Đề tài Các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Như vậy có thể thấy rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phù hợp nhất đối với hoàn cảnh của nước ta, nó giúp nước ta có thể hoàn thành định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Qua việc nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho em thấy được những thách thức và cơ hội của mình trong tương lai. Em hy vọng rằng với những kiến thức có được trong trường đại học, sau khi ra trường em có thể đóng góp sức mình trong sự phát triển của nền kinh tế, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

doc22 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1975 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Phần mở đầu Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản trong nền kinh tế nước ta, cơ sở vật chất hạ tầng còn rất thấp kém, trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh, sản xuất phân tán nhỏ lẻ kỹ thuật thủ công mang nặng tính bảo thủ, trì trệ, phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên chiếm ưu thế và được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Tuy nhiên, nền kinh tế tự cấp tự túc đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế. ở Đại hội Đảng 7 cương lĩnh Đảng khẳng định "tiếp tục xây dựng xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế" phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Văn kiện Đại hội Đảng VII khẳng định: tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành những lĩnh vực trọng yếu. ở Đại hội Đảng IV Đảng ta tiếp tục hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường đổi mới và phát triển có hậu quả khu vực kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo xác định những ngành và lĩnh vực cần tập trung nguồn lực để củng cố và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. B- Nội dung I- Sự cần thiết phải chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Những đặc trưng cơ bản củanền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và tác động của nó đối với nền kinh tế. Thứ nhất là Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ cho Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Như vậy đặc trưng này cho thấy rằng nền kinh tế đã tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước, tức là tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan mà không nhận thấy vai trò của nguyên tố khách quan, vìvậy nền kinh tế phát triển sẽ không bền vững và không đáp ứng được yêu cầu khách quan. Thứ hai là các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Các cơ quan hành chính kinh tế là nơi đưa ra mọi quyết định đối với các đơn vị kinh tế, tuy nhiên họ không đứng trên cơ sở khách quan để ra quyết định, mà quyết định là mang tính chủ quan, hơn nữa họ không phải chịu trách nhiệm vật chất đối với quyết định của mình nên những quyết định được đưa ra rất chủ quan và ít mang tính hợp lý. Hơn nữa đứng về phía các đơn vị kinh tế họ không hề có quyền quyết định trong sản xuất mà chỉ làm theo mệnh lệnh không cần quan tâm đến sự hợp lý của việc sản xuất cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều này đã gây nên tính ỷ lại vào cấp trên, làm mất tính năng động sáng tạo trong các đơn vị sản xuất. Thứ ba là bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hậu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc về vật chất đối với người được cấp phát với đặc trưng này làm cho người sản xuất không cần quan tâm đến chất lượng và tính thích hợp của sản phẩm bởi họ cứ sản xuất ra thì sẽ được tiêu thụ, vì vậy làm cho chất lượng hàng hoá của ta so với thế giới rất thấp kém công nghệ lạc hậu không có khả năng cạnh tranh. Đồng thời người sản xuất không quan tâm đến hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, bởi lẽ nếu lỗ đã được Nhà nước chu cấp. Vì vậy đã làm mất tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất. Thứ tư là bộ máy quản lý rất cồng kềnh. Có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách lại quan liệu, cửa quyền. Nói tóm lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính năng động sáng tạo của người lao động... sản xuất xa rời với nhu cầu ý thức ý chỉ chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thần nền kinh tế, làm cho nền kinh tế suy thoái. 2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Từ sau khi Đảng ta công bố chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đến nay đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội như nước với lửa không thế dung nạp với nhau được do vậy xây dựng kinh tế thị trường là từ bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở lý luận cho loại ý kiến này là ở chỗ họ cho rằng Marx và Engels ngày xưa dự đoán sẽ không có thị trường và tiền tệ trong chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường là con đẻ của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên khi nghiên cứu rõ về kinh tế thị trường thì có thể thấy rằng ý kiến này là hoàn toàn không khoa học bởi lẽ khi Marxvà Engels dự kiến không còn sản xuất hàng hoá, thị trường và tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội là họ xuất phát từ luận điểm cho rằng cách mạng vô sản mở ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới hoặc ít ra là ở đại bộ phận các nước tư bản phát triển nhất ở đó tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất phát triển đến mức không còn sản xuất nhỏ, nhưng thực tế lịch sử cách mạng vô sản không diễn ra như vậy mà nổ ra ở những khâu yếu nhất tức là ở đó còn nền sản xuất tiểu nông với nhiều loại hình sở hữu chiếm đại bộ phận, lực lượng sản xuất kém phát triển, cơ sở vật chất lạc hậu. Do đó sau cách mạng vô sản vẫn còn tiền đề cho sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường. Hơn nữa kinh tế thị trường không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, bởi những lý do sau đây: Một là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá: kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra, còn bảnchất cố hữu của chủ nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hoá họ. Kinh tế hàng hoá không phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh mà loài người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Hai là, kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng đó không phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn mọt cấp so với chế độ kinh tế. Dưới cùng một chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhau. Do đó dưới cgxx không phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch mà cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường. Ba là, kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành, chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó tác động gián tiếp đến thể chế kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh tế thị trường là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy trong chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện được thể chế kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội Nhà nước là đại diện của chủ sở hữu đối với sở hữu toàn dân, Nhà nước nắm giữ quyền chiếm hữu còn quyền sử dụng kinh doanh thì trao cho doanh nghiệp, khi đó sẽ tạo ra những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng do đó sẽ hình thành được kinh tế thị trường. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chủ nghĩa tư bản nên lực lượng sxchưa phát triển cơ sở vật chất còn lạc hậu chính vì vậy thực hiện theo thể chế kinh tế thị trường là hoàn toàn phù hợp, tuy nhiên ta cần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển để có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy cơ chế kinh tế ở nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. II- Kinh tế thị trường - những đặc trưng đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1. Kinh tế thị trường. Có hai ý kiến khác nhau liên quan đến khái niệm kinh tế thị trường: một là xem "kinh tế thị trường" là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu, lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là một phương thức tổ chức vận hành kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là phương tiện, công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả. Tự nó không mang tính giai cấp - xã hội không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này ai cũng có thể sử dụng được kinh tế thị trường. Hai là xem kinh tế thị trường là một loại quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của qú trình hoạt động, có sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải chỉ là cá nhân riêng lẻ đó còn là những tập đoàn xã hội những giai cấp. Sự tác động qua lại giữa các chủ thể, hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này, có hại cho tầng lớp giai cấp khác. Cho nên kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó. Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó là ở giai đoạn phát triển trong chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy có nhiều người đã đồng nhất kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản đồng thời họ cho rằng trong chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại kinh tế thị trường. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn đã chứng minh rằng nền kinh kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và tồn tại của kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời tương đối giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do đó sự phân công lao động ... làm cho người sản xuất hàng hoá và người kinh doanh hàng hoá độc lập. Vì thế trong nền kinh tế nhất định sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tế đó vận hành trong môi trường kinh tế thị trường kinh tế thị trường. Đại hội Đảng 9 đã đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nội hàm của nó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. a. Cơ chế thị trường. Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức theo cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra những hàng hoá gì? sản xuất theo phương pháp nào? là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội, đó là những vấn đề cơ bản đó do Nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì? như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn, mà là một trật tự kinh tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. Lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. Nó quyết định thưởng hay phạt các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận hướng những người sản xuất vào lĩnh vực mà người tiêu dùng có nhu cầu nhiều và bắt phải rời bỏ những lĩnh vực có ít nhu cầu, cũng như buộc phải sử dụng công nghệ có hiệu quả nhất. b. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực vào phát triển kinh tế cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động nâng cao chất lượng và lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất. Trong cơ chế thị trường mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của xã hội, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Như vậy cơ chế thị trường có một loại những khuyết tật vốn có của nó. Do đó ngày nay không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp. c. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Như đã nói ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơchế thị trường có một loạt những khuyết tật. Vì vậy ở nước Nhà nước đã can thiệp để quản lý nền kinh tế. Nhà nước ở nước ta có các chức năng quản lý vĩ mô sau đây: Một là, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất. Có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả. Hai là, định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Bốn là, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội, thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Năm là, khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. 2. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hưonứg xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng mang đầy đủ những tính chất chung của một nền kinh tế thị trường như là: vận hành theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường, có chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ, thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế, giá cả do thị trường quyết định, Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên dưới sự ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử - xã hội của nước ta thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước tacũng có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường ở các nước khác. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng sau đây: Thứ nhất, là nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại 4 loại hình sở hữu chủ yếu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, chính sự đa dạng trong sở hữu ở nước ta là cơ sở cho việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, đó là tất yếu khách quan để có thể tập trung mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Chính vì vậy nước ta đã tập trung phát triển tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển, để tạo ra một nền kinh tế thị trường bình đẳng, thống nhất, nhanh chóng đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên nước ta là nước xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy để giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đó chính là điểm khác nhau căn bản giữa nền kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác. Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi hoạt động rộng khắp các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước tính chất chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước thể hiện qua 4 nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất, nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế và do đó tạo ra giá trị hàng hoá, dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được và dần dắt giá cả thị trường bằng sản phẩm của mình. Thứ hai, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển. Thứ ba, đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp nhưng cần thiết cho sự phát triển của kinh tế - xã hội như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường... Thứ tư, kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để ổn định nền kinh tế, hạn chế lạm phát. Việc phối kết hợp chặt chẽ giữa đa dạng hoá các thành phần kinh tế, phát triển toàn diện tất cả các thành phần kinh tế với giữ vững vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ tảoa một nền kinh tế thị trường gắn bó hữu cơ, thống nhất. Tuy nhiên, ở nước ta do chịu ảnh hưởng nặng nền của cơ chế cũ nên kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, vì vậy ở nước tacần phải tổ chức lại khu vực kinh tế Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý, xoá bỏ bao cấp về mọi mặt đối với kinh tế Nhà nước để thành phần kinh tế Nhà nước hoạt động hiệu quả. Hiện nay nước ta đang thực hiện cổphần hoá doanh nghiệp Nhà nước vừađảm bảo sự quản lý của Nhà nước thông qua cổ phiếu của mình đồng thời huy động được các nguồn lực trong xã hội và đổi mới về căn bản cơ chế quản lý doanh nghiệp. Thứ hai, là thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò nòng cốt. Chính sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta là nhân tố quyết định sự đa dạng của các hình thức phân phối. Có thể khẳng định rằng tồn tại nhiều hình thức phân phối trong nền kinh tế ở nước ta là tất yếu khách quan. Nước ta là nước xã hội chủ nghĩa vì vậy tất yếu tồn tại chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy việc phân định thu nhập của mỗi người chỉ có thể dựa vào kết quả lao động của mỗi người vì vậy phải tồn tại phân phối theo lao động. Đồng thời để có thể huy động được tối đa các nguồn lực của xã hội, thúc đẩy sự tích cực tham gia sản xuất kinh doanh thì phải có phân phối theo mứcđóng góp vốn và các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong xã hội có một số lượng không nhỏ những người không có hoặc đã hết khả năng lao động, nhưng xã hội vẫn phải đảm bảo cuộc sống cho họ, vì vậy tồn tại hình thức phân phối thông qua các quĩ phúc lợi. Như vậy trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay tất yếu tồn tại nhiều hình thức phân phối lao động, tuy vậy nước ta là nước xã hội chủ nghĩa vì vậy thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác giữ vai trò chủ đạo và nó tồn tại rộng khắp trên hầu hết các lĩnh vực, cho nên hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế giữ vai trò nòng cốt, đó chính là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, là cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vận động dựa trên các qui luật chung cuả kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường như là qui luật giá trị qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh hợp tác... các qui luật này sẽ chi phối mọi hoạt động của nền kinh tế. Trong đó qui luật giá trị qui định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế, qui định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Tuy nhiên nếu chỉ có như vậy thì đó là cơ chế thị trường tự do, mà cơ chế thị trường tự do thì tồn tại rất nhiều mặt tiêu cực dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như về mặt xã hội thì nó làm cho mối quan hệ giữa người và người bị lu mờ bởi đồng tiền, làm phai mờ bản sắc văn hoá dân tộc, như Mác và Ăngghen đã chỉ ra "không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối trả tiền ngay không tình nghĩa". Vì vậy cơ chế thị trường vận hành trong nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là cơ chế thị trường tự do, bởi lẽ nước ta là nước xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh, vì vậy cơ chế thị trường ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình, Nhà nước tác động mối quan hệ tổng cung, tổng cầu thực hiện điều tiết nền kinh tế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Như vậy cơ chế của nền kinh tế ở nước ta là: thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước thị trường các chủ thể kinh tế là một quan hệ hữu cơ, thống nhất. Thứ tư, là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại, xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế nước ta khi xây dựng kinh tế thị trường là nền kinh tế lạc hậu kém phát triển nhưng khi đó các nước khác trên thế giới đã chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại, mặt khác nhận thấy kinh tế thị trường tự do có khuyết tật không phù hợp khi ta xây dựng chủ nghĩa xã hội vì vậy nước ta đã xây dựng kinh tế thị trường hiện đại bỏ qua giai đoạn kinh tế thị trường tự do. Thứ năm, là Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là nhân tố quyết định tạo ra sự khác nhau căn bản của kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác trên thế giới, bởi lẽ ở các nước khác đặc biệt là ở các nước ta bản thì Nhà nước tác động tới nền kinh tế nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản, còn ở nước ta thì khác Nhà nước tác động tới nền kinh tế là vì quyền lợi của toàn dân, đặt dưới sự giám sát của toàn dân thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra mọt Nhà nước Việt Nam phát triển, công bằng, văn minh. Thứ sáu, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ được lợi ích của toàn dân tộc. Hiện nay trên thế giới quá trình xã hội hoá sản xuất đã rất phát triển, sự phát triển đó đã vượt qua ngoài lãnh thổ mỗi quốc gia, làm cho sự phát triển của mỗi quốc gia được đặt trong mối quan hệ với nhiều nước, các quốc gia vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cùng phát triển. Chính vì vậy trên thế giới đang có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đồng thời các tổ chức quốc tế được lập ra ngày càng nhiều, nhiều hiệp định thương mại đã được ký kết, các nước ngày càng xích lại gần nhau hơn. Đứng trong bối cảnh thế giới như vậy nước ta đã thực hiện mở cửa hội nhập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới gắn sự phát triển của nước ta với sự phát triển của khu vực và của thế giới. Chỉ có như vậy thì mới có thể thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài, áp dụng được kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh, tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tiên tiến qua đó có thể khai thác tối đa các thế mạnh trong nước, sử dụng các nguồn lực vốn có vào phát triển kinh tế để đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tụt hậu về trình độ và công nghệ so với thế giới. ở nước ta hiện nay thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm mà trong nước có thể sản xuất được. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta mở cửa tự do nền kinh tế, mà quá trình mở cửa đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước nhằm đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hoà nhập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và trên thế giới, tuy nhiên không đánh mất mình mà trên cơ sở hợp tác cùng có lợi đồng thời phát huy được lợi thế của đâts nước không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế để tạo chỗ đứng cho nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế, hoà nhập nhưng không hoà tan. Thứ bảy, là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hưonứg xã hội chủ nghĩa chính vì vậy ngoài mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì cần phải hạn chế nhưng khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, công bằng xã hội có thể hiểu là đảm bảo cho mọi tầng lớp dân cư được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực và trí tuệ mà mình đã bỏ ra, giảm khoản cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Tuy nhiên cần khẳng định rằng công bằng xã hội hoàn toàn khác về bản chất đối với chủ nghĩa bình quân, cân bằng thu nhập cho mọi người. Đảm bảo công bằng xã hội sẽ tạo ra động lực thúc đẩy quá trình sản xuất, từ đó tạo ra sự phát triển chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thứ tám, là giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản, được thực hiện thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế. ở các nước tư bản thì lao động quá khứ được coi trọng hơn lao động sống vì vậy trong phân phối thu nhập thì thu nhập của người lao động là rất thấp. Còn ở nước ta thì ngược lại, nhân tố con người là trung tâm của sự phát triển chính vì vậy đời sống vật chất và tinh thần của con người là mục tiêu hàng đầu, tuy nhiên ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tích luỹ và mở rộng sản xuất mà cần phải kết hợp hài hoà, tạo ra mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố này. So sánh giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có điểm giống và khác nhau. Sự giống nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động củacơ chế thị trường với hệ thống các qui luật: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh... Đồng thời ở cả hai loại thị trường này đều là nền kinh tế hỗn hợp tức là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên sự can thiệp của Nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là ở mục tiêu, phương thức và mức độ can thiệp của Nhà nước. Sự khác nhau đó thể hiện ở một sóo điểm như sau: Một là, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy chế độ tư hữu làm nền tảng thì kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa chủ yếu trên chế độ công hữu. Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên qui định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường. Hai là, nếu trong mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa các thành phần, các chủ thể kinh tế tồn tại biệt lập cạnh tranh, liên kết và loại trừ nhau thì ngược lại trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng không tồn tại đối lập, không loại trừ mà hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau cùng phát triển. Ba là, trong khi mục tiêu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là vì quyền lợi của từng nhà tư bản và của giai cấp tư sanr thì mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là vì nhân dân lao động, thực hiện công bằng xã hội. Bốn là, trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chính quyền là của giai cấp tư sản còn chính quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiện nay trên thế giới có một xu hướng rất đáng chú ý là Nhà nước tư bản chủ nghĩa đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các tầng lớp xã hội, các giai cấp khác nhau, để giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song đó sự chi phối và điều tiết của các qui luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, của lợi ích giai cấp, nên dù họ có ý thức tự điều chỉnh cũng khó thực hiện. Sự can thiệp của Nhà nước bảo đảm mục tiêu phát triển và công bằng chỉ có thể thực hiện được với một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Năm là, nhờ thực hiện chính sách phân phối theo lao động với các chính sách phân phối khác kết hợp với việc thực hiện các chính sách xã hội nên kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã giảm đáng kể được sự phân cực quá đáng như trong chủ nghĩa tư bản. III- Các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. a. Các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tạo điều kiện thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp và công dân đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Ta biết rằng, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, vì vậy để phát triển kinh tế thị trường thì trước hết phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. ở nước ta hiện tồn tại 4 hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Trong tình hình nước ta hiện nay, để thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, cần tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để đảm bảo các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, thực sự là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn, ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, mở rộng vịêc bán cổ phần cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp cơ bnả để tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước, vừa đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trong qua cổ phần của mình, đồng thời huy động được mọi nguồn lực trong xã hội vào phát triển kinh tế. Đối với kinh tế hợp tác, cần thực hiện chuyển đổi mô hình hợp tác kiểu cũ sang mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang mô hình hợp tác xã kiểu mới, đổi mới nội dung và phương thức quản lý, đẩy nhanh sự phát triển của kinh tế hựp tác trên các lĩnh vực của nền kinh tế. Khuyến khích các hình thức liên doanh, liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế cá thể tiêu chủ, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển mạnh. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, bảo đảmcơ hội và khả năng lựa chọn bình đẳng của các thành phần kinh tế trong tiếp cận về vốn, đất đai, lao động, công nghệ, trong sản xuất kinh doanh và trong xuất nhập khẩu tiếp tục phát huy tác động tích cực của luật doanh nghiệp. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Nhằm thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài vào phát triển kinh tế. 2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta. Như ta đã biết, phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường, vì vậy để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải phân công lại lao động xã hội. Trên cả nước phân công lao động xã hội đang theo chiều hướng: tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm, lao động công nghiệp tăng, tỷ lệ lao động tri thức tăng và chiếm phần lớn trong lao động xã hội, tốc độ tăng trong các ngành sản xuất phi vật chất nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. Để thúc đẩy phân công lao động ta cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên kỹ thuật công nghiệp tiên tiến. Vì vậy đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ tạo ra sự phát triển cho nền kinh tế cho nên sẽ gián tiếp thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. 3. Hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Xúc tiến việc hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đôi với tạo lập khung luật pháp bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân tiếp cận thị trường, ký kết hợp đồng, tự chủ và tự chịu trách nhiệm kinh doanh. Giảm đến mức tối đa sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Tăng qui mô hàng tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày càng nâng cao. Từng bước giảm giá cả hàng tiêu dùng và dịch vụ bằng cách giảm chi phí sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng, thích hợp nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội. Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn và tín dụng. Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín dụng, chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Tiếp tục hoàn thiện khung luật pháp và chính sách nhằm mở rộng thị trường lao động, tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc làm cho mỗi công dân, khuyến khích người lao động học tập, đào tạo và tự kiếm việc làm, phát triển thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển quyền sử dụng đất, mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh. Phát triển các thị trường dịch vụ như dịch vụ khoa học công nghệ,dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí tuệ, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm... xúc tiến nhanh việc ứng dụng thương mại điện tử, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào các dịch vụ nói trên. Đồng thời phải thực hiện cân bằng giữa các thị trường, đó là tất yếu trong quá trình phát triển thị trường, phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả, giá cả không thể bị áp đặt mà phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tuân thủ tự do giá cả thì đồng thời phải thực hiện bình ổn giá cả, muốn vậy phải đẩy mạnh sản xuất để tạo ra lượng hàng hoá dồi dào, đồng thời Nhà nước phải có lực lượng hàng hoá dự trữ, và phải có biện pháp ổn định tiền tệ. 4. Tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, nâng cao tính định hướng và dự báo, nâng cao chất lượng các qui hoạch và kế hoạch, gắn qui hoạch, kế hoạch với thị trường. Chính sách đầu tư của Nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư cho kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Xoá bỏ bao cấp trong đầu tư phát triển. Tăng cường hiệu lực và đổi mới cơ chế quản lý ngân sách Nhà nước theo định hướng triệt để tiết kiệm, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết địnhvà thực hiện ngân sách, thực hiện công khai, minh bạch trong chỉ tiêu ngân sách, tiếp tục cải cách chính sách thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; Đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ cấu chi tiêu ngân sách; Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, thúc đẩy đầu tư phát triển bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. 5. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại. Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển. Tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ... để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. C- Phần kết thúc. Như vậy có thể thấy rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phù hợp nhất đối với hoàn cảnh của nước ta, nó giúp nước ta có thể hoàn thành định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Qua việc nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho em thấy được những thách thức và cơ hội của mình trong tương lai. Em hy vọng rằng với những kiến thức có được trong trường đại học, sau khi ra trường em có thể đóng góp sức mình trong sự phát triển của nền kinh tế, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Lê nin: Bàn về thuế lương thực toàn tập 43 2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc 6, 7, 8, 9. 3. Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta - Tạp chí Cộng sản 8/01 4. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Tạp chí Cộng sản 2/2000. 5. Kinh tế thị trường và sự vận hành cơ chế thị trường ở Việt Nam - Tạp chí Cộng sản 9/1999 6. Vài suy nghĩ về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Tạp chí Phát triển kinh tế số 16. 7. Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa - Tạp chí Cộng sản 8/1999. 8. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin tập II. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35229.doc
Tài liệu liên quan