Đường lối mới do Đảng ta khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI(1986), tiếp tục phát triển qua Đại hội Đảng VII(1991), Đại hội Đảng VIII(1996) đã đi vào cuộc sống và đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Đường lối đó chính là việc xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Những thành tựu có ý nghĩa hàng đầu của công cuộc đổi mới là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế_xã hội, giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị làm cho quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí của nước ta trên thế giới được nâng lên, đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đạt được những thành tựu trên thì sự quản lý vĩ mô nền kinh tế Nhà nước là một yếu tố không thể thiếu khi nền kinh tế phát triển dựa vào cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước cần phải được đổi mới phát triển theo thời gian và ngày càng được củng cố hoàn thiện để đáp ứng và giải quyết tốt những biến động của cơ chế thị trường nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công cụ và biện pháp đổi mới tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các cộng đồng dân tộc sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp đã sản sinh ra nó.
Để thực hiện hai chức năng này, các Nhà nước đều phải có những cơ sở kinh tế nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ các chức năng kinh tế của mình.
Lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì vai trò kinh tế của Nhà nước cũng biểu hiện ở mức độ khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong giai đoạn này, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy, điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng các thủ đoạn bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng để làm công cụ chiếm đoạt cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, ngoài việc can thiệp vào việc phân phối của cải, Nhà nước phong kiến còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ... nhằm phát triển kinh tế. Nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Trong sự khác biệt với các Nhà nước phong kiến phương Tây, chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn. ở Trung Quốc, Mạnh Tử đã nói trong học thuyết của mình là: Chính sách kinh tế Nhà nước phong kiến phải hướng vào làm giàu cho dân. Dân giàu thì nước mới mạnh. Tư tưởng kinh tế này rất tương đồng với tư tưởng kinh tế của Adam Smith, mặc dù hai nhà tư tưởng sống ở hai thời kỳ cách nhau hàng nghìn năm. Họ đều cho rằng về bản chất, lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích toàn xã hội, mọi người trong khi làm giàu cho mình thì cũng đồng thời làm giàu cho xã hội, từ đó đặt lên vai trò Nhà nước phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung đột lợi ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại phải thúc đẩy lợi ích xã hội. ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng được hình thành rất sớm như: triều đại nhà Lý kiểm soát tất cả các thái ấp, bảo vệ chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất, Nhà Hồ ban hành chính sách hạn điền, hạn nô, Nhà Lê ban hành chế độ quân điền...
Trong thời đại hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản (từ thế kỷ XV), dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực Nhà nước tư bản non trẻ đã thực hiện phương thức tích luỹ nguyên thuỷ để giúp cho giai cấp tư sản cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính vì vậy vai trò kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được nâng cao.
Trước hết Nhà nước tư bản đã thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ, không cho tiền chạy ra nước ngoài. Nhà nước của các nước tư bản trong giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ. Nhà nước còn qui định những nơi khác được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra, kiểm soát .
Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng sản xuất ở trong nước thấp... Nhờ các chính sách đó các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy đầu thế kỷ 18, giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề mới và mở rộng qui mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nươc này. Từ hỏi đó tất yếu nảy sinh cơ chế thị trường_ kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Từ sau năm 1917, với sự ra đời của liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết và sau năm 1945 là sự ra đời hệ thống XHCN thế giới, trong nền kinh tế thế giới còn có nền kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này, Nhà nước là người quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và thông qua một loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Trong một thời gian dài, kiểu quản lý này đã làm sơ cứng nền kinh tế, do đó các nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung như Liên Xô và các nước XHCN đã phải chuyển sang cơ chế thị trường và đã đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước.
Đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô cũ và Đông Âu lại lần nữa góp phần chứng minh cho hướng đi sai lệch khỏi quỹ đạo kinh tế thị trường. Việc đề cao quá vai trò Nhà nước đã khiến cho nền kinh tế bước đi khập khiễng, thiếu năng động và hiệu quả. Điều đó cho thấy vai trò kinh tế của Nhà nước là không thể phủ nhận song sẽ rất sai lầm khi tuyệt đối hoá nó.
Chính vì vậy sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường luôn luôn là vấn đề được quan tâm và gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học, từ đó xuất hiện những quan điểm không giống nhau về vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo một số nhà kinh tế học thì để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển có tính kế hoạch cân đối, Nhà nước phải đóng vai trò trung kiện kinh tế, can thiệp sâu sắc và rộng rãi vào kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô và vi mô.
Theo chủ nghĩa Mác: “Không thể cải biên kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước đã thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội phát triển và hoàn thiện”. Các Mác coi quyền lực của Nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. Lê Nin chỉ rõ Nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt, không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất mà nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân.
Theo quan điểm của Paul Samuelson: “Cơ chế thị trường định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ”. Các nền kinh tế hiện đại chỉ có thể phát triển được khi sử dụng cơ chế hỗn hợp để điều khiển nền kinh tế. Cơ chế đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế theo quy luật của thị trường mà Nhà nước cần phải can thiệp vào các quá trình của nó, định hướng nó đến mục tiêu mong muốn, nhưng sự can thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân Nhà nước cũng phải tuân theo những quy luật của thị trường.
Theo Jonh Mefnand Keynes: Nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp là do Nhà nước không can thiệp vào kinh tế hoặc là có can thiệp nhưng chính sách kinh tế lại lạc hậu, bảo thủ. Để ngăn chặn những khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp thì Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế thông qua việc sử dụng các công cụ tiền tệ tài chính...
Có thể nói rằng, những nhà kinh tế học đều có những quan điểm không giống nhau về vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhưng họ đều có chung quan điểm là vai trò của Nhà nước là quản lý vĩ mô nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế để khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
1.2_Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người từ trước tới nay đã trải qua những thời kỳ sau:
_ Nền kinh tế tự cung tự cấp .
_ Nền kinh tế hàng hoá.
_ Nền kinh tế thị trường.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. “Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương pháp nào đều phải thông qua thị trường. Vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả ”.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế thị trường chính là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó những người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để giải quyết những vấn đề trung tâm của sản xuất xã hội.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy luật giá trị đóng vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cầu trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá, nó nằm trong tiến trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế của xã hội loài người. Do vậy, nền kinh tế thị trường cũng có những ưu thế và khuyết tật của nó.
a_ Những ưu thế của nền kinh tế thị trường thể hiện:
Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ_thực hiện mục tiêu của sản xuất. Do đó, người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất_khoa học_công nghệ và quay nhanh tiền vốn, đạt tới lợi nhuận tối đa.
Thứ hai, thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các điều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng mới và thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, phá thế độc quyền và khép kín trong một đơn vị kinh doanh, tìm cách đạt tới lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học_công nghệ đưa nhanh vào sản xuất, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và thị trường.
Thứ tư, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn vị chủ thể sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép tích tụ, mở rộng qui mô sản xuất. Mặt khác, do quá trình cạnh tranh làm cho sản xuất được tập trung vào các đơn vị kinh tế thực sự đứng được trên thị trường, làm ăn có hiệu quả cao, đồng thời loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
b_ Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thể hiện:
Thứ nhất nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kỳ giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao độ, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế.
Thứ hai, xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm mọi thủ đoạn, mánh khoé làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... không từ một thủ đoạn nào, dù là dơ bẩn nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, vì lợi ích và lợi nhuận riêng biệt, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và huỷ diệt môi trường sinh thái.
1.3_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trên đất nước ta hiện nay đang diễn ra với bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động. Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc tế cởi mở, đa phương và đa dạng.
Vai trò quản lý của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động lao động chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng rộng và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là bước phát triển tất yếu của kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có nội dung rất phong phú, bao gồm những trình độ và khuynh hướng phát triển khác nhau trong một kết cấu gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau, vừa mang tính kinh tế cổ truyền, vừa chứa đựng những yếu tố của nền kinh tế hiện đại, phát triển theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Đó là thời kỳ phải giải quyết hai mâu thuẫn chính: Thứ nhất là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phải phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Thứ hai là mâu thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những yếu tố tự giác của quản lý vĩ mô, định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân và là chủ đại diện sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nền kinh tế đó, thực hiện chế độ dân chủ trong mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất. Tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hoá trong mỗi nước, mỗi thời kỳ mà giữa chúng có quan hệ tỷ lệ nhất định làm cho nền kinh tế phát triển thăng bằng ổn định, khai thác, tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của các điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị... làm cho các quan hệ tỷ lệ đó luôn biến động. Khi các quan hệ kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển thì các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước có thể di chuyển phù hợp hay không? Quy mô và có cấu kinh tế có thể dịch chuyển theo hướng tiến bộ, tối ưu hay lạc hậu? Như vậy có thể nói vận mệnh của nền kinh tế quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài, vào thị trường khu vực, thị trường quốc tế. Tình hình đó đặt nên vai Nhà nước, dân tộc nhiệm vụ không chỉ là người bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, có khả năng sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ trương, chính sách kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động đối ngoại, định hướng sự phát triển của các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế để đảm bảo yêu cầu thăng bằng, cân đối trong sự phát triển do chính các quy luật khách quan của đời sống kinh tế, xã hội quy định.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng: tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam là do ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường và thực trạng của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra còn do yêu cầu thăng bằng cân đối trong sự phát triển của kinh tế mà đòi hỏi phải có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII do đồng chí Lê Đức Anh, Uỷ viên Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương khoá VII, đọc ngày 28/6/1996 có đoạn: “Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta còn ở giai đoạn thấp, hệ thống pháp luật chưa hoàn hảo, những ưu thế chưa thể hiện rõ nét, những khuyết tật có cơ hội nảy sinh thì vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất cần thiết và là một tất yếu khách quan.
1.4_ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là cần thiết và không thể thiếu được vì nó dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực và khắc phục, sửa chữa những gì mà cơ chế thị trường chưa đạt được cũng như những hậu quả mà nó gây ra để phát triển nền kinh tế một cách tốt nhất. Như vậy vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những điểm sau:
a_ Nhà nước đóng vai trò định hướng cho sự phát triển nền kinh tế.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay, các doanh nghiệp được quyền tự lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về việc sản xuất cái gì? Bằng cách nào? Tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Hiện nay rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động cạnh tranh với nhau. Sự hoạt động của quy luật cạnh tranh vừa thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa có thể dẫn đến sự khai thác bừa bãi các nguồn lực, huỷ hoại môi trường.
Khác với các doanh nghiệp, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là ở chỗ Nhà nước không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận như một doanh nghiệp cá biệt mà theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc là làm cho dân giàu, nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc trong điều kiện công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Chính vì vậy để có thể hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế Chính phủ phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt theo chiều hướng vận động của nền kinh tế và Nhà nước ta đã có hai định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, đó là:
_ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
_ Kế hoạch hoá định hướng .
b_ Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Thực tiễn lịch sử cho thấy rằng: con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Kể từ khi nền kinh tế thị trường truyền thống bộc lộ ra các khuyết tật của nó đến khi Chính phủ các nước này tự nhận thức được vai trò điều khiển quản lý kinh tế của mình phải mất hàng trăm năm. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước này đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình bằng cách: chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng và quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. để hoàn thành vai trò đó Nhà nước ta đã phải thực hiện những công việc sau:
_ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế.
_ Bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
_ Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
_ Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
_ ổn định về chính trị.
c_ Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng_hiệu quả tạo ra động lực sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của quy luật giá trị càng dẫn đến việc phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia rẽ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị, xã hội, mâu thuẫn gắt gay về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn đến sự đe doạ ổn định chế độ. Chính vì vậy để ổn định về mặt chính trị tạo ra môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn, Nhà nước phải hoàn thành các phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng, hiệu quả. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường,về trình độ tay nghề và sự may mắn dẫn đến sự khác nhau là lẽ đương nhiên. Do vậy, Nhà nước phải biết lựa chọn phương án phân phối lại như thế nàođó cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bình đẳng cho phép.
d_ Can thiệp vào các quá trình kinh tế mỗi khi có chấn động.
Định hướng và tạo môi trường phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế, việc hiện thực hoá mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn bị những “cú sốc” làm chệch hướng là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, quỹ dự trữ quốc gia và chi tiêu ngân sách để là giảm những chấn động do cú sốc gây nên, đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
e_Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế .
Thứ nhất, Nhà nước điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng, công bằng, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có “cú sốc” để làm giảm các chấn động trên con đường đi đến mục tiêu.
Thứ hai, cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia. Về mặt đối ngoại, Nhà nước còn có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này và phân bố sử dụng sao cho hợp lý. Mặt khác, Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của đế chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế sao cho lợi ích riêng của các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
g_ Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục quá trình tự do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ bản.
Xoá bỏ tình trạng độc quyền, xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền đề kinh tế, pháp lý cho sự hoạt động của các thị trường cần thiết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động...
h_ Nhà nước đảm nhận vai trò thiết lập, duy trì quyền sở hữu các quyền lực kinh tế theo hướng xác định số chủ sở hữu đích thực của công nhân, của các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước, cụ thể là:
Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền cụ thể như thừa kế, thế chấp, cho thuê...
Cho thuê hoặc đấu thầu tài sản sản xuất .
Cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
II_ Mục tiêu và các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng CNXH ở nước ta là qúa trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
2.1_ Các mục tiêu:
a_ Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả.
Muốn phân bố sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển nền kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước có thể nắm được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cầu, trạng thái nền kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bổ nguồn lực Nhà nước: vốn, lao động...cho phù hợp với từng vùng và có hiệu quả nhất để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà Chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực:xây dựng công trình công cộng, yhíc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật... và giảm bớt những rủi ro đối với thành phần kinh tế, đảm bảo các hoạt động kinh tế chung để từ đó thực hiện được mục tiêu ngày càng tốt.
b_ Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội.
Để đảm bảo phân phối công bằng và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần sử dụng các công cụ luật pháp điều tiết thu nhập bảo hộ và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của Nhà nước có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các công cụ khác nhau. Đối với các vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực phù hợp với từng điều kiện: thanh toán nạn mù chữ, trợ cấp phân phối lại, bảo hiểm phát triển công nghệ, giảm tỷ lệ thất nghiệp, ngăn chặn và giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố và các khu công nghiệp...
c_ Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, phát triển các thành phần kinh tế trong nước, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khuyến khích phát minh sáng kiến và sử dụng nguồn lực chất xám tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền. Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố (lao động, vốn, kỹ thuật, đất đai,...) trong tất cả các lĩnh vực và trong mọi không gian. Mặt khác mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài...
d_ Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc.
2.2_ Các chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước được quan niệm với tư cách là cơ quan quyền lực chính trị bảo vệ lợi ích của toàn dân và là chủ sở hữu đại diện cho toàn dân đối với tài sản quốc gia. Do đó, Nhà nước cần thực hiện đúng các chức năng chủ yếu trong lĩnh vực quản lý về kinh tế.
a_ Định ra khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đặt ra các khung pháp luật, đề ra hệ thống pháp lý, trên cơ sở đó đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động của thị trường, quy định hoạt động kinh tế mà các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong mọi thành phần kinh tế phải tuân theo. Các khung pháp luật đó phải đảm bảo được tính dân chủ sự bình đẳng các cơ may để mọi công dân có thể tham gia các hoạt động thị trường mà không bị ai ngăn cản. Ngoài ra, Chính phủ cũng như chính quyền các cấp còn lập nên một hệ thống các quy định chi tiết nhằm tạo nên một môi trường thuận lợi, lành mạnh và tạo nên hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả các hoạt động kinh tế xã hội. Đối với Việt nam, do hệ thống hoạt động kinh tế còn đơn sơ, chưa tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh nên chức năng này chưa được thực hiện đầy đủ. Do đó, chúng ta cần đổi mới việc xây dựng , ban hành và thực thi luật pháp đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường, bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và các thông lệ quốc tế, khẩn trương xây dựng và ban hành hệ thống luật kinh tế, luật bảo vệ môi trường...và phổ cập cho toàn dân.
b_ ổn định và cải thiện các hoạt động kinh tế.
Bàn tay vô hình của cơ chế thị trường có thể tạo ra nhiều yếu tố cho nền kinh tế nhưng nó cũng không tránh khỏi chu kỳ kinh doanh dẫn tới lạm phát, thất nghiệp. Nếu Nhà nước buông lỏng cho thị trường vận động thì biến động đó rất rõ, chẳng hạn thời kỳ siêu lạm phát ở Đức năm 20 hay thời đại suy thoái của Mỹ những năm 30. Những kinh nghiệm đó đã giúp chúng ta nhận ra một điều bổ ích rằng Nhà nước XHCN cần phải tìm mọi cách để kiểm soát và ngăn chặn những thăng trầm của của chu kỳ kinh doanh thông qua các chính sách kinh tế như chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để làm giảm biên độ dao động của chu kỳ kinh doanh, hạn chế thất nghiệp lạm phát. Ơ nước ta Chính phủ cần hoàn thiện các chính sách để tạo điều kiện cần thiết cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả, sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ tác động có lợi đến sản lượng, việc làm, thu nhập và giá cả, tạo nên sự phát triển nhịp nhàng, năng động của nền kinh tế.
c_ Chức năng hiệu quả kinh tế.
Cơ chế thị trường có thể dẫn tới một số thất bại, làm giảm hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng. Do đó Nhà nước cần phân bổ tài nguyên và nguồn lực sao cho đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngăn chặn những hành động bất chấp luật lệ, những tư tưởng cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời có các chính sách và kế hoạch dẫn dắt nền kinh tế để giúp nhà doanh nghiệp lựa chọn để sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối cho ai để sản xuất có hiệu quả cao nhất.
d_ Chức năng công bằng xã hội.
Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, nó phản ánh quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Cơ chế thị trường có thể giúp chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn vốn,vật tư,sức lao động giúp các nhà doanh nghiệp sản xuất những hàng hoá phù hợp với yêu cầu thị trường. Nhưng ngay cả trong trường hợp hoàn hảo như người ta mô tả thì nó cón có những hạn chế bởi vì hàng hoá được sản xuất và tiêu thụ theo tiếng gọi của lợi nhuận chứ không phải theo ước nguyện của mọi tầng lớp. Do đó trong xã hội sẽ nảy sinh rất nhiều những sự bất bình đẳng lớn trong nền kinh tế về thu nhập, cơ may..., nhiều nghịch cảnh còn tồn tại. Trong những trường hợp này, thị trường vẫn làm đúng chức năng của nó là đặt hàng vào tay người có thể trả tiền nhiều nhất. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết để đạt được công bằng xã hội thông qua những chính sách những công cụ pháp luật.
III_ Các công cụ và biện pháp đổi mới, tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định sau hơn tám năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn , tốc độ lạm phát được kiềm chế, đầu tư nước ngoài vào trong nước tăng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao...Tuy nhiên, những kết quả do đổi mới đem lại còn hạn chế và chưa vững chắc. Do những thiếu sót chủ quan và những tác động bất lợi của yếu tố khách quan, bên cạnh những nhân tố tích cực được phát huy, tình hình kinh tế xã hội có những diễn biến phức tạp mới. Nhất là chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thể chế, bộ máy và cán bộ quản lý chưa theo kịp, còn nhiều lúng túng.
Trước tình hình khó khăn và phức tạp đó, Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ gì, có những biện pháp gì để nâng cao hiệu lực quản lý, phát huy vai trò của mình trong việc ổn định nền kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách .
3.1_ Các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước:
Để đạt được mục tiêu và thực hiện những chức năng của mình, Nhà nước phải sử dsụng những công cụ sau:
a_ Pháp luật:
Luật pháp tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động trong an toàn và trong trật tự. Sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ chính những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật hoàn toàn không phải là phương tiện sáng tạo ra các quan hệ kinh tế mà nó là “phương tiện hoá”, “chính thức hoá” các giá trị xã hội vốn có của các quan hệ kinh tế. Chính vì thế, pháp luật kinh tế là các hành lang, các khung pháp lý ổn định, chính thức mà trong đó các quan hệ kinh tế được tự do tồn tại và phát triển phù hợp với giá trị vốn có của nó, được xã hội thừa nhận.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ, do đó trước mắt Nhà nước cần ban hành sớm các bộ luật còn thiếu để làm nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh . Yêu cầu cơ bản đối với hệ thống pháp luật ở nước ta là phải đảm bảo kinh tế ổn định và phát triển bảo vệ lợi ích công dân, đảm bảo công bằng xã hội. Hoạt động này được xem là một hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, khoa học rất quan trọng, đòi hỏi phải được thực hiện công minh, bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật.
b_ Kế hoạch hoá nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội.
Kế hoạch hoá là công cụ chủ yếu của quản lý kinh tế. Bàn về vấn đề này, Lê nin viết: “ Sự cân đối thường xuyên được duy trì một cách có ý thức, bản thân nó đã nói lên tính kế hoạch ”. Như vậy, tính cân đối vừa là thuộc tính vừa là phương pháp lập kế hoạch. Kế hoạch hoá ở đây phải xuất phát từ thị trường, nó chú ý đặc biệt đến việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và cầu. Kế hoạch hoá chủ yếu là những thông tin và chỉ tiêu hướng dẫn để các nhà doanh nghiệp có một cách nhìn dài hạn về nền kinh tế.
Kế hoạch hoá thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động, tạo điều kiện vật chất cho sự vận động của thị trường, tạo điều kiện để cung cầu gặp nhau .
Trong nền kinh tế thị trường cần phân biệt hai kế hoạch: Kế hoạch kinh tế _ xã hội (vĩ mô) và kế hoạch kinh doanh (vi mô). Kế hoạch kinh tế xã hội là kế hoạch có định hướng, hướng dẫn do Nhà nước xây dựng nhằm định hướng phát triển và cân đối cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch này vừa tạo ra môi trường cho sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Kế hoạch sản xuất kinh doanh là kế hoạch hành động, kế hoạch làm ăn, mua bán do các doanh nghiệp xây dựng và quyết định dựa theo kế hoạch Nhà nước và thị trường. Kế hoạch này phải đạt mục tiêu vừa thoả mãn nhu cầu xã hội vừa thu lợi nhuận tối đa.
Như vậy kế hoạch kinh tế xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường mà có thể điều tiết thị trường còn kế hoạch sản xuất kinh doanh phải gắn chặt với thị trường, coi thị trường là mệnh lệnh đối tượng của kế hoạch. Mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường là mối liên hệ giữa chủ quan và khách quan. Vì vậy kế hoạch chỉ phù hợp với hiện thực phát triển kinh tế khi vận dụng đúng đắn tổng hợp các qui luật khách quan trong quá trình xây dựng chúng.
c_ Chính sách tài chính.
Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện ở hai nội dung thu và chi tiêu của Chính phủ, từ đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả và việc làm.
Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm hoặc thoát khỏi suy thoái kinh tế thì được gọi là chính sách tài chính mở rộng. Chính sách này tác động thông qua hai con đường: Tăng chi tiêu Chính phủ để tăng tổng cầu hoặc giảm thuế để kích thích tiêu dùng và đầu tư.
Về vấn đề tăng chi tiêu của Chính phủ, Nhà nước cần ưu tiên cho các khoản đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cấp phát cho sự nghiệp hoạt động kinh tế, chi cho các hoạt động thông tin dự báo, tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá công cộng, tăng đơn đặt hàng mua và những khoản chi khác. Như vậy sẽ làm tăng tổnh cầu, qua đó tác động kích thích làm tăng tổng cung, do đó giải quyết được vấn đề suy thoái và thất nghiệp.
Về vấn đề đầu tư và giảm thuế, như ta đã biết, thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước của bất cứ quốc gia nào. Trong các công cụ kinh tế mà Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế xã hội, thuế có vai trò rất quan trọng. Nếu chính sách thuế ban hành hợp lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp sẽ gây trở ngại lớn cho nền kinh tế, thậm chí có thể gây nên khủng hoảng kinh tế và rối loạn chính trị. Trong điều kiện hiện nay, khi việc giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn thế giới thì phương hướng chung để sửa đổi và hoàn thiện chính sách thuế là mở rộng diện đánh thuế và hạ bớt mức thuế, thu hẹp độ chênh lệch giữa các mức thuế. Việc làm này sẽ kích thích tiêu dùng và khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất và kinh doanh những sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời, động viên các doang nghiệp đầu tư vốn vào các dự án để mở rộng và phát triển sản xuất, động viên các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh cả ở những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội không thuận lợi. Như vậy sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện giải quyết việc làm trong nước.
Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm lạm phát thì được gọi là chính sách tài chính thắt chặt. Nó cũng tác động đến các biến cố của nền kinh tế vĩ mô thông qua hai con đường: giảm chi tiêu Chính phủ hoặc tăng thuế.
Giảm chi tiêu của Chính phủ như giảm chi tiêu cho các hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cấp phát sự nghiệp hoạt động kinh tế,... dẫn đến giảm cầu của xã hội, bình ổn vận giá và hạn chế được lạm phát.
Tăng thuế dẫn đến làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng, đầu tư dẫn đến giảm nhu cầu xã hội và làm cho giá cả đi vào ổn định, hạn chế được lạm phát.
d_ Chính sách tiền tệ.
Cùng với chính sách tài chính, tiền tệ là nhân tố quan trọng tác động đến sản lượng, thất nghiệp và lạm phát trong nền kinh tế quốc dân.
Chính sách tiền tệ được hình thành dựa trên cơ sở khoa học của sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất và lưu thông. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là giảm tốc độ lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thăng bằng ngân sách... Chính sách tiền tệ có thể tóm lại gồm hai loại chính sách định hướng sau:
Chính sách tiền tệ mở rộng là chính sách nhằm cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế , khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, làm tăng cầu của xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế. Chính sách này thường được áp dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng kém và đi cùng với một trong hai chính sách tài chính nêu trên.
Chính sách tiền tệ thu hẹp là chính sách làm giảm bớt lượng cung tín dụng nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy ra trong tương lai. Chính sách này cũng thường được áp dụng cùng với một trong hai chính sách tài chính nêu trên.
Ngoài những công cụ đã nêu trên, Nhà nước còn có thể sử dụng nhiều công cụ khác như: chính sách tiền lương_bảo hiểm, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách dự trữ quốc gia...
3.2_ Các biện pháp đổi mới tăng cường vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế ở nước ta.
ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng cấp thiết và không còn cách nào khác là phải đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
a_ Đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật.
Tiếp tục đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế, luật bảo vệ môi trường. Tăng cường kỹ thuật trong việc chấp hành chính sách, chế độ của Nhà nước. Bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế. Phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý, phổ cập luật cho toàn dân_kiện toàn bộ máy kiểm tra việc thi hành pháp luật, nghiên cứu thành lập toà án kinh tế.
b_ Đổi mới và nâng cao chất lượng kế hoạch.
Công bố kế hoạch hoá qua thời gian đổi mới đã có một số bước tiến bộ: chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng kết hợp với sử dụng các đòn bẩy kinh tế, đảm bảo tính cân đối lớn, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế. Cần tiếp tục đổi mới nâng cao kế hoạch, xác định những cân đối lớn, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế lấy thị trường làm đối tượng chính và căn cứ quan trọng. Sử dụng chương trình mục tiêu, chính sách đầu tư tín dụng,... để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế, nâng cao trình độ dự báo kinh tế_xã hội trong công tác kế hoạch.
c_ Đổi mới ngân sách.
Lĩnh vực tài chính tiền tệ thời gian qua đã có một bước đổi mới nhưng nhìn chung còn yếu kém. đáng chú ý là hiện tượng thất thu thuế và bội chi ngân sách còn lớn. Nhà nước hầu như thả nổi phân phối thu nhập, các xí nghiệp quốc doanh. Ngân hàng chưa trở thành trung tâm thanh toán và tín dụng của xã hội. Vì thế cần đổi mới căn bản hệ thống tài chính tiền tệ, xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện hệ thống cải cách tài chính theo hướng khai thác tiềm năng của các tầng lớp dân cư để phát triển kinh tế, nâng cao nguồn thu cho ngân sách, tạo điều kiện gây sức ép buộc các doanh nghiệp tìm tòi biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện phân phối hợp lý thu nhập quốc dân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, thực hành tiết kiệm đảm bảo công bằng xã hội và góp phần hạn chế đẩy lùi lạm phát. Đổi mới ngân sách là phải xây dựng một ngân sách Nhà nước lành mạnh, không bao cấp và ỷ lại vào viện trợ nước ngoài. Ngân sách Nhà nước phải được hạch toán theo nguyên tắc ngang giá, thu chi ngân sách phải hợp lý.
d_ Nâng cao hiệu lực của chính sách tiền tệ_tín dụng.
Gấp rút tổ chức ngân hàng đủ mạnh, có khả năng thực hiện tốt nghiệp vụ trong cơ chế thị trường. Ngân hàng Nhà nước làm đúng chức năng quản lý đồng tiền của mình và giữ tính độc lập tương đối trong phát hành tiền. Phát huy mạnh mẽ vai trò đòn bẩy và công cụ điều tiết vĩ mô của chính sách tiền tệ tín dụng. Kiên trì thực hiện những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng, thúc đẩy nâng cao tính tự chủ tài chính của xí nghiệp để hiện đại hoá và hiệu quả hoá các xí nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
e_ Nâng cao vai trò kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể để có thể làm chủ được các lĩnh vực then chốt để từ đó điều chỉnh nền kinh tế qua hệ thống này thông qua tổng cung và tông cầu.
g_ Thực hiện tốt chính sáh kinh tế đối ngoại, mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới và trong khu vực, tạo ra môi trường quan hệ giao lưu trao đổi về văn hoá, khoa học, thương mại để hoà nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
IV _ Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
4.1_ Kinh tế Việt Nam trước chuyển đổi.
Sau khi giành được độc lập vào năm 1954, nền kinh tế miền Bắc phát triển chủ yếu theo mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô và Trung Quốc. Theo đó, mọi phương tiện sản xuất là sở hữu của Nhà nước, các chỉ tiêu về sản lượng là do uỷ ban kế hoạch Nhà nước giao xuống cho các xí nghiệp quốc doanh. Nền nông nghiệp hợp tác hoá được coi là cơ sở tạo giá trị cho xã hội để phát triển công nghiệp nặng. Giá cả chỉ để phục vụ cho công tác kế toán. Các doanh nghiệp quốc doanh luôn đói vốn. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò thụ động.
Mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã phát huy được một số tác dụng trong thời chiến, nhưng sau giải phóng, nó ngày càng bộc lộ nhiều yếu điểm: nền kinh tế trì trệ, không tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thường xuyên xảy ra tồn kho nhưng nhu cầu của nhân dân vẫn không được đáp ứng đầy đủ, quản lý kinh tế một cách cứng nhắc, rập khuôn.
4.2_ Kinh tế Việt Nam sau chuyển đổi.
Sau khi thống nhất đất nước, nước ta chủ trương thực hiện nhanh chóng công cuộc “cải tạo XHCN” ở Miền Nam nhằm áp dụng một hệ thống hành chính bao cấp tập trung trên toàn quốc. Thực tế cho thấy, cơ chế tập trung không mang lại hiệu quả kinh tế mà còn kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định sửa đổi chính sách thông qua quan điểm đổi mới của Đảng ở Đại hội Trung ương VI năm 1986, nhất trí công nhận nền kinh tế thị trường và cho rằng Việt Nam phải đi theo đường lối kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội cũng chỉ ra cách thức chúng ta phải tiến hành để đổi mới đó là phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Với những chủ trương đúng đắn như vậy, nền kinh tế của chúng ta đã vực dậy được sau một thời gian trì trệ kéo dài, đẩy lùi được lạm phát, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đến tháng 8/1989, công cuộc cải cách lên đến đỉnh cao với một loạt nhãng thay đổi triệt để cuốn đi hầu hết những tàn dư của nền kinh tế bao cấp, tạo nên một môi trường kinh tế mới theo hướng thị trường. Kết quả là sản lượng nông nghiệp tăng 7,5% vào năm 1989, xuất được 1,4 triệu tấn gạo và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, lạm phát từ 308% vào năm 1988 tụt xuống còn 35% vào năm 1989, các ngành dịch vụ phát triển đặc biệt nhanh... Trong thời gian này, tổng sản phẩm quốc dân tăng 8%.
Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất để đảm bảo cân đối cung_cầu trong nền kinh tế. Đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành nghề và vùng, mở rộng thông tin kinh tế. Trong lĩnh vực tài chính, đã sửa đổi và bổ sung hệ thống thuế, thi hành pháp lệnh về kế toán và thống kê, động viên khá lớn các nguồn thu chpo ngân sách, giảm các khoản chi có tính chất bao cấp, mở rộng quyền chủ động tài chính cho cơ sở, thu hẹp các khoản đầu tư theo phương thức cấp phát, mở rộng đầu tư qua tín dụng. Ngành ngân hàng đã tổ chức các ngân hàng thương mại triển khai kinh doanh tiền tệ, ngoại tệ, vàng bạc, thực hiện chính sách lãi suất.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các cấp cũng bộc lộ nhiều mặt non yếu, có nhiều vấn đề còn tồn tại: Cơ chế quản lý đã bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ, chưa thực hiện nhất quán và có hiệu quả chức năng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm cho phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng. Sự điều hành vĩ mô của Nàh nước về giá cả, tài chính, thị trường, tiền tệ, thu nhập dân cư, tỉ giá hối đoái... tuy có nhiều tiến bộ song vẫn ở trong tình trạng thiếu đồng bộ và có khi thiếu chủ động và theo đó hạn chế khả năng, kìm hãm tốc độ bội chi ngân sách Nhà nước. Thực tế là Nhà nước vẫn chưa kiểm soát được tốt toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối,lưu thông và tiêu dùng.
Vì vậy, Nhà nước vừa phải tập trung giải quyết vấn đề trước mắt là ổn định kinh tế, đồng thời vừa phải khai thác, tận dụng các nhân tố tiềm năng của đất nước, kết hợp với sự tài trợ của quốc tế và kinh nghiệm của các nước khác để cải cách thành công nền kinh tế thị trường, xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam có vị trí tương xứng trong khu vực Đông Nam á và trên toàn thế giới.
Kết luận
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vô cùng phức tạp và khó khăn. Vì nền kinh tế là cơ sở của xã hội nên đất nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp.
Đường lối mới do Đảng ta khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI(1986), tiếp tục phát triển qua Đại hội Đảng VII(1991), Đại hội Đảng VIII(1996) đã đi vào cuộc sống và đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Đường lối đó chính là việc xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Những thành tựu có ý nghĩa hàng đầu của công cuộc đổi mới là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế_xã hội, giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị làm cho quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí của nước ta trên thế giới được nâng lên, đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đạt được những thành tựu trên thì sự quản lý vĩ mô nền kinh tế Nhà nước là một yếu tố không thể thiếu khi nền kinh tế phát triển dựa vào cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước cần phải được đổi mới phát triển theo thời gian và ngày càng được củng cố hoàn thiện để đáp ứng và giải quyết tốt những biến động của cơ chế thị trường nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Với chúng em, những người chủ tương lai của đất nước nhận thức được rằng cần phải học tập, rèn luyện, trau dồi kiến thức để mai đây có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, góp phần đưa nền kinh tế nước phát triển theo kịp với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mục lục
Trang
Phần I _ Đặt vấn đề.
Phần II _ Nội dung.
I_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1_ Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước.
1.2_ Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.
1.3_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà nước.
1.4_ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
II _ Mục tiêu và các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
2.1_ Các mục tiêu.
2.2_ Các chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
III _ Các công cụ và biện pháp đổi mới, tăng cường vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay.
3.1_ Các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước.
3.2_ Các biện pháp đổi mới tăng cường vai trò quản lý vĩ mô
nền kinh tế ở nước ta.
IV _ Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
4.1_ Kinh tế Việt Nam trước chuyển đổi.
4.2_ Kinh tế Việt Nam sau chuyển đổi.
Phần III _ Kết luận.
Tài liệu tham khảo
1_ Giáo trình kinh tế chính trị học, tập 2, NXB Giáo dục Hà Nội.
2_ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII.
3_ Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường,
G.S_T.S Lương Xuân Quỳ
P.T.S Lê Anh Sắc
4_ V.I.Lê Nin toàn tập, tập 3, NXB Tiến bộ.
5_ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế_xã hội đến năm 2000,
NXB Sự thật, Hà Nội 1991.
6_ Một số vấn đề về Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34579.doc