Không chỉ dừng ở đó, phát triển ngoại thương ngoài việc giúp xác định một cơ cấu hợp lý, mà còn giúp cho các nhà hoạch định chiến lược xem xét vai trò của từng ngành trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển riêng của mỗi ngành sản xuất mà còn tạo ra sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các ngành trong cùng một nền kinh tế. Sản phẩm của ngành này làm đầu vào cho các ngành khác sẽ tạo lập một nền tảng cho việc phát triển các ngành trọng điểm, ngành bổ trợ và các ngành hậu cần tại chỗ. Các ngành liên hệ càng chặt chẽ sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội càng chi tiết,. Và ngoại thương góp một vai trò không nhỏ trong sự phát triển của một quốc gia ./.
43 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
997 vừa qua kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Việt Nam đạt 2,5 triệu USD và kế hoạch đặt ra trong năm 2000 là 3,5 triệu USD (Báo Hà Tây - Tìm hiểu vấn đề phát triển công nghệ thông tin 14 - 11 - 2000). Điều đó đã chứng tỏ sự thành công trên con đường phát triển của nền công nghiệp Việt Nam nói riêng và ngoại thương Việt Nam nói chung. Trong những năm qua, chúng ta đã thấm nhuần quan điểm, sản xuất là gốc, sản xuất quyết định phân phối lưu thông. Chuyển sang nền kinh tế thị trường yếu tố quyết định sản xuất của các đơn vị - doanh nghiệp là sức mua. Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng bị rút ngắn, tác động của khoa học kỹ thuật làm thay đổi cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm hàng hoá rất mau lẹ. Điều này đã kìm hãm sự phát triển sản xuất của nước ta, nếu chúng ta vẫn quyết định chiến lược xuất khẩu và lấy việc khai thác sản phẩm thô và các sản phẩm mang tính chất truyền thống là chủ chốt.
Nhất thiết phát huy vai trò ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu từ thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp và dịch vụ với sản phẩm đa dạng cho phép lựa chọn sản phẩm với chất lượng cao. Đứng trước khó khăn thực tế, kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp còn mang nặng tính độc canh lao động chủ yếu tập chung trong nông nghiệp (71% lao động nông thôn). Sản xuất của người nông dân chưa trực tiếp đối mặt với thị trường. Chính vì những yếu tố này, mà các cơ quan thương nghiệp của ta cần phải hỗ trợ người sản xuất, định hướng tổ chức lại thị trường, định hướng sản phẩm và cách tiêu thụ sản phẩm làm ra. Kinh nghiệm thực tế khi áp dụng tại một số địa phương cho thấy, khi chuyển hướng cơ cấu kinh tế, việc chuyển hướng không thoát ly khỏi bối cảnh thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chuyển hướng cơ cấu kinh tế cũng không tách rời việc tổ chức lại mạng lưới thương mại và dịch vụ của Nhà nước, để nó đóng vai trò nòng cốt trong việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân làm ra. Chỉ có những tổ chức thương mại lớn mới có khả năng hỗ trợ người sản xuất cạnh tranh trên thị trường.
Phát huy vai trò thương mại đối với các ngành sản xuất để hình thành chiến lược sản phẩm, phát huy lợi thế so sánh chứ không phải chỉ đơn thuần dựa vào sản xuất là điều kiện cốt yếu và vô cùng cần thiết trong tiến trình hội nhập. Căn cứ vào mặt hàng sản xuất, điều kiện tự nhiên của từng vùng để có kế sách hợp lý trong sản xuất, tránh tình trạng nơi có nguyên liệu thì không có người sản xuất và nơi sản xuất lại thiếu thốn nguyên vật liệu, giảm tối đa chi phí giao dịch, từ đó giảm giá thành sản xuất. Không phải ngẫu nhiên, chúng ta đứng thứ 3 thế giới về kim ngạch xuất khẩu gạo (liên tục tăng trong những năm gần đây: năm 1997: 3,553 triệu tấn - năm 1998 là 3,8 triệu tấn và năm 1999 vừa qua là 4 triệu tấn (Thời báo kinh tế Việt Nam - Kinh tế 1999 - 2000), song giá gạo của chúng ta vẫn thấp hơn giá gạo của các nước trong khu vực: Thái Lan, Indonexia,...). Điều đó là do chất lượng gạo của chúng ta còn thấp hơn so với chất lượng gạo của họ. Điều này đặt ra vấn đề cho chúng ta là phải tìm cách tăng chất lượng gạo lên bằng cách chuyên canh vùng trồng lúa và tìm giống lúa gạo mới có chất lượng cao hơn. Thiết nghĩ chỉ có bằng cách đó chúng ta mới có lợi thế về giá gạo xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, áp dụng những thành quả của công nghệ sinh học nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, tập chung được số lượng lớn để xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên rừng và biển, hình thành những tổ chức khai thác có kế hoạch và đúng yêu cầu đảm bảo môi trường sinh thái bền vững, tránh tình trạng khai thác bừa bãi, vô tổ chức, và phân tán. Nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn tài nguyên rừng và biển.
Đó là vai trò của ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập. Ngày càng xa rời cơ cấu thuần nông nghiệp mà nước ta đã mang suốt 55 năm qua.
2. Định hướng cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005.
Trước khi xem xét và vạch ra con đường cho cơ cấu kinh tế trong tương lai, chúng ta phải xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc định hướng.
2.1. Quan điểm chuyển dịch trong điều kiện hội nhập.
* Thực hiện bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với tốc độ nhanh theo xu thế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tăng đáng kể tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành, đồng thời giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp. Chủ trương tăng ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng vốn cao.
* Chuyển dịch cơ cấu ngành theo xu thế hội nhập quốc tế, thực hiện các bước chuyển dịch theo các điều khoản cam kết với các tổ chức quốc tế: AFTA, APEC, WTO,... đến năm 2006 và 2010, đồng thời tìm ra hướng đi và tiến hành phân ngành kinh tế.
* Đảm bảo xu thế phát triển bền vững bằng cách gắn liền với các ngành có lợi thế về nguồn lực. Không trú trọng, tập chung vào những ngành “không chân” - ngành do nước ngoài đầu tư. Từ đó xác định các ngành đầu tư kéo theo (Tức các ngành bổ trợ).
* Chuyển dịch cơ cấu ngành theo quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Đó chính là vấn đề về giải quyết lao động dư thừa.
2.2. Con số chỉ tiêu trong định hướng chuyển dịch.
Trên cơ sở những quan điểm chuyển dịch trên, chúng ta vạch ra dạng cơ cấu ngành, xác định cơ cấu trong điều kiện trước mắt là: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Từ đó tạo đà cho cơ cấu: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong tương lai. Trong thời gian đầu 2001 - 2005, Đảng và Nhà nước đã đặt ra chỉ tiêu:
Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001 - 2005
Đơn vị: %
Ngành
Tỉ trọng
Tốc độ
Tỉ trọng lao động
Công nghiệp
38-39
12
22
Nông nghiệp
20-21
4
55
Dịch vụ
40-41
7
23
Tổng số
100
Tốc độ chung: 7
Tổng số: 100
Nguồn: Dự thảo chiến lược 2001 - 2005 - Bộ KH - ĐT
2.3. Biện pháp thực hiện cơ cấu kinh tế.
Từ những chỉ tiêu đặt ra trong bản dự thảo chiến lược, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nêu ra biện pháp tổ chức thực hiện đối với từng nhóm ngành trong ba ngành kinh tế lớn.
+ Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh hiện tại: Đây chủ yếu là những ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động.
Bao gồm: Khoáng sản, nông sản, thuỷ sản, các loại cây công nghiệp và dệt may. Chúng ta nhận định hiện nay các ngành này còn nhiều song giá trị gia tăng thấp do chi phí cao, đồng thời các ngành này có biểu hiện về việc giảm lợi thế.
Giải pháp:
1. Xoá bỏ dần các chính sách bảo hộ, khuyến khích nhập khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
2. Giảm chi phí trong giá thành sản phẩm của các sản phẩm trong ngành này bằng cách tăng cường các hoạt động đầu tư theo chiều sâu.
3. Tạo môi trường thông thoáng trong xuất - nhập khẩu hàng hoá.
4. Đề ra chiến lược qui hoạch về thị trường xuất khẩu. Thành lập các trung tâm xúc tiến tìm thị trường từ đó có cơ sở lựa chọn việc giao dịch.
+ Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai trong điều kiện có sự tác động tích cực từ Chính phủ (Các ngành non trẻ).
Bao gồm: - Ngành chế biến nông - thuỷ sản.
- Cơ khí chế tạo.
- Điện - điện tử và dịch vụ.
Giải pháp:
1. Bảo hộ phát triển bằng các chính sách thuế và hạn ngạch.
2. Tăng cường mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài tích cực tham gia chuyển giao công nghệ.
3. Mở rộng các phương thức đầu tư phát triển bằng cách hoàn thiện và hiện đại các thành phần, loại hình tham gia đầu tư.
+ Nhóm ngành không có khả năng cạnh tranh.
Bao gồm: - Những ngành đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao, nhiều vốn.
- Những ngành không gắn liền với các yếu tố tài nguyên và lao động.
Giải pháp:
1. Không tiếp tục duy trì bảo hộ, mở rộng các hình thức đầu tư nước ngoài khuyến khích họ đầu tư vào những ngành này.
2. Tích cực tham gia chuyển giao công nghệ để chọn những mặt hàng phù hợp với điều kiện Việt Nam.
3. Tích cực đào tạo lao động theo đường lối dài hạn, tạo nguồn lao động có tay nghề cao.
Phần III
Chính sách ngoại thương Việt Nam trong xu thế hội nhập
I-/ Chính sách ngoại thương Việt Nam từ 1975 đến nay.
1. Giai đoạn Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương.
Giai đoạn này kéo dài từ năm 1975 đến cuối thập niên 80 với nguyên tắc chi phối hoạt động ngoại thương “Nhà nước giữ độc quyền tuyệt đối về ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác”. Tiêu biểu và nổi bật của ngoại thương Việt Nam giai đoạn này nổi lên một số vấn đề sau:
- Xuất hiện độc quyền ngoại thương trong các doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu, song đồng thời cũng phải gánh chịu nợ tồn đọng rất nặng nề do các doanh nghiệp khác uỷ thác. Bởi lẽ, có tình trạng này là do quyền xuất nhập khẩu tập chung trong tay các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó chỉ có một số ít công ty được phép tham gia xuất - nhập khẩu trực tiếp, tất cả các doanh nghiệp khác có nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá đều phải uỷ thác qua các đơn vị xuất - nhập khẩu trực tiếp.
- Tính chất ngoại thương mang đậm tính Nhà nước với khu vực thị trường hẹp (Trong giai đoạn này là chủ yếu quan hệ với khối SEV): mọi điều khoản liên quan đến việc xuất - nhập khẩu hàng hoá đều do Nhà nước quyết định, Nhà nước là chủ thể đàm phán ký kết hiệp ước thương mại và nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, giá cả được thoả thuận theo sự sắp xếp và thương lượng giữa các Chính phủ. Đồng tiền được sử dụng trong quan hệ trao đổi là đồng Rúp chuyển nhượng - tỉ giá hối đoái được áp dụng theo cơ chế tỉ giá cố định, trong điều kiện lạm phát cao.
- Mọi hoạt động xuất - nhập khẩu được chỉ huy thống nhất từ Trung ương thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh mang tính “giao nộp - cấp phát” với chủ trương “Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương”. Trong giai đoạn này, chúng ta chưa có ranh giới rõ ràng giữa hai khái niệm: quản lý Nhà nước về ngoại thương và quản lý kinh doanh ngoại thương, bởi vậy Nhà nước thường can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Với cơ chế và chủ trương như trên đã không thúc đẩy được sự sáng tạo của đơn vị kinh doanh, hiệu quả sử dụng nguồn lực kinh tế trong xuất - nhập khẩu không cao. Chính vì vậy, trong giai đoạn này cán cân thương mại của ta luôn mất cân đối nặng (nhập siêu), nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu thấp (6%-7%/năm). Chính điều này, Nhà nước đã phải chuyển chiến lược thay thế nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu từ đó tạo ra động lực mới cho hoạt động ngoại thương.
2. Giai đoạn chuyển từ chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu.
Giai đoạn này kéo dài từ cuối thập niên 80 đến nay nhằm phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế trong những hoàn cảnh mới. Đảng và Nhà nước đã chủ động đưa ra một số văn bản đánh dấu những bước phát triển này: Nghị định 64/HDBT ngày 10/6/1989 về chế độ tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghị định 114/HDBT ngày 07/4/1992 về chế độ và tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng tự do hoá, mở rộng quyền kinh doanh xuất - nhập khẩu cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Gần đây nhất là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định về Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu - gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài,... cơ chế quản lý “Nhà nước độc quyền ngoại thương” đã thay đổi căn bản, chúng ta tập chung và chú trọng nhiều vào điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu bằng cách mở rộng các chính sách và hình thức đầu tư, tạo điều kiện trong các qui định hành chính và cơ sở luật pháp. Phải nói rằng trong những năm gần đây chúng ta đã và đang tiến hành đổi mới nhiều mặt trong quá trình hội nhập mà nổi bật lên là một số mặt sau:
- Về thuế quan: Chúng ta chỉ áp dụng thuế chủ yếu trên hàng nhập khẩu, còn đối với hàng xuất khẩu chúng ta ưu đãi trong vấn đề thuế quan với mức thuế suất không đáng kể. Từng bước chuyển đổi mức thuế suất - nhập khẩu sao cho phù hợp với yêu cầu của CEPT sau khi Việt Nam ra nhập AFTA.
- Về cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu: Phải nói rằng trong thời gian gần đây cơ chế của ta có phần cởi mở hơn, không còn gò bó, luẩn quẩn trong việc “độc quyền” xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Nhà nước nữa, mà chúng ta cho phép mọi thành phần kinh tế hợp pháp được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề trong giấy phép kinh doanh. Vươn tới việc thống nhất hoạt động thương mại, không phân biệt nội thương và ngoại thương nữa.
- Về nguyên tắc: Mọi chủ thể kinh tế có quyền xuất - nhập khẩu mọi chủng loại hàng hoá, ngoại trừ các loại hàng cấm xuất - nhập khẩu và một số loại hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện theo qui định của một số văn bản pháp qui (Nghị định 57).
- Thay đổi nhiều trong việc phân bổ Quota xuất khẩu: Đối với gạo Chính phủ cấp hạn ngạch qua Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành có thừa gạo để phân bổ lại cho các đầu mối xuất khẩu gạo tại địa phương. Đối với hàng dệt may tiến hành phương thức đấu thầu.
- Thủ tục quản lý xuất - nhập khẩu: Được đơn giản hoá nhiều tránh gây tình trạng phiền hà, phức tạp cho người tham gia xuất - nhập khẩu, tạo môi trường thông thoáng trong hoạt động này. Giảm tối đa thời hạn quản lý hàng xuất nhập khẩu tại hải quan bằng cách phân luồng theo thứ tự ưu tiên (luồng xanh: giải quyết song thủ tục trong vòng 4 giờ, luồng vàng: trong 8 giờ, luồng đỏ: hơn 8 giờ nhưng không quá 72 giờ).
- Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu: Chính phủ quyết định thành lập quĩ thưởng xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu các sản phẩm mới, chất lượng cao, mở rộng thị trường và thâm nhập thị trường mới (theo Quyết định 764/QĐ-TTg - 24/8/1998).
Sự thành công trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1998 đến nay, đó là thành quả của gần 10 năm phấn đấu không mệt mỏi của toàn Đảng, toàn dân ta vì một nước Việt Nam vững mạnh và vì một thế giới hoà bình, ổn định. Chúng ta từng bước hoàn thiện thêm chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu đi đôi với việc bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bằng văn bản pháp qui cụ thể (Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII). Tất cả những điều đó nhằm nâng cao cạnh tranh của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên chính thị trường nội địa, khu vực và thế giới. Tránh quan liêu, bao cấp trong quá trình quản lý xuất nhập khẩu, thủ tục rườm rà trong khâu vận chuyển, xét cấp giấy phép xuất - nhập khẩu,... đó là những điều, những lý do khiến chúng ta cần phải xem xét và tiếp tục quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
II-/ Định hướng và kiến nghị phát triển ngoại thương Việt Nam 2001 - 2005.
1. Định hướng phát triển ngoại thương.
Nhằm mục tiêu phát triển ngoại thương phù hợp với quan điểm phát triển ngoại thương đã nêu trên, có thể đưa ra một số hướng phát triển cơ bản cho ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới:
1.1. Định hướng cơ bản cho nhịp độ tăng xuất nhập khẩu.
Như trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam cho đến những năm 2003 chúng ta đã coi “Ngoại thương là hạt nhân của bài toán tăng trưởng, nhịp độ tăng nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu sẽ kéo theo nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng nhanh lên tương ứng”. Bài học của các quốc gia đi trước đã cho thấy điều đó là hoàn toàn đúng. Xem xét nền kinh tế của một số nước đã thành công trong giai đoạn những điều kiện như Việt Nam hiện nay.
nhịp độ tăng xuất nhập khẩu và GDP của một số nước có nền kinh tế đang tăng trưởng tốt
Đơn vị: %/năm
Quốc gia
Nhịp độ tăng xuất khẩu
Nhịp độ tăng nhập khẩu
Nhịp độ tăng GDP
80-90
90-94
80-90
90-94
80-90
90-94
1. Trung Quốc
11.4
14.3
10.0
24.8
10.2
12.9
2. Indonexia
5.3
21.3
1.2
9.1
6.1
7.6
3. Thái Lan
14.3
21.6
12.1
12.7
7.6
8.2
4. Malaixia
11.5
17.8
6.0
15.7
5.2
8.4
5. Chi Lê
5.7
10.5
1.4
14.5
4.1
7.5
6. Hàn Quốc
13.7
7.4
11.2
7.7
9.4
6.6
7. Đài Loan
11.6
5.9
12.8
14.2
8.4
6.1
8. Hồng Kông
15.4
15.3
11.0
15.8
6.9
5.7
9. Singapore
12.1
16.1
8.6
12.1
6.4
8.3
Nguồn: From Plan to Market, World Bank, World Development Repozt 1996
Như vậy, xem xét một cách tổng quát, thì nhịp độ tăng xuất khẩu thường cao hơn nhịp độ tăng nhập khẩu do bản chất hướng ngoại của nền kinh tế. Đồng thời, cả hai mức tăng xuất khẩu và tăng nhập khẩu lại cao hơn mức tăng trưởng GDP. Song, việc tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu so với mức tăng GDP lại phụ thuộc vào qui mô của nền kinh tế và tiềm năng thị trường lớn hay nhỏ. Trong điều kiện thực tế Việt Nam nước ta là nước có qui mô thị trường khá, song mà lực của nền kinh tế còn thấp. Trong những năm vừa qua từ 1991 - 1999 cho thấy chúng ta đã đạt được những chỉ số khá tốt như: Nhịp độ tăng xuất khẩu 28%/năm, nhịp độ tăng nhập khẩu 30,6%/năm cao gấp 3.1-3.4 lần so với mức tăng GDP cùng kỳ 8.4%. Như vậy trên cơ sở nội lực sẵn có, trong những năm tới, chúng ta đặt ra một số chỉ tiêu sau:
+ Giữ cho mức tăng trưởng xuất khẩu đạt được như thời gian trước (tức cao hơn mức tăng GDP khoảng 4 lần mà mức tăng nhập khẩu khoảng 5 lần).
+ Trong thời gian tới 2001 - 2005 chúng ta đặt ra mức tăng GDP bình quân 7%/năm, vì vậy phải đạt mức tăng xuất khẩu 13 - 15%/năm tương ứng 98-99 tỉ USD. Và mức tăng nhập khẩu khoảng 13 - 14%/năm, tương đương khoảng 105-106 tỉ USD <Dự thảo chiến lược 2001 - 2005 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
1.2. Định hướng cơ bản về mức tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người và tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP.
Nghiên cứu tình hình xuất khẩu bình quân đầu người và tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP của cả nước ta có thể đưa ra định hướng ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới.
kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người và tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu trên gdp của Việt Nam
Năm
Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người (USD/năm)
Tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP (%)
1994
55.9
25.3
1995
73.7
26.8
1996
96.3
31.0
1997
116.0
35.6
1998
120.0
35.9
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam - 1999
+ Trong thời gian tới đảm bảo tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người từ 2.5 - 3%/năm và đưa tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP lên từ 47 - 56% vào năm 2005.
1.3. Định hướng về mức tăng xuất khẩu hàng công nghiệp.
Hầu hết các quốc gia khi thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì sản phẩm công nghiệp của họ sẽ tăng lên tương ứng trong đà tăng của sản xuất công nghiệp. Lấy ví dụ như Hàn Quốc, nước phát triển công nghiệp dẫn đầu trong nhóm NICs Châu á, từ giữa thập niên 60 tỉ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu thường cao hơn tỉ trọng ngành công nghiệp trong GDP trên dưới 3 lần: năm 1995 là 3,4 lần (59% so với 17,3%) và năm 1998 là 2,9 lần (93% so với 32,2%),... Ngoài ra còn có Thái Lan, vào năm 1980 tỉ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu cao hơn tỉ trọng ngành công nghiệp 1,3 lần (28% so với 21%) và năm 1990 thì tỉ lệ đó đã là 2,5 lần (65% so với 26%),... (TS - Trần Văn Thọ - 1996).
Và đối với Việt Nam vào năm 1998, tỉ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu cao hơn tỉ trọng ngành công nghiệp trong GDP gần 2 lần (62,9% so với 32,6%). Theo dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005, thì tốc độ tăng của ngành công nghiệp sẽ khoảng 12%, và chúng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2005 đưa tỉ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu so với tỉ trọng ngành công nghiệp trong GDP lớn hơn 2 lần.
1.4. Định hướng về mức tăng khả năng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Trong bối cảnh và điều kiện hội nhập AFTA, APEC, WTO, Việt Nam đang đứng trước vô vàn những thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác hệ thống thị trường mở. Định hướng cho việc khai thác này là chúng ta cố gắng tiếp cận các thị trường càng nhanh càng tốt. Kế hoạch đến năm 2005 chúng ta đặt ra tỉ trọng xuất nhập khẩu với thị trường Châu Âu khoảng 28 - 29% (Thuận lợi trong việc được hưởng qui chế tối huệ quốc MFN của EU và Hoa Kỳ). Đối với thị trường Châu Mỹ: 26 - 27%, và thị trường Châu á giảm song vẫn ở mức 40%.
2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện mục tiêu định hướng phát triển ngoại thương Việt Nam đến năm 2005.
3.1. Phát triển sản xuất để tạo lập nguồn hàng xuất khẩu.
Mục tiêu của việc phát triển sản xuất tạo nguồn hàng xuất khẩu là nhằm mục đích thúc đẩy nhanh chóng thị trường xuất khẩu, giảm tỉ trọng nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế (Tăng GDP: GDP = C + G + I + X - M). Mục tiêu chính của việc tạo lập khả năng sản xuất hàng xuất khẩu là tăng cường xuất khẩu hàng công nghiệp (Hàng qua chế biến, hạn chế tối đa xuất khẩu sản phẩm thô), tăng tính ổn định và chủ động trong việc tổ chức cung ứng hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả sản phẩm trên thị trường thế giới. Và để giải quyết vấn đề này theo tác giả TS. Ngô Thị Ngọc Huyền đã nêu ra một số giải pháp sau:
3.1.1. Xác định chính sách mặt hàng xuất khẩu phù hợp trong từng giai đoạn phát triển.
Do tính qui luật lợi thế so sánh thay đổi theo thời gian nên cần phải xác định chính sách mặt hàng xuất khẩu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển để có đối sách phù hợp.
Phương hướng phát triển
Đối sách cơ bản
Giai đoạn 1999 - 2000:
Do lợi thế so sánh tập chung ở các mặt hàng thâm dụng lao động. Hướng phát triển:
+ Tập chung xuất khẩu các mặt hàng dệt, may, giầy da.
+ Tăng tỉ trọng xuất khẩu nông sản chế biến, hạn chế xuất thô.
+ Chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu sản phẩm cơ khí chế tạo giai đoạn sau:
+ Đầu tư vào sản xuất phụ liệu ngành may để đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô ngành hàng này.
+ Tập chung đầu tư cho sản xuất các sản phẩm may cao cấp.
+ Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực cơ khí chế tạo và hàng điện tử gia dụng tăng cường xuất khẩu các loại sản phẩm này.
Giai đoạn 2001 - 2005
Diễn ra quá trình chuyển dần lợi thế so sánh từ hàng thâm dụng lao động sang hàng thâm dụng kỹ thuật. Hướng phát triển:
+ Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của giai đoạn trước.
+ Tích cực nâng cao tỉ trọng xuất khẩu linh kiện điện tử phụ tùng xe,...
+ Tăng dần mức khai thác khả năng xuất khẩu sản phẩm cơ khí, xe máy, công cụ cầm tay, sản phẩm bán dẫn, điện và điện tử.
+ Đối với mặt hàng truyền thống, tăng cường đầu tư đa dạng hoá sản phẩm để đảm bảo duy trì tính ổn định và tăng nhanh sản lượng xuất khẩu.
+ Trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, ngoài hoạt động liên doanh với nước ngoài khuyến khích các nhà đầu tư trong nước chú trọng phát triển sản xuất các sản phẩm cơ khí, điện và điện tử.
+ Liên doanh sản xuất với các công ty sản xuất ô tô nước ngoài để cung cấp phụ tùng, xuất khẩu phụ tùng và xe máy chế tạo tại Việt Nam.
3.1.2. Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng xuất khẩu.
Trong phần này chỉ tập chung vào việc đầu tư phát triển hiện đại hoá sản xuất nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có sức cạnh tranh tốt trong thời gian tới.
Để thực hành những đối sách đã nêu trong bảng trên chúng ta thực hiện một số giải pháp sau:
* Tăng cường đầu tư, kể cả vốn, nhân lực và kỹ thuật công nghệ.
Theo Cobb - Donglas thì giá trị hàng công nghiệp phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là vốn và lao động:
LogInd = C1 + C2 . LogK + C3 LogL + e
Ind : Mức tăng trưởng công nghiệp
K : Vốn đầu tư
L : Lượng lao động
Như vậy với phương trình như trên đối với ngành công nghiệp thì có 1% tăng lên của vốn đầu tư sẽ tác động làm tăng C2% giá trị sản lượng; Tương tự, cứ 1% ra tăng của lao động thì làm gia tăng C3% đơn vị giá trị sản lượng. Trong tình hình của Việt Nam hiện nay, vấn đề khó khăn đối với chúng ta là kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở tương ứng với nguồn lực trong nước để đảm bảo phát triển bền vững. Xem xét tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng xã hội năm 1998 và 1999 để nghiên cứu tình hình thực hiện trong giai đoạn tới.
Thực hiện vốn đầu tư xây dựng toàn xã hội năm 1999
(Giá hiện hành)
Năm
Thành phần
1998
1999
Năm 1999 so với năm 1998 (%)
Tổng số
96,4
103,9
107,8
1. Vốn Nhà nước
51,6
64,0
124,0
- Ngân sách Nhà nước
20,7
26,0
125,6
- Vốn tín dụng
14,8
19,0
128,4
- Vốn tự có của doanh nghiệp
16,1
19,0
118,0
2. Vốn ngoài quốc doanh
20,5
21,0
102,4
3. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
24,3
18,9
77,8
Nguồn: Trích con số - sự kiện
Vấn đề đặt ra cho chúng ta trong thời gian tới là ta phải làm sao huy động và khai thác triệt để cả nguồn vốn trong nước và nước ngoài nhằm thực hiện đầu tư cho mục đích phát triển kinh tế nhanh và bền vững nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Ước tính làm sao cân đối giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài một cách có hiệu quả. Trong thời gian tới chúng ta đặt ra tỉ lệ giữa vốn trong nước với vốn ngoài nước phải đảm bảo trong những thời kỳ nhất định: từ nay đến 2005: 1 đồng vốn nước ngoài phải tương ứng với 1 hoặc 1,2 đồng vốn trong nước. Và trong thời gian tới, thời kỳ 2005 - 2010 ta phải đảm bảo làm sao: 1 đồng vốn nước ngoài tương đương 1.5 - 2 đồng vốn trong nước. Ta đặt ra mục tiêu phải thu hút vốn trong thời kỳ 2005 và 2010 giữa tỉ lệ vốn trong nước và vốn ngoài nước như sau:
Tỉ lệ vốn cần huy động trong thời gian 2005 - 2010
Đơn vị: %
Thời kỳ
Bộ phận
2000-2005
2006-2010
Vốn trong nước
55
60
- Ngân sách
20
15
- Tín dụng
15
15
- Tự có doanh nghiệp
20
30
2. Ngoài nước
45
40
Nguồn:
Để thực hiện được kế hoạch đề ra, nhất thiết chúng ta cần phải có những đối sách cụ thể với từng thành phần kinh tế và có thể theo một số hướng sau:
+ Đối với các doanh nghiệp Nhà nước: phải tìm cách củng cố và sắp xếp lại, giảm bớt các đơn vị yếu kém, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá để tăng cường vốn đầu tư đồng thời cải tiến quản lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thích ứng với cơ chế thị trường. Điều này lại càng trở nên cần thiết trong bối cảnh thị trường chứng khoán của chúng ta vừa bắt đầu đi vào hoạt động, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp sẽ tránh được tình trạng “thực đơn” nhàm chán trong tình hình hiện nay khắc phục tình trạng “bốn món” như hiện nay, cải thiện môi trường thị trường vốn.
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: dựa trên cơ sở chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân mà Nhà nước sớm hình thành hệ thống tiểu thủ công nghiệp hiện đại, phát triển các doanh nghiệp nhỏ song có trình độ kỹ thuật hiện đại nhằm sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, gia tăng sản lượng hàng xuất khẩu cho quốc gia. Không chỉ dừng ở đó, chúng ta cũng phải sớm hình thành nên các liên hiệp sản xuất, phân công chuyên môn hoá sâu và bố trí phân tán. Bằng cách phát triển nhiều công ty vừa và nhỏ dưới hình thức công ty cổ phần, bố trí phân tán và chế tạo linh kiện theo tiêu chuẩn thống nhất (mô hình Nhật Bản). Lấy việc phát triển các chi tiết nhỏ này làm vệ tinh cung cấp bán thành phẩm cho một số doanh nghiệp có qui mô lớn lắp ráp, hoàn tất sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu xuất khẩu.
+ Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Nhà nước ta phải tích cực hoàn thiện dần môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, tạo các điều kiện về kinh tế kỹ thuật thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất điều đó cũng có nghĩa là tạo một mặt bằng về cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc vận chuyển và tiêu thụ hàng hoá, thiết lập môi trường thuận lợi bằng cách phát triển các khu chế xuất, các khu công nghiệp kỹ thuật cao,... Tạo môi trường thông thoáng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đó là mong muốn của các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Việc Việt Nam xây dựng thị trường chứng khoán song mới chỉ cho phép các doanh nghiệp trong nước tham gia đó là một bất cập đối với các đối tác nước ngoài. Chúng ta chủ trương “Bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế” song đó lại là trở ngại đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tại sao chúng ta lại không khai thác sự linh hoạt và nhạy bén của các đơn vị kinh doanh nước ngoài, đó phải chăng là một sự thiếu xót, khiến chúng ta cần khắc phục.
+ Ngoài ra vấn đề về thị trường tài chính: cũng khiến chúng ta đáng phải quan tâm, trong những năm vừa qua thủ tục hành chính trong việc vay vốn đầu tư còn quá nhiều phiền hà gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh không nắm bắt kịp thời cơ trong quá trình hoạt động, một phần nguyên do là thiếu vốn. Mặc dù chúng ta biết rằng, đối với các tổ chức tài chính ở Việt Nam phải cho vay với sự chấp nhận rủi ro là quá cao. ở nước ta tỉ lệ: để có thể chấp nhận cho vay là 20 và đối với các doanh nghiệp có = 5 thì đã là quá lý tưởng, trong khi đó ở các nước phát triển thì = 1/2 thì mới được phép vay. Đó là một bất lợi đối với các tổ chức tài chính ở Việt Nam, song thiết nghĩ không vì thế mà chúng ta gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh trong điều kiện hiện tại,... Song, không chỉ dừng ở đó, việc đào tạo công nhân lành nghề cũng là yêu cầu bức xúc đối với nước ta, bởi lẽ để có được sản phẩm chất lượng cao thì phải có máy móc thiết bị hiện đại và muốn sử dụng được những máy móc này thì lại đòi hỏi người công nhân phải có những hiểu biết nhất định về các loại máy móc này. Đào tạo cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân lành nghề cũng là đòi hỏi đối với các nhà quản lý Việt Nam, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, thì để đảm bảo phát triển tỉ lệ: cán bộ quản lý - kỹ sư - và công nhân lành nghề phải tương ứng: 1: 4 : 20, song thực tế ở Việt Nam tỉ lệ này lại là: 1 : 6 : 8, chính điều này đã dẫn đến một thực tế hiện nay ở Việt Nam là thừa thầy, thiếu thợ, vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải có kế hoạch đào tạo lực lượng này sao cho phù hợp.
3.1.3. Giải pháp tạo nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định cho hoạt động sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
+ Đối với các loại nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản: Đây là những mặt hàng gây khó khăn cho người sản xuất, đứng trước một thực tế là hầu hết tại các vùng địa phương trên cả nước, việc người nông dân chỉ biết sản xuất đó là một thực tế, có khi sản xuất ra rồi sau đó không được tiêu thụ hoặc được tiêu thụ song với giá bán rất rẻ gây khó khăn cho người sản xuất, hơn thế nữa do đặc tính kỹ thuật của loại sản phẩm này là theo mùa vụ, khâu bảo quản của chúng ta lại yếu kém gây sự lãng phí lớn trong sản xuất, khi sản xuất vào mùa vụ thì khâu chế biến lại không đáp ứng được khả năng sản xuất và khi trái vụ lại không có nguyên liệu để chế biến, đó là một bức xúc đối với Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, Nhà nước phải có kế hoạch hỗ trợ vốn và kỹ thuật để cho nông dân và các doanh nghiệp địa phương phát triển sản xuất, thu hoạch và bảo quản nông, lâm, thuỷ sản theo các phương pháp tiên tiến, đảm bảo tốt về chất lượng sản phẩm; mặt khác, tìm cách xây dựng và thiết lập các vệ tinh sơ chế nguyên liệu tại địa phương,...
+ Đối với hoạt động chế tạo bán thành phẩm: (như sản xuất phụ liệu cho các ngành may công nghiệp, sản xuất giầy thể thao, đúc phôi cơ khí,...). Trong thời gian vừa qua các khâu này của chúng ta còn quá yếu kém, ta phải tìm cách khắc phục vấn đề này, mà giải pháp cơ bản và thích ứng nhất là kêu gọi đầu tư nước ngoài bằng cách khuyến khích đầu tư, kể cả đầu tư 100% vốn nước ngoài, sản xuất các loại phụ kiện, bao bì, linh kiện điện tử,... để cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. Đồng thời trực tiếp xuất khẩu các loại sản phẩm trung gian này. Hoặc, khuyến khích các nhà đầu tư trong những lĩnh vực dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm, cơ khí chế tạo, ô tô xe máy, sản xuất hàng điện tử, công nghiệp tin học,... tăng qui mô đầu tư để xây dựng thêm các nhà máy sản xuất bán thành phẩm trong nội bộ từng đơn vị.
3.1.4. Nâng cao qui cách chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Cùng với việc đầu tư phát triển, sản xuất công nghiệp hiện đại hoá máy móc và tiếp tục đầu tư trong quá trình sản xuất là quá trình thực hành đa dạng hoá sản phẩm, qui cách (mẫu mã, bao bì) và chất lượng hàng hoá. Thiết nghĩ, Nhà nước cũng đồng thời phải đổi mới trên giác độ quản lý Nhà nước:
+ Thể chế hoá việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá: Bắt buộc các doanh nghiệp sản xuất phải sử dụng nhãn hiệu thống nhất của mình để tham gia xuất khẩu các mặt hàng, chấm dứt tình trạng xuất khẩu sản phẩm không có nhãn hiệu. Thực hành nghiên túc luật bản quyền sở hữu công nghiệp.
+ Bổ sung qui chế kiểm tra chất lượng chặt chẽ hơn: Trong đó qui định các chế tài nghiêm ngặt, thực hiện nghiêm khắc trong việc xuất khẩu sản phẩm công nghiệp phù hợp với yêu cầu quốc tế, đặc biệt tích cực hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, ISO 14200,...).
3.2. Vấn đề kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Mục đích của sự kết hợp này là tích cực nâng cao về số lượng và chất lượng hàng hoá để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh của thị trường nội địa. Từ đó đảm bảo vững chắc sự phát triển của thị trường nội địa trong việc cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu ngày càng gay gắt trong tiến trình hội nhập AFTA và WTO trong thời gian tới: một thực tế đối với thị trường nội địa của chúng ta trong thời gian vừa qua là chúng ta đã nhập khẩu tràn lan các mặt hàng trong nước thực tế sản xuất rất tốt. Và chính điều đó đã gây cản trở cho việc khuyến khích đầu tư, có những dự án nước ngoài đã có giấy phép nhưng sau đó lại rút lui (như dự án đầu tư sản xuất ô tô của hãng Chryler) hoặc ngành công nghiệp tin học còn mới mẻ với chúng ta (Thuế đánh vào máy vi tính sản xuất nội địa cao hơn thuế nhập khẩu nguyên chiếc)... Đó là những điều mà chúng ta cần thiết cải tổ trong những năm chiến lược tới.
3.3. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu bằng việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại.
+ Đối với các doanh nghiệp: Nâng cao tính chủ động trong việc nghiên cứu, tiếp thị trên phạm vi thế giới trực tiếp tham gia các phiên đấu thầu quốc tế để giành hợp đồng xuất khẩu sản phẩm trong dài hạn.
+ Đối với các đơn vị, cơ quan chức năng, xúc tiến thương mại: Tích cực tham gia phối hợp hoạt động, duy trì thường xuyên các hoạt động triển lãm hội trợ quốc tế các hội nghị xúc tiến thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ thiết thực cho hoạt động xuất - nhập khẩu của các doanh nghiệp.
+ Về phía Chính phủ: Phải tích cực tăng cường, ký kết các hiệp định thương mại, hợp đồng trao đổi hàng hoá liên Chính phủ để phân bổ lại cho các doanh nghiệp thực hiện.
3.4. Tiếp cận với các khu vực thị trường xuất nhập khẩu cơ bản.
Trên cơ sở hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua đã thiết lập được các mối quan hệ thị trường cơ bản và đạt được những thành tựu quan trọng trong những năm vừa qua, đặc biệt là năm 1999 và 2000 vừa qua. Trên cơ sở tiền đề như vậy, song việc khai thác các thị trường này trong tương lai có thành công hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan và đường lối trong quan hệ đối ngoại của nước ta trong thời gian tới. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ xin nêu một vài nét về quan hệ thị trường giữa Việt Nam với thế giới đối với các khu vực thế giới nhất định:
+ Khu vực Châu á: Ta có thể khẳng định rằng đây là thị trường ổn định và đứng đầu trong quan hệ ngoại thương của Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên năm 1999 vừa qua tỉ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này chiếm gần 59% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đáng chú ý là xuất khẩu sang các nước Hàn Quốc - Thái Lan - Trung Quốc, Malaixia, Lào, Nhật Bản và Philipin tăng trung bình 18 - 35%,... Nhằm khai thác có hiệu quả thị trường này trong thời gian tới thiết nghĩ chúng ta phải có đối sách cụ thể cho từng thị trường nhỏ trong khối này: chẳng hạn, đối với thị trường ASEAN chúng ta nên xuất khẩu những mặt hàng như: gạo, nông sản thực phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp nhẹ, hoá mỹ phẩm, dược phẩm, hàng tiểu thủ công nghiệp, hàng điện tử gia dụng, ô tô, xe máy, hàng điện tử tin học. Và nhập khẩu: nguyên liệu chế biến thực phẩm, vật tư và nguyên liệu dùng trong công nghiệp nhẹ, chất bán dẫn, vật tư nông nghiệp. Từ việc xác định cơ cấu mặt hàng xuất khẩu này chúng ta đề ra các biện pháp tiếp cận như:
đ Đối với cấp Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tuân thủ đúng hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và các qui định khác của AFTA, APEC.
đ Tăng cường buôn bán trong phạm vi khu vực.
đ Thiết lập năm phòng đại diện, chi nhánh ở các địa điểm trung tâm (như Singapore, Jakata,...) để giao dịch trực tiếp với khách hàng, loại trừ những tình trạng mua bán trung gian.
....
Đối với việc tiếp cận thị trường Nhật Bản. Chúng ta phải nói rằng đây là một “thị trường khó tính” tại đây nó đòi hỏi sản phẩm mang chất lượng cao và bảo đảm an toàn. Trong những năm qua và những năm tới thì Nhật Bản tiếp tục tham gia nhập khẩu các mặt hàng như: gạo, thuỷ hải sản sống, đông lạnh và chế biến, nông sản thực phẩm chế biến, rau quả, trái cây tươi và đóng hộp, hàng may mặc, dệt kim, giầy dép, hàng mỹ nghệ, hàng điện tử xe hơi và chính chúng ta nên tham gia nhập khẩu công nghệ, máy móc công cụ, thiết bị toàn bộ cho công nghiệp chế biến, thiết bị chính xác, nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng cao cấp,... Có được những định hướng này và thực hiện chúng có hiệu quả Chính phủ phải khai thông các hoạt động thương mại trên nguyên tắc hoạt động của tổ chức APEC (mà Việt Nam và Nhật Bản là thành viên) để hỗ trợ cho các hoạt động của các doanh nghiệp; không chỉ dừng ở đó chúng ta phải tích cực mua công nghệ chế biến thực phẩm và cử cán bộ kỹ thuật học hỏi từ bản quốc để nắm vững kỹ thuật chế biến thực phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn của thị trường này. Tham gia hợp tác với các công ty bán lẻ ở Nhật nhằm cung cấp hàng hoá cuối cùng ở đây; khuyến khích các nhà sản xuất Nhật Bản tái nhập hàng điện tử và xe hơi lắp ráp ở Việt Nam để phân phối ở Nhật và xuất khẩu sang nước thứ 3,...
+ Khu vực Châu âu: Trong năm 1999, thị trường Châu Âu với kim ngạch chiếm 27% cũng đạt tốc độ tăng trưởng 18% riêng các nước liên hiệp Châu Âu (EU) chiếm 23% tổng số tăng 25%,... Như vậy thành công bước đầu đối với việc thâm nhập thị trường này cũng có mục đích khuyến khích, động viên sản xuất ở nước ta. Đề ra cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, khai thác triệt để lợi thế thị trường này đem lại là đòi hỏi với Việt Nam trong thời gian tới. Không phải ngẫu nhiên Nhật Bản và nước ta dành cho nhau tối huệ quốc và EU công nhận 18 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản vào nhóm I và tăng Quata hàng dệt của Việt Nam, điều này đã đánh dấu xu hướng ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Khai thác lợi thế đó, thiết nghĩ Việt Nam nên thành lập hệ thống văn phòng đại diện và chi nhánh rộng khắp các nước Tây Âu để giao dịch trực tiếp, loại trừ mua bán trung gian của Hồng Kông và Sinapore. Tìm cách phân phối và bán sản phẩm cho tiêu dùng cuối cùng ở Tây Âu. Đồng thời, khuyến khích các nhà đầu tư Tây Âu tái nhập các mặt hàng công nghiệp đã chế tạo như: xe hơi và hàng điện tử nhằm mục đích phân phối và tái xuất khẩu sang các nước thứ 3 từ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam.
+ Thị trường Mỹ - Bắc Mỹ và Mỹ Latinh tiếp tục được khai thông là cơ hội xuất khẩu lớn.
Đối với thị trường này, để đánh dấu mối quan hệ thương mại là hiệp định thương mại Việt - Mỹ ký ngày 13/7/2000, từ đây mở ra cơ hội lớn cho thị trường xuất khẩu Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên sau 7 năm mở rộng quan hệ thương mại (từ 1993 đến nay) giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đạt được gần 600 triệu USD chiếm 5% kim ngạch xuất khẩu ngoài Mỹ trong khu vực này thì Canađa cũng là thị trường tương đối lớn cho xuất khẩu Việt Nam, các mặt hàng chủ yếu mà Canađa nhập vào từ Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung vẫn là: hàng nông sản, thuỷ sản, giày dép, hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ,... Dự kiến trong thời gian tới từ 2001 - 2010 xuất khẩu Việt Nam vào Canađa tăng bình quân 20%/năm. Cũng vậy, thị trường Mỹ Latinh có khả năng nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 120 triệu USD/năm, mà chúng ta dự kiến trong thời gian 2001 - 2005 sẽ tăng khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào thời kỳ này bình quân 20%/năm.
+ Thị trường Đông âu, Nga và các nước SNG: là thị trường truyền thống của Việt Nam. Có thể nói rằng đây là thị trường ngoài khu vực thuận lợi nhất cho xuất khẩu của Việt Nam bởi lẽ đây là thị trường khá dễ dãi chưa áp đặt Quota hạn chế nhập khẩu đối với Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới dự kiến mức tăng trưởng thương mại với Nga và các nước SNG về hợp tác dầu khí và năng lượng tăng bình quân 10 - 15%/năm và đối với Đông Âu là 10 - 12%/năm.
+ Thị trường Trung Đông và Tây Nam á:
Đây là một thị trường mới đối với Việt Nam, tương đối rộng lớn, có nhu cầu đa dạng về hàng tiêu dùng và nguyên liệu sản xuất. Đối với một số nước có nhu cầu nhập khẩu tương đối cao như: Iran có nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam từ 100.000 - 300.000 tấn/năm, cùng với cao su, gia vị, hàng dệt may. Nigreria có nhu cầu nhập khẩu gạo 50.000 - 100.000 tấn/năm, 50.000 tấn cà phê, 3.000 tấn chè, gia vị,... Đối với thị trường này chúng ta dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ta trong thời gian tới khoảng 5-7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Như vậy, trong giai đoạn tới 2001 - 2005, chúng ta cố gắng phấn đấu đạt được những mục tiêu đề ra trong xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với từng thị trường cụ thể đã vạch ra ở trên.
.
3. Những kiến nghị với Chính phủ về việc cải tiến cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu.
* Đề nghị các cơ quan Nhà nước đơn giản hoá hơn nữa các thủ tục quản lý xuất nhập khẩu và hướng dẫn cho các doanh nghiệp nắm vững thủ tục, tránh được những vướng mắc phiền hà không đáng có bằng một số biện pháp:
+ Tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất, nhập khẩu trực tiếp theo tinh thần Nghị định 57/1998/NĐ-CP. Đồng thời rà soát, hiệu chỉnh và giảm bớt các qui định rườm rà, đơn giản hoá thủ tục kê khai và nộp thuế hải quan rút ngắn thời gian thông giao hàng hoá.
+ Phổ biến đầy đủ những thủ tục bắt buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ trong quan hệ giao dịch với các tổ chức thương mại quốc tế mà nước ta có tham gia (AFTA, APEC, WTO).
* Biện pháp hiệu chỉnh thuế quan.
Có thể nói đây là biện pháp quan trọng nhất tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất, nhập khẩu nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt Nam, thiết nghĩ, chúng ta nên áp dụng mức thuế suất cao để giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu: bảo hộ sản phẩm nội địa để thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước vào các lĩnh vực có bảo hộ, kích thích các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh và tăng khả năng xuất khẩu của hàng công nghiệp; Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Để làm được như vậy, Chính phủ nên thay vì sử dụng mức thuế suất thường xuyên thay đổi bằng mức thuế ổn định để các doanh nghiệp an tâm khi tính toán các quyết định đầu tư. Thiết lập biểu thuế suất chi tiết đối với cả hàng hoá xuất và nhập khẩu.
* Về vấn đề điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan.
+ Trong việc quản lý đầu mối xuất nhập khẩu: Chúng ta không nên mở rộng đầu mối xuất nhập khẩu tràn lan mà gom lại thành những nhóm hàng có từ 10 - 15 mặt hàng.
+ Đối với việc quản lý và phân bố hạn ngạch xuất - nhập khẩu (phân phối Quota). Chúng ta nhất thiết phải xoá bỏ cơ chế “xin - cho” để loại trừ tình trạng tranh giành nhau đặc quyền, đặc lợi cục bộ địa phương mà quên đi tính toàn cục. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, chúng ta nhất thiết nâng dần mức hạn ngạch hàng năm của các mặt hàng do phía ta qui định hạn ngạch. Đối với hạn ngạch do trong nước qui định thì hàng năm Chính phủ nên giành ra một tỉ lệ nhất định phân bố trước cho các đơn vị đầu mối, số hạn ngạch còn lại đem đấu thầu công khai cho mọi thành phần kinh tế. Còn với hạn ngạch do nước ngoài ấn định thì tiến hành đấu thầu toàn bộ.
* Về nguyên tắc phân bố hạn ngạch, chúng ta phải lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn hàng đầu, chứ không phân bổ bình quân cho các địa phương như hiện nay.
* Về biện pháp điều chỉnh tỉ giá hối đoái.
Để tránh sinh ra nhu cầu giả tạo về ngoại tệ, làm tăng tệ nạn đầu cơ ngoại tệ, gây suy giảm động lực xuất khẩu. Thay vì việc áp dụng hình thức tỉ giá hối định chúng ta áp dụng tỉ giá hối đoái linh hoạt có sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương nhằm duy trì mức dao động tỉ giá trong biên độ nhỏ, tránh những cú xốc lớn và đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể dự kiến được mức độ rủi ro về tỉ giá trong các hợp đồng thương mại và tài chính. Và muốn vậy Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện bằng hai cách:
1. Tạo ra sự dịch chuyển hợp lý giữa tiền gửi bằng nội tệ và bằng ngoại tệ theo qui luật cung cầu trên thị trường tiền tệ.
2. Ngân hàng nhất thiết phải tham gia thị trường hối đoái với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để kích thích tái lập sự cân bằng khi thị trường tiền tệ không đạt sự cân bằng cần thiết.
Theo Ngân hàng dự trữ liên bang của Mỹ thì để tạo sự dịch chuyển hợp lý giữa tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ họ áp dụng nguyên tắc:
REVND = REUSD
REVND : Lãi suất tiền gửi dự kiến bằng đồng Việt Nam của Ngân hàng thương mại.
REUSD : Lãi suất tiền gửi dự kiến bằng Dollar của Ngân hàng thương mại.
Vận dụng tính qui luật của thị trường tiền tệ, thông qua cơ chế điều chỉnh lãi suất tiền gửi linh hoạt để tác động điều chỉnh tỉ giá hối đoái.
* Trường hợp tăng lãi suất tiền gửi bằng VNĐ.
E1
E0
Tỉ giá
RVNĐ
R’VNĐ
RUSD
Lãi suất
RVNĐ : Lãi suất VNĐ
R’VNĐ : Lãi suất VNĐ đã điều chỉnh
RUSD : Lãi suất USD
E0 : Tỉ giá VNĐ/USD
E1 : Tỉ giá VNĐ/USD đã điều chỉnh
Như vậy, khi tăng lãi suất bằng VNĐ thì RVNĐ dịch về bên phải thành R’VNĐ và E0 chuyển lên E1, tỉ giá giữa VNĐ/USD tăng.
* Trường hợp tăng lãi suất tiền gửi bằng USD.
RVNĐ : Lãi suất VNĐ
RUSD : Lãi suất USD
R’USD : Lãi suất USD đã điều chỉnh
E0 : Tỉ giá VNĐ/USD ban đầu
E2 : Tỉ giá VNĐ/USD đã điều chỉnh
E0
E2
Tỉ giá
RVNĐ
R’USD
RUSD
Lãi suất
Như vậy nếu tăng lãi suất tiền gửi bằng USD thì tỉ giá VNĐ/USD giảm.
Trên cơ sở điều chỉnh mức tỉ giá hối đoái, chúng ta sẽ xây dựng nên một tỉ giá hối đoái thực ổn định nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tỉ giá thực = Tỉ giá danh nghĩa x
CPI: Chỉ số lạm phát
Ngoài các biện pháp trên, thiết nghĩ Chính phủ nên tạo nên một động lực mới cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu bằng các hình thức khác như: thành lập giữa hỗ trợ xuất khẩu, tăng cường hoạt động môi giới trong xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp tham gia quá trình xuất và nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán hàng xuất khẩu đối với các doanh nghiệp tiềm năng còn khó khăn về tài chính, đồng thời tăng cường cung cấp tín dụng xuất khẩu.
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, Chính phủ nên tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động xuất - nhập khẩu: Mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động của các hệ thống cảng đáp ứng được khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn. Đầu tư phát triển dịch vụ hoàn tất sản phẩm xuất nhập khẩu ngay tại cảng; khuyến khích các đơn vị dịch vụ đầu tư phát triển hệ thống kho tàng; phát triển dịch vụ vận tải hàn hoá; phát triển dịch vụ bảo hiểm đường biển, đồng thời khuyến khích các hoạt động có liên quan khác: thông tin liên lạc viễn thông, kiểm toán, giám định hàng hoá,...
Đó là tất cả những gì tôi nghĩ Chính phủ nên áp dụng trong quá trình thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương nước nhà phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế.
Kết luận
Như vậy, Ngoại thương đóng một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngoại thương phát triển là tiền đề cho sự phát triển của các ngành sản xuất, bởi lẽ khi ngoại thương phát triển sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn cho sản phẩm của quốc gia. Sản phẩm sản xuất ra sẽ có nhiều cơ hội xâm nhập thị trường thế giới, vùng chu chuyển của sản phẩm được rút ngắn, mức cơ động của các yếu tố sản xuất cao,... Từ đó tạo điều kiện cho việc phát triển của các ngành riêng lẻ trong nền kinh tế. Từ đó xác định một cơ cấu kinh tế trong điều kiện thị trường mở phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập của thế giới. Song để có một chính sách ngoại thương phù hợp thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế một cách tích cực, thiết nghĩ mỗi quốc gia phải tự hoà mình vào các tổ chức quốc tế vì một thế giới hoà bình và ổn định, từ đó thúc đẩy mối quan hệ giao thương với các nước lân bang tạo điều kiện và cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước giới thiệu sản phẩm của mình với thế giới, thúc đẩy sự phát triển của mỗi doanh nghiệp từ đó đưa nền kinh tế tiến những bước tiến quan trọng. Hội nhập từ đó tạo điều kiện cho việc xúc tiến những ưu đãi thuế quan từ đó giảm giá thành chung của hàng hoá, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ngoại thương góp phần vào việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở thực tế và tiềm năng của ngành trong sản xuất. Với sự tác động của sức mua trên thị trường từ đó thúc đẩy các ngành sản xuất. Bởi lẽ “ngoại thương thúc đẩy thị trường và thị trường quyết định sản xuất”. Việc phát triển các ngành kinh tế giúp xác định một cơ cấu kinh tế phù hợp với tiềm năng và khả năng sản xuất của mỗi ngành. Cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó làm tiền đề cho việc phát triển của nền kinh tế với sự đóng góp hợp lý của các ngành trong giá trị sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế hợp lý, cũng có nghĩa chúng ta nhìn nhận vai trò của từng ngành, từng lĩnh vực đóng góp trong việc tạo ra thu nhập như thế nào. Góp phần vào việc định hướng những cơ sở tiền đề cho sự phát triển.
Không chỉ dừng ở đó, phát triển ngoại thương ngoài việc giúp xác định một cơ cấu hợp lý, mà còn giúp cho các nhà hoạch định chiến lược xem xét vai trò của từng ngành trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển riêng của mỗi ngành sản xuất mà còn tạo ra sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các ngành trong cùng một nền kinh tế. Sản phẩm của ngành này làm đầu vào cho các ngành khác sẽ tạo lập một nền tảng cho việc phát triển các ngành trọng điểm, ngành bổ trợ và các ngành hậu cần tại chỗ. Các ngành liên hệ càng chặt chẽ sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội càng chi tiết,... Và ngoại thương góp một vai trò không nhỏ trong sự phát triển của một quốc gia ./.
tài liệu tham khảo
1. Tạp chí “Con số và sự kiện”.
Số 1,2/2000 ; Số 5/2000 ; Số 6/2000
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập quốc tế ở Việt Nam - Viện nghiên cứu kinh tế - Lê Du Phong - NXB Chính trị Quốc gia - 2000.
3. Dự báo phát triển kinh tế - xã hội - Vũ Kim Sơn - NXB Khoa học kỹ thuật - 1999.
4. Dự thảo kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 - Bộ Kế hoạch & Đầu tư - 2000
5. Định hướng phát triển ngoại thương thành phố - Hồ Chí Minh - Lê Thị Ngọc Huyền - NXB Thống kê - 2000.
6. Tạp chí “Hoạt động khoa học” số 5/2000.
7. Giáo trình “Kinh tế phát triển - Tập I” - Khoa Kinh tế phát triển - ĐH KTQD - 1999
8. Tạp chí “Kinh tế thế giới” 98 - 99 và 99 - 2000.
9. Tạp chí “Nghiên cứu kinh tế” số 1, 4, 5, 7, 8/2000
10. Giáo trình “Kinh tế ngoại thương” - Bùi Xuân Lưu - NXB Khoa học giáo dục 1997.
11. Quan hệ thương mại Việt Nam - ASEAN - NXB...
12. Tạp chí “Thời báo tài chính”.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0144.doc