận thuận lợi, vận may, bởi vì: - Sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ làm cho giá trị sáng tạo ra trên mỗi đơn vị lao động tăng lên nhanh.Do vậy đòi hỏi lao động phải có trình độ, kỹ năng nhất định. Nhưng ở các nước đang phát triển chủ yếu là lao động không có trình độ và có xu hướng ngày càng tăng, do đó cơ hội kiếm sống ngày càng khó khăn. - Khoa học công nghệ mới tạo ra vật liệu và sản phẩm thay thế cho các sản phẩm do công nghệ cổ truyền tạo ra với một sự chênh lệch lớn về giá thành sản phẩm và giá cả tiêu thụ. Điều đó làm cho các nước chậm phát triển bán các sản phẩm thô, hoặc mới đang ở dạng sơ chế sẽ thua thiệt và bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế, những nước chậm phát triển có ưu thế về tài nguyên sẽ mất dần lợi thế của mình. - Sự phát triển mạnh mẽ của khao học công nghệ mới ở các nước phát triển làm cho các nước đang phát triển ngày càng phụ thuộc vào họ. Các nước chậm phát triển rất khó khăn trong lĩnh vực phát triển khoa học kỹ thuật, do nhiều nguyên nhân. Vì vậy cơ hội vươn lên càng hiếm hoi. - Trong mối quan hệ về chuyển giao công nghệ với các nước phát triển, những nước thuộc thế giới thứ ba thường nhận được các công nghệ cũ, tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. - Các nước phát triển có sức hút mạnh mẽ các nhân tài của các nước chậm phát triển. Soi rọi những xu thế trên voà nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập với kinh tế thế giới, rõ ràng là nông thôn Việt Nam lại càng phải đối mặt với thách thức lớn và nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn. Một thách thức rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay là: năng suất, chất lượng, mẫu mã, sản phẩm cây trồng, côn nuôi trước hết là các sản phẩm phục vụ xuất khẩu như gạo, chè, ca fê, cao su ... còn ở mức thấp xa so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Vì vậy hàng hoá có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Ví dụ sản phẩm lúa gạo, giá tiêu thụ gạo của Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới, đặc biệt là giá xuất khẩu gạo. Đối chiếu với thị trường quốc tế những năm qua cho thấy giá gạo của Việt Nam còn thấp nhiều so với giá gạo của Thái Lan, giá gạo tiêu thụ trong nước càng thấp hơn .Cụ thể: Năm Giá gạo TL Giá gạo VN So sánh giá 1989 1990 1991 1992 1993 288 252 277 290 230 194.4 170.0 202.8 241.5 203.0 67.4% 67.4% 72.9% 83.3% 88.3% Sở dĩ giá gạo Việt Nam chịu giá thấp vì những lý do chủ yếu sau: chất lượng gạo, độ trắng không đều, tạp chất cao ... do vậy kkhả năng cạnh tranh kém, mặc dù giá rẻ hơn. * Cơ sở hạ tầng còn thấp kém, sản xuất nông nghiệp hay gặp rủi ro, hệ số doanh lợi thấp hơn so với các ngành khác, dân trí chưa phát triển theo kịp yêu cầu của thị trường, vì vậy sức hấp dẫn của nông thôn đối với các nhà đâu tư trong và ngoài nước thấp. Tóm lai kinh tế nông thôn đang đứng trước thách thức tương đối nhiều mặt: vốn, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, lao động có kiến thức. Nếu không được giải quyết kịp thời, căn bản thì nông nghiệp, nông thôn có nguy cơ tụt hậu xa so với khu vực thành thị. * Tốc độ tăng dân số cao là một thách thức không nhỏ đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong những năm tới bởi vì nó vừa là lợi thế (lao dộng rẻ) vừa là ngánh nặng cho nền kinh tế (vì thiếu việc làm). Trong những năm qua Nhà nước đã có nhiều biện pháp để hạn chế nhịp đọ tăng dân số. Tuy đã hạn chế được nhiều tốc độ tăng dân số (tốc độ tăng từ trên 2% năm đến nay chỉ còn 1,7% năm). Nhưng tỷ lệ này vẫn còn khá coa so với các nươc, nhất là ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là trên 2%. Điều này dẫn đến tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn vốn đã lớn hiện nay càng lớn hơn. Đây là một thách thức vô cùng ngặt nghèo, tốn kém đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp thực sự hữu hiệu, kiên quyết mới có thể vượt qua. * Qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá nông thôn thường đi liền với sự hy sinh diẹn tích đất canh tác nông nghiệp. Đối với nước ta, điều kiện đất hẹp người đông, nhất là đất sản xuất cây lương thực chiến lược của đất nước. Loại đất quý giá này thường tập chung ở vùng đồng bằng và ven đô thi trở thành đối tượng có nguy cơ hi sinh lớn nhất. Đây là vấn đề có tần chiến lược lâu dài trong an toàn lương thực quốc gia cần phải có quy hoạch và chính sách sử dụng đất hợp lý, tiết kiện nhất, hiệu quả nhất. 2. Những tiềm năng phát triển nông nghiệp, nông thôn . * V ề đất đai, mặt nước sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp: Mặc dù bình quân diện tích đất đai canh tác nông nghiệp trên đầu người của Việt Nam rất thấp (khoảng 0,1 ha/ 1 người dân) song hiện tại việc sử dụng vẫn còn lãng phí và nặng về khai thác tự nhiên, tác động của con người ở mức độ thấp, hiện tượng sói mòn và bạc mầu diễn ra ở nhiều nơi. Nếu có các biện pháp kỹ thuật tốt hơn như : luân canh hợp lý đảm bảo trống sói mòn, rửa trôi... thì việc tăng thêm hệ số sử dụng ruộng đất từ 1,2 đến 1,7 lần hiện nay lên trên hai lần bình quân trông một năm là điều hiện thực. Mặt khác nếu chuyển đổi, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất và hình thức khai thác đất đai, mặt nước theo hệ số so sánh thì giá trị thu được sẽ nâng lên đáng kể, có thể từ 8-10 triệu đồng lên 15-20 triệu đồng là có khả năng. Để làm được điều đó ta phải : Một là : Tăng hệ số sử dụng đất bằng phương thức tăng vụ kết hợp với đa dạng hoá cây trồng. Miền Bắc có thế mạnh phát triển rau vụ đông, đó là những sản phẩm có giá trị đối với thị trường trong nước và xuất khẩu. Vấn đề là cần tập trung nỗ lực giải quyết việc tiêu thụ sản phẩm cho dân và nâng cao công trình thuỷ lợi đã có. Đây là một mũi nhọn, một lợi thế quan trọng và lâu dài của vùng kinh tế nông nghiệp Bắc Bộ, cần nhìn nhận đúng đắn và tổ chức khai thác có hiệu quả Hai là : Chuyển mạnh các vùng đất trung du miền núi sang trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp nâu năm có giá trị kinh tế cao (có thị trường tiêu thụ lớn) gắn liền với chế biến công nghiệp hiện đại tại chỗ là một lối ra, một tiềm năng lớn của trung du miền núi. Điều quan trọng ở đây là tuyển chọn được các bộ giống thích hợp với yêu cầu và thi hiếu của người tiêu dùng. Ba là : Giải quyết tốt thuỷ lợi hoá cho các vùng sản xuất sẽ tạo ra đột biến mới cho sản xuất nông nghiệp. Theo đánh giá của Bộ Thủy lợi tài nguyên nước ở Việt Nam là dồi dào, còn nhiều khả năng khai thác phục vụ thâm canh trong nông nghiệp. Hạn chế nguy cơ hạn hán và ngập lụt, tạo điều kiện nâng cao sản lượng có ích và khai thác mặt nước có hiệu quả hơn, đồng thời giúp nông dân yên tâm đầu tư để pháy huy lợi thế so sánh của vùng. Bốn là : Việt Nam giầu tài nguyên thuỷ sản cá vùng nước ngọt và nước mặn với nhiều loại thuủy sản, đặc sản phong phú. Tổng diện tích mặt nước nội địa tới 1 triệu ha nhưng mới đưa vào khai thác 50% với các hình thức thủ công, đầu tư chắp vá, thiếu giống thuỷ sản tốt... nên hiệu quả chưa cao. Ngoài ra còn khoảng 1 triệu km2 mặt biển thuộc vùng đặc quyền Kinh tế chưa đựoc tổ chức khai thác tốt. Phát triển thuỷ sản theo hướng gắn với công nghiệp chế biến tại chổ rất phù hợp với nhu cầu tiêu thụ ngày một mở rộng cả trong và ngoài nước. Đây là một dư địa lớn để tăng giá trị sản lượng nông - lân- ngư nói chung, tạo nhiều việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn . Điều cần thiết phải giải quyết là : Đầu tư trang thiết bị đánh bắt tiên tiến, tuyển chọn được các giống quý cho nuôi thả và đào tạo kỹ thuật thả nuôi, đánh bắt cho ngư dân... Hiện tại tỷ trọng khai thác mặt nước lợ ven biển còn rất thấp (khoảng 12% tổng diện tích). Năm là: Tiềm năng kinh tế lâm nghiệp của Việt Nam là lớn và đa dạng. Khi biết tổ chức khai thác, sử dụng hợp lí các lợi thế của lâm nghiệp nhiệt đới gắn với công nghệ chế biến lâm sản và mở rộng phát triển các loại đặc sản thì tiềm năng lớn này sẻ đóng góp lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Điều cơ bản là đến nay Việt Nam vẩn chưa xây dựng được các mô hình kinh doanh lâm nghiệp hợp lí và lâu bền, tình trạng phá rừng , khai thác lâm nghiệp bừa bãi đang diễn ra phổ biến làm cho rừng ngày càng một giãm sút, thậm chí có nguy cơ huỹ hoại môi trường sống. * Kinh tế nông thôn hiện nay nặng về thuần nông, sản phẩm làm ra chủ yếu bán dưới dạng thô. Khôi phục các nghề truyền thống và phát triển các nghề mới sẽ là những tiềm năng to lớn tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, đặc biệt là các nghề chế biến nông sản phẩm sử dụng nguyên liệu tại chỗ lao động ở nông thôn đông , cần cù chịu khó, giá thuê rẻ đang là lợi thế cần được khai thác sử dụng, đặc biệt trong thời gian tới khi lực lượng lao động này được đào tạo, bồi dưỡng và hướng nghiệp tốt sẽ phát huy cao tiềm năng này, nhất là đối lực lượng lao động trẻ đang chiếm trên 50% tổng lao động ở nông thôn hiện nay. * Cuộc cách mạng khoa học phát triển nhanh trên thế giới hiện nay có gây khó khăn, song đồng thời cũng tạo ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển, khi biết khôn khéo lợi dụng và thông minh trong việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ từ các nươc phát triển. Đặc biệt Việt Nam đang nằm trong khu vực các nước phát triển năng động với tốc độ phát triển kinh tế cao, do vậy các ảnh hưởng tích cực lớn hơn các mặt hạn chế trong các quan hệ kinh tế với láng giềng II. Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn đến năm 2010. 1. Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu tút nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của cấc nông sản chủ lực trên thị trường thế giới. Chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá ở ông thôn. Phát triển ạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia cơ công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp- công nghiệp dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước. Tăng đâu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn hoảơ làng xã; nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần, xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn. 2. Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cao chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hoá và gô làm thức ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. có chính sách bảo đảm lợi ích cho người sản xuất lương thực. Phát triển quy hoạch và chú trọng đâu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cà fê, cao su, chè, điều, hạt tiêu, mía... hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến. Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biên sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong công nghiệp. Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản nước gọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cao các cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Gĩư dìn môi trường biển và sông, nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng cao độ che phủ rừng lên 43%. Hoàn thiện việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp và có chính sách định canh, định cư, ổn định và cải thiện đời sồng nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt, phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho công nghệ bột giấy, công nghệ chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ suất khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm rừng. 3. Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghện thông tin. Chú trọng toạ và sử dụng giống cây, con có năng suất cao, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. 4. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Đối với những khu vực thường bị bão, lũ, cùng với các giả pháp hạn chế thiên tai, phải điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích ứng với điều kiện thiên nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ dộng phòng chồng thiên tai, hạn chế thiệt hại. 5. Phát triển triển mạnh công nghệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, cơ cấu các làng nghề ngắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may, da-dầy...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút vốn đâu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động ở nông thôn sang các ngành nghề khác, từng bước tăng quỹ đát cho mỗi lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn. Gia tăng giá trị nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm từ 4 - 4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16 – 17%; tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ sản đạt sản lượng từ 3- 3,5 triệu tấn (trong đó 1/3 sản phẩm là nuôi, trồng). Bảo vệ 10 ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9- 10 tỷ $, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ $. III. Một số suy nghĩ về các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010. Vấn đề hoàn thiện chính sách và hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH- HĐH trong bối cảnh nền kinh tế nước ta chuyển từ khai thác tự nhiên, tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN, thực sự là bước chuyển về chất. Song những năm qua, chúng ta mới tập trung vào chuyển sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, bươchính sách đầu tạo ra một vùng tập chung chuyên canh sản xuất hàng hoá, làm tiền đề phát triển công nghiệp chế biến ở một số vùng nông thôn. Nhưng sự chuyển đổi đó chỉ suất hiện ở những vùng ven thị, vùng làng nghề chuyền thống, vùng trồng cây công nghiệp... còn những vùng khác, như vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn tình trạng thuần nông. Những năm qua chúng ta cố gắn để có giá trị kim nghạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tăng cao trong những năm tới. Nhưng nhìn chung, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp, sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất. Nguyên nhân sâu xa là do chưa bố trí cây trồng, vật nuôi, mới đơn thuần dựa vào tiềm năng tự nhiên mà chưa làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch và chưa đáp ứng được nhiều tiến bộ kỹ thuật, chưa tạo ra được thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định, chưa có công nghệ chế biến phù hợp. Do đó dẫn đến tình trạng sản xuất chưa có tính ổn định, bền vững, tốc độ phát triển chậm. Để khắc phục tình trạng trên, cần đổi mới, hoàn thiện một số mặt chính sách sau : Thứ nhất : có chính sách ưu tiên đâu tư để tiến hành quy hoạch và xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách hợp lý trên phạm vi cả nước và từng vùng, lựa chọn được cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ sở công nghiệp chế biến vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên và môi trồng sinh thái, phát huy tối đa lợi thế so sánh, tiềm năng đất đai, khí hậu nhiệt đới và khả năng lao động sáng tạo của từng địa phương. Thứ hai : Phải có chính sách đâu tư để tạo dựng ngày càng đồng bộcơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng kinh tế – xã hội cần thiết cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn như : thuỷ lợi, giao thông liên lạc, cơ sở nghiên cứu ..., ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vài quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp từ khâu giống, gieo trồng, phân bón, thu hoạch, chế biến, bảo quản... phát triển tiềm năng khoa học và công nghiệp của đất nước hướng vào phục vụ đắc lực cho những nghiệm vụ trên. Thứ ba : Tăng cường đâu tư và cung cấp tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn. Tăng tỷ lệ vốn đâu tư vào các chương trình trọng tâm của toàn ngành như thuỷ lợi, công nghệ chế biến, công nghệ sinh học hiện đại. Mở rộng tín dụng nông thôn để nông dân được vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, nhất là vốn trung hạn và vốn dài hạn, vốn vay theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi. Đầu tư để mở mang công nghệ chế biến và các ngành nghề nông thôn. có cơ chế chính sách thu hút các thành phần kinh tế, kể cả nước ngoài và các đơn vị cơ sở sản xuất bỏ vốn đâu tư xây dựng nông thôn. Cần giữ vững diện tích cây lương thực, nhà nước cần có chính sách bảo đảm cho người trồng cây lương thực có thu nhập bằng hoặc cao hơn khi trồng các cây khác trồng vùng. Có cơ chế cho các hộ, đơn vị sản xuất kinh doanh được vay vốn ở thời điểm thu hoạch, để không phải bán nông sản vào lúc bất lợi về giá. Chính sách tài chính cần mở rộng và ưu đãi hơn cho người sản xuất – kinh doanh và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với sản xuất nông nghiệp. Thứ tư : Nhà nước cần ban hành chính sách tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ cho việc phát triển Kiểm Toán nông nghiệp, nông thôn như : chính sách đất đai, lao động bảo đảm cho người sản xuất yên tâm trên những mảnh đất canh tác, được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng một cách thuận tiện; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho nông nghiệp và nông thôn lâu dài, hết sức coi trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý lao động ở nông thôn; xây dựng cơ chế chính sách thu hút cán bộ, kỹ sư và đông đảo trí thức về nông thôn công tác. Trước hết ưu tiên chon cự tuyển để đào tạo một cách toàn diện về kỹ thuật, quản lý, quản trị kinh doanh và thị trường cho người sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích nông dân tự đào tạo nhau, có sự hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước. Thứ năm : Trên cơ sở lựa chọn các cây, con chủ lực, xây dựng vùng sản xuất tập trung, với công nghệ chế biến, gắn với thị trường để hìng thành sự liên kết nông- công- dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi từng vùng và cả nước. Về mặt thị trường tiêu thụ nông sản, cần tổ chức lại khâu bán buôn bằng các hình thức hiệp hội và trung tâm giao dịch lớn đối với một số sản phẩm chủ lực, khắc phục tình trạng chanh mua, tranh bán của các đơn vị trong nước, nhằm tạo khả năng cạnh tranh với nước ngoài. Tóm lại: trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, đi kèm với nó là các quan hệ sản xuất đặc trưng cho từng giai đoạn phát triển, nó thường xuyên thay đổi theo su thế chung của thế giới. Do vậy, trong quá trình phân tích, hoạch định chính sách, phải xem sét, phân tích đánh giá tình hình kinh tế, xã hội một cách khách quan và phải thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Kết luận Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “ Các chính sách chủ yếu tác động đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ”, Em đã nhận thấy vai trò kinh tế nông nghiệp, nông thôn đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Nó là cơ sở, là nền móng, là vốn tích luỹ ban đâu cho quá trình CNH-HĐH đất nươc. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, kinh tế nông nghiệp, nông thôn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và Việt Nam cũng không loại trừ. Nhất là nước ta đang trong quá trình CNH-HĐH đất nước, thì vai trò to lớn kinh tế nông nghiệp, nông thôn là thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, rút gắn giai đoạn thực hiện CNH-HĐH, đưa nhanh nước ta trở thành nước công nghiệp. để có được sự thành công đó, Chính Phủ phải đưa ra được những chính sách hợp lý, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cho phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển. Trải qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề án môn học, Em đã thấy được ý nghĩa của nó là: gắn kết lý thuyết qua quá trình học tập với thực tiễn và tạo cho Em làm quen với cách đi sâu phân tích một vấn đề. Và đây cũng là cơ sở cho Em làm luận văn sau này. Tài liệu tham khảo 1.tạp chí PTKT số 102/99. 2. Tạp chí TTKHXH Số 1/01. 3. Tạp chí NCKT số2/01. 4. Giáo trình Kinh tế phát triển 5. Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. 6. Văn kiện đại hội IX. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35339.doc
Tài liệu liên quan