Đề tài Các giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đô thị của Quận Long Biên

Cần tiến hành bổ sung cho những hồ sơ còn tồn đọng. Những hồ sơ còn tồn đọng này phần lớn là có nguòn gốc rất phức tạp nên đã kê khai từ lâu vẫn chưa giải quyết hét vì thế nay cần tiến hành nhanh chóng giải quyết rứt điểm để có thể quản lý được quỹ nhà đất thuộc diện này. Việc xét nguồn gốc là rrất khó khăn do đó để đẩy nhanh tiến độ cấp GCN, Nhà cần đầu tư kinh phí cho cán bộ làm công tác có liên quan đến những hồ sơ dạng này, có thể đặt kế hoạch dứt điểm để quyết tâm hoàn thành, thậm chí có thể làm thêm giờ. Hiện nay nguồn nhân lực cầm thiết cho ngành địa chính còn thiếu nhất là quận lại mới đươc thành lập. Để giải quyết được tình trạng thiếu cán bộ làm công tác địa chính UBND quận cần chủ đông ký hợp đồng làm việc với sinh viên các trường đại học mới ra trường làm bổ sung nguồn nhân lực. Việc khuyến khích lợi ích đối với cán bộ cấp phường là rất quan trọng. Để họ yên tâm, phấn khởi công tác vì họ làm việc rất nhiều nhưng đồng lương chưa xứng đáng sẽ không yên tâm làm việc do hiện nay nhiều khoản phải trang trải nhất là ở Hà Nội.

doc96 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 960 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đô thị của Quận Long Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểm tra , đôn đốc, giao ban, kịp thời tháo gỡ những khó khăn của từng trường hợp và từng địa bàn để đẩy nhanh tiến độ của công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị trên địa bàn quận Long Biên. 2.Giải pháp. Để điều kiện đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất ở trên địa bàn Quận Long Biên-Thành phố Hà Nội, cần có sự phối hợp của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương, từ Trung ương đến địa phương, từ sở tài nguyên Môi trường và nhà đất đến UBND các quận và phòng TNMT và nhà đất của Quận Long Biên ccần rút ngắn thủ tục tạo sự nhanh chóng, rút ngắn thời gian, tránh sự phiền hà cho người dân. Và trong thời gian thực tập cũng như tìm hiểu tại Sở Tài Nguyên- Môi trường và Nhà đất Hà Nội. Qua đề tài này em xin đề xuất một số giái pháp sau 2.1/ Về văn bản pháp luật và các chính sách về đất đai. Văn bản pháp luật là cơ sở páp lý quan trọng giúp cơ quan thẩm quyền tiến hành cấp GCN theo luật định.Hiện nay hệ thống pháp luật. Hiện nay, hệ thống luật và pháp lệnh về đất đai và nhà ở còn chưa đồng bộ, chưa sát với thực tế. Ví dụ như: Nghị định số 60/CP của chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị ban hành năm 1994, trong đó có những điều đã quá xa vời với thực tế hiện nay. Nghị định 87/CP của chính phủ về quy định khung giá đất quy định trong khung giá đất quy định trong khung giá tuy có hệ số điều chỉnh nhưng vẫn còn rất thấp so với thực tế, làm cho công tác thu tiền lệ phí để cấp GCN còn chậm . Do đó có ảnh hưởng tới tiến độ cấp GCN. Bên cạnh đó có một số điều trong văn bản pháp luật còn tình trạng tự làm theo ý mình. Chính phủ cần có những quy định mới, có những sửa đổi thay thế ngay một số văn bản đã có cũ lạc hậu. Cần ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo có nội dung cụ thể hơn cấp quận, cấp phường, để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quận, phường. Đối với các văn bản mới thay thế các văn bản cũ phải có thông báo huỷ bỏ rõ ràng những điều kiện, chương, hoặc toàn bộ văn bản cũ, phải công bố và hướng dẫn thực hiện các văn bản mới; có như vậy mới tránh được việc sử dụng lẫn lộn giữa các văn bản cũ và mới. Phòng Tài nguyên-Môi trường và Nhà đất phối hợp với UBND có những buổi phổ biến cho người dân biết các quy định trong các văn bản pháp luật Nhà Nước mứo ban hành,những điều kiện và thủ tục đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở, đặc biệt các quy định về thu tiền cấp GCN, có nhiều người dân còn mơ hồ không biết mẫu GCN như thế nào, phải nộp những khoản gì với mức bao nhiêu làm cho công tác chuẩn bị hồ sơ rất mất thời gian và công sức của dân 2.2/ Về đội ngũ cán bộ. Cần tăng cường đội ngũ cán bộ địa chính nhà đất quận. Xây dựng một đọi ngũ cán bộ trong sạch, lành mạnh, có trình độ chuyên môn cao. Thường xuyên tổ chức các đợt bồi dưỡng lý luận chính trị, pháp luật và kiến thức chuyên ngành cho cán bộ cơ sở . Đưa một số cán bộ chưa được đào tạo chính quy đi học tập trau rồi kiến thức chuyên ngành. Cần trang thiết bị hiện đại cho cán bộ địa chính như các thiết bị đo vẽ, máy tính, máy quét. Phát huy trách nhiệm lãnh đạo cấp phường, thị trấn. Cấp này đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở chuyển biến như thế nào phụ thuộc chủ yếu vào khâu này, họ phải chủ động tìm ra nhiều biện pháp tháo gỡ vướng mắc thì mới đẩy nhanh được tiến độ. Đồng thời tăng cường quyền hạn, nhiệm vụ cho cấp phường, trong các khâu kê khai đăng ký, đo vẽ sơ đồ xác định nguồn gốc nhà đất, xét duyệt cấp GCN. Cấp thành phố tập trung vào hướng dẫn, kiểm tra và thẩm định hồ sơ thuộc thẩm quyền. Kiện toàn bộ máy phòng Điạ chính quận theo quy định có 14 đồng chí (hiện nay có 10 đồng chí) . Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của phòng phải xây dựng quy chế hoạt động, phân công công việc rõ ràng , đúng người, đúng việc, có kiểm tra đôn đốc để mọi cán bộ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Phải thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, kiến thức pháp luật cho cán bộ của phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất đô thị quận và cán bộ địa chính cơ sở phường; để luôn luôn có một đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm về thực tế, kinh nghiệm xử lý trong các tình huống, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ. Thay thế cán bộ địa chính không đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp. 2.3/ Công tác thông tin, tuyên truyền. Công tác thông tin tuyên truyền cũng hết sức quan trọng cần tăng cường giáo dục tuyên truyền các văn bản pháp luật đến từng cán bộ, đến từng người sử dụng đất. Đối với cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ trong ngành địa chính nói riêng trước hết phải nắm chắc sđược pháp luật chung về đất đai, những chủ trương và chính sách cuả Đảng, Nhà nước cùng những hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên; phải cập nhất thường xuyên những thay đổi về cơ chế chính sách, văn bản pháp luật. Tiếp theo, phải nắm vững được tình hình sử dụng đất địa phương mình quản lý, tình hình cấp GCN tại địa phương, thấy những khó khăn, cản trở đối với công tác này và tìm giải pháp tháo gỡ. Từ đó với những hiẻu biết của mình góp phần cùng nhà nước tăng cường hiểu biết pháp luật về đất đai cho người dân, hạn chế những vi phạm pháp luật đất đai có ảnh hưởng đến công tác cấp GCN quyền sử dụng đất ở địa phương. Cán bộ địa chính phai tuyên truyền giải thích cho dân hiểu rõ vai trò, mục đích công tác đăngn ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị, phải hướng dẫn người dân đăng ký kê khai , giải thích những điều chưa rõ ràng khi người dân thắc mắc.Có như thế người cán bộ mới hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình làm cho người dân hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết của công tác cấp GCN quyền sử dụng đất ở. Lúc đó dân sẽ có thái độ hợp tác hơn nữa với cán bộ địa chính, tự nguyện kê khai một cách chính xác, đúng quy định, rút ngắn thời gian kê khai, đăng ký bổ sung, hoàn thiện hồ sơ, góp phần đẩy nhanh tiến độ của công tác cấp GCN quyến sử dụng đất ở trên địa bàn đô thị. Muốn thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn các văn bản Pháp luật cần có sự phối hợp giữa Nhà nước và cơ quan liên ngành các cán bộ ở cơ sở với những biện pháp cụ thể để thông tin những chính sách Pháp luật về đất đai, Những văn bản mới, những thay đổi liên quan đến công tác cấp GCN và những thay đổi khác liên quan đến người sử dụng đất. Có thể thông qua sự hướng dẫn phổ biến trực tiếp từ cán bộ tới người dân, hoặc có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, cuộc trao đổi thảo luận, hỏi đáp.. 2.4/ Điều chỉnh hợp lý chính sách tài chính về đất đai. Những tồn tại của chính sách tài chính đối với đất đai đã nêu trên, Nhà nước cũng như UBND thành phố cần nghiên cứu sửa đổi chính sách tài chính sao cho phù hợp nhằm thúc đẩy tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất. Đồng thời đem lại sự công bằng cho người dân. Vì vấn đề tài chính liên quan đến lợi ích của quần chúng nhân dân nên việc dảm bảo công bằng sẽ thực sự khơi thông rào cản đối với tiến độ đăng ký , cấp GCN vì nó phản ánh đúng tâm lý công bằng của người dân. Để đi đôi với tính công bằng Nhà nước nên xem xét, bổ sung hoàn thiện chính sách tài chính đối với đất đai để tạo điều kiện cho tất cả những người muốn có “sổ đỏ” thực hiện nguyện vọng của mình. Trước mắt Nhà nước cần chịu thiệt thòi để cấp nhanh GCN nhằm đạt được mục tiêu quản lý quỹ đất và bảo vện lợi ích của người sử dụng đất, tiếp đó các giao dịch dân sự về nhà đất được thực hiện Nhà nước sẽ thu lại sau vẫn chưa muộn .Nhà nước cần có quy định về nghĩa vụ tài chính theo thu nhập của người sử dụng đất và theo điều kiện cơ sở hạ tầng đô thị. 2.5/Giải pháp về quy hoạch. Trước đây tồn tại hai quan điểm về cấp GCN cho những khu vực liên quan đến quy hoạch. Khi cấp GCN quyền sở hữu đất ở các hộ hia đình, cá nhân không có giấy tờ hợp lệ nếu nằm trong vùng quy hoạch đã được phê duỵệt , có quyết định thu hồi đất đai. Và có phương án cắm mốc giới, hoặc chưa có quyết định của các cấp chính quyền) đều không được cấp GCN. Sau đó UBND tthành phố có hướng dẫn chỗ nào có dự án đã cắm mốc thì không cấp. Vì vậy các cấp chính quyền địa phương không đẩy nhanh được việc cấp GCN ở những khu vực này. Hiện nay quan điểm khi người dân đã ở ổn định, không có tranh chấp trước ngày 18/12/1980 dù có trong quy hoạch hay không đèu được cấp GCN. Vì GCN quyền sử dụng đất ở là chứng thư đảm bảo cho công tác đền bù nhanh chóng vì vậy coi cấp GCN chính là một biện pháp khi đền bù giải phóng nhằm thực hiện dự án một cách dễ dàng 2.6/ Tăng cường sụ phối hợp của các cơ quan liên ngành. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất ở tại địa bàn quận Long Biên, bởi vì ở đây tốc độ xây dựng rất lớn và hiện chủ yếu là xây dựng nhà ở. Nên việc phối hợp với các ngành có liên quan đến địa chính như ngành xây dựng, môi trường là hết sức quan trọng cần thiết để thống nhất trong việc xử lý các trường hợp cụ thể, nâng tiến độ cấp GCN trong những năm tới. 2.7/ Thanh tra kiểm tra trong công tác đăng ký cấp GCN quỳền sử dụng đất ở. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra giúp cơ quan quản lý phát hiện, ngăn ngừa những thiếu xót, sai phạm trong quá trình quản lý đất đai. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tình hình sử dụng đất, kiên quyết xử lý những vi phạm về đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của cấp phường về cấp GCN quyền sử dụng đất ở. Kiểm tra chặt chẽ các khâu của quá trình đăng ký, xét, cấp GCN để có những điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra các điều kiện liên quan như: Tài liệu lưu trữ, hồ sơ, sổ sách, tài liệu đo đạc bản đồ, kinh phí Kiểm tra việc chỉ đạo đôn đốc UBND các cấp đối với việc tiến hành công tác cấp GCN, kiểm tra việc tuân thủ các chể độ của ngành về quy trình thủ tục đăng ký. Kiểm tra việc thiết lập bảo quản, lưu trữ hồ sơ địa chính của cở sở. Trên cở sở công tác thanh tra kiểm tra tiến hành công tác đăng kýcấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị một cách chính xác và công bằng. 2.8/ Về khoa học công nghệ. Áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trợ giúp công tác quản lý đất đai nói chung, công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị trên địa bàn quận nói riêng. Để phát triển nhành địa chính ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, hiện đại hoá và tin học hoá công tác quản lý thông tin, giữ liệu phục vụ quản lý đất đai. Trước hêt phải đưa công nghệ tin học, vi tính vào công tác đo đạc, khảo sát, trợ giúp cho viẹc lập quy hoạch chi tiết các cấp một cách chính xác, bởi nhờ có công nghệ thông tin chúng ta có thể đo vẽ một cách chính xác nhất trong thời gian ngắn nhất. từ đó thômg qua quy hoạch sử dụng đất định hướng sử dụng đất được xác định rõ ràng hơn khoa học hơn giúp người dân yên tâm lựa chọn những phương án tối ưu cho mảnh đất mà mình sử dụng. Làm cho đất đai được sử dụng hiệu qủa hơn. Vì công nghệ thông tin phải được sử dụng vào phục vụ đo, vẽ số hoá bản đồ, sổ sách, tài liệu. Để tạo một cơ sở dữ liệu đầy đủ gọn nhẹ mà chính xác phục vụ đắc lực cho việc xác định nguồn gốc đất đai, là một cơ sở để thực hiện công tác cấp GCN quyền sử dụng đất. Đồng thời với sự trợ giúp của công nghệ thông tin đưa ra những tài liệu, những cơ sở pháp lý có ý nghĩa quan trọng đối với việc xử lý những tranh chấp, vi phạm xử dụng đất đai. Giải quyệt những vướng mắc trong quá trình kê khai đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất. Công nghệ thông tin có giữ được sự liên lạc giữa cấp trên, cấp dưới, các ban ngành liên quan với nhau và với người sử dụng đất. Từ đó giúp cho công tác kiểm tra, thanh tra, chỉ đạo, đôn đốc công tác quản lý nhà nước về mặt đất đai nói chung và công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở nói riêng được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn giảm thòi gian và kinh phí đáng kể cho nhân sách nhà nước. Hơn nữa với một hệ thống thông tin hiện đại, những chủ trương đường lối chính sách của Đảnh và nhà nước cũng đến cán bộ quản lý một các nhanh chóng và đầy đủ hơn. 2.9/ Một số giải pháp khác. Cần tiến hành bổ sung cho những hồ sơ còn tồn đọng. Những hồ sơ còn tồn đọng này phần lớn là có nguòn gốc rất phức tạp nên đã kê khai từ lâu vẫn chưa giải quyết hết vì thế nay cần tiến hành nhanh chóng giải quyết rứt điểm để có thể quản lý được quỹ nhà đất thuộc diện này. Việc xét nguồn gốc là rất khó khăn do đó để đẩy nhanh tiến độ cấp GCN, Nhà cần đầu tư kinh phí cho cán bộ làm công tác có liên quan đến những hồ sơ dạng này, có thể đặt kế hoạch dứt điểm để quyết tâm hoàn thành, thậm chí có thể làm thêm giờ. Hiện nay nguồn nhân lực cần thiết cho ngành địa chính còn thiếu nhất là quận lại mới đươc thành lập. Để giải quyết được tình trạng thiếu cán bộ làm công tác địa chính UBND quận cần chủ đông ký hợp đồng làm việc với sinh viên các trường đại học mới ra trường làm bổ sung nguồn nhân lực. Việc khuyến khích lợi ích đối với cán bộ cấp phường là rất quan trọng. Để họ yên tâm, phấn khởi công tác vì họ làm việc rất nhiều nhưng đồng lương chưa xứng đáng sẽ không yên tâm làm việc do hiện nay nhiều khoản phải trang trải nhất là ở Hà Nội. Sở tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà Nội cần cử cán bộ thường xuyên kiểm tra đôn đóc các quận, phường đẩy nhanh tiến độ kê khai đăng ký, phân loại hồ sơ ngay tại cỏ sở để đẩy nhanh tiến độ đòng thưòi phát hiện những cá nhân và cơ quan làm việc tốt để có sự khuyến khích động viên kịp thời và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho việc đo vẽ bản đồ địa chính tỷ lệ lớn bao gồm tỷ lệ 1/200 và 1/500 để tạo điều kiện xét duyệt hồ sơ được nhanh chóng. 3/ Kiến nghị. Phòng Tài Nguyên môi trường và Nhà đất quận Long Biên kết hợp với các phường đẩy nhanh công tác thực hiện thí điểm lập hồ sơ địa chính để nhanh chóng rút kinh nghiệm sẵn sàng đưa vào áp dụng ở những nơi đã hoàn thành cấp GCN quyền sử dụng đất ở ban đầu. Các cấp các ngành cần theo dõi sát sao hơn nữa và chỉ đạo kịp thời về đường lối giải quyết những vướng mắc của cấp cơ sở để đẩy nhanh tiến độ cấp GCN đưa mục tiêu hoàn thành việc cấp GCN quyền sử dụng đất ở vào năm 2007 trở thành hiện thực. Để giảm bớt khâu vẽ sơ đồ kỹ thuật thửa đất và in GCN ngành địa chính cần đầu tư các thiết bị kỹ thuật hiện đại lưu những số liệu khi đo và sau khi đo xong về lắp vào máy tính điện tử xử lý ngay và đưa vào lưu trữ hoặc in ra GCN không phải mất thòi gian vẽ lại trên máy tính vì mỗi năm Quận phải cấp rất nhiều giấy GCN quyền sử dụng đất ở. Việc in ấn đã hiện đại và đáp ứng được yêu cầu in GCN nên quận cần tập trung giải quyết những vướng mắc từ phía chính sách, từ phía quy hoạch và phía cán bộ. C/ Kết luận. Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá cao, hiện trạng đất ở là rất phức tạp, đa dạng về diện tích. Hà Nội là thành phố đông dân cư, nhu cầu về đất ở của nhân dân là rất lớn trong khi thực tế chưa đáp ứng được. Vì vậy quan hệ dân sự về đất đai diễn ra thường xuyên, gây biến động lớn trên địa bàn. Đất đai- Theo luật đất đai hiện hành quy định là thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước có quyền định đoạt về đất đai nên yêu cầu nắm được quỹ đất về số lượng và chất lượng là một yêu cầu tất yếu. Sau một thời gian buông lỏng quản lý quỹ đất kéo dài lĩnh vực đất đai đã phát sinh nhiều phức tạp nhất là ở Hà Nội. Vì thế công tác đăng ký kê khai cấp GCn quyền sử dụng đất ở khu vực đô thị của thành phố Hà Nội đặt ra như một biện pháp khẩn cấp nhằm đưa ra các quan hệ đất đai của người sử dụng đất và Nhà nước đi vào khuôn khổ.Quận Long Biên là một trong 9 quận thuôck Hà Nội, mới được thành lập, các khu đô thị mới đang bắt đầu phát triển cùng với quá trình đô thị hoá mạnh làm cho vấn đề đất đai và nhà ở trở nên nóng bỏng và cần sớm được giải quyết. Cùng với nó là quận mới được thành lập nên vấn đề quản lý đất đai, đất ở còn chưa được quan tâm đầy đủ, gây khó khăn cho công tác cấp GCN quyền sử dụng đất ở. Hướng tới mục tiêu hoàn thành cấp GCN quyền sử dụng đất ở khu vực đô thị Hà Nội và xây dựng công tác quản lý địa chính hiện đại vào năm 2010 Quạn Long Biên cũng như các quận khác cần làm hết sức mình trong việc quản lý quỹ đất đai, coi việc đăng ký kê khai, cấp GCN quyền sử dụng đất ở là khâu then chốt nhằm đạt được mục đích. Với những giải pháp đưa ra nhằm khắc phục các tồn tại của công tác kê khai đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở khu vực quận Long Biên, em hy vọng rằng đó sẽ là những đóng góp tích cực vào việc đẩy mạnh tiến độ cấp GCN. Từ đó góp phần vào công cuộc quản lý kinh tế cũng như là ổn định xã hội. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn cô giáo TS. Ngô Phương Thảo cùng các thấy cô giáo trong khoa BĐS và quản lý Địa chính; các bác, các cô chú trong Phòng Đăng ký Thống kê thuộc sở TNMT & NĐ Hà Nội và các cô chú trong phòng địa chính Nhà đất và đô thị quận Long Biên đã Giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế tài nguyên đất. chủ biên PGS.TS.Ngô Đức Cát. Giáo trình Đăng ký thống kê đât đai. Chủ biên: PGS.TSKH Lê Đình Thắng- Th.S Đỗ Đức Đôi Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai. Chủ biên PGS-TSKH Lê Đình Thắng. Luật đất đai 2003 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính Phủ, nghị định 17/1999/NĐ-CP, nghị định 29/03/1999/NĐ-CP. Quyết định 23/2005/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội. Quyết định 65/2001/QĐ-UB. Tạp chí địa chính số 6/2005, số 9/2005, số1/2006, số 12/2006., tạp chí bất động sản. Một số chuyên đề tốt nghiệp. Một số tài liệu khác. 2/ Tình hình quản lý và sử dụng đất đai tại Quận Long Biên. Do quận mới được sát nhập vào năm 2003 nên việc quản lý hồ sơ đất đai cũng khó khăn trong thời gian đầu. Đặc biệt là công tác cấp GCN khó có thể thực hiện khi không rõ được lịch sử của mảnh đất. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu về đất đai của người dân và kịp với đòi hỏi của các hoạt động kinh tế, xã hội, phòng tài nguyên Môi trường và nhà đất Quận Long Biên đã có nhiều biện pháp đưa ra áp dụng trong công tác quản lý đất đai. Vì thế phần lớn đất đai đã được đưa vào sử dụng đúng quy hoạch đã được xét duyệt. Nhìn lại nhưng năm trước đây tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận Long Biên trở thành “điểm nóng” năm 2001(khi chưa có quyết định thành lập quận). Với thông tin quy hoạch của thủ đô, người dân các xã và các thị trấn trước đây thuộc huyện Gia Lâm đã đẩy nhanh công tác đô thị hoá bằng cách bán những mảng đất của mình kể cả đất thổ cư và đất thổ canh. Tuy chưa có quy hoạch chi tiết nhưng diện mạo mới của quận đã được hình thành. 2.1/Tình hình sử dụng đất đai tại quận Long Biên: Theo số liệu thống kê đất đai vào ngày 1/7/2006 quỹ đất đai của quận được sử dụng như sau: +Tổng diện tích đất tự nhiên là 6038,24 ha chiếm 6,55% tổng diện tích đất Hà Nội (tổng diện tích đất của Hà Nội là 92,097). Trong đó được phân bố cho các loại Đất nông nghiệp:1921.05 ha chiếm 31,81% Đất ở 1025,37ha chiếm 16,98% Đất cho khu công nghiệp 447,21 ha chiếm 7.41% Đất khác 2644,61 ha chiếm 43,8% Từ số liệu cho thấy: Đất khác có diện tích nhiều nhất trong tổng diện tích đất tự nhiên của quận có thể sử dụng vào rất nhiều mục đích khác nhau như phục vụ an ninh- Quốc phòng, đất sử dụng xây dựng các hành lang công cộng, đất nghĩa trang nghĩa địa, đất cho tôn giáo, đất sử dụng làm vật liệu xây dựng.. chính vì thế nó chiếm diện tích khá lớn. Đất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn vì nguồn gốc trước đây người dân ở đây chủ yếu làm nông nghiệp, nó là khu dân cư nông thôn thuộc ngoại thành Hà Nội, là nơi cung cấp lương thực thực, thực phẩm hàng ngày như rau xanh, hoa quả..Hiện tại đất nông nghiệp chỉ chiếm 31,81% giảm nhiều so với năm 2003(39.15%), đất nông nghiệp giảm nhanh do quá trình đô thị hoá. Khi các xã và các thị trấn của huyện Gia Lâm trước đây được sát nhập để thành lập quận Long Biên , đất đai trở nên có giá trị lớn do nhu cầu đất đai cho các dự án, đất ở, đất phục vụ cho các hoạt động khác . tốc độ xây dựng đô thị và mua bán nhà đất sôi nổi. Có những làng xã nay lên phường được ví như công trường thi công, có những phường người dân bình thường cũng trở thành cò đất chuyên nghiệp trong vùng đất “nóng” này,Giá đất tăng lên vun vụt, những kẻ đầu cơ đất đã nhanh chóng nhảy vào cuộc để đầu cơ đất đai. Ngưòi dân ham lợi nhuận sẵn sàng bán hết đất đai không chỉ đất thổ cư mà cả đất thổ canh vốn là tư liệu sản xuất từ xa xưa của họ cho nhưng kẻ đã đầu cơ, bán hết đất đai ngưòi dân tự đưa mình vào con đường thất nghiệp. Ở pường Bồ Đề diện tích đất tự nhiên 379,92 ha nhưng diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 65,56 ha mà hầu hết đất không canh tác được vì nằm xen kẽ trong các khu dân cư, không có hệ thống thoát nước. Ở phường Long Biên hiện tượng lấn chiếm đất công, mua bán trao tay,làm nhà trên đất nông nghiệp thường xuyên xảy ra. Biến động đất đai lớn tác động mạnh mã đến công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất . Đ công nghiệp tuy chiếm tỷ lệ thấp nhất (7,41%) nhưng hoạt động của cáckhu công nghiệp cũng không kém phần sôi động. Để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào địa bàn quận, bộ máy chính quyền đã đưa ra các quy hoạch cụ thể cho từng vùng đất. Đất giành cho khu công nghiệp tập trung nhiều nhất tai các phường Thượng Thanh(66.32 ha ), phức Lợi, Thạch Bàn, Đức Giang (38,67ha). Ở Đức Giang phần lớn dân cư lao động trong nghành công nghiệp mang lại thu nhập lớn nên đời sống của dân rất cao. Đất công nghiệp ngày càng tăng để đáp ứng cho đô thị hoá nhờ chuyển đất nông nghiệp sang đất công nghiệp. Việc giải phóng mặt bằng, đền bù cho người dân làm cho đất công nghiệp cũng tăng lên rất nhiều. Đất ở trong địa bàn quận với diện tích 1025,37 chiếm 16,98%, một con số không nhỏ so với diện tích đất ở trên các quận tại Hà Nội. Các khu đất ở đều có quy hoạch cụ thể và được công khai. Tuy nhiên tại một số phường đất ở còn xen kẽ đất nông nghiệp như Bồ Đề, Thạch Bàn... Một số phường có diện tích đất ở chiếm tỷ lệ cao như : Giang Biên 52,73%, Giang Thuỵ 39,11%....một số phường chiếm tỷ lệ thấp như:Long Biên 5,63%, Phúc Đồng 7,17%...Việc phân bố này không đồng đều gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai nói chung và cho công việc cấp GCN quyền sử dụng đất ở. Tại các phường có lao động phi nông nghiệp cao thi dân số tập trung tại đó lớn nên đất ở cần phải nhiều, còn lao động nông nhiệp không thu hút được lao động nhiều nên đất ở sẽ ít hơn. Từ khi có quyết định thành lập Quận Long Biên , để phù hợp với một đô thi hiện đại , đất ở được quy hoạch thành từng vùng hiện tượng ở lộn xộn đã giảm nhiều. Một số phường đất ở giảm đi vì Nhà nước cần cho các dự án , công trình giao thông, xây dựng..Ngoài ra đất được sử dụng xây dựng hàng loạt các nhà chung cư, các khu biệt thự cao cấp đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân. Tình hình sử dụng đất của quận được thể hiện trên biểu đồ dưới đây. Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất của Quận Long Biên Đơn vị:ha Theo nguồn: Phòng tài nguyên môi trường và nhà đất Quận Long Biên 2006 2.2/ Tình hình quản lý đất ở của Quận Long Biên. Luật đất đai 2003 ra đời và quyết định 23/2005/QĐ-UB ngày 18/02/2005 của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trê n địa bàn Hà Nội (trước đây là quyết định 65/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội về việc cấp GCN quyền sử dụng đất ở, đất ao vườn liền kề) trên địa bàn Hà Nội là cơ sở pháp lý chủ yếu để Quận thực hiện công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. Theo con số báo cáo chính thức của phòng Tài nguyên môi trường của Quận Long Biên 28/02/2006, thì tình trạng sử dụng đất vi phạm Luật đất đai các trường hợp khiếu nại, tranh chấp, giao đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, sử dụng đất sai mục đích, mua bán, chuyển nhượng trao tay rất nhiều. Cụ thể như sau: + Thực hiện các chỉ thị của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc tăng cường quản lý đất đai, xử lý nghiêm minh các hiện tượng vi phạm, đưa đất đai vào sử dụng có hiệu quả hơn. Phòng đã phối hợp với UBND các phường tiến hành kiểm tra rà soát trên toàn bộ địa bàn và thu được kết quả: kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của 312 đơn vị trên tổng 586 đơn vị đang sử dụng đất trên địa bàn quận, đã phát hiện 125 trường hợp đang sử dụng 187 khu đất vi phạm Luật đất đai. Cho đến hiện nay phòng đã giúp UBND quận thành lập hồ sơ của 51 đơn vị với diện tích 1076,19 m2 trình UBND Thành phố ra quyết định thu hồi (có 27 trường hợp đã được UBND thành phố quyết định thu hồi). Phòng đang thành lập 13 hồ sơ trình thành phố thu hồi năm 2007. + Kiểm tra tình hình sử dụng đất nhằm khắc phục và xử lý các vi phạm Luật đất đai, ngăn chặn những phát sinh không tốt. Phòng được UBND giao cho nhiệm vụ kiểm tra các đơn vị sử dụng đất có đúng mục đích không.Kết quả của cuộc kiểm tra nhu sau: Kiểm tra 20 trường hợp thì có đến 6 trường hợp sử dụng sai mục đích. Phòng đã lập hồ sở đề nghị UBND thành phố xử lý 15 đơn vị đã được giao đất nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc thực hiện nhưng chưa đầy đủ. +Về công tác giải phóng mặt bằng. Tính đến năm 2006 Quận đã giải phóng cho hơn 150 dự án theo các quyết định thu hồi đất của chính phủ và Thành phố vở tổng diện tích hơn 20.683.400 m2 và đã trả tiền đền bù được 1.550.946 triệu đồng. Một số dự án lớn như cầu Thanh Trì, các khu chung cư như Việt Hưng,Thạch Bàn đã được hoàn thành hầu hết công tác giải phóng mặt bằng do UBND các phường tích cực giải quyết vấn đề đên bù cho dân thoả đáng. +Công tác giải quyết đơn thư: trong năm 2006 phòng tài nguyên môi trường và Nhà đất Quận đa nhận được hơn 100 đơn thư có liên quan đến quản lý đất đai, trong đó gần 1/2 là về đất ở của dân. Quận đã giải quyết được 35 vụ, 10 vụ đã có quyết định nhưng vẫn còn khiếu nại, 25 vụ chuyển về các phường để giả quyết theo thẩm quyền đã được quy định, còn lại hồ sơ vẫn con đang được xem xét, bàn giao để có hướng giải quyết tôt nhất. + Phòng tài nguyên môi trường và nhà đất Quận đã hoàn thành những công tác cụ thể như: Giải quyết được 1.320 bộ hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở. Kiểm tra và cấp trích lục cho 70 đơn vị,cá nhân, hộ gia đình. Trong đó có 15 trích lục để vay vốn ngân hàng, 17 trích lục dùng giải quyết đơn thư, 9 trích lục dùng để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, 28 trích lục dùng cho xây dựng cơ bản còn lại sử dụng vào công việc khác. 3/ Thực trạng công tác cấp GCN đất ở trên địa bàn Quận Long Biên. 3.1/ Tiến độ cấp GCN của quận Long Biên qua các năm. Tính đến năm 2004, t thành phố Hà Nội đã cấp được 147,829 GCN quyền sử dụng đất trong đó Long Biên cấp được 11389 hồ sơ theo nghị định 60/CP và theo quyết định 65/2001/QĐ-UB. Bảng:Tình hình cấp GCN quyền sử dụng đất trên địa bàn Quận Long Biên năm 2004. Đơn vị: GCN Nguồn: Phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất quận Long Biên- TPHN Thực hiện 2005. Bảng: Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất ở trên địa bàn Quận Long Biên năm 2005. Đơn vị: GCN STT Phường Kế hoach cấp năm 2005 Năm 2005 đã cấp % Kế hoạch Kế hoạch cấp năm 2006 1 Long Biên 314 141 45.00 496 2 Việt Hưng 602 261 43.36 700 3 Ngọc Lâm 1380 821 59.49 955 4 Ngọc Thuỵ 960 432 45.00 720 5 Sài Đồng 817 189 23.13 915 6 Bồ Đề 894 203 22.71 670 7 Thạch Bàn 712 912 128.09 850 8 Gia Thuỵ 630 278 44.13 830 9 Phúc Đồng 973 538 55.29 1030 10 Thượng Thanh 816 396 48.53 615 11 Giang Biên 135 51 37.78 203 12 Cự Khối 554 249 45.00 689 13 Phúc Lợi 258 89 34.50 243 14 Đức Giang 130 59 45.00 150 Tổng 9175 6351 69.22 9066 Nguồn: Phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất Quận Long Biên. Bản biểu iến độ cấp GCN nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn Quận Long Biên năm 2006. Đơn vị: GCN STT Phường Kế hoạch cấp năm 2006 Năm 2006 đã cấp % Kế hoạch thực hiện 1 Long Biên 496 487 98.19 2 Việt Hưng 700 811 115.86 3 Ngọc Lâm 955 678 70.99 4 Ngọc Thuỵ 720 431 59.86 5 Sài Đồng 915 592 64.70 6 Bồ Đề 670 739 110.30 7 Thạch Bàn 850 598 70.35 8 Gia Thuỵ 830 399 48.07 9 Phúc Đồng 1030 962 93.40 10 Thượng Thanh 615 615 100.00 11 Giang Biên 203 105 51.72 12 Cự Khối 689 419 60.81 13 Phúc Lợi 243 211 86.83 14 Đức Giang 150 65 43.33 Tổng 9066 7112 78.45 Nguồn: Phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất Quận Long Biên 3./Tổ chức quyền sử dụng đất ở3./Tổ chức giao GCN và quản lý GCN trên địa bàn quận Long Biên. 4/Đánh giá thực trạng cấp GCN quyền sử dụng đất ở trên địa bàn quận Long Biên. Nhìn chung công tác cấp GCN quyền sủ dụng đất ở của quận trong thời gian qua rất tốt, dưới sự chỉ đạo tiếp và quan tâm giúp đỡ của UBND quận cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội.Phòng Tài nguyên Môt trường và Nhà đất Quận Long Biên đã hướng dẫn chỉ đạo các phường, các thị trấn triển khai việc thực hiện các Quyết định, văn bản hướng dẫn có liên quan đến công tác cấp GCN quyền sử dụng đất như Luật đất đai 2003, Nghị định 181, Quyết định 23/2005/QĐ-UB . Việc đo đạc, lập kế hoạch sử dụng đất, lập bản đồ địa chính luôn được thực hiện hàng năm, phòng tài nghuyên môi trường luôn cùng các phường, thị trấn thực hiện công tác kê khai đăng ký đất đai để nắm được số lượng đất đai, chủ sử dụng, diện tích để luôn được cập nhật chỉnh lý bản đồ, hồ sơ địa chính phù hợp với thực tế. Về công tác thanh tra giải quyết đơn thư khiếu nại cũng được phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất quận luôn luôn quan tâm để thực hiện việc cấp GCN cho các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn toàn quận. Năm 2004 mặc dù mới là thời gian đầu thành lâp nhưng quận đã cấp được 11389 GCN đạt 53.36% kế hoạch đề ra . Năm 2006 cấp được 7112 GCN đạt 78.45% kế hoạch trong đó hồ sơ kê khai đăng ký là 8134 hồ sơ. Công tác thanh tra kiểm tra trên địa bàn quận đã thực hiện rất nghiêm túc, xử lý các trường hợp vi phạm nghiêm minh nên các đối tượng khác thấy đó mà giảm bớt những sai phạm. Do được tuyên truyền giáo dục nên người dân đã hợp tác với cơ quan chức năng rất nhiệt tình tạo thuận lợi cho công tác giải quyết tranh chấp, cấp GCN. Các công tác sang tên trước bạ, giải phóng mặt bằng, giải quyết đơn thư tuy rất nhiều nhưng phần lớn đã được thực hiện như: 2500 hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất đã được giả quyết. Tổ chức triển khai giải pgong mặt băng cho hơn 60 dự án theo quyết định thu hồi đất của chính phủ, đã thu hồi 6.142.200 m2 và đã chi trả tiềnđền bù được 1.300.240 triệu đồng. năm2006 đã nhận được 105 đong thư của 65 vụ việc liên quan đến công tác quản lý đất đai đô thị, đã giải quyêt được hơn 35 vụ.. 4.2/ Tồn tại. Song song với kết quả như trên, công tác quản lý đất đai còn nhiều vướng mắc. + Trình độ chuyên môn của cán bộ địa chính cấp cơ sở chưa đáp ứng được với yêu cầu của công tác quản lý đất đai tại địa phương. Mặt khác hiện nay một số xã cán bộ địa chính được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ nên cũng gây không ít khó khăn cho công tác quản lý đất đai. + Một số địa phương để dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang làm đất ở, mua bán trao tay nhưng chưa xử lý kịp thời. + Việc giao đất cho thuê đất không đúng thẩm quyền vẫn thường xuyên xảy ra ở một số phường, xã. + Các văn bản pháp quy của Nhà nước về đất đai thiếu đồng bộ, một số điểm chưa rõ ràng, cơ chế chính sách chưa phù hợp dẫn đến việc cấp GCN quyền sử dụng đất và công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn phức tạp. +Hồ sơ địa chính chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý đất đai của cấp cơ sở như bản đồ năm 1960, 1974 còn thiếu, Hệ thống sổ sách như sổ mục kê,sổ đăng ký cấp GCN bị thất lạc hoặc bị mất. Các trang thiết bị bảo quản hồ sơ còn thiếu. + Việc quản lý quỹ đất công, đất không giao ổn định lâu dài theo Nghị định 64/CP còn tuỳ tiện, lỏng lẻo, sử dụng sai mục đích. Nhiều phường chưa thực hiện đúng chức năng qủn lý và tổ chức sử dụng quỹ đất công ích theo luật đất đai. + Một số hộ dân chưa có ý thức và mong muốn được cấp GCN quyền sử dụng đất ở. Do đó làm giảm tiến độ đăng ký, kê khai phân laọi hồ sơ và cấp GCN. + Tình trạng lấn chiếm đất công ở các khu vực đất nông nghiệp ven khu dân cư và xảy ra nhiều nhất ở các phường ven đô. + Phần lớn việc chuyển nhượng đất không thông qua các cơ quan các cấp có thẩm quyền mà chỉ dừng lại ở việc xác nhận ở cấp phường. Cá biệt có trường hợp mua bán trao tay làm thât thu cho ngân sách nhà nước. 4.3/ Những nguyên nhân. a/ Nguyên nhân chủ quan. Công tác tuyên truyền ở các cấp, các ngành chức năng chưa thường xuyên và liên tục, nên dẫn đến sự hiểu biết của nhân dân và các đối tượng sử dụng đất về Luật đất đai còn hạn chế. Các phường chưa có biện pháp tích cực để ngăn chặn kịp thời và giải quyết lịp thời các vi phạm về đất đai ở địa phương. Bộ máy địa chính cấp cơ sở. Do thay đổi cán bộ địa chính hoặc một số phường cán bộ địa chính đã quá tuổi, không được đào tạo đúng chuyên ngành nên không đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, cán bộ không nắm vững tình hình đất đai của quận. một số cán bộ lãnh đạo UBND phường, cán bộ địa chính phường chưa thực sự được quan tâm đến công tác quản lý đất đai, Mặt khác do trình độ còn hạn chế dẫn đến việc tổ chức thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp, việc xử lý vi phạm, khiếu nại, tranh chấp đât đai chưa kịp thời còn né tránh đùn đẩy. hơn nữa, do sự buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý đất đai nói chung, công tác cấp GCN nói riêng của cán bộ địa chính xã, huyện trước đây. b/ Nguyên nhân khách quan. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai và các quy định về cấp GCN quyền sử dụng đất chưa kịp thời, nhiều nội dung còn chưa rõ ràng gây ra nhiều khó khăn trong khi thực hiện. Về thủ tục quy trình cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị còn rườm rà, mất thời gian. Chính sách truy thu nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa hợp lý như lệ: lệ phí trước bạ còn cao(1% giá trị đất, bất luận nguồn gốc)tiền sủ dụng đất thì chia làm nhiều mức căn cứ vào thời gian sử dụng nên rất khó xác định. Do tốc độ đô thị hoá nhanh trên địa bàn quận, đặc biệt là sự hình thành các khu công nghiệp, các khu đô thị mới đã tạo ra những biến động lớn về đất đai, giá đất tăng dần đến nhiều hiện tượng vi phạm luật đất đai. Ý thức chấp hành Luật đất đai của người dân còn hạn chế, cùng với sự quản lý lỏng lẻo và không kịp thời dứt điểm của chính quyền địa phương và các cở quan chức năng. Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện và đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất ở trên địa bàn Quận Long Biên. Phương hướng, nhiệm vụ công công tác cấp GCN quyền sử dụng đất ở trên địa bàn quận Long Biên. Trong thời đại ngày nay những vấn đề đất đai rất nóng bỏng và đặc biệt là nhu cầu hiện nay của dân cư về nhà ở rất lớn và đa dạng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm giải quyết triệt để, mang lại cuộc sống ổn định cho người dân, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, công bằng văn minh. Để cùng với Nhà nước, các cấp chính quyền, phòng Tài nguyên môi trường và Nhà đất quận Long Biên đã và đang tiếp tục phát huy những truyền thống tốt đẹp đã có, luôn năng động sáng tạo trong công việc để đưa công tác quản lý đất đai đi vào nề nếp, có khoa học đạt hiệu quả cao đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân an tâm trong vấn đề ăn ở và cũng thu hút các nhà đầu tư triển khai các dự án đầu tư. Để đạt được tiến độ mà sở tài nguyên môi trường và Nhà đất đã giao, quận đê ra những phương hướng chỉ đạo tới các phường. Đó là: Tiếp tục cấp GCN quyền sử dụng đất ở theo quyết định 23/2005/QĐ-UB cho các phường trong năm 2007. Tiếp tục kiểm tra việc chấp hành luật đất đai theo chỉ các chỉ thị của UBND thành phố Hà Nội. Tiếp tục hướng dẫn thủ tục và trình tự thụ lý trình UBND quận và Thành phố hợp thức hoá cho các hộ do thôn và xã cấp trái thẩm quyền theo kết luận của thanh tra Thanh tra trước đây gồm Cự Khối, Giang Biên.. Thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng tập trung một số dự án trọng điểm như các khu đô thị: Việt Hưng, Sài Đồng, Thạch Bàn. đường 5 kéo dài, đấu giá quyền sử dụng đất. Giải quyết đơn thư kịp thời, đúng pháp luật . Phối hợp với ban quản lý dự án và các phường lập dự án đầu tư đấu giá các quỹ đất nhỏ lẻ, đất kẹt, đất thu hồi. Phối hợp với phòng tổ chức chính quyền và Công ty địa chính cắm mốc địa giới hành chính các phường. Chỉ đạo thực hiện sát sao, chặt chẽ tới từng tổ dân phố, từng hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Tập trung làm gọn từng điểm, từng tổ dân phốvới phương châm “dễ làm trước khó làm sau.” Thường xuyên tập trung chỉ đạo xuyên suốt từ Thành phố đến Quận, từ quận đến phường và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên phải thực hiện kiểm tra , đôn đốc, giao ban, kịp thời tháo gỡ những khó khăn của từng trường hợp và từng địa bàn để đẩy nhanh tiến độ của công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị trên địa bàn quận Long Biên. Giải pháp. Để điều kiện đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất ở trên địa bàn Quận Long Biên-Thành phố Hà Nội, cần có sự phối hợp của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương, từ Trung ương đến địa phương, từ sở tài nguyên Môi trường và nhà đất đến UBND các quận và phòng TNMT và nhà đất của Quận Long Biên ccần rút ngắn thủ tục tạo sự nhanh chóng, rút ngắn thời gian, tránh sự phiền hà cho người dân. Và trong thời gian thực tập cũng như tìm hiểu tại Sở Tài Nguyên- Môi trường và Nhà đất Hà Nội 2.1/ Về văn bản pháp luật và các chính sách về đất đai. Văn bản pháp luật là cơ sở páp lý quan trọng giúp cơ quan thẩm quyền tiến hành cấp GCN theo luật định.Hiện nay hệ thống pháp luật. Hiện nay, hệ thống luật và pháp lệnh về đất đai và nhà ở còn chưa đồng bộ, chưa sát với thực tế. Ví dụ như: Nghị định số 60/CP của chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị ban hành năm 1994, trong đó có những điều đã quá xa vời với thực tế hiện nay. Nghị định 87/CP của chính phủ về quy định khung giá đất quy định trong khung giá đất quy định trong khung giá tuy có hệ số điều chỉnh nhưng vẫn còn rất thấp so với thực tế, làm cho công tác thu tiền lệ phí để cấp GCN còn chậm . Do đó có ảnh hưởng tới tiến độ cấp GCN. Bên cạnh đó có một số điều trong văn bản pháp luật còn tình trạng tự làm theo ý mình. Chính phủ cần có những quy định mới, có những sửa đổi thay thế ngay một số văn bản đã có cũ lạc hậu. Cần ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo có nội dung cụ thể hơn cấp quận, cấp phường, để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quận, phường. Đối với các văn bản mới thay thế các văn bản cũ phải có thông báo huỷ bỏ rõ ràng những điều kiện, chương, hoặc toàn bộ văn bản cũ, phải công bố và hướng dẫn thực hiện các văn bản mới; có như vậy mới tránh được việc sử dụng lẫn lộn giữa các văn bản cũ và mới. Phòng Tài nguyên-Môi trường và Nhà đất phối hợp với UBND có những buổi phổ biến cho người dân biết các quy định trong các văn bản pháp luật Nhà Nước mứo ban hành,những điều kiện và thủ tục đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở, đặc biệt các quy định về thu tiền cấp GCN, có nhiều người dân còn mơ hồ không biết mẫu GCN như thế nào, phải nộp những khoản gì với mức bao nhiêu làm cho công tác chuẩn bị hồ sơ rất mất thời gian và công sức của dân 2.2/ Về đội ngũ cán bộ. Cần tăng cường đội ngũ cán bộ địa chính nhà đất quận. Xây dựng một đọi ngũ cán bộ trong s, lành mạnh, có trình môn cao. Thường xuyên tổ chức các đợt bồi dưỡng lý luận chính trị, pháp luật và kiến thức chuyên ngành cho cán bộ cơ sở . Đưa một số cán bộ chưa được đào tạo chính quy đi học tập trau rồi kiến thức chuyên ngành. Cần trang thiết bị hiện đại cho cán bộ địa chính như các thiết bị đo vẽ, máy tính, máy quét. Phát huy trách nhiệm lãnh đạo cấp phường, thị trấn. Cấp này đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở chuyển biến như thế nào phụ thuộc chủ yếu vào khâu này, họ phải chủ động tìm ra nhiều biện pháp tháo gỡ vướng mắc thì mới đẩy nhanh được tiến độ. Đồng thời tăng cường quyền hạn, nhiệm vụ cho cấp phường, trong các khâu kê khai đăng ký, đo vẽ sơ đồ xác định nguồn gốc nhà đất, xét duyệt cấp GCN. Cấp thành phố tập trung vào hướng dẫn, kiểm tra và thẩm định hồ sơ thuộc thẩm quyền. Kiện toàn bộ máy phòng Điạ chính quận theo quy định có 14 đồng chí (hiện nay có 10 đồng chí) . Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của phòng phải xây dựng quy chế hoạt động, phân công công việc rõ ràng , đúng người, đúng việc, có kiểm tra đôn đốc để mọi cán bộ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Phải thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, kiến thức pháp luật cho cán bộ của phòng Tài nguyên môi trường và nhà đất đô thị quận và cán bộ địa chính cơ sở phường; để luôn luôn có một đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm về thực tế, kinh nghiệm xử lý trong các tình huống, xẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ. Thay thế cán bộ địa chính không đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp. 2.3/ Công tác thông tin, tuyên truyền. Công tác thông tin tuyên truyền cũng hết sức quan trọng cần tăng cương gaío dục tuyên truyền các văn bản pháp luật đến từng cán bộ, đến từng người sử dụng đất. Đối với cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ trong ngành địa chính nói riêng trước hết phải nắm chắc sđược pháp luật chung về đất đai, những chủ trương và chính sách cuả Đảng, Nhà nước cùng những hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên; phải cập nhất thường xuyên những thay đổi về cơ chế chính sách, văn bản pháp luật. Tiếp theo, phải nắm vững được tình hình sử dụng đất địa phương mình quản lý, tình hình cấp GCN tại địa phương, thấy những khó khăn, cản trở đối với công tác này và tìm giải pháp tháo gỡ. Từ đó với những hiẻu biết của mình góp phần cùng nhà nước tăng cường hiểu biết pháp luật về đất đai cho người dân, hạn chế những vi phạm pháp luật đất đai có ảnh hưởng đến công tác cấp GCN quyền sử dụng đất ở địa phương. Cán bộ địa chính phai tuyên truyền giải thích cho dân hiểu rõ vai trò, mục đích công tác đăngn ký cấp GCN qử dụng đất ở đô thị, phải hướng dẫn người dân đăng ký kê khai , giải thích những điều chưa rõ ràng khi người dân thắc mắc.Có như thế người cán bộ mới hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình làm cho người dân hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết của công tác cấp GCN quyếnử dụng đất ở. Lúc đó dân sẽ có thái độ hợp tác hơn nữa với cán bộ địa chính, tự nghuyện kê khai một cách chính xác, đúng quy định, rút ngắn thời gian kê khai, đăng ký bổ sung, hoàn thiện hồ sơ, góp phần đẩy nhanh tiến độ của công tác cấp GCN quyếnử dụng đất ở trên địa bàn đô thị. Muốn thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn các văn bản Pháp luật cần có sự phối hợp giữa Nhà nước và cơ quan liên ngành các cán bộ ở cơ sở với những biện pháp cụ thể để thông tin những chính sách Pháp luật về đất đai, Những văn bản mới, những thay đổi liên quan đến công tác cấp GCN và những thay đổi khác liên quan đến người sử dụng đất. Có thể thông qua sự hướng dẫn phổ biến trực tiếp từ cán bộ tới người dân, hoặc có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, cuộc trao đổi thảo luận, hỏi đáp.. 2.4/ iều chỉnh hợp lý chính sách tài chính về đất đai. Những tồn tại của chính sách tài chính đối với đất đai đã nêu trên, Nhà nước cũng như UBND thành phố cần nghiên cứu sửa đổi chính sách tài chính sao cho phù hợp nhằm thúc đẩy tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất. Đồng thời đem lại sự công bằng cho người dân. Vì vấn đề tài chính liên quan đến lưọi ích của quần chúng nhân dân nên việc dảm bảo công bằng sẽ thực sự khơi thông rào cản đối với tiến độ đăng ký , cấp GCN vì nó phản ánh đúng tâm lý công bằng của người dân. Để đ đôi với tính công bằng Nhà nước nên xem xét, bổ sung hoàn thiện chính sách tài chính đối với đất đai để tạo điều kiện cho tất cả những người muốn có “sổ đỏ” thực hiện nguyện vọng của mình. Trước mắt Nhà nước cần chịu thiệt thòi để cấp nhanh GCN nhằm đạt được mục tiêu quản lý quỹ đất và bảo vện lợi ích của người sử dụng đất, tiếp đó các giao dịch dân sự về nhà đất được thực hiện Nhà nước sẽ thu lại sau vẫn chưa muộn .Nhà nước cần có quy đinh về nghĩa vụ tài chính theo thu nhập của người sử dụng đất và theo điều kiện cơ sở hạ tầng đô thị. 2.5/Giải pháp về quy hoạch. Trước đây tồn tại hai quan điểm về cấp GCN cho những khu vực liên q uan đến quy hoạch. Khi cấp GCN quyền sở hữu đất ở các hộ hia đình, cá nhân không có giấy tờ hợp lệ nếu nằm trong vùng quy hoạch đã được phê duỵệt , có quyết định thu hồi đất đai. Và có phương án cắm mốc giới, hoặc chưa có quyết định của các cấp chính quyền) đều không được cấp GCN. Sau đó UBND tthành phố có hướng dẫn chỗ nào có dự án đã cắm mốc thì không cấp. Vì vậy các cấp chính quyền địa phương không đẩy nhanh được việc cấp GCN ở những khu vực này. Hiện nay quan điểm khi người dân đã ở ổn định, không có tranh chấp trước ngày 18/12/1980 dù có trong quy hoạch hay không đèu được cấp GCN. Vì GCN quyền sử dụng đất ở là chứng thư đảm bảo cho công tác đền bù nhanh chóng vì vậy coi cấp GCN chính là một biện pháp khi đền bù giải phóng nhằm thực hiện dự án một cách dễ dàng 2.6/ Tăng cường sụ phối hợp của các cơ quan liên ngành. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất ở tại địa bàn quận Long Biên, bởi vì ở đây tốc độ xây dựng rất lớn và hiện chủ yếu là xây dựng nhà ở. Nên việc phối hợp với các nhành có liên quan đến địa chính như ngành xây dựng, môi trường là hết sức quan trọng cần thiết để thống nhất trong việc xử lý các trường hợp cụ thể, nâng tiến độ cấp GCN trong những năm tới. 2.7/ Thanh tra kiểm tra trong công tác đăng ký cấp GCN quỳền sử dụng đất ở. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra giúp cơ quan quản lý phát hiện, ngăn ngừa những thiếu xót, sai phạm trong quá trình quản lý đất đai. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tình hình sử dụng đất, kiên quyết xử lý những vi phạm vvề đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của cấp phường về cấp GCN quỳền sử dụng đất ở. Kiểm tra chặt chã các khâu của quá trình đăng ký, xét, cáp GCN để có những điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra các điều kiện liên quan như: Tài liệu lưu trữ, hồ sơ, sổ sách, tài liệu đo đạc bản đồ, kinh phí Kiểm tra việc chỉ đạo đôn đốc UBND các cấp đối với việc tiến hành công tác cấp GCN, kiểm tra việc tuân thủ các chể độ của ngành về quy trình thủ tục đăng ký. Kiểm tra việc thiết lập bảo quản, lưu trữ hồ sơ địa chính của cở sở. Trên cở sở công tác thanh tra kiểm tra tiến hành công tác đăng kýcấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị một cách chính xác và công bằng. 2.8/ Về khoa học công nghệ. Áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trợ giúp công tác quản lý đất đai nói chung, công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở đô thị trên địa bàn quận nói riêng. Để phát triển nhành địa chính ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, hiện đại hoá và tin học hoá công tác quản lý thông tin, giữ liệu phục vụ quản lý đất đai. Trước hêt phải đưa công nghệ tin học, vi tính vào công tác đo đạc, khảo sát, trợ giúp cho viẹc lập quy hoạch chi tiết các cấp một cách chính xác, bởi nhờ có công nghệ thông tin chúng ta có thể đo vẽ một cách chính xác nhất trong thưòi gian ngắn nhất. từ đó thômg qua quy hoạch sử dụng đất định hướng sử dụng đất được xác định rõ ràng hơn khoa học hơn giúp người dân yên tâm lựa chọn những phương án tối ưu cho mảnh đất mà mình sử dụng. Làm cho đất đai được sử dụng hiệu qủa hơn. Vì công nghệ thông tin phải đựoc sử dụng vào phục vụ đo, vẽ số hoá bản đồ, sổ sách, tài liệu. Để tạo một cơ sở dữ liệu đầy đủ gọn nhẹ mà chính xác phục vụ đắc lục cho việc xác định nguồn gốc đất đai, là một cơ sở để thực hiện công tác cấp GCN quyền sử dụng đất. Đồng thời với sự trợ giúp của công nghệ thông tin đưa ra những tài liệu, những cơ sở pháp lý có ý nghĩa quan trọng đối với việc xử lý những tranh chấp, vi phạm xử dụng đất đai. Giải quyệt những vướng mắc trong quá trình kê khai đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất. Công nghệ thông tin có giữ được sự liên lạc giữa cấp trên, cấp dưới, các ban ngành liên quan với nhau và với người sử dụng đất. Từ đó giúp cho công tác kiểm tra, thanh tra, chỉ đạo, đôn đốc công tác quản lý nhà nước về mặt đất đai nói chung và công tác đăng ký cấp GCN quyền sử dụng đất ở nói riêng được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn giảm thưòi gian và kinh phí đáng kể cho nhân sách nhà nước. Hơn nữa với một hệ thống thông tin hiện đại, những chủ trương đường lối chính sách của Đảnh và nhà nước cũng đến cán bộ quản lý một các nhanh chóng và đầy đủ hơn. 2.9/ Một số giải pháp khác. Cần tiến hành bổ sung cho những hồ sơ còn tồn đọng. Những hồ sơ còn tồn đọng này phần lớn là có nguòn gốc rất phức tạp nên đã kê khai từ lâu vẫn chưa giải quyết hét vì thế nay cần tiến hành nhanh chóng giải quyết rứt điểm để có thể quản lý được quỹ nhà đất thuộc diện này. Việc xét nguồn gốc là rrất khó khăn do đó để đẩy nhanh tiến độ cấp GCN, Nhà cần đầu tư kinh phí cho cán bộ làm công tác có liên quan đến những hồ sơ dạng này, có thể đặt kế hoạch dứt điểm để quyết tâm hoàn thành, thậm chí có thể làm thêm giờ. Hiện nay nguồn nhân lực cầm thiết cho ngành địa chính còn thiếu nhất là quận lại mới đươc thành lập. Để giải quyết được tình trạng thiếu cán bộ làm công tác địa chính UBND quận cần chủ đông ký hợp đồng làm việc với sinh viên các trường đại học mới ra trường làm bổ sung nguồn nhân lực. Việc khuyến khích lợi ích đối với cán bộ cấp phường là rất quan trọng. Để họ yên tâm, phấn khởi công tác vì họ làm việc rất nhiều nhưng đồng lương chưa xứng đáng sẽ không yên tâm làm việc do hiện nay nhiều khoản phải trang trải nhất là ở Hà Nội. Sở tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà Nội cần cử cán bộ thường xuyên kiểm tra đôn đóc các quận, phường đẩy nhanh tiến độ kê khai đăng ký, phân loại hồ sơ ngay tại cỏ sở để đẩy nhanh tiến độ đòng thưòi phát hiện những cá nhân và cơ quan làm việc tốt để có sự khuyến khích động viên kịp thời và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho việc đo vẽ bản đồ địa chính tỷ lệ lớn bao gồm tỷ lệ 1/200 và 1/500 để tạo điều kiện xét duyệt hồ sơ được nhanh chóng. 3/ Kiến nghị. Phòng Tài Nguyên môi trường và Nhà đất quận Long Biên kết hợp với các phường đẩy nhanh công tác thực hiện thí điểm lập hồ sơ địa chính để nhanh chóng rút kinh nghiệm sẵn sàng đưa vào áp dụng ở những nơi đã hoàn thành cấp GCN quyền sử dụng đất ở ban đầu. Các cấp các ngành cần theo dõi sát sao hơn nữa và chỉ đạo kịp hời về đưòng lối giải quyết những vướng mắc của cấp cơ sở để đẩy nhanh tiến độ cấp GCN đưa mục tiêu hoàn thành việc cấp GCN quyền sử dụng đất ở vào năm 2007 trở thành hiện thực. Để giảm bớt khâu vẽ sơ đồ kỹ thuật thửa đất và in GCN ngành địa chính cần đầu tư các thiết bị kỹ thuật hiện đại lưu những số liệu khi đo và sau khi đo xong về lắp vào máy tính điện tử xử lý ngay và đưa vào lưu trữ hoặc in ra GCN không phải mất thòi gian vẽ lại trên máy tính vì mỗi năm Quận phải cấp rất nhiều giấy GCN quyền sử dụng đất ở. Việc in ấn đã hiện đại và đáp ứng được yêu cầu in GCN nên quận cần tập trung giải quyết những vướng mắc từ phía chính sách, từ phía quy hoạch và phía cán bộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0135.doc
Tài liệu liên quan