Đi liền với sự ra đời của NHTW thì toàn bộ việc phát hành tiền được tập trung vào Ngân Hàng Trung Ương theo chế độ nhà nước độc quyền phát hành tiền và nó trở thành trung tâm phát hành tiền của cả nước.Toàn bộ tiền mặt pháp định đều do NHTW phát hành theo chế độ độc quyền phát hành tiền của nhà nước.Tiền này có hiệu lực sử dụng bắt buộc trong toàn quốc gia như là phương tiện trao đổi.Vì tiền mặt được xem là loại tiền mạnh nhất trong hệ thống tiền tệ,hơn nữa,thông qua nó tiền gửi có kì hạn và không kì hạn được hình thành,cho nên hoạt động cung ứng tiền của NHTW tác động một cách trực tiếp đến độ tăng, giảm của tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế,qua đó ảnh hưởng đến cả sản xuất và tiêu dùng.
42 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỉ lệ thất nghiệp tăng. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với mức tỉ lệ thất nghiệp bằng không mà ở mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Trong thực tế, một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế, đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đi tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình đẻ theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch...và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị trường lao động, họ sẽ mất thời gian để tìm được công việc như ý. Mặt khác, thông thường để có một tỉ lệ thất nghiệp thấp thì phải chấp nhận một tỉ lệ lạm phát gia tăng nhất định, hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ.
Tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến 2 mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp se cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Quan hệ giữa các mục tiêu: Nhìn tổng quát, thì các mục tiêu của chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điêu đó cho thấy, trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lân nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất đó là sự mâu thuẫn giữa tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy, vận hành chính sách tiền tệ, để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trước hết, phải phối hợp với chinh sách tài khóa trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Vì mục tiêu của chính sách tài khóa là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Song điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở cho quan trọng bậc nhất cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước, bất kể được bù đắp bằng con đường nào đều trực tiếp, gián tiếp làm cho đồng tiền mất ổn định. Thông thường chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đều phát huy tác dụng của nó thông qua ảnh hưởng của nó với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường. Trong thực tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đối với các nước kém và đang phát triển, thường bội chi ngân sách nhà nước lớn và kéo dài, cán cân thanh toàn thâm hụt, tăng trưởng kinh tế chưa cao...ở đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trinh thực thi chính sách tiền tệ. Đó phảI là một chính sách kinh tế mở, hướng xuất khẩu, mặt khác phải tranh thủ tối đa trình độ khoa học công nghệ và kĩ thuật và mọi nguồn vốn từ bên ngoài. Trong đó đặc biệt là các quan hệ với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Châu á...
-Nội dung của chính sách tiên tệ: Chính sách tiền tệ là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Do vậy việc xây dựng và thực thi chính sách tài chính tiền tệ phải phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nền kinh tế Quốc Gia cả ở trước mắt và tương lai. Về thực chất, chính sách tiền tệ hướng vào điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng trên 4 lĩnh vực quan trọng nhất: kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, kiểm soát ngoại hối, kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước.
a)Kiếm soát cung ứng tiền tệ và điều hòa lưu thông tiền tệ: Việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kì nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kì đó. Tuy nhiên, khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi chỉ là tiền định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả và tỉ giá hối đoái, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, về mức độ hoạt động thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế...Từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc thiếu phương tiên thanh toán cho nền kinh tế.
b)Kiểm soát hoạt động tín dụng: Khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mai cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu từ 3 nguồn sau: vốn tự có của ngân hàng, vốn huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế, vay tái cấp vốn tại NHTW. Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng tiên tệ, NHTW sẽ sử dụng một số công cụ như lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở...Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, NHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có dự tính đến tỉ lệ lạm phát. Hoạt động tín dụng này chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực sự có nhu cầu. Khi các ngân hàng thương mại thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin vay táI cấp vốn. NHTW luôn đóng vai trò là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với hệ thống ngân hàng thương mại, nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, kiểm soát các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
c)Kiểm soát ngoại hối: Ngoại hối bao gồm ngoại tệ(thường là các ngoại tệ mạnh), vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ tiền tệ khác. Để ổn định giá trị đồng bản tệ, NHTW thực hiện các giao dịch về tài chính - tiền tệ và sử dụng một số chính sách để tác động đến khối lượng tiền tệ trên các phương diện sau:
Xây dựng và quản lí dự trữ ngoại hối của nhà nước nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và bảo toàn dự trữ ngoại hối.
Lập và theo dõi diễn biến cán cân thanh toán quốc tế.
Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế.
ổn định tỉ giá hối đoái để kìm giữ lạm phát, ổn định tỉ giá trong nước.
Quan hệ với các NHTW khác, với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế... nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối.
Tổ chức quản lí nợ nước ngoài.
d)Chính sách với Ngân sách Nhà Nước: Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn,chính sách tiền tệ cần xử lí mối quan hệ của nó với chính sách tài khóa, trước hết là chính sách thu chi ngân sách. Cách xử sự của chính sách tiền tệ với ngân sách tùy thuộc vào tình trạng cán cân ngân sách có cân bằng không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế nào vào lưu thông tiền tệ.
Trường hợp ngân sách thăng bằng: Khi chính phủ thu ngân sách có nghĩa là đã lấy ra khỏi lưu thông một số lượng tiền tệ và song song với việc đó là chính phủ chi số tiền đó vào nền kinh tế. Khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi vì nó được tăng giảm với một lượng như nhau. Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi chính phủ dùng số tiền thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại tăng lên. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư tư nhân giảm đi nhưng tổng đầu tư chung không thay đổi. Cần lưu ý 2 trường hợp sau:
Chính sách tiền tệ chống suy thoái: Ngân sách thăng bằng, có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ.
Chính sách tiền tệ chống lạm phát: Ngân sách thăng bằng, vẫn có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá.
Cho nên, ngay trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu thu và chi ngân sách không cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục bộ trong quan hệ tiên - hàng.
Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Lúc này, chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách.Tác động của nó thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào chính phủ vay ở đâu. Có 4 nguồn chỉnh phủ có thể vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách: vay dân cư, vay nước ngoài, vay hệ thống tín dụng và tài chính trong nước, vay NHTW. Trường hợp vay NHTW thì tiền sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế. Khi chính phủ vay nước ngoài, thường là bằng vàng hoặc ngoại tệ thì phải kí quỹ số vay được tại NHTW để rút tiền mặt ra chi tiêu, làm khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên. Như vậy, cả hai trường hợp đều làm tăng khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Do vậy, cách tốt nhất là phấn đấu một ngân sách thăng bằng,không nên bội chi để bù đắp chi phí hành chính tối thiểu mà ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Chi cho đầu tư, nếu thiếu thì phải tài trợ bằng cách phát hành tráI phiếu chính phủ để vay nhân dân, các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ(ngắn hạn) và thị trường vốn( dài hạn).
Trường hợp ngân sách thặng dư: Đây là trường hợp rất đặc biệt vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
CHƯƠNG 2: CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tế của nền kinh tế, NHTW sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là NHTW sẽ thực hiện việc đưa tiền vào lưu thông hay rút tiền từ lưu thông về nếu lượng tiền trong lưu thông là thiếu hay dư thừa. Các công cụ mà NHTW thường hay sử dụng là: Tái cấp vốn, Lãi suất, Tỉ giá hối đoái, Dự trữ bắt buộc, Nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác.
2.1 Công cụ tái cấp vốn:
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt, NHTW tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ nay được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác ( trong đó có Việt Nam) , hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM được thực hiện không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, thí dụ:
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn.
Cho vay trong thanh toán bù trừ
Cho vay theo hình thức chỉ định.
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
2.1.1 Cơ chế tác động:
Với công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông.
Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các nhtm đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, Lúc này, một mạt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay.
Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM, cụ thể : khi NHTW tăng tổng hạn mức tái cấp vốn, điều đó có nghĩa là các NHTM có thể được vay ở NHTW nhiều hơn. Điều này sẽ làm tăng vốn khả dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Những tác động trên sẽ hoàn toàn ngược lại nếu NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn xuống.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trường kinh tế. đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì với số tiền NHTW cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
Nhược điểm :
NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng NHTM lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được.
2.2 Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lương phương tiện thanh toán vần vo hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và cho vay của các NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn ( NHTM đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại , nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM( bành trướng khối tiền tệ).
2.2.1 Cơ chế tác động
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM.
Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong toả , cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM.
Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc ( dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM.
Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng , giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng.
Công cụ này được áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ(1913) Nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống NHTM, để các NHTM này có thể thoả mãn nhu cầu rút tiền mặt từ các khoản tiền gửi. Dự trữ bắt buộc nhanh chóng được áp dụng với vai trò là một công cụ của chính sách tiền tệ. Sau đó nhiều nước khác như Đức , Anh, Pháp... cũng áp dụng công cụ này vì tính hiệu quả của nó. Việt Nam sử dụng công cụ này từ năm 1992.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc NHNN quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Theo Luật NHNN, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
2.2.2 Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW.
Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữ các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM giúp NHTM tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Nhược điểm:
Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hang đó khó khăn hơn.
2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn ( Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi...) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ , cụ thể:
Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ, Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu thế kỷ 20. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ nhiều quốc gia.
2.3.1 Cơ chế tác động
a)Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Hành vi mua, bán các loại chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có khả năng ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi NHTW bán chứng khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng (giả thiết các yếu tố khác không đổi), dù người mua là ngân hàng thương mại hay khách hàng của nó, khi tiền thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Nếu người mua là khách hàng của ngân hàng thương mại thì số dư tiền gửi của người đó sẽ giảm. Sự giảm về dự trữ sẽ dẫn đến sự giảm về khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và đồng thời cũng làm giảm khối lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo lường bằng số nhân tiền. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
b) NVTTM tác động vào lãi suất thị trường
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW co ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất: Khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng, nó có tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Từ chỗ cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền Ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD nền kinh tế sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lẹ sinh lời của chúng cũng thay đổi.Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trong lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường ,tổng cầu AD và sản lượng.
2.3.2 Ưu, nhược điểm
Công cụ nghiệp vụ thị trường mơ đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ:
- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào,NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết đinh sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sử chữa ngay được bằng cách tiến hanh nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
2.4 Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng , giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại , có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trường , chính sách và giải pháp cụ thê cua NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
2.4.1 Cơ chế tác động
a)Cơ chế điều hành gián tiếp: thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quan lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoan cho vay tái chít khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thẻ theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sơ cung cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ ngân hàng . Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở lên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, NHTW Châu Âu, lãi suất tiền gửi liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ...
b)Cơ chế điều hành trực tiếp:
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế , như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất , trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch loã suất bình quân... Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tề vĩ mô, NHTw có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở cá nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
c)Các mức lãi suất thường được công bố:
Một là , đối với các hoạt động liên quan đến vai trò NHTW, các mức lãi suất phổ biến được công bố và nền kinh tế quan tâm là lãi suất chiết khấu ( như ở Mỹ, Nhật, Đức ..) lãi suất Repo(như ở Đức , Anh,...) hoặc lãi suất can thiệp (Pháp)
Các mức lãi suất được hình thành trên thị trường tiền tệ như lãi suất tiền gửi liên bang ( Mỹ) , lãi suất cho vay qua đêm cũng được áp dụng ở các nước nói trên.
Hai là các mức lãi suất của NHTM áp dụng đối với nền kinh tế mang tính quản lý trực tiếp của NHTW như khung lãi suất ,trần lãi suất, lãi suất tiền gửi tối thiểu, chênh lệch lãi suất bình quân được thực hiện ở các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam...
Ba là , các mức lãi suất thị trường mang tính tham khảo như: lãi suất liên ngân hàng thị trường Singapore(SIBOR), lãi suất liên ngân hàng thi trường London(LIBOR)v.v. Ngoài các mức lãi suất này ra, một số nước còn công bố mức lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến của các NHTM hàng đầu( lãi suất cơ bản của VN).
Bốn là , lãi suất thường được công bó theo năm, các mức lãi suất đối với từng kỳ hạn cụ thể theo tháng, ngày... được xác định trên cơ sở lãi suất năm.
2.5 Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM tôn trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mực dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó, trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể cà nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
2.5.1 Cơ chế tác động
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng , NHTW nhằm điếu chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng, NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
2.5.2 Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế có một số bất lợi sau:
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn bị giới hạn, không thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM. Bởi vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa nếu không sẽ gây đọng vốn và sẽ thiệt hại cho ngân hàng.
- HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế.
- Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dung được cấp ra nho hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Bởi những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các NH không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ cho chúng. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của NHTW. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khỏi hạn mức đó.
- HMTD gây khó khăn cho các DN nhỏ, vì trước hết các NHTM thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay, nếu còn mới cho các doanh nghiệp nhỏ vay.
- Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao, nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng . Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quá do thị trường tiền tệ chưa phát triển , hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ HMTD là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên, nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt.
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1 Những đổi mới về điều hành chính sách tiền tệ
3.1.1 Mục tiêu
Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc xây dựng chính sách tiền tệ. Trước hết việc xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ đã phù hợp đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà Nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Thực tế cho thấy sự ổn định của tiền tệ, ổn định của hệ thống tài chính là điều kiện hàng đầu cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam trước những năm 1990 đã nằm trong tình trạng lạm phát gia tăng với tốc độ phi mã. Đồng tiền Việt Nam mất giá trầm trọng, nền kinh tế suy thoái. Thêm vào đó, sự sụp đổ của hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng và giá trị của đồng Việt Nam. Đó chính là lí do giải thích cho việc lựa chọn các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ. Đồng thời, chính việc lựa chọn mục tiêu cho việc điều hành chính sách tiền tệ là bằng chứng cho sự hòa nhịp của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.1.2 Điều hành và quyết định chính sách tiền tệ quốc gia
-Điều hành: Nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ đã lựa chọn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHNN là quản lí và điều hành khối lượng tiền cung ứng. Đối với Việt Nam, việc quản lí, vận hành cơ chế cung ứng tiền, điều hành kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới từng bước theo nội dung va nguyên tắc khác với cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong thời kì bao cấp, chỉ tiêu phát hành tiền do Chính phủ quy định và thường xuyên được dùng bù đắp cho thiếu hụt chi tiêu của Chính Phủ. Do đó tổng mức cung ứng tiền vượt quá tổng cầu trong nền kinh tế dẫn đến vốn xoáy lạm phát giá - lương - tiền. Việc không kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng thông qua kênh tín dụng, chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thấp làm cho nhu cầu tiền mặt lớn, gây khó khăn cho NHNN trong điều hòa tiền mặt. Từ năm 1990, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được chính phủ phê duyệt hàng năm. Do vậy đã cung cấp đủ phương tiện thanh toán hàng năm, đảm bảo sản xuất – lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi lạm phát phi mã. Đặc biệt từ năm 1993, NHNN đã thực hiện quản lí, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức 1 con số.
-Quyết định và thực hiện: NHNN có nhiệm vụ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình chính phủ để chính phủ trình Quốc Hội. Quốc Hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Trên cơ có dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn bởi Quốc Hội, chính phủ tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia, quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kì báo cáo Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội. Để tư vấn cho chính phủ trong việc quyết định các vấn đề thuộc quyền hành về xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, chính phủ thành lập Hội Đồng Tư Vấn Chính Sách Tiền Tệ Quốc Gia gồm: Chủ Tịch là một Phó Thủ Tướng Chính Phủ, Uỷ Viên thường trực là thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, các ủy việc cón lại là Thứ Trưởng Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Thứ Trưởng Bộ Thương Mại, Chủ Tịch Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước, Trưởng Ban Vật Giá Chính Phủ, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thống Kê và một số chuyên gia am hiểu và lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
3.1.3 Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, NHNN Việt Nam thực hiện việc kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và từng bước chuyển từ sử dụng các cộng cụ trực tiếp sang sửu dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thong lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước:
a)Công cụ dự trữ bắt buộc:
Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiên từ năm 1992, kể từ thời điểm đó cho đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Ban đầu, theo quy định của thống đốc NHNN năm 1992 tiền dự trữ bắt buộc được duy trì ở một tài khoản riêng biệt và tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Theo đó, vai trò cảu tỉ lệ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế NHNN trong việc dự báo nhu cầu tăng, giảm dự trữ của các ngân hàng thương mại và vốn của các ngân hàng thương mại không được sử dụng linh hoạt.
Để khắc phục các hạn chế trên, đầu năm 2008 các công cụ này đã được đổi mới như sau: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 11% và trong cơ cấu tiền dự trữ bát buộc có 70% phải gửi tại NHNN và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại NHNN( duy trì hàng ngày). Với những đổi mới này , NHNN có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế theo ngày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt do đó hạn chế khả năng sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng .
b)Công cụ tái cấp vốn:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng của công cụ này, NHNN đã từng bước đổi mới theo hướng tỷ trong tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, còn tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Trên thực tế, bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên NHNN đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ , một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán tạm thời của các NHTM. Với hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được mở rộng. Từ ban đầu, chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán , khế ước cho vay ngắn. Đến nay, NHNN bổ sung thêm hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN.Hiện nay theo quy định của luật NHNN, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng gồm: Cho vay theo hồ sơ tín dụng , chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Đặc biệt, việc quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được đổi mới, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường . Hiện nay , để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN nhằm thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu xuống mức 0,4%/tháng và 0,35%/ tháng tương ứng.
c)Nghiệp vụ thị trường mở:
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ, sau một qua trình chuẩn bị , ngày 12/7/2000, NHNN đã chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Đây là một bước tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp để phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước . Hiện nay, hoạt động nghiệp vụ trường mở đã được tăng cường sử dụng với việc tăng định kỳ giao dịch lên 2 phiên 1 tuần thay cho 1 phiên/10 ngày thực hiện vào năm 2000. Tuy nhiên trong số gần 50 phiên giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở trong cả năm 2001, thì trên 40 phiên NHNN chào mua với doanh số hơn 3000 tỷ đồng để kịp thời bơm thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng. đặc biệt, bên cạnh việc đưa thêm nghiệp vụ SWAP vào hoạt động việc NHNN liên tục thực hiện chào mua giấy tờ có gia với khối lượng lớn đã giúp các tổ chức tín dụng khắc phục được khó khăn về nguồn vốn VND.
Mặc dù doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, số lượng thành viên tham gia và lượng hàng hóa có thể sử dụng trên thị trường còn hạn hẹp, nhưng kết quả các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng các công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã có những dấu hiện tích cực, góp phần tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
d)Lãi suất:
Tháng 8 năm 2000, NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ vẫn về điều hanh lãi suất. Thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Với cơ chế điều hành lãi suất này được có là phù hợp với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ và khả năng kiểm soát của NHNN.
Năm 2001, để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, NHNN đã 4 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản từ mức 0.75% tháng xuống 0.6%/tháng/
Tháng 6/2002 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 546/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng VND. Theo tinh thần quyết định này, tất cả các ngân hàng được toàn quyền quyết định lãi suất cho vay của ngân hàng mình. NHNN vẫn công bố lãi suất cơ bản để các NHTM tham khảo.
e)Công cụ hạn mức tín dụng:
Được NHNN áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế là lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh . Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn ché hệ số nhân tiền tệ , qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán . Trên thực tế , việc áp dụng hạn mức tín dụng đã góp phần kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đối với một số các NHTM nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Nhất là trong các năm từ 1998 đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở VN rất lớn , lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó , từ Quý II năm 1998, NHNN đã quyết định không sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ mà chỉ dùng đến hạn mức tín dụng khi cần phải hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao.
f)Tỉ giá:
Trong hơn 10 năm qua, NHNN đã thực hiện đổi mới manh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá.. Theo đó, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong biên độ cho phép. Năm 2001, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt, bám sát biến động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001, NHNN đã quyết định mở rộng kỳ hạn thực hiện các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi của tổ chức tính dụng và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi, kỳ hạn với trần tỷ giá giao ngay. Điều này giúp cho các tổ chức tín dụng có điều kiện thực hiện linh hoạt các giao dịch ngoại hối, các tổ chức tín dụng được chủ động hơn trong kinh doanh những vẫn đảm bảo vai tro kiểm soát của NHNN.
Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động, việc điều hành tỷ giá linh hoạt và can thiệp kịp thời của NHNN trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá có tác dụng khuyên khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu.
Đánh giá chung:
Nhìn lại thực tế hơn 10 năm qua có thể thấy rằng việc kiểm soát tiền tệ của NHNN đã từng bước được đổi mới với những bước đi thận trọng, phù hợp với điều kiện thị trường nước ta . Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ vẫn còn một số hạn chế nhất đinh:
Thứ nhất:Công cụ tái cấp vốn:
Trong bối cảnh công cụ TTM chưa phát huy được tác dụng như mong muốn thì tái cấp vốn là công cụ cơ bản giúp cho NHNN điều hành thành công chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Hiệu quả của công cụ này thì đã thấy rx đó là vừa đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế vừa đảm bảo thanh toán cho các TCTD tuy nhiên công cụ này vẫn còn nhiều hạn chế.:
Việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với giá trị nội tệ không kịp thời và chưa hợp lý dẫn đến xu hướng chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ tăng nhan.
NHNN chỉ chủ động được trong việc cung ứng vốn nhưng lại bị động trong việc thu hút vốn về NHNN.Nghĩa là NHNN không hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền cung ứng.
Thứ hai: Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Việc điều hành công cụ dự trữ bắt buộc của NHNN thời gian qua không bám sát vào thực tế vì vậy việc tăng hay giảm dự trữ bắt buộc đã không có tác dụng rõ rệt đối với việc điều khiển lượng tiền cung ứng . Có thời kỳ số tiền gửi vượt mức so với dự trữ bắt buộc rất lớn phản ánh độ dư thừa vốn của các NHTM là lớn. Nhưng trong điều hành NHNN chưa quan tâm tới việc quản lý nguồn vốn khả dụng này thông qua điều chỉnh dự trữ bắt buộc.
Thức ba: công cụ lãi suất
Về cơ chế lãi suất nội tệ . Mặc dầu chúng ta đã áp dụng cơ chế cho vay VND theo lãi suất thoả thuận đây là sự cởi mở thực sự cho hoạt động ngân hàng tăng, tuy nhiên vai trò định hướng của lãi suất cơ vẫn đối với chính sách cho vay của các TCTD còn hạn chế. Về cơ chế lãi suất ngoại tệ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tạo các TCTD quá cứng trong khi lãi suất cho vay ngoại tệ đã được tự do hoá và tỷ lệ kết hối đã giảm. Điều này gây khó khăn về việc chủ động vốn của các NHTM.
Thứ tư :Công cụ tỷ giá:
Tồn tại chủ yếu trong điều hành tỷ giá và những công tác liên quan là việc chậm đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái để phù hợp với quá trình phát triển kinh tế từng thời kỳ, dẫn tới hậu quả dễ gây áp lực căng thẳng ngoại tệ đối với nền kinh tế. Do đó, các giải pháp điều hành áp dụng đã bộc lộ những bất cập , được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Biên độ tỷ giá có lúc qua lớn (±10%), có lúc quá nhỏ(±0,1%), nên vừa bó hẹp tính linh hoạt của tỷ giá theo tín hiệu thị trường , vừa tạo kỳ vọng cho thị trường theo ý đồ đầu cơ. Do đó, tỷ gia chưa trở thành công cụ chủ yếu để điều tiết thị trường ngoại tệ. Tại nhiều thời điểm, tỷ giá chưa phản ánh được quan hệ cung cầu ngoại tệ.
Việc xác định tỷ giá thức của đòng Việt nam trên cơ sở “rổ” tiền tệ còn gặp nhiều khó khăn và có thể chưa thật sát với tỷ giá thức, chủ yếu là do chất lượng thông tin còn hạn chế.
Quy định hiện hành về trạng thái ngoại tệ chưa phù hợp nên phát huy tác dụng thấp và gây khó khăn cho công tác kiểm tra thanh tra. Đầu cơ ngoại tệ của các TCTD tỏ ra khá an toàn trong thời gian qua nên đã ảnh hưởng tới sự chu chuyển vốn ngoại tệ và tạo áp lực giả trên thị trường.
Các công cụ hiện có của thị trường ngoại tệ còn chưa phù hợp, còn thiếu và đơn giản. Các quy định của NHNN trên mỗi công cụ chưa có sự thay đổi linh hoạt. Do đó, thiếu công cụ che chắn, phòng ngừa rủi ro làm cho thị trường ngoại tệ trầm lắng.
Công tác dự báo thị trường về đồng tiền vào ra trong từng thời kỳ thực hiện chưa tốt nên ảnh hưởng tới việc sử dụng một cách manh danh hiệu quả Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng theo chức nằn của một NHTW.
Cơ chế bán ngoại tệ từ NHNN phục vụ mục tiêu nhập khẩu vật tư nguyên liệu quan trọng, thiết yếu cho các NHTM còn mang tính hành chính, tạo sự ỷ lại, lợi dụng của các NHTM.
Thứ năm: Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Dẫu rằng đây là một công cụ được NHTW nhiều nước sử dụng làm công cụ chủ yếu và thường xuyên trong việc điều hành CSTT . Nhưng qua một thời gian NHNN Việt Nam sử dụng đã bộc lộ một số bất cập sau:
Số phiên giao dịch ít.Mặc dầu số phiên giao dịch đã được tăng lên 2 phiên/tuần nhưng số phiên giao dịch như vậy vẫn còn quá ít.Điều này sẽ gây khó khăn cho NHNN trong việc điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách kịp thời. Đặc biệt là trong những trường hợp mà NHNN có những quyết định sai lầm trong phiên giao dịch nào đó thì khả năng đảo ngược tình thế là rất khó thực hiện và chắc chắn sẽ bị chậm trễ.
Hàng hoá được mua bán không nhiều.Trên thị trường mở, hàng hoá mua bán chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hầu như chưa được sử dụng để mua bán trên thị trường này. Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trong lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia, thì với VN , công cụ này chưa được sử dụng.
Nghiệp vụ mua bán chủ yếu là mua đứt bán đoạn, nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ít được sử dụng.
Với những bất cập trên có thể nói hiệu quả của công cụ này đối với việc điều hành chính sách tiền tệ là chưa đáng kể.
Định hướng
3.2.1 Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở
- Cơ sở pháp lí của thị trường cần được rà soát lại để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện để thu hút thành viên tham gia thị trường mở.
- NHNN cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hóa( như các loại trái phiếu, các chứng khoán do tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành...) có thể sử dụng trong các giao dịch thị trường mở.
- Chất lượng công tác dự báo điều hành thị trường cần từng bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị NHNN, các tổ chức tín dụng, các bộ ngành liên quan ( Bộ tài chính, Kho Bạc Nhà Nước).
- Đẩy mạnh tiến độ hiện đại hóa hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây cũng chính là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
3.2.2 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc
Để nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, NHNN cần có các giải pháp hoàn thiện công cụ theo hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả. Theo đó, một số nội dung cần xem xét điều chỉnh đối với dự trữ bắt buộc như việc xem xét không trả lãI cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và trả lãi cho tiền dự trữ bắt buộc
- Tỉ lệ dự trữ bắt buộc cần phảI được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở.
3.2.3 Đối với công cụ tái cấp vốn
Công cụ tái cấp vốn cần được hoàn thiện theo hướng thực hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN, NHNN cung ứng phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và thực hiện vai trò “ người cho vay cuối cùng”. Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình thức tái cấp vốn( tái chiết khấu, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn...).Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cần được điều chỉnh ngày càng linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
3.2.4 Đối với công cụ hỗ trợ như lãi suất, tỉ giá
Trước xu hướng hội nhập quốc tế, việc điều hành lãi suất, tỉ giá cần được thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hóa. Việc điều hành lãi suất cần tiếp tục gắn với điều hành tỉ giá. Riêng đối với tỉ giá, thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỉ giá chính thức nên gắn với rổ tiền tệ ( gồm USD và cá đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, NIC, khối EU và các nước trong khu vực).Hơn nữa, NHNN cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỉ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định.
Kết luận
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ, trong nền kinh tế đó,ổn định và tăng trưởng là hai mục tiêu quan trọng và là tiền đề của nhau.Như ta đã biết để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô, chính phủ thường sử dụng nhiều công cụ trong đó có 4 chính sách kinh tế, đó là chính sách tài khóa,chính sách tiền tệ,chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thu nhập.Những chính sách này có quan hệ chặt chẽ với nhau,thể hiện rõ ở các đặc điểm vốn có của các chính sách này,nếu như chính sách tài khoá hướng vào cân bằng ngân sách,xây dựng 1 chính sách thuế hiệu quả và công bằng thì chính sách tiền tệ hướng đến kiểm soát lượng tiền cung ứng, còn chính sách kinh tế đối ngoại đề ra các chính sách thương mại quốc tế và tỉ giá hối đoái,cuối cùng chính sách thu nhập sẽ cung cấp các công cụ để điều tiết mức tiền lương và thu nhập 1 cách hợp lí tiến tới công bằng xã hội. Với 3 chức năng đặc biệt của mình, Ngân Hàng Nhà Nước đã thực thi chính sách tiền tệ nhằm đem lại các mục tiêu kinh tế đã đề ra,và đặc biệt là ổn định giá cả và tiền tệ tạo tiền đề cơ bản cho tăng trưởng kinh tế và xây dựng, phát triển đất nước.Việc nghiên cứu chính sách tiền tệ giúp chung ta có được 1 cách nhìn nhận rõ ràng và đầy đủ nhất về tác dụng của chính sách tiền tệ từ đó khái quát được những định hướng phát triển của chính sách này trong tương lai.
Những nghiên cứu trên đây của đề án chỉ là những vấn đề cơ bản về Ngân Hàng Trung Ương và sự hoạt động của các công cụ của chính sách tiền tệ.
Trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót do yếu tố chủ quan nên em rất mong muốn nhận được những nhận xét, đóng góp để hoàn thiện đề án tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thu Hà đã giúp em hoàn thành đề án môn học này.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6198.doc