Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp trong đó, có các yếu tố cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi yếu tố của hình thái – kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa các mặt của hình thái kinh tế xã hội để có cách tác động vào các mặt của hình thái kinh tế xã hội thông qua các chính sách kinh tế và chính sách xã hội là cần thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia mà Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Chúng ta cũng đã trải qua 30 năm để nghiên cứu và thực nghiệm quy luật xã hội này. Thực sự là: Việt nam đã tiếp cận được quy luật và đang phát triển.
19 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1176 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững điều kiện hoạt động của chúng để vận dụng chúng vào hoạt động có mục đích của mình thì con người làm chủ được tính tất yếu, nghĩa là con người đạt đến tự do. Như vậy, tư do không có nghĩa là hoạt động tuỳ tiện, bất chấp quy luật mà trái lại là nhận thức được quy luật và làm theo quy luật. Quá trình phát triển xã hội là quá trình con người từng bước vươn tới tự do.
2- Những hoạt động cơ bản của xã hội
Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, bởi vì tự nhiên cung cấp những điều kiện cần thiết cho đời sống con người và cung cấp các điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản xuất xã hội.
Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao đông là đặc trưng cơ bản đầu tiên để phân biệt con người với động vật. Lao động cũng là yếu tố đầu tiên cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữư cơ giữa xã hội với tự nhiên – Môi trường tồn tại của xã hội.
Từ những phân tích trên, sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội. Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Theo F. Angghen “ điểm khác nhau căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ loài vật may lắm chỉ là hái lượm, trong khi đó con người lại sản xuất”
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức nghệ thuật, tôn giáo đều hình thành biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm thay đổi tự nhiên, thay đổi xã hội đồng thời làm thay đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự thay đổi phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy, nền sản xuất vật chất hay nền kinh tế là nền tảng của mọi xã hội, các mặt còn lại chịu sự chi phối trực tiếp của kinh tế và tác động ngược trở lại kinh tế.
Các khái niệm cơ bản của nền sản xuất vật chất.
* Phương thức sản xuất: phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định, sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong sản xuất con người có mối quan hệ với giới tự nhiên biểu hiện là lực lượng sản xuất và với con người biển hiện là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thông nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
*) Lực lượng sản xuất: là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều thay đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sức lao động là đặc trưng cho lao động hiện đại không chỉ là thói quen và kinh nghiệm mà là tri thức khoa học. Khoa học công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
*)Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với ngưòi trong quá trình sản xuất. Trong quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định các quan hệ sản xuất khác. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra có tác động kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người nên nó ảnh hưởng đến thái độ con người trong quá trình sản xuất, vì vậy có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
*) Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ sơ hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy đinh xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó.
Như vậy xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
*) Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức tôn giáo, nghệ thuật, cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động và phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau tác động qua lại với nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn những yếu tố như triết học, tôn giáo nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
4- Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lưc lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng.
Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó tất cả các mặt của quan hệ sản xuất tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất . Khi đó quan hệ sản xuất là yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong quá trình sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
5- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
*) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tâng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì cũng chiếm vị trị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức là đã trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
*) Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng , kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải là phù hợp một cách giản đơn máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình phát triển và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế, các yếu tố khác cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng chúng đều bị nhà nước pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội sự tác động của các bộ phận kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dưng bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu tác động ngựoc lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ tiến bộ để tiếp tục thúc đẩy kinh tế phát triển.
6- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội
*) Chính sách kinh tế là những chính sách tác động về mặt kinh tế mà chủ yếu tác động đến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
*) Chính sách xã hội là những chính sách tác động chủ yếu đến kiến trúc thượng tầng
Do vậy có mối quan hệ biện chứng với nhau như mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
II. CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới ( Giai đoạn 1979 -1986)
Sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã tiến vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN trên cơ sở đường lối do Đại hội IV đề ra. Tuy nhiên vẫn mắc phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, tiến hành cải tạo công thương ở miền Nam, thực hiện đường lối công nghiệp hóa, xây dựng phát triển đất nước theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Những vấp váp và tổn thất trong công nghiệp hóa, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV đã dẫn đến tình trạng kinh tế đất nước hết sức khó khăn, sản xuất bị kìm hãm, sản xuất và đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng, buộc phải xem xét lại tình hình và tìm giải pháp mới. Từ đó Đảng có chủ trương: “làm cho sản xuất bung ra”
Thể chế hóa chủ trương đổi mới đó của Đảng, năm 1981 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 100 về “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” (khoán 100) tạo ra động lực mới trong phát triển nông nghiệp, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng cho việc cải tiến nông nghiệp khắc phục đáng kể tình trạng tham ô, lãng phí tồn tại trong thời gian dài trước đó ở hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp.
Cũng theo chủ trương trên, ngày 21/01/1981 Chính phủ ra quyết định số 25-CP về “Một số chủ trương biện pháp phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”.
Đồng thời với đổi mới trong quản lý nông nghiệp và công nghiệp, trong hai năm 1981,1982, Việt Nam đã bắt đầu cải cách giá và lương: tăng giá, tăng lương, thực hiện chuyển đổi từ cơ chế một giá do Nhà nước quy định sang cơ chế hai giá đối với cả hàng tiêu dùng, vật tư và sản phẩm giao dịch theo hợp đồng, giảm các mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp sang giá kinh doanh thương nghiệp sát giá thị trường, tiền lương thực tế đảm bảo cho ngưòi làm công ăn lương sống chủ yếu bằng lương, xóa bỏ cung cấp hiện vật.
Như vậy các nghị quyết của Đảng trong thời kỳ từ 1979 đến 1985 trên thực tế là những nấc thang đầu tiên của quá trình đổi mới tư duy kinh tế, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình tổng quát của Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
2- Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)
2.1. Về đổi mới cơ chế qua các kỳ đại hội
Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12/1986 đã chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường; phê phán triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định phải chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội cũng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp.
Đại hội VII nói rõ hơn về việc coi chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là chính sách chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Đại hội VIII của Đảng đưa ra kết luận rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”
Tuy nhiên Đại hội VIII mới nói đến nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường mà chưa khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến đại hội IX, tháng 4 năm 2001 Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm: “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ đi lên CNXH ở Việt Nam.
Có thể nói từ năm 1979 đến nay, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN ngày một nâng cao, đầy đủ và đúng đắn hơn. Như Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Như vậy hai mươi năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, có sự thay đổi căn bản, toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối của Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn VN.
22.Các thành tựu kinh tế kinh tế cơ bản
Năm 1979 có thể được coi là một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ hơn, các quan hệ thị trường bắt đầu được thiết lập với “kế hoạch ba phần” cho doanh nghiệp nhà nước. Đến năm 1981, nước ta thực hiện chế độ “khoán 100” (khoán sản phẩm), các nông hộ cũng được trao quyền tự chủ hơn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Với việc bãi bỏ hệ thống giá kế hoạch, thay thế hệ thống tiền tệ cũ vào năm 1985, nước ta bắt đầu thực hiện chương trình đổi mới. Từ đây ghi nhận những đột phá trong tư duy phát triển kinh tế. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Năm 1988, Nhà nước ta phê chuẩn liên doanh đầu tiên. Xuất khẩu lần đầu tiên đạt mức 1 tỷ USD. Từ một nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới vào năm 1989. Lạm phát cao cũng đã được kiềm chế.
Năm 1990, sản lượng lương thực đạt mốc 20 triệu tấn, sản lượng dầu thô khai thác đạt 2 triệu tấn, tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký đạt 1 tỷ USD.
Năm 1991 đánh dấu thành công trong chống lạm phát. Kinh tế - xã hội ổn định và tạo được cơ sở để tăng trưởng cao ở những năm sau. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đạt 9%
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký năm 1992 vượt mốc 5 tỷ USD, số doanh nghiệp nhà nước giảm trong khi số doanh nghiệp tư nhân tăng lên. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 87% cùng với chương trình xóa đói giảm nghèo.
Năm 1993, điện thoại di động đầu tiên đã được đưa vào sử dụng. Mối quan hệ giữa Việt Nam với các nhà tài trợ quốc tế được thiết lập. Lệnh cấm vận của Mỹ được bãi bỏ, Hội nghị CG đầu tiên được tổ chức tại Paris.
Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN vào năm 1994. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký vượt mức 10 tỷ USD. Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên AFTA, xuất khẩu đạt mốc 5 tỷ USD, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,5%. Đến năm 1996, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký đạt 27 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,3%. Chỉ sau đó 1 năm, xuất khẩu gạo đạt mức 3 triệu tấn, sản lượng khai thác dầu thô đạt mốc 10 triệu tấn, internet lần đầu tiên được đưa vào sử dụng tại Việt Nam.
Đến năm 1998 trên 90% trẻ em được tiêm chủng vắc-xin, tỷ lệ tăng dân số hàng năm dưới 2%. Dựa trên Điều tra mức sống cư dân Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998. Cũng trong năm này, Việt Nam trở thành thành viên APEC. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn tăng lên 89,4%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vượt 30 tỷ USD. Năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo. Nước ta đuợc Liên hợp quốc trao giải thưởng về dân số và kế hoạch hóa gia đình. tuổi thọ là 67,8, xếp hạng HiD: 101 trong số 162 nước.
Trong thập kỷ 90, kinh tế đã phát triển không ngừng. Tính chung trong 10 năm liên tục, kinh tế tăng trưởng bình quân hơn 7,5%/năm.
Năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 6,7%, cùng lúc đó là gần 15000 doanh nghiệp tư nhân được thành lập, tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 94%. Đến năm 2001, tăng trưởng kinh tế ước khoàng 7% đứng thứ 2 trong khu vực; giữ vững ổn định về chính trị - xã hội. Trong năm này, khoảng 23.000 doanh nghiệp tư nhân được thành lập với số vốn 25.000 tỷ đồng Việt Nam, tạo 500.000 chỗ làm mới (tính đến tháng 9 năm 2001). Chương trình sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiêp nhà nước trong 5 năm (2001 – 2005) ra đời. Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng Thế giới tiếp tục điều chỉnh cơ cấu cho vay đối với Việt Nam.
Năm 1990, mức thu nhập bình quân là khoảng hơn 100 USD thì đến năm 2002 đã đạt thu nhập bình quân trên 400 USD và năm 2003 ước đạt gần 500 USD, đã đưa VN thoát khỏi tình trạng đói nghèo với thu nhập dưới 1 USD/ngày. Còn theo chỉ số phát triển HDI thì VN đã đạt mức của nước phát triển trung bình về nguồn lực con người.
Ngay trong giai đoạn có khủng hoảng kinh tế khu vực, nước ta vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996-2000 là gần 7%/năm. Đó là mức tăng trưởng cao thứ nhì trong khu vực, chỉ sau Trung Quốc. Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đã giảm mạnh số hộ trong tình trạng đói nghèo, tăng cường khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
23. Những vấn đề còn tồn tại:
Chúng ta vẫn còn nhiều yếu kém trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động thấp, giá thành nhiều sản phẩm còn cao so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường tự nhiên nhiều nơi bị hủy hoại, ô nhiễm nặng.
Lĩnh vực dịch vụ phát triển chậm. Nội dung và các biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa cong nhiều vướng mắc. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường.
Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ, một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm, tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
Cơ chế, chính sách về văn hóa- xã hội chậm đổi mới, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yếu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật, xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần chưa được khắc phục. Quản lý Nhà nước đối với một số lĩnh vực trong giao dục, y tế, thể dục thể thao còn yếu kém.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và của.
3- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc vận dụng kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
31- Đánh giá ảnh hưởng của các chính sách kinh tế và xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước từ 1976 đến nay.
Từ thực tế nền kinh tế - xã hội giai đoạn trước đổi mới ( năm 1979 -1986) chúng ta thấy rằng do chưa đánh giá đúng về thực trạng nền kinh tế của đất nước: trong giai đoạn đó lực lượng sản xuất mới chỉ tương đương ở phương thức sản xuất phong kiến, chủ yếu là lao động thủ công, giản đơn, ruộng đất manh mún, máy móc cũ kỹ lạc hậu nhưng chúng ta lại xây dựng một quan hệ sản xuất “ tiên tiến” một cách giả tạo so với sự phát triển của lực lượng sản xuất do vậy đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất lại là cơ sở để hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội hay kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được sinh ra lại xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Do vậy, cả kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất ( cơ sở hạ tầng) đã kéo tụt hậu sự phát triển kinh tế cũng như của xã hội.
Thật vậy, toàn bộ nền kinh tế khi đó là chế độ tem phiếu, sản xuất theo kiểu tập trung bao cấp, xây dựng kế hoạch từ trên và phân bổ chỉ tiêu đến từng xí nghiệp, các xí nghiệp, hợp tác xã không cần phải cạnh tranh lẫn nhau và đến chất lượng sản phẩm chỉ cần sản xuất đủ chỉ tiêu là đạt, nền kinh tế trong nước theo kiểu tự cung tự cấp không giao thương buôn bán với nước ngoài cùng lắm chỉ giao dịch với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa . Chính vì chính sách kinh tế như vậy nên không những làm cho nền kinh tế kiệt quệ mà còn làm cho các mặt khác của đời sống xã hội cũng trở nên nghèo nàn hơn, vấn đề đối với nhân dân ta trong thời kỳ này chỉ là cơm ăn áo mặc còn tất cả các mặt khác không được quan tâm chú trọng như: với giáo dục – do cuộc sống đời thường chi phối nên các thầy cô giáo, học sinh ngoài việc lên lớp giảng bài, học bài còn phải làm thêm để duy trì cuộc sống nên không còn thời gian để nghiên cứu tìm hiểu mở rộng kiến thức. Nhiều học sinh giỏi sau khi đạt những giải thưởng cao quốc tế thì hầu như tìm đường ra nước ngoài vì ở đó họ mới có “đất dụng võ”, đời sống văn hoá thì nghèo nàn, nếu không phải dân thành phố thì chỉ mong đợi những đoàn kịch, đội chiếu phim di động để có thêm hiểu biết về thông tin văn hoá, tình trình chính trị bất ổn, bọn phản động nhân cơ hội tìm mọi cách chống phá Nhà nước còn non trẻ đang trong thời kỳ xây dựng và hoàn thiện cả về kinh tế lẫn chính trị. Nhiều xu hướng mê tín dị đoan trong quần chúng nhân dân, nhằm xoa dịu sự vất vả về mặt thể xác, đói nghèo của cuộc sống hàng ngày. Nhân dân mất lòng tin một cách nghiêm trọng vào chế độ chính trị, hàng loạt làn sóng vượt biên di cư ra nước ngoài.
Không chỉ kinh tế tác động đến các mặt khác của đời sống xã hội mà ngược lại chính trị và pháp luật cũng tác động ngựoc trở lại làm kìm hãm thêm tiến trình phát triển kinh tế. Thật vậy, để bảo vệ chế độ phân phối tập trung theo tem phiếu nên tất cả mọi hoạt động kinh tế của cá thể, tư nhân bị cấm đoán và phạt rất nặng chẳng hạn như cấm giao thương hàng hoá từ tỉnh nọ sang tỉnh kia thậm chí chỉ với mục đích tiêu dùng cá nhân, buôn bán nhỏ lẻ, hàng xén cũng bị coi là phạm pháp. Các gia đình của chúng ta thời đó nhiều khi có cũng chẳng dám tiêu dùng, lúc nào cũng ở trong tình trạng lo sợ mình có phạm luật hay không.
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng với chính sách kinh tế và xã hội thời kỳ này các tệ nạn xã hội như ma tuý, mãi dâm, buôn lậu rất ít. Có thể nói là người dân sống thuần hơn, trong mỗi gia đình có thể tồn tại nhiều thế hệ và đạo đức con người được đề cao, tình cảm giữa những thành viên trong gia đình được gắn kết chặt chẽ hơn, quan tâm đến nhau hơn
Phải thừa nhận rằng: trong giai đoạn đó chúng ta đã chưa đánh giá đúng được bản thân chúng ta và thực sự chưa hiểu hết được những nguyên lý, những lý luận khoa học trong chủ nghĩa Mác để vận dụng vào xây dựng và phát triển kinh tế. Chúng ta mới chỉ xem xét ở từng khía cạnh mà không xét đến quan hệ biện chứng giữa chúng. Chúng ta đã đi ngược lại quy luận vận động của xã hội, do vậy chúng ta đã trở thành nô lệ của tính tất yếu.
Nhưng rất may bắt đầu từ năm 1986 đến nay Đảng và nhà nước ta cũng đã nhận thức được thực trạng của đất nước đồng thời cũng trên cơ sở nghiên cứu sự chuyển mình thành công của nước xã hội chủ nghĩa anh em- Trung Quốc cũng như sự sụp đổ không thể cưỡng lại của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa trong đó bao gồm cả “ anh cả” hệ thống Xô Viết, đã có những chính sách kinh tế và xã hội có thể nói là phù hợp với lực lượng sản xuất vốn có của Việt Nam cũng như những đặc điểm riêng có của chúng ta nên giống như Trung Quốc chúng ta đã gặt hái được những thành công không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, văn hoá, nhà nước
Cụ thể là: với hàng loạt chính sách kinh tế như:
+) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+) Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đa dạng chế độ sở hữu, cơ cấu kinh tế phải gồm nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đã làm cho không những nền kinh tế có sự chuyển mình rõ rệt mà tất cả các mặt khác của xã hội cũng vặn mình xoay theo guồng lái của kinh tế cụ thể các mặt là:
+ Chính trị: ổn định, Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những điểm đến an toàn và được khẳng định bằng việc được đăng cai tổ chức hàng loạt các cuộc họp quốc tế quan trọng như: APEC, cộng đồng các nước nói tiếng Pháp Nhân dân tin tưởng vào thể chế chính trị và nhà nước.
+ Văn hoá: Chúng ta được tiếp cận với hàng loạt luồng văn hoá tiến bộ từ các nền văn hoá khác nhau, dân trí phát triển, làm biến đổi văn hoá của Việt Nam ta.
+ Tôn giáo: nhiều loại hình tôn giáo du nhập vào Việt Nam, nhìn chung là tương đối phát triển đặc biệt là đạo Phật
+ Giáo dục: phát triển mạnh, số học sinh du học nước ngoài tăng cao và hầu hết là quay lại phục vụ đất nước
Ngược lại nhờ có chính trị ổn định, dân trí tăng, con ngưòi thông minh nhanh nhậy, đã khuyến khích kinh tế phát triển do thu hút được làn sóng đầu tư mới, Việt kiều các nơi trên thế giới đã về nước để tìm cơ hội làm ăn nhờ đó mà kinh tế lại càng được thúc đẩy ngày một mạnh mẽ.
Với những chính sách kinh tế mới, chính sách xã hội phù hợp với quy luật vận động của xã hội kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên như chúng ta đã nghiên cứu các quy luật xã hội khác với các quy luật tự nhiên là thường biểu hiện ra như những xu hướng, mang tính xu hướng chứ không phải bằng các dữ liệu đã biết ta có thể tính toán, đong, do đếm đựoc. Nên các chính sách của chúng ta nhiều khi chỉ đứng tiếp cận hoặc gần sát với quy luật chứ không thể chắc chắn là hoàn toàn đúng quy luật do vậy chúng ta không thể tránh đựoc những hạn chế do các chính sách đem lại mà chỉ hạn chế nó. Cụ thể chúng ta đã nghiên cứu và nhận thức được những nguyên nhân chủ yếu sau:
Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực còn chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng nền kinh tế độc lập vững chắc, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kính tế quốc tế, đổi mới chính sách, cơ chế quản lý giáo dục, y tế, văn hóa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá: xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đối mới cơ chế, chính sách; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị và trọng tâm là cải cách hành chính. Ba khâu này cũng như việc xây dựng một số công trình trọng điểm lớn của quốc gia chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp trên một số lĩnh vực như quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, sở hữu trí tuệ Công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu hiệu lực.
3.2- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
Bản thân chúng ta cũng nhận thức rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Hơn nữa, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời gắn liền với phát triển kinh tế chúng ta phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dụng và bảo vệ tổ quốc. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cụ thể là nhà nước ta đã có hướng tác động vào kinh tế và xã hội như sau đặc biệt sau sự kiện ra nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO của nước ta:
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết. Trước hết tập trung vào:
+) Soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật.
+) Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ chế nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh.
+) Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân hàng thương mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản vay và cho vay trên cơ sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động sản, tạo bước đột phá trong hoạt động của thị trường này. Cải cách chế độ kế toán và tài chính doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế.
+) Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với việc loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá phù hợp với các cam kết của ta trong Tổ chức thương mại thế giới.
+) Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm phù hợp để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng;
+) Kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ giá ... để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng của công tác thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu để xác định các cân đối lớn.
+) Đẩy mạnh cải cách tiền lương, chế độ bảo hiểm; sớm nghiên cứu hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp, và các chính sách an sinh xã hội;
+) Đổi mới cơ chế quản lý các cơ quan khoa học - công nghệ theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự hạch toán. Gắn kết chặt chẽ các cơ quan này với doanh nghiệp để thúc đẩy việc đổi mới công nghệ sản xuất ở doanh nghiệp, nhằm phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào đầu tư, kinh doanh đi đôi với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
2. Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hoá và dịch vụ vào kinh doanh. Việc quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng quản lý chuyên ngành chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện hành nghề, không dùng giấy phép làm công cụ để hạn chế thương mại. Điều này không những là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện để tạo ra thị trường cạnh tranh, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và công dân, là điều kiện bảo đảm hiệu quả của tăng trưởng. Phải làm việc này một cách đồng bộ và kiên quyết. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và doanh nghiệp, những người thiếu trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.
3. Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước, theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Làm việc này không phải là để tinh gọn tổ chức một cách giản đơn. Làm việc này là tạo ra tiền đề tổ chức để bảo đảm sự đồng bộ, tầm nhìn liên ngành, khắc phục sự chồng chéo, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi các thiết chế quản lý.Trên cơ sở sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính để xây dựng lại hệ thống phân cấp theo những tiêu chí khoa học, bảo đảm tính tương thích, sự đồng bộ và tính mục tiêu trong các lĩnh vực đã phân cấp. Quan điểm nhất quán ở đây là: bảo đảm tính thống nhất quản lý và mục tiêu phát triển, phân cấp mạnh cho địa phương và cơ sở. Vấn đề sẽ được giải quyết ở cấp nào mà ở đó có đầy đủ thông tin và khả năng thực hiện công việc tốt nhất. Gắn phân cấp với kiểm tra, giám sát.
4. Đổi mới để phát triển mạnh nguồn nhân lực: nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ chiếm 70% lực lượng lao động. Người Việt Nam cần cù, chịu khó học tập, nhận thức nhanh. Nhưng chúng ta chỉ có lợi thế cạnh tranh thực tế trong những ngành nghề đòi hỏi sử dụng nhiều lao động với kỹ năng trung bình và thấp. Những lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi trình độ cao, chúng ta đang rất thiếu và do đó làm hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào những lĩnh vực này như cơ khí chế tạo, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, tư vấn thiết kế, tạo mẫu và trong các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao... Hạn chế này là do những yếu kém, bất cập trong hệ thống giáo dục của ta, cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp để khắc phục. Cụ thể về mặt giáo dục cần thực hiện các mục tiêu sau:
+) Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền với việc thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người lao động.
+) Từ quan điểm hệ thống và bảo đảm tính liên thông trong hệ thống giáo dục - đào tạo từ phổ thông - đại học và dạy nghề, giải quyết trước việc cải cách giáo dục đại học và dạy nghề. Học tập kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục đại học và dạy nghề tiên tiến để chọn lọc, sử dụng. Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong những nguyên tắc lớn và sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo, phát huy tính tự chủ, bản sắc riêng và tính cạnh tranh trong đào tạo đại học và dạy nghề. Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho những ngành nghề cần thiết nhưng tính cạnh tranh thấp.
+) Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
5. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng: Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các nước về cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn, nhất là trong điều kiện các hình thức ưu đãi trái với quy định của Tổ chức thương mại thế giới sẽ bị loại bỏ. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng sự phát triển cơ sở hạ tầng. Lâu nay nhà nước đã rất chú ý phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn ngân sách, vốn ODA, vốn của doanh nghiệp đầu tư theo phương thức BOT, BT,, vốn của dân. Khuyết điểm ở đây là tình trạng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước phân tán, kéo dài chậm được khắc phục.
Phát triển cơ sở hạ tầng là yêu cầu bức xúc của các địa phương, các vùng kinh tế. Khi nhu cầu lớn, nguồn lực có hạn, để thoả mãn được nhiều đối tượng dễ dẫn đến cách phân bổ phân tán, dàn trải. Kết quả là thời gian thi công kéo dài, nợ đọng lớn, không ít công trình hiệu suất sử dụng thấp, hiệu quả không cao xét trên yêu cầu phát triển tổng thể của nền kinh tế. Phải kiên quyết khắc phục tình trạng này.
Nguyên tắc chỉ đạo ở đây là cái mà chúng ta lựa chọn và quyết định là cái tốt nhất có thể chứ chưa phải là cái mà chúng ta mong muốn. Cái tốt nhất có thể là cái mà nếu được lựa chọn sẽ có hiệu suất sử dụng cao nhất. Trong phát triển cơ sở hạ tầng (các tuyến đường, bến cảng) đó là những vùng đã và sẽ có trong tương lai gần dung lượng lưu thông hàng hoá lớn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ yêu cầu này mà xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng về vốn. Điều chỉnh lại việc phân cấp đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung cao hơn. Người có quyền ra quyết định đầu tư phải kiên quyết thực hiện bằng được yêu cầu này.
Huy động mọi nguồn lực kể cả các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng.
6. Về nông nghiệp, nông thôn và nông dân:
Nông nghiệp là lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tổn thương hơn cả khi thực hiện cam kết cắt giảm thuế nông sản. Nông nghiệp sẽ là lĩnh vực bị sức ép cạnh tranh khá lớn, nhất là trong điều kiện nông nghiệp nước ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, công nghệ lạc hậu, năng suất kém, chất lượng sản phẩm không cao, bình quân đất nông nghiệp trên một lao động thấp. Có hai hướng giải quyết đã đựoc đề ra:
+) Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ; đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn; phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Đây là hướng phát triển quan trọng nhất.
+) Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Giảm mạnh sự đóng góp của nông dân. Đầu tư mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nước. Phát triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã.
Phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư cho nông dân. Khuyến khích nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Nghiên cứu để hình thành cơ chế gắn việc thu hút lao động trong nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động với việc chuyển giao, cho thuê lại ruộng đất để đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất.
7. Phát triển các loại hình dịch vụ:Lĩnh vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế. Các nước công nghiệp phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá và sự phân công lao động gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo khả năng phát triển dịch vụ. Ngược lại sự phát triển dịch vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, phải hết sức coi trọng phát triển tất cả các ngành dịch vụ.
Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tư vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán. Nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển dịch vụ.
8. Phát triển những lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng thị trường. Lựa chọn các ngành và sản phẩm để phát triển phải căn cứ vào các yếu tố sau đây:
+) lợi thế so sánh dài hạn
+) quy mô kinh tế đặt trong quy hoạch liên vùng (để bảo đảm giảm chi phí cố định).
+) dung lượng thị trường (để bảo đảm có được thị phần và tăng thị phần mà không bị các biện pháp tự vệ, điều tra chống bán phá giá).
+) mức giảm thuế và lộ trình giảm thuế theo cam kết (để đo sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu).
Đi đôi với việc phát triển một số ngành, sản phẩm theo các tiêu chí nêu trên cần hết sức coi trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp nền tảng cho công nghiệp hoá.
9. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mọi người đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trong thời gian qua các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách cao hơn trước khi cổ phần hoá; việc làm và đời sống người lao động trong doanh nghiệp đã cổ phần hoá được bảo đảm, có phần được cải thiện; quyền làm chủ thực sự trong quản lý doanh nghiệp từng bước được xác lập. Việc bán giá trị của doanh nghiệp thông qua đấu thầu trên thị trường chứng khoán đã khắc phục được tình trạng thất thoát vốn, tài sản của nhà nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp mà nhà nước có cổ phẩn hoặc cổ phần chi phối còn nhiều. Vốn của nhà nước trong doanh nghiệp còn lớn, tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ cao. Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế.
Một nước ở trình độ phát triển thấp như nước ta, lại đang trong giai đoạn chuyển đổi, tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 95%), loại hình doanh nghiệp này thực sự đang là động lực của sự phát triển. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ có hiệu quả hơn nữa các doanh nghiệp này.
So với dân số và nhu cầu tăng trưởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp nước ta hiện rất thấp. Đây là hạn chế lớn trong việc phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, tạo ra thị trường cạnh tranh và huy động nguồn lực của xã hội. Vì vậy, khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp. Định hướng cơ bản để thực hiện việc này là tạo điều kiện để doanh nghiệp có môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí tham gia thị trường, miễn giảm thuế trong thời gian đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo quản trị doanh nghiệp.
11. Tiền đề quan trọng và có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi các chủ trương và giải pháp nêu trên là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng của sự phát triển. Nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp xã hội về bản chất và nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tạo ra sự thống nhất trong nhận thức, thống nhất đánh giá, thống nhất hành động. Trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống yêu nước và cách mạng, ý chí tự lực tự cường của mọi người Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Có thể nói Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay đã nhận thức vận dụng được quy luận vận động khách quan tồn tạI trong nội tại mỗi xã hội nên đã có những kế hoạch về chính sách kinh tế và chính sách xã hội phù hợp với những đặc điểm riêng có của Việt Nam cũng như là sự vận động của quy luật xã hội chung.
PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp trong đó, có các yếu tố cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi yếu tố của hình thái – kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa các mặt của hình thái kinh tế xã hội để có cách tác động vào các mặt của hình thái kinh tế xã hội thông qua các chính sách kinh tế và chính sách xã hội là cần thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia mà Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Chúng ta cũng đã trải qua 30 năm để nghiên cứu và thực nghiệm quy luật xã hội này. Thực sự là: Việt nam đã tiếp cận được quy luật và đang phát triển.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần lý luận các quy luật xã hội thực chất là sự liên hệ và tác động lẫn nhau vô cùng phức tạp giữa người với người và làm thay đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do vậy, những xu hướng biểu hiện của các quy luật luôn luôn vận động, biến đổi. Do vậy chúng ta phải luôn luôn nghiên cứu để thay đổi các chính sách kinh tế và chính sách xã hội cho phù hợp với sự vận động của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nhưng thực tế, các chính sách là do nhận thức chủ quan của con người, và thường là đi sau sự vận đông của quy luật nên không thể tránh khỏi những hạn chế. Nhưng với Nhà nước Việt Nam, chế độ chính trị và với sự vặn mình của nền kinh tế như hiện nay, chúng tôi tin chắc rằng Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu của mình.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8986.doc