MỤC LỤC
 
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNVVN VÀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNVVN 1
1.1. KHÁI NIỆM VÀ TIÊU THỨC PHÂN LOẠI DNVVN . 1
1.1.1. Khái niệm 1
1.1.2. Tiêu thức phân loại 1
1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT DNVVN 2
1.2.1. Chính sách tài chính 3 
1.2.1.1. Chính sách ngân sách NN 3
 1.2.1.2. Chính sách tín dụng NN . 4
1.2.2. Chính sách tiền tệ 7
1.2.2.1 Chính sách tín dụng . 7
1.2.2.2 Chính sách phát triển TTCK . 8
1.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI . 8
1.3.1. Chính sách tài chính HTPT DNVVN ở một số nước 8
1.3.2. Một số bài học kinh nghiệm đối với VN . 10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN 
 DNVVN Ở VIỆT NAM . 13
2.1. THỰC TRẠNG CÁC DNVVN Ở VN 13
2.1.1. Về số lượng DN, cơ cấu ngành nghề và phân bố địa lý 14
2.1.2. Về vốn kinh doanh . 17 
2.1.3. Về hiệu quả SXKD và XK 18 
 2.1.4. Về mức đóng góp vào GDP . 22 
 2.1.5. Về mức độ sử dụng các dịch vụ HTPT kinh doanh . 23 
2.1.6. Những điểm mạnh của DNVVN ở VN . 24 
2.1.7. Những điểm yếu của DNVVN ở VN 25 
2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT DNVVN Ở VN . 26 
 2.2.1. Thực trạng chính sách tài chính . 26 
 2.2.1.1. Thực trạng chính sách ngân sách NN 26 
 2.2.1.2. Thực trạng chính sách tín dụng NN . 31 
 2.2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ . 37 
2.2.2.1. Thực trạng chính sách tín dụng 37 
2.2.2.2. Chính sách phát triển TTCK 40 
 2.2.3. Đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của chính sách tài chính HTPT 
 DNVVN ở VN 41 
 2.2.3.1. Những ưu điểm 41 
 2.2.3.2. Những hạn chế . 43 
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VN . 45 
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT CÁC DNVVN Ở VN 47
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT CÁC DNVVN Ở VN 48 
 3.3.1. Chính sách tài chính 48 
 3.3.1.1. Chính sách ngân sách NN 48 
 3.3.1.2. Chính sách tín dụng NN 52 
 3.3.2. Chính sách tiền tệ 57 
3.3.2.1. Chính sách tín dụng . 57 
3.3.2.2. Chính sách phát triển TTCK 60 
3.4. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ 61 
 3.4.1. Chính sách thương mại 61 
 3.4.2. Chính sách đất đai . 62 
 3.4.3. Chính sách phát triển khoa học công nghệ 62 
 3.4.4. Xây dựng và phát triển thương mại điện tử cho các DNVVN 63 
 3.4.5. Cải thiện môi trường cho dịch vụ Phát triển kinh doanh 65 
KẾT LUẬN 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
68 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2165 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 15,3%), dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng 
34% so với đầu năm (tỉ trọng 63%). 
NH ĐT và phát triển VN là một NH thương mại quốc doanh giữ vai trò quan 
trọng trong việc cung cấp tín dụng trung, dài hạn. Tình hình dư nợ đối với các DN 
ngoài quốc doanh cũng đã không ngừng được gia tăng trong thời gian qua. 
Trong tháng 04 - 2002 NH Ngoại thương VN đã quyết định dành 500 tỉ đồng 
thành lập Quỹ cho vay đối với DNVVN, đặc biệt dành khoảng 300 tỉ đồng trong số đó 
để cho các DNVVN trong các khu công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh vay. Từ 
chương trình này NH NN chi nhánh TP.HCM cũng đang xây dựng chương trình mở 
rộng tín dụng đối với kinh tế tư nhân. Theo đó, sẽ có sự phối hợp với phòng công 
nghiệp thương mại, các NH thương mại, các DN để khảo sát tìm ra vướng mắc khi DN 
tiếp cận với NH, tìm các biện pháp hóa giải tâm lý ngán ngại khi cho vay đối với DN 
tư nhân, các tồn tại mà DN cần khắc phục để có thể thuận lợi khi tiếp cận vốn NH. 
Các chương trình hỗ trợ DNVVN còn được đến từ các Hiệp định vay vốn, từ sự 
quan tâm của các tổ chức quốc tế và kể cả các NH nước ngoài. 
- Chương trình hỗ trợ từ quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng Châu Âu 
(SMEDF) thực hiện cho vay trung và dài hạn từ 3 - 5 năm dành cho các DNVVN của 
VN thông qua các NHTM VN cụ thể là NH Thương Mại Cổ Phần Á Châu (ABC) đã 
chịu ủy thác để triển khai dự án này. 
 42
- Ngày 29/03/2002 Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 248/2002/QĐ-NHNN 
VN thành lập Ban quản lý dự án tài trợ DNVVN. Việc làm này nhằm thực hiện Hiệp 
định vay vốn cho dự án DNVVN giữa Quỹ hợp tác kinh tế Hải ngoại Nhật Bản và 
Chính phủ nước ta. 
Từ tháng 12/1999 NH xuất nhập khẩu của Mỹ (EXIMBANK) đã ký kết với 
Chính phủ VN một hiệp định chung về việc tài trợ tín dụng cho các DN NN mua máy 
móc thiết bị của các công ty Mỹ, và trên tinh thần của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ 
khi bắt đầu có hiệu lực. Eximbank cũng đang nghiên cứu một chính sách hỗ trợ cho 
DNVVN của VN trong thời gian tới … 
*Cho thuê tài chính. 
Thị trường cho thuê tài chính đã hình thành tại VN gần 5 năm, nhưng đến nay, 
hành lang pháp lý để cho nó hoạt động vẫn chưa được thông. Chính vì vậy, khá nhiều 
DN và người dân chưa quan tâm đến loại dịch vụ này. 
Theo nguyên tắc, bên cho thuê (là công ty cho thuê tài chính) cam kết mua máy 
móc, thiết bị, bất động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và giữ quyền sở hữu với tài 
sản cho thuê. Bên thuê (các doanh nghiệp và cá nhân) sử dụng tài sản cho thuê và 
thanh toán tiền thuê trong thời gian thuê được hai bên thỏa thuận theo hợp đồng, bên 
thuê không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được 
chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện thỏa thuận. 
Như vậy, cho thuê tài chính đã mở ra một giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân 
không có vốn, thiết bị để tăng khả năng cạnh tranh. Song thực tế đã chứng minh thời 
gian qua không mấy ai mặn mà với hình thức này. 
Hiện nay, cả nước đã có 9 công ty cho thuê tài chính (5 DNNN và 4 công ty có 
vốn đầu tư nước ngoài), tổng doanh số của các công ty này trong năm 2000 chỉ đạt 
dưới 500 tỷ đồng. Con số này chiếm hơn 45% tổng doanh số cho thuê trong vòng 5 
năm qua. Một số chuyên gia trong ngành cho biết, kết quả này thực sự đã làm thất vọng 
tất cả các công ty cho thuê tài chính hiện nay. 
 43
Nhưng nguyên nhân lớn nhất khiến cho hoạt động thuê tài chính kém hấp dẫn là 
do còn quá nhiều khoảng trống trong các văn bản luật. Thí dụ như vấn đề trước bạ tài 
sản: Khi thuê đã trả thuế trước bạ. Nếu khi chuyển quyền sở hữu vào lúc kết thúc thời 
hạn thuê, phải đóng thêm lần nữa. 
Các công ty cho thuê cũng đang gặp nhiều vướng mắc. Cụ thể về mối quan hệ 
giữa công ty cho thuê và cơ quan quản lý nhà nước. Trong Nghị định 64 của Chính phủ 
về cho thuê tài chính quy định: Hợp đồng cho thuê tài chính phải đăng ký trụ sở theo 
quy định của pháp luật, nhưng không nêu rõ cơ quan quản lý hợp đồng là cơ quan nào. 
Luật pháp cũng chưa quy định việc chứng thực với hợp đồng cho thuê tài chính. 
Ngoài ra, còn một loạt vấn đề tiền sử dụng trong thanh toán, cơ quan nào được 
chỉ định đứng ra tiến hành đăng ký tài sản cho thuê, công nhận và bảo hộ đối với ký 
hiệu sở hữu mà bên cho thuê đính vào tài sản cho thuê đang là những rào cản lớn đối 
với các công ty cho thuê tài chính, và các DN, cá nhân muốn tiếp cận với dịch vụ này 
2.2.2.2. Chính sách phát triển TTCK. 
 Cho đến nay, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, ngày 11/07/1998 vẫn là khung pháp 
lý tối cao về chứng khoán và TTCK. Văn bản pháp lý này đã được xây dựng từ khi 
TTCKVN chưa chính thức đi vào hoạt động. Cho đến nay, một số nội dung đã trở 
thành bất cập, không còn phù hợp với hiện trạng thị trường cũng như những văn bản 
pháp lý có liên quan, như Luật DN, Luật NH … 
Tính đến cuối tháng 10/2005, với 36 loại cổ phiếu được niêm yết tại 2 trung tâm 
giao dịch, trong đó có 30 loại trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, 
thị trường chứng khoán VN có tổng trị giá là 340 triệu USD, còn tổng giá trị của thị 
trường phi tập trung ở đây ước đạt 2,5 tỷ USD. 
Hiện nay TTCK chưa thật sự là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các 
DN, đặc biệt là DNVVN vì theo điều 6, chương II của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP 
qui định về mức vốn điều lệ tối thiểu để được phát hành cổ phiếu ra công chúng là 10 
tỷ đồng. Đây là điều kiện mà các DNVVN không thể đáp ứng được. 
 44
 2.2.3. Đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của chính sách tài chính 
HTPT DNVVN ở VN. 
 2.2.3.1. Những ưu điểm. 
 *Chính sách ngân sách NN. 
 - Mức thuế suất của một số loại thuế cơ bản (thuế GTGT, TNDN) đã có sự giảm 
dần, thể hiện chính sách khoan sức dân của Đảng và Nhà nước trong phân phối thu 
nhập. Vì vậy, thuế đã góp phần tích cực vào việc khai thác những tiềm năng về vốn 
trong nền kinh tế để ĐT phát triển sản xuất kinh doanh. 
 - Đã thiết lập được một hệ thống thuế ưu đãi hấp dẫn cho các DN thành lập mới 
trong các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn khuyến khích ĐT, các DN đổi mới công nghệ. 
 - Tính pháp lý của thuế ngày được nâng cao. Các biện pháp thu thuế được thực 
hiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh, chống thất thu 
thuế, chống gian lận thương mại. 
 - Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng cho các DN. 
- Hỗ trợ vốn cho Quỹ HTPT, Quỹ tín dụng XK, Quỹ BLTD cho DNVVN. 
 - Thành lập và phát triển Quỹ HTPT khoa học và công nghệ nhằm hỗ trợ cho các 
DN vay với các đầu kiện thuận lợi, lãi suất ưu đãi để nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ 
thuật, công nghệ, chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ. Đồng thời, NN khuyến 
khích việc phỗ biến và chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho các DN được sử dụng 
với mức phí ưu đãi các công nghệ tạo ra từ nguồn ngân sách. 
 *Chính sách tín dụng NN. 
 - NN đã thiết lập hệ thống các quỹ hỗ trợ tài chính. Trong điều kiện nguồn vốn 
NSNN dành cho đầu tư còn có hạn, với sự ra đời của các quỹ hỗ trợ tài chính đã tạo 
cho NN có được một công cụ tài chính linh hoạt, mềm dẻo để huy động tối đa các 
nguồn vốn của xã hội, tạo nên thị trường tín dụng hỗ trợ của NN cho sự đầu tư phát 
triển của các thành phần kinh tế. 
 45
 - Cơ chế hỗ trợ của tín dụng NN đa dạng, bao gồm hỗ trợ về tín dụng, lãi suất, 
bảo lãnh vay nợ. Đối tượng hỗ trợ của tín dụng đã được mở rộng cho các thành phần 
kinh tế, không phân biệt quy mô kinh doanh. Điều kiện ưu đãi đã có sự thông thoáng, 
tạo điều thuận lợi cho các DN dễ dàng tiếp cận trong việc huy động vốn, đặc biệt là 
DNVVN. 
 *Chính sách tín dụng NH. 
 - Hệ thống tín dụng NH đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, các 
hình thức huy động vốn cũng ngày càng được đa dạng hóa, lượng vốn tiết kiệm nhàn 
rỗi của xã hội được huy động vào hệ thống tín dụng NH ngày càng tăng lên về quy mô 
và tỷ trọng. 
 - Thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp xu hướng phát triển nền kinh tế đa thành 
phần. Trên cơ sở đó, nguồn vốn tín dụng mà hệ thống NH cung ứng cho sự ĐT phát 
triển của các DN không ngừng tăng. 
 - Đối với hoạt động cho thuê tài chính, thời gian qua đã góp phần tháo gỡ những 
khó khăn cho các DN về nguồn vốn ĐT trung và dài hạn đổi mới máy móc thiết bị, dây 
chuyền công nghệ. 
 2.2.3.2. Những hạn chế. 
 *Chính sách ngân sách NN. 
- Thuế GTGT có quá nhiều thuế suất. 
 - Thuế TNDN chưa có qui định ưu đãi dành riêng cho DNVVN, còn bất hợp lý 
trong phương pháp tính thuế. 
 - Thuế thu nhập cá nhân còn khá cao so các nước trong khu vực, gây ảnh không 
nhỏ đến đời sống của dân cư. 
 - Chi NSNN chưa tạo đà và thế vững chắc cho sự thúc đẩy các DN tăng cường 
tích tụ và tập trung vốn để ĐT phát triển: NSNN chưa đáp ứng nổi cho nhu cầu phát 
triển giao thông; Chi ngân sách cho giáo dục trong GDP so với tiêu chuẩn quốc tế là 
khá thấp; Chi NSNN cho khoa học và công nghệ trong GDP chưa đủ tầm, còn quá thấp 
 46
so với nhu cầu. 
 *Chính sách tín dụng NN. 
 - Chính sách và cơ chế quản lý các quỹ hỗ trợ tài chính NN còn yếu kém và phân 
tán nguồn lực, đầu mối quản lý các quỹ mang tính phân tán, có nhiều tổ chức tham gia 
thực hiện. 
 - Các quỹ còn tỏ ra thiếu năng động trong việc huy động vốn, nên tiềm năng tài 
chính khá mỏng, làm cho chính sách hỗ trợ của NN không đáp ứng thỏa đáng nhu cầu 
ĐT của các DN. 
 - Ở góc độ địa phương, việc sử dụng loại hình quỹ hỗ trợ tài chính để huy động 
các nguồn tài chính phục vụ cho sự ĐTPT của các DN địa phương vẫn còn nhiều hạn 
chế. 
 *Chính sách tín dụng NH. 
 - Khó khăn lớn nhất là các DNVVN không thể thực hiện quy định đảm bảo tiền 
vay để vay được vốn của các NHTM. Một phần là do giá trị của họ quá thấp, nhưng 
quan trọng hơn là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như quyền sở hữu 
bất động sản rất phức tạp. 
 - Nhà nước cũng chưa có chính sách cụ thể và rõ ràng đối với việc vay vốn của 
các DNVVN. Trong khi các NHTM không mặn mà cho vay đối với loại khách hàng 
này vì mức độ rủi ro tín dụng cao, dễ bị hình sự hóa khi xảy ra thất thoát và điều tra dự 
án, hơn nữa để kiểm soát được món vay này thì cũng rất phức tạp. 
 - Hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế vốn có 
của nó. Còn nhiều bất cập trong cơ chế, chính sách và hoạt động thực tiễn cần phải tiếp 
tục hoàn thiện để hoạt động này thật sự là một lối ra cho các DN VN nói chung, các 
DNVVN nói riêng trong việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. 
 47
CHƯƠNG III 
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH 
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VN. 
Thực tiễn chỉ ra rằng, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả 
năng thu hút một nguồn vốn khá lớn trong dân cư, áp dụng công nghệ mới để phát 
triển sản xuất. Hiện nay, các DNVVN từng bước góp phần tạo nhiều việc làm, nâng 
cao thu nhập cho người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa 
phương, đặc biệt là các vùng nông thôn. 
Theo dự kiến của Cục Phát triển DNVVN (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư), từ 
nay đến năm 2010 sẽ có khoảng 320.000DNVVN được thành lập, trong đó lượng 
DNVVN trực tiếp tham gia XK chiếm từ 3% đến 6%. 
*Ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn. 
Là một nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp, có nhiều làng nghề thủ công nổi 
tiếng, chú trọng ĐT phát triển các làng nghề truyền thống, đặc biệt là ở nông thôn là 
việc làm cần thiết. Điều đó không chỉ góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông 
nghiệp, nông thôn, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo sự phát triển đồng 
đều, bền vững, mà còn là biện pháp hữu hiệu thực hiện tích luỹ vốn cho quá trình 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước mắt cần đẩy mạnh phát triển các DNVVN sản 
xuất hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của nhân dân và cho 
chiến lược XK. 
 *Ưu tiên phát triển DNVVN trong một số lĩnh vực, ngành mà DNVVN có 
khả năng và ưu thế. 
 Có thể kể đến công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế hàng nhập 
 48
khẩu, công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản, các sản phẩm truyền thống… Đặc 
biệt, VN có ưu thế trong XK các sản phẩm hàng dệt may, sản phẩm da và giày dép, 
hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm từ cao su, hàng nông sản … Đây là các sản phẩm có 
thị trường XK lớn và ổn định, do đó cần ưu tiên hỗ trợ DNVVN trong các ngành nghề, 
lĩnh vực này. 
*Phát triển DNVVN trong mối liên kết bền vững. 
Dù ở trình độ nào, DNVVN vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh 
tế, cùng với các DN lớn tạo thành hệ thống kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Các DN này 
không những không loại trừ lẫn nhau mà còn bổ sung và hỗ trợ nhau cùng phát triển. 
Thực tiễn ở các nước trên thế giới cho thấy, các DNVVN đã góp phần to lớn vào 
khai thác sức mạnh tổng hợp các yếu tố nội lực để phát triển kinh tế. Vì vậy, đổi mới 
nhận thức về vai trò của loại hình DN này có thể được coi là việc khuyến khích, hỗ 
trợ các DNVVN. Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Đức, Anh… về phát triển DNVVN, 
chúng ta cần đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp lại các DN lớn, tổ chức có hiệu quả các 
DN lớn để làm công cụ đắc lực cho NN trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự phát triển 
của các DN lớn còn là tấm gương cho các DN nhỏ và là chỗ dựa cho loại hình DN 
này trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh, như việc thông qua các hợp đồng 
gia công cho các DN lớn. Việc củng cố lại, mở rộng các tổ chức HTPT các DNVVN, 
về nguyên tắc cần phân định rõ chức năng của các cơ quan này trong việc hỗ trợ các 
DNVVN. Đồng thời, phối hợp các hoạt động giữa các tổ chức này, tạo nên sự hỗ trợ 
toàn diện cho các DN phát triển. 
 *Trước mắt, tập trung phát triển DNVVN ở một số địa bàn trọng điểm, một 
số thành phố. 
 Việc tập trung các DNVVN vừa khắc phục được sự yếu kém về cơ sở hạ tầng kỹ 
thuật, vừa tạo thuận lợi, dễ dàng cho NN trong việc hỗ trợ, quản lý và thực hiện chính 
sách ưu đãi đối với các DNVVN, đồng thời giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất 
 49
cho các DNVVN. 
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT CÁC DNVVN Ở VN. 
Về chính sách tài chính hỗ trợ cho các DNVVN, trong thời gian tới chính sách tài 
chính của NN cần tập trung vào một số chương trình cụ thể: 
- Thứ nhất, xác lập và triển khai chương trình tài trợ vốn cho các DNVVN. Tài 
trợ vốn cho các DNVVN có thể thực hiện cho cả hai loại là tài trợ vốn ban đầu để hình 
thành DN và tài trợ vốn vay khi DN kinh doanh thiếu vốn. Trong trường hợp đầu, NN 
thông qua các định chế tài chính phi lợi nhuận để cho vay vốn ĐT đối với các chủ nhân 
muốn thành lập DN nhưng chưa có đủ vốn. NN có thể hỗ trợ vốn không lãi suất từ 
20% đến 50% tổng mức vốn ĐT ban đầu để thành lập DN. Các DN sau khi bước vào 
kinh doanh có sản phẩm tiêu thụ sẽ hoàn trả vốn cho NN từ số lãi thu được trong thời 
gian từ 2 đến 5 năm hoặc lâu hơn. Để thực hiện được chính sách này, NN sẽ cho phép 
mỗi địa phương được lập ra các quỹ ĐT, ngân sách địa phương sẽ ĐT ban đầu vào quỹ 
này, sau đó quỹ có nghĩa vụ tiếp nhận các khoản ĐT từ bên ngoài để bổ sung nguồn 
vốn hỗ trợ các chủ nhân muốn thành lập DN, NN sẽ cấp bù lãi suất và bảo đảm kinh 
phí hoạt động cho tổ chức này. Trong trường hợp tài trợ vốn thứ hai, thông qua Quỹ 
HTPT, các NH thương mại để cấp vốn hoạt động với lãi suất thấp cho các DNVVN và 
NN sẽ thực hiện bù lãi suất. Nguồn vốn để thưc hiện chương trình này là vốn do các 
định chế tài chính huy động, đồng thời NN sẽ xem xét chuyển một phần viện trợ không 
hoàn lại, vốn vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tế để bổ sung cho các NH, cho 
quỹ HTPT. 
- Thứ hai, các tổ chức tài chính tăng cường thực hiện chức năng cho thuê tài 
chính, đây là mô hình tài trợ vốn trung và dài hạn cho các DN, đặc biệt là các DNVVN 
thiếu vốn. 
- Thứ ba, NN cần nghiên cứu và xây dựng một chương trình hỗ trợ tổng thể về tài 
chính cho các DNVVN. 
 50
 Về chính sách tín dụng hỗ trợ DNVVN, cơ chế tín dụng có nhiều phương thức 
phục vụ tốt hơn. Cụ thể, tài trợ theo dự án; cho vay thuê mua (đã và đang được chú 
trọng để mở rộng khả năng đáp ứng vốn cho DNVVN); bảo lãnh, mua hàng trả chậm, 
nhập máy móc, thiết bị, công nghệ; góp vốn liên doanh liên kết; phát triển mạng lưới, 
từng bước hiện đại hoá công nghệ thanh toán, đưa các sản phẩm dịch vụ đến với 
DNVVN; khai thông và tiếp nhận nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế để hỗ trợ 
DNVVN. 
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HTPT CÁC 
DNVVN Ở VN. 
3.3.1. Chính sách tài chính. 
 3.3.1.1. Chính sách ngân sách NN. 
 *Chính sách thueá. 
- Thuế TNDN áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần: 
Thuế thu nhập DN là loại thuế trực thu điều tiết kết quả sản xuất kinh doanh của 
DN. Hiện nay, do năng suất, chất lượng hiệu quả và mức tích lũy của nền kinh tế nước 
ta còn thấp; quy mô DN lại nhỏ nên giảm bớt nghĩa vụ thuế sẽ giúp các DN tăng lợi 
nhuận, tạo thêm công ăn việc làm. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế và kinh 
nghiệm phát triển các DNVVN ở các nước thì việc nghiên cứu và áp dụng thuế lũy tiến 
từng phần đối với TNDN là điều cần thiết, giảm bớt khó khăn cho các DNVVN, các 
DN mới thành lập, đồng thời giảm số DN trốn thuế, kích thích dân chúng đưa những 
khỏan tích lũy tiết kiệm thành những khoản ĐT trực tiếp, tham gia thành lập DN. 
- Được chuyển lỗ cho đến khi có lãi: 
Theo Nghị định của Chính phủ số 164/2003/NĐ-CP, tại điều 46 “Thời gian được 
chuyển lỗ không quá năm năm”. Điều này chưa thể hiện được tinh thần NN cùng 
chung vai với DN. 
 51
- Minh bạch và đơn giản hóa việc miễn giảm thuế TNDN. 
Tái ĐT một phần lợi nhuận ban đầu để đưa vào dòng chảy kinh doanh là một việc 
làm liên tục của bất cứ một DN nào muốn có cơ may phát triển. Ở những nước có nền 
công nghiệp phát triển, người ta có những điều luật khuyến khích các nhà DN đem lợi 
nhuận tái ĐT vào kinh doanh tiếp khi đó họ sẽ không bị đánh thuế. Điều này rất có lợi 
cho các DN, bởi vì làm như vậy thì quy mô của mỗi DN ngày càng tăng kéo theo cơ sở 
vật chất cố định, việc làm và mức sống của dân cư cũng tăng lên. 
Luật thuế TNDN qui định tại điều 18 “… được miễn giảm thuế TNDN cho phần 
thu nhập tăng thêm do ĐT mang lại tối đa là bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp 
tối đa là bảy năm tiếp theo”. Tuy nhiên, để xác định phần thu nhập tăng thêm do ĐT 
mới mang lại là không đơn giản vì thu nhập do nhiều yếu tố khác nhau tác động. Vì 
vậy, NN không cần xác định thu nhập tăng thêm để miễn giảm thuế, mà nên miễn giảm 
thuế TNDN với tỷ lệ nhất định trong những năm tiếp theo. 
- Hoàn thiện cách tính chi phí trong phương pháp tính thuế TNDN. 
Chi phí vay vốn: Các DNVVN rất thiếu vốn nhưng khó tiếp cận được vốn tín 
dụng NH và các nguồn vốn ưu đãi lãi suất thấp, thường phải vay từ các nguồn không 
chính thức có lãi suất cao. Để hỗ trợ DNVVN, NN cần cho phép DNVVN khấu trừ số 
chi phí vay vốn theo mức chi trả thực tế trên cơ sở có đầy đủ chứng từ, hợp đồng vay 
vốn mà không khống chế “tối đa không quá 1, 2 lần mức lãi suất cho vay của NH 
thương mại tại thời điểm vay”. 
Chi phí tiền lương: Tiền lương, tiền công của chủ DN tư nhân, chủ hộ kinh doanh 
cá thể phải được xem là chi phí hợp lý cho DN. Vì chủ DN cũng phải chi phí những 
khoản khác cho cuộc sống riêng của chủ DN, mà những khoản chi này dĩ nhiên không 
được tính vào chi phí hợp lý của DN. 
Loại bỏ việc khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị, giao dịch: Khi bước đầu thâm 
 52
nhập vào thị trường, các DNVVN phải chi phí rất nhiều vào quảng cáo, tiếp thị để hàng 
hóa, dịch vụ đến được với khách hàng. Hơn nữa, chi phí cho quảng cáo, tiếp thị còn 
thay đổi theo tình hình kinh doanh, thị trường trong từng giai đoạn. Do đó không nên 
khống chế tỷ lệ chi phí cho công tác quảng cáo, tiếp thị mà hãy để DN tự cân đối trong 
chiến lược kinh doanh của mình. 
 *Chính sách chi ngân sách NN. 
Về công tác ĐT phát triển, vốn ĐT hàng năm của NN đang chiếm trên 50% tổng 
ĐT của nền kinh tế. Trong những năm tới, nguồn vốn này tiếp tục tăng, song điều quan 
trọng và bức bách là phải tạo được chuyển biến rõ nét về hiệu quả ĐT, đặc biệt là 
chống lãng phí và bị đục khoét đang ở mức nghiêm trọng, gây bất bình lớn trong xã 
hội. 
Điều quan trọng hàng đầu là phải hạn chế tới mức thấp nhất các sai sót về chủ 
trương ĐT (từ quy hoạch đến mục tiêu, địa điểm, thời điểm, quy mô ĐT và lựa chọn 
công nghệ), vì ĐT sai gây lãng phí lớn nhất và rất khó sửa. 
Vốn ĐT của NSNN có hạn trong khi nhu cầu ĐT luôn quá lớn. Để cho sự ĐT của 
NN thực sự có tác dụng tích cực, và cụ thể đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói 
chung, đối với DNVVN nói riêng, cần phải ĐT trên quan điểm: 
- ĐT là để tạo nên tiền đề, tạo ra những điều kiện thuận lợi cơ bản ban đầu để thu 
hút vốn ĐT của các chủ thể kinh tế khác. Không nên ĐT vào những lĩnh vực mà các 
chủ thể kinh tế khác có điều kiện ĐT (điều kiện pháp lý, điều kiện về khả năng vốn 
ĐT, điều kiện thu hồi vốn và có lời,…). 
- ĐT tập trung, có trọng điểm, và dứt điểm trong thời gian ngắn nhất có thể. ĐT 
nâng cấp, hoàn thiện nhanh chóng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân theo 
hình thức "cuốn chiếu", đưa công trình nhanh chóng vào sử dụng. 
- Đặc biệt chú ý ĐT xây dựng các khu công nghiệp tập trung với đầy đủ cơ sở hạ 
 53
tầng và cho thuê với giá ưu đãi trong một khoản thời gian nhất định để giải phóng các 
DN sản xuất, hầu hết là DNVVN, với mặt bằng quá chật hẹp nên thường có nguy cơ 
cao về ô nhiễm môi trường, tai nạn lao động, thậm chí hỏa hoạn trong khu dân cư, đô 
thị. 
- Phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, tập trung ưu tiên ĐT phát 
triển kết cấu hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa, những vùng đặc biệt khó khăn điều chỉnh 
các quy định về ưu đãi ĐT những lĩnh vực, ngành nghề cần hưởng ưu đãi. 
- ĐT hỗ trợ DNVVN nâng cao khả năng đổi mới công nghệ: Khả năng đổi mới 
công nghệ của các DNVVN rất thấp và cần có sự hỗ trợ từ ĐT của NN. 
- ĐT hỗ trợ DNVVN nâng cao khả năng nắm bắt thông tin: 
Thông tin về thị trường trong và ngoài nước: hỗ trợ tìm hiểu thị trường, tham gia 
triển lãm, hội chợ. 
Thông tin về pháp luật, chính sách của NN. 
Thông tin về tình hình kinh tế - xã hội nói chung của nhiều nước. 
Về công tác đào tạo nguồn nhân lực, thực trạng hiện nay là không ít DNVVN vẫn 
thiếu lao động có tay nghề cao, lao động có kỹ thuật được đào tạo hệ thống, phải chăng 
đây là vấn đề chất lượng lao động. Ta có đủ và thừa về mặt số lượng, nhưng lại quá 
yếu và thiếu về trình độ tay nghề của người lao động. 
Theo số liệu điều tra DN hàng năm thì lao động là cán bộ khoa học kỹ thuật năm 
2000 chiếm 8,1%; năm 2002 còn 6,8% và những lao động có tay nghề cao, công nhân 
kỹ thuật cũng có xu hướng giảm tương đối. Như vậy lao động được thu hút vào khu 
vực DN ngày càng tăng nhanh, nhưng cơ cấu lao động có trình độ kỹ thuật, lao động 
được đào tạo lại giảm, điều đó cho thấy nhiệm vụ đào tạo nghề cho người lao động 
không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung và của khu vực DN nói riêng. 
 Do đó, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo để đáp ứng 
 54
yêu cầu về nguồn nhân lực cho phát triển các DNVVN nói riêng. 
 Điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục quốc dân 
phù hợp với nhu cầu thực tế. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên 
nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, 
kỹ sư thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Đổi mới chương trình đào tạo ở các cấp học, 
đặc biệt chương trình đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo 
hướng thiết thực, hiện đại. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng nâng cao chất lượng 
và đạo đức sư phạm. Bên cạnh ưu tiên đào tạo phục vụ phát triển nông nghiệp và nông 
thôn, một số ngành mũi nhọn, cũng cần có những ưu tiên đào tạo phục vụ cho các 
DNVVN. 
 3.3.1.2. Chính sách tín dụng NN. 
 *Quỹ HTPT. 
- Qua nhiều năm hoạt động, Quỹ HTPT thực sự là cầu nối để thực hiện nhiệm vụ 
hỗ trợ tín dụng từ phía NN đến DN. Tuy nhiên, kết quả thực hiện đều không hoàn 
thành kế hoạch hay nói khác đi nguồn vốn NN vẫn chưa sử dụng triệt để trong khi DN 
vẫn đói vốn. Để giải quyết vấn đề này, Quỹ HTPT cần tập trung những vấn đề sau: 
+ Đẩy mạnh công tác giới thiệu tuyên truyền các cơ chế về tín dụng ĐT, 
hình thức hỗ trợ ĐT của NN, các quy trình nghiệp vụ của Quỹ hỗ trợ, giúp địa phương, 
DN định hướng ĐT , lựa chọn nguồn vốn phù hợp với điều kiện và đặc điểm sản xuất 
kinh doanh của DN. 
+ Cán bộ của Chi nhánh cần chủ động bám sát các DN, phải thực hiện được 
là vai trò tham mưu cho các DN, các nhà ĐT trong việc xác định hướng ĐT, lập dự án 
ĐT, lập hồ sơ vay vốn, không nên thụ động ngồi chờ chủ ĐT đến xin vay. 
+ Tham gia xây dựng, đề xuất và hoàn thiện kịp thời các vướng mắc trong 
quá trình triển khai cơ chế, chính sách về quản lý ĐT và xây dựng, tín dụng ĐT phát 
 55
triển của NN. 
- Quỹ cần quan tâm và tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn thẩm định dự án 
ĐT cho cán bộ của Quỹ để nâng cao trình độ, năng lực nhằm nâng cao chất lượng 
thẩm định dự án, chất lượng thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vay và 
đảm bảo thời hạn thẩm định dự án theo quy định từ đó hạn chế rủi ro cho NN và DN. 
- Phát triển nguồn vốn cho Quỹ HTPT: 
+ Triển khai công tác huy động vốn từ đầu năm để đảm bảo kịp thời nhu cầu 
sử dụng vốn của các dự án. Quỹ HTPT có thể tìm nguồn vay từ các tổ chức tài chính, 
tín dụng như Bảo hiểm xã hội VN, Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện, Kho bạc NN. 
+ Quan hệ hợp tác với các NH thương mại quốc doanh để thu xếp nguồn 
vốn cho vay đối với một dự án, BLTD ĐT, hỗ trợ lãi suất ĐT, huy động nguồn vốn cho 
tín dụng ĐT phát triển của NN. 
+ Củng cố, mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính 
tín dụng quốc tế nhằm nâng cao năng lực hoạt động Quỹ HTPT. 
+ Theo dõi tình hình thực hiện hợp đồng thế chấp tài sản vốn vay và hợp 
đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay theo đúng chế độ quy định. 
Xúc tiến thu nợ gốc và lãi khi đến hạn, chuyển nợ quá hạn đối với khoản nợ đến hạn 
chủ ĐT chưa trả theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký. Phối hợp với các Bộ, ngành, địa 
phương và chủ ĐT tháo gỡ khó khăn về tài chính, tạo và cung cấp nguồn vốn cho DN. 
 *Quỹ ĐT của các địa phương. 
- Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định khung về các Quỹ đầu tư trong đó có 
quy định về mô hình Quỹ ĐT của các địa phương. Xác định rõ vị trí pháp lý của Quỹ 
ĐT của các địa phương trong hệ thống các định chế tài chính. Quy định thống nhất 
chức năng nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của các Quỹ. 
 56
- Nghiên cứu xây dựng Điều lệ mẫu của Quỹ ĐT của các địa phương để thống 
nhất về tổ chức và hoạt động của các Quỹ ĐT của các địa phương trên cả nước. 
- Nghiên cứu hoàn chỉnh các quy định về quản lý tài chính hiện các Quỹ đang áp 
dụng. Xây dựng Hệ thống chế độ kế toán mới hoàn chỉnh, phù hợp với đặc thù hoạt 
động của Quỹ ĐT của các địa phương. Xây dựng hệ thống báo cáo thống kê gọn nhẹ, 
đảm bảo phản ánh đầy đủ thông tin phục vụ việc giám sát, quản lý hoạt động của Quỹ 
cũng như làm cơ sở để các cấp có thẩm quyền đưa ra những quyết sách kịp thời, đúng 
đắn để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ cho hoạt động của Quỹ. 
Để các Quỹ có thể phát huy đầy đủ vai trò của mình, sự hỗ trợ của chính quyền 
địa phương là yếu tố quan trọng. Thực tế đã chứng minh tại những tỉnh, thành phố mà 
Quỹ ĐT của các địa phương nhận được sự quan tâm hỗ trợ đúng mức từ các cấp chính 
quyền địa phương thì hoạt động của Quỹ tăng trưởng rất nhanh, vai trò của Quỹ được 
khẳng định một cách mạnh mẽ. Do đó, chính quyền các tỉnh, thành phố cần có sự nhận 
thức đúng đắn, toàn diện và có tầm chiến lược hơn đối với Quỹ ĐT của các địa phương 
để có các giải pháp kịp thời hỗ trợ hoạt động của Quỹ. 
Trước mắt, các địa phương cần quan tâm tạo điều kiện bố trí đầy đủ nguồn vốn 
điều lệ cho Quỹ, cũng như bổ sung vốn hoạt động cho Quỹ theo lộ trình phát triển đã 
đặt ra. Các địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi cho Quỹ khai thông các nguồn vốn, 
xem Quỹ là một đơn vị quan trọng trong việc thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của 
địa phương, tạo điều kiện cho Quỹ tham gia đầu tư các công trình, dự án đầu tư có khả 
năng chuyển hoá nguồn vốn cao như BT, BOT, chuyển nhượng quyền khai thác công 
trình,… 
 *Quỹ hỗ trợ XK. 
- Hiện tại, qui mô của Quỹ rất nhỏ bé so với nhu cầu thực tiễn. Mặt khác, thông tư 
61/2001 ra đời mở rộng việc hỗ trợ XK qua việc hỗ trợ hoạt động phát triển thị trường, 
đẩy mạnh xúc tiến thương mại và bản thân Quỹ HTPT cũng đảm nhận thực hiện các 
 57
hình thức tín dụng hỗ trợ XK. Vì thế, Chính phủ có thể nhập Quỹ hỗ trợ XK với Quỹ 
HTPT để nguồn lực về vốn phục vụ cho XK dồi dào hơn và việc hỗ trợ đầy đủ và toàn 
diện hơn. Khi đó, DN thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện về XK theo quy 
định sẽ được xét hỗ trợ. 
 *Quỹ BLTD. 
 Cho vay vốn tín dụng ưu đãi là một hình thức hỗ trợ tài chính thông qua việc 
cho vay vốn với mức lãi suất thấp. Hầu hết các nước đều sử dụng tín dụng ưu đãi để hỗ 
trợ và hướng dẫn sự phát triển của các DNVVN. 
Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP nhằm HTPT bộ 
phận DNVVN. Sau đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 42/2002/TT-BTC, và 
mới nhất là Thông tư 93; NH NN cũng ra văn bản hướng dẫn việc góp vốn vào Quỹ 
BLTD cho DNVVN. Nhưng đã nhiều năm trôi qua, trên cả nước vẫn chưa có địa 
phương nào lập được quỹ này! Đã có nhiều lời giải thích, nhưng xem ra chẳng có lời 
giải thích nào thoả đáng cả. 
Sở Tài chính cố vấn Uỷ ban nhân dân Tỉnh, thành phố sử dụng Ngân sách địa 
phương phối hợp các tổ chức tín dụng, Hiệp hội DNVVN để xúc tiến thành lập Quỹ 
BLTD cho DNVVN càng sớm càng tốt với quy chế cho vay thông thoáng và kịp thời 
hơn đặc biệt là ở những địa phương có số lượng DNVVN tập trung lớn như thành phố 
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà nội. Bộ Tài chính phối hợp Cục phát triển DNVVN, Bộ Kế 
hoạch và ĐT tư vấn và trình Thủ tướng thành lập Quỹ BLTD trung ương để làm nhiệm 
vụ tái bảo lãnh cho các quỹ BLTD địa phương nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của 
Quỹ để phục vụ DNVVN tốt hơn. 
Quy chế thành lập Quỹ BLTD do Chính phủ ban hành vào tháng 12/2001 là cần 
thiết và đáp ứng được yêu cầu khách quan trong giải quyết khó khăn về nguồn vốn 
cũng như tạo điều kiện để các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của NH thuận 
tiện hơn. Tuy nhiên theo kinh nghiệm các nước cho thấy việc áp dụng chính sách 
 58
BLTD thường phát sinh những vấn đề cơ bản sau : 
- Thực hiện chương trình hỗ trợ này thường rất tốn kém, điều này là khách quan 
vì vấn đề rủi ro trong hoạt động của các DN sẽ làm ảnh hưởng đến nguồn tài chính của 
Quỹ. 
- Vấn đề phân phối các khoản đảm bảo tín dụng luôn gặp phải áp lực từ những 
DN mới thành lập và những DN đang hoạt động. 
- Vấn đề quyết định một khoản BLTD, Quỹ BLTD thường bị chi phối tác động từ 
phía Chính phủ và từ các nhà tài trợ là các NH. 
- Tại các quốc gia đang phát triển, do môi trường pháp lý chưa được kiện toàn 
nên vấn đề tồn tại lớn nhất trong hoạt động của Quỹ BLTD là thủ tục không hợp lý làm 
hạn chế sự kết hợp giữa nhà bảo lãnh (Quỹ BLTD) và nhà tài trợ (các NH). 
Từ kinh nghiệm thực tế ở các nước, có thể thấy ở VN để việc triển khai hoạt động 
của Quỹ BLTD trong thời gian tới đạt hiệu quả, theo chúng tôi cần phải chú trọng 
những vấn đề sau : 
- Để giảm bớt những rủi ro ảnh hưởng đến vấn đề tài chính của Quỹ BLTD đòi 
hỏi : Đội ngũ nhân viên của Quỹ phải có năng lực, trình độ đặc biệt là lòng nhiệt thành 
với lợi ích chung để vừa có khả năng thẩm định, giám sát các khoản vay, sàng lọc kịp 
thời những DN yếu kém, đồng thời nỗ lực trong tìm kiếm những DN có dự án ĐT khả 
thi. 
- Cần có cơ chế hỗ trợ đối với các DN một cách rõ ràng dựa trên những tiêu chí 
cụ thể như : qui mô vốn, ngành nghề, thời gian hoạt động, chất lượng sản phẩm, mức 
độ uy tín … 
- Cần xác định phạm vi quyền hạn cụ thể của các cấp quản lý nhằm đảm bảo sự tự 
chủ trong hoạt động của Quỹ BLTD. 
- Cần hoàn thiện khung pháp lý, cải cách thủ tục hành chính ở hai ngành tài chính 
 59
và NH một cách hợp lý tạo điều kiện hoàn thiện về mặt thủ tục vay và bảo lãnh thúc 
đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Quỹ BLTD và các nhà tài trợ. 
Theo kinh nghiệm các nước hoạt động của Quỹ BLTD là một chính sách hỗ trợ 
mang tính lâu dài cho các DNVVN. Sự thành công của chính sách này chỉ có thể được 
đánh giá sau 5 - 7 năm hoạt động, những khó khăn bước đầu là tất yếu. Điều quan 
trọng là cần sự phối hợp giữa các Ban ngành liên quan để giải quyết thỏa đáng những 
vấn đề về tài chính, thủ tục, đặc biệt là tinh thần trách nhiệm của các chủ thể tham gia 
đó là nhà Bảo lãnh - DN - Nhà tài trợ. 
Trong thời gian tới, khi Quỹ BLTD DNVVN được thành lập ở một số địa 
phương, Quỹ BLTD DNVVN sẽ thực hiện việc hỗ trợ bổ sung đặc biệt là chi phí cho 
hoạt động phát triển thị trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với DNVVN có 
hoạt động XK vì: 
+ Thứ nhất, mức hỗ trợ hiện nay theo thông tư 61/2001 chưa đủ để tạo một bước 
đệm có tác 7dụng cho hoạt động phát triển thị trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại. 
+ Thứ hai, hầu hết các DNVVN chưa có hoặc chưa đủ sức để tiến hành các hoạt 
động xúc tiến thương mại ở nước ngoài và như thế DNVVN rất khó khăn trong việc 
thúc đẩy hoạt động XK trong điều kiện hội nhập. 
 3.3.2. Chính sách tiền tệ. 
3.3.2.1. Chính sách tín dụng. 
 *Cho vay vốn tín dụng NH. 
Thực trạng hiện nay thị trường phi chính thức đang là chỗ dựa về nguồn vốn cho 
các DNVVN (đáp ứng trên 60% nhu cầu tín dụng) mà sự tồn tại của thị trường này kể 
cả ở thành phố lớn và đặc biệt là địa bàn nông thôn làm chi phí giao dịch tín dụng cao, 
độ tin cậy người vay và người cho vay thấp, rủi ro của dự án cao vì không được thẩm 
định đầy đủ. Điều này dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả và lãng phí. 
 60
Báo cáo đánh giá gần đây của NH NN chi nhánh TP HCM cho biết tỷ trọng dư nợ 
cho vay các DNVVN trên địa bàn TP chỉ chiếm khỏang 47% trên tổng dư nợ cho vay, 
trong đó dư nợ cho vay trung - dài hạn cũng ở mức thấp với khỏang 40% trên tổng dư 
nợ cho vay các DNVVN. 
Thực tế nhiều DNVVN không đủ tài sản thế chấp để đảm bản cho các khỏan vay. 
Nếu có tài sản thế chấp (chủ yếu là nhà xưởng, đất đai) nhưng lại không đủ giấy tờ 
pháp lý về quyền sử dụng và quyền sở hữu. Trường hợp tài sản đảm bảo là máy móc 
thiết bị thì việc xử lý các tài sản này khi khách hàng không trả được nợ vay cũng rất 
khó khăn do việc định giá phức tạp, giá trị thấp nên khó tìm được người có nhu cầu 
thích hợp để bán. 
Bên cạnh đó, các thủ tục công chứng, chứng thực, đăng ký giao dịch bảo đảm để 
làm cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản đảm bảo cho các khỏan vay còn nhiêu khê làm mất 
đi cơ hội kịp thời cung cấp vốn cho DN. Và việc xử lý tài sản đảm bảo là tài sản gắn 
liền với đất, quyền sử dụng đất để thu hồi nợ đã không đạt được kết qủa như theo thỏa 
thuận (khi có khách hàng đồng ý mua và đem hợp đồng mua bán ra công chứng thì cơ 
quan công chứng không chứng nhận và yêu cầu các bên phải đưa tài sản ra bán tại 
trung tâm bán đấu giá). 
Mặt khác, các DNVVN có quy mô họat động nhỏ, năng lực tài chính thấp, trình 
độ công nghệ, trình độ quản lý chưa cao, tỉ lệ vốn tự có để tham gia vào các dự án lớn 
còn thấp là những bất lợi cho các DNVVN trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời các 
báo tài chính chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu tính minh bạch, việc trao đổi thông tin 
2 chiều còn hạn chế... đã tạo ra yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến quyết định 
xem xét và ĐT cho vay của các tổ chức tín dụng. 
Để giúp các DNVVN có cơ hội tiếp cận thành công nguồn vốn NH, phát triển sản 
xuất kinh doanh cũng như thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ở khu vực khách hàng là các 
DNVVN cho các TCTD, NN cần áp dụng 6 giải pháp sau: 
 61
- Thứ nhất, các TCTD cần nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng qua việc nâng 
cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định viên. Khảo sát trực tiếp tình hình thực 
tế của khách hàng để có nhận định đúng trước khi quyết định cho vay. Chú trọng công 
tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Tăng cường công tác Marketing, tư vấn 
khách hàng. 
- Thứ hai, cơ quan công chứng cần nghiên cứu cải tiến rút ngắn thời gian làm các 
thủ tục công chứng, chứng thực, đăng ký giao dịch bảo đảm. Kiến nghị Sở Tư pháp chỉ 
đạo các Phòng công chứng chứng nhận hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn 
bổ sung trong trường hợp định giá lại giá trị tài sản bảo đảm theo Nghị định 
178/1999/NĐ-CP và Nghị định 85/2002/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD 
đối với các DNVVN. Theo đó, "... một tài sản có thể được bảo đảm nhiều nghĩa vụ trả 
nợ tại một TCTD với điều kiện giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải lớn hơn tổng giá trị 
các nghĩa vụ được bảo đảm". Kiến nghị sớm ban hành các văn bản hướng dẫn quy định 
về về tài sản hình thành từ vốn vay nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN có thêm cơ 
hội tiếp cận với vốn NH. 
- Thứ ba, các TCTD thực hiện trao đổi thông tin tốt với nhau, với NHNN và với 
các tổ chức kinh tế. Từng TCTD phải phát triển khai thác tốt thông tin về tình hình 
kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế để nắm bắt kịp thời diễn biến của của 
thị trường, của DN... Có quy định bắt buộc đối với DN có quan hệ tín dụng với NH 
định kỳ phải gửi báo cáo tài chính qúy, 6 tháng và năm đầy đủ, kịp thời, chính xác. 
- Thứ tư, nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận nhiều hình thức vay vốn 
để đáp ứng các nhu cầu của DN nhất là trong việc đổi mới công nghệ, dây chuyền sản 
xuất với số vốn lớn vượt qúa khả năng của DN (trong trường hợp này hình thức cho 
thuê tài chính tỏ ra rất hiệu qủa) nên cần đẩy mạnh, phát triển họat động cho thuê tài 
chính trên địa bàn TP. 
- Thứ năm, các TCTD cần làm tốt họat động tư vấn, hỗ trợ DN trong qúa trình lập 
 62
và xây dựng dự án khả thi. Tư vấn tốt cho khách hàng về thủ tục vay vốn, quan hệ giao 
dịch với NH. Hạn chế tối đa những vướng mắc, lúng túng không cần thiết từ các DN 
khi quan hệ tín dụng với NH. Lọai bỏ (nếu có) trung gian, dịch vụ gây phiền hà và tốn 
kém cho DN. 
- Thứ sáu, các địa phương sớm vận hành Qũy BLTD cho DNVVN theo Quyết 
định số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 
42/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính nhằm thực hiện tốt các biện pháp HTPTcho các 
DNVVN. 
 *Cho thuê tài chính. 
Để tạo thêm điều kiện cho hệ thống CTTC phát triển, NH NN phải cho phép các 
công ty được thực hiện hình thức cho thuê vận hành (còn gọi là cho thuê hoạt động). 
Theo đó, tài sản có thể được thuê trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ được 
trả lại công ty CTTC thay vì hai bên ràng buộc hợp đồng mua bán khi thời gian thuê 
kết thúc như hiện nay. 
Theo quy định hiện hành, mức cho thuê một DN không được vượt quá 30% vốn 
tự có của họ. Chính vì vậy, việc tài trợ những dự án lớn, dài hơi gần như nằm ngoài 
tầm tay của họ. Vì vậy, luật cần quy định cho thuê ủy thác và cho thuê hợp vốn để giúp 
giải quyết những vấn đề này. 
Cho thuê hợp vốn có thể giúp các công ty phân tán rủi ro như hình thức cho vay 
hợp vốn của NH. 
Cho thuê ủy thác, cũng là một biện pháp giúp các công ty tiếp cận những khách 
hàng lớn. Khi có một dự án vượt quá giới hạn vốn cho phép của công ty CTTC, ngân 
hàng mẹ có thể cho vay thêm phần còn lại. Tài sản sẽ thuộc sở hữu của công ty CTTC, 
nghĩa là vốn của NH vẫn được đảm bảo an toàn. 
 63
3.3.2.2. Chính sách phát triển TTCK. 
 TTCK VN mà tiền thân là Trung tâm giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh 
đã được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ 20/07/2000. Sau hơn 5 năm hoạt 
động, thị trường CK VN đã đạt được những thành công nhất định, bước đầu trở thành 
một kênh dẫn vốn mới cho DN và cho xã hội. 
 Tuy nhiên, điều kiện phải có vốn điều lệ tối thiểu 10 tỷ đồng để được niên yết 
chứng khoán là một thách đố đối với DNVVN. Trong khi đó, các DNVVN vẫn muốn 
có một thị trường mua bán, giao dịch cổ phiếu của họ nhằm tăng vốn ĐT cũng như 
tăng khả năng thanh khoản cho các cổ phiếu đó. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu cho các 
DNVVN, NN cần: 
- Xây dựng mô hình tổ chức giao dịch cổ phiếu cho các DNVVN theo đặc điểm 
riêng của loại hình DN này. 
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý khuyến khích các nhà ĐT nước ngoài tham gia 
vào TTCK trong nước. 
- Mở thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) để giao dịch các 
chứng khoán không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung. Khi thị 
trường OTC hoạt động sẽ là kênh thúc đẩy quá trình lưu thông cổ phiếu và các loại 
chứng khoán khác trên thị trường, tạo lòng tin với các nhà ĐT khi mua, bán cổ phiếu 
trên thị trường khi có sự tổ chức của NN. 
3.4. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ. 
 3.4.1. Chính sách thương mại. 
 Trong bối cảnh hội nhập, một mặt NN phải nhanh chóng giảm các bảo hộ không 
hợp lý, buộc các DN phải làm quen dần với môi trường cạnh tranh, và mặt khác, phải 
thực thi các giải pháp hỗ trợ có điều kiện và thời hạn nhằm giúp các cho DNVVN nâng 
cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận thị trường. 
 64
 - Trước tiên căn cứ vào khuôn khổ hội nhập đã, đang và sẽ cam kết, cần xây dựng 
một chương trình hành động chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 
 - Thứ hai, cần sửa đổi các văn bản pháp lý, các quy định chính sách không phù 
hợp với yêu cầu hội nhập. 
 - Thứ ba, giúp các DN nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường thế 
giới bằng các hoạt động cung cấp thông tin, tìm kiếm đối tác, thị trường, đơn giản hóa 
các thủ tục xuất nhập cảnh, đảm bảo các DN tư nhân tiếp cận tối đa đến tất cả thị 
trường nhập khẩu với giá cả quốc tế, tạo nên các kênh dễ dàng sử dụng cho các sản 
phẩm XK của họ. 
 3.4.2. Chính sách đất đai. 
 Tiến hành giao đất đối với các dự án sản xuất công nghiệp cần ưu tiên để các DN 
yên tâm ĐT sản xuất lâu dài. Áp dụng đến mức tối đa hợp lý các hình thức miễn, giảm 
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã được quy định tại điều 17, 18, 19 của nghị định 
51/1999/NĐ-CP (các dự án XK, đổi mới công nghệ, di dời khỏi nội thành…). Mặt 
khác, cho phép các DN nộp tiền sử dụng đất làm nhiều lần để tạo điều kiện cho các 
DN giảm chi phí liên quan tới đất đai, nhà xưởng, tăng cường ĐT cho máy móc thiết 
bị, đây là nhân tố quyết định năng lực sản xuất của DN. 
 Tạo điều kiện để các DN có các dự án sản xuất công nghiệp ở những ngành ưu 
tiên có thể dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm đảm bảo vay vốn (giá trị đảm 
bảo gồm khoản tiền sử dụng đất đã nộp cộng chi phí đền bù giải tỏa). Đây là biện pháp 
khuyến khích gia tăng ĐT vào công nghiệp do các xí nghiệp công nghiệp được tiếp cận 
với tín dụng dễ dàng hơn. 
 3.4.3. Chính sách phát triển khoa học công nghệ. 
Trong nhiều năm qua, các chính sách thuế đều có các quy định ưu đãi cao đối 
với hoạt động nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. 
 65
Ngoài ra, Nhà nước có những chính sách tập trung phát triển mạnh kết cấu hạ 
tầng giao thông, thuỷ lợi, năng lượng, thông tin liên lạc, tạo điều kiện đưa khoa học 
công nghệ phát triển mạnh. 
Tuy nhiên, để phát triển khoa học công nghệ, VN cần phải: 
- Tích cực tiếp thu thành quả khoa học và công nghệ đã được tạo ra ở các nước 
công nghiệp phát triển. 
- Mặc dù còn hạn chế nhưng nghiên cứu trong nước vẫn phải đảm nhiệm nhiều vị 
trí không thể thay thế trong mối quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất. 
- Thích nghi hoá, nội địa hoá công nghệ nhập. Phổ biến công nghệ nhập và cải 
tiến, hoàn thiện công nghệ nhập. So với việc nghiên cứu để nắm bắt công nghệ thì 
những hoạt động này đòi hỏi sự nghiên cứu phải sâu và ở trình độ cao hơn. 
 - Tập trung vào các ngành mũi nhọn theo phương châm đi tắt, đón đầu. Đồng thời 
ần phải thiết lập các mối liên kết nghiên cứu - giảng dạy - sản xuất có hiệu quả. 
 3.4.4. Xây dựng và phát triển thương mại điện tử (TMĐT) cho các DNVVN. 
Phát triển TMĐT là xu hướng tất yếu của nền kinh tế. VN đang hội nhập ngày 
càng sâu vào nền kinh tế thế giới nên nếu TMĐT phát triển thì hoạt động kinh doanh 
của DN cũng sẽ thuận lợi hơn - giảm được chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian, dễ mở 
rộng thị trường - và qua đó nâng cao được khả năng cạnh tranh. 
Tuy nhiên, VN đang đứng trước không ít khó khăn để phát triển TMĐT. Theo 
báo cáo đánh giá của Bộ Thương mại, nguồn nhân lực cho TMĐT hiện vừa thiếu vừa 
yếu. Một nghiên cứu của bộ này cho thấy, phần lớn DN chỉ nghe nói về TMĐT chứ 
chưa tham gia nhiều (mới có 17.500 trang web); tuyệt đại đa số người dân và cả cơ 
quan NN chưa biết tới khái niệm giao dịch điện tử; trong khi các trường đại học chỉ 
mới bắt đầu việc đào tạo về TMĐT. Hơn nữa, môi trường pháp lý và chính sách về 
TMĐT hiện cũng chưa hình thành. Về khung pháp lý, chúng ta mới xây dựng xong 
Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự; còn Luật Giao dịch điện tử vẫn chưa có. Đó là chưa 
 66
nói đến thực trạng chất lượng của hạ tầng viễn thông, đặc biệt là Internet - công cụ hỗ 
trợ trực tiếp cho thương mại điện tử - còn kém. 
Do đó, NN cần sớm có một chiến lược phát triển TMĐT cũng như các chính 
sách, giải pháp cụ thể đi kèm, phải giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo ra môi trường 
thuận lợi cho DN - cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho TMĐT, cụ thể: 
- Triển khai mạnh mẽ và liên tục việc phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. 
- Nhanh chóng tạo ra môi trường thuận lợi cho TMĐT - ban hành đầy đủ và đồng 
bộ văn bản pháp luật liên quan. 
- Các cơ quan chính phủ cần phải đi đầu trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT. 
- Phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ 
nước ngoài. 
- Thực thi tốt các quy định pháp luật liên quan đến TMĐT. 
- Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế. 
 Ngoài ra, NN có thể hỗ trợ cho các DNVVN trong lĩnh vực này bằng cách: 
 - NN trực tiếp cấp phát kinh phí hoặc có các biện pháp để huy động các nguồn 
trợ giúp về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế và của các nhà cung cấp dịch 
vụ internet như: VDC, FPT, … 
- Tập trung tất cả các thông tin về DN và công ty thành lập vào một hệ thống cơ 
sở dữ liệu duy nhất. 
- Tổ chức các buổi thảo luận về vai trò của TMĐT, các lớp học về kiến thức, cách 
sử dụng và khai thác internet, cách thức kinh doanh trên internet, đào tạo nhân lực 
CNTT mà đối tượng tham gia là các DNVVN… 
3.4.5. Cải thiện môi trường cho dịch vụ Phát triển kinh doanh. 
DVPTKD là một phần của quá trình sản xuất và nó phải được coi là yếu tố vật 
chất của sản xuất. Việc tăng cường tuyên truyền giáo dục (thông qua các hình thức 
phù hợp) nhằm giúp các chủ sở hữu và các nhà quản lý DN nhận thức đầy đủ và rõ 
 67
ràng hơn những lợi ích của việc sử dụng các dịch vụ bên ngoài so với hệ thống tự 
cung, tự cấp của DN là vấn đề cần đặt lên hàng đầu. 
Chủ DN và nhà quản lý DN phải được hướng dẫn để lựa chọn các nhà cung cấp 
dịch vụ và để quản lý việc hợp tác kinh doanh đối với các đối tác khác để họ có thể 
được cung cấp các dịch vụ với chất lượng và giá cả đáp ứng được yêu cầu của mình. 
Sửa đổi hệ thống pháp lý và loại bỏ những rào cản không hợp lý làm cản trở các 
DN gia nhập thị trường hoặc hạn chế nhu cầu đối với sử dụng các DVPTKD. 
Các biện pháp cần thực hiện bao gồm: 
- Ban hành các quy định mới sửa đổi, bổ sung các quy định hiện có nhằm tạo 
điều kiện cho sự phát triển của các dịch vụ về tư vấn, đào tạo, chuyển giao công 
nghệ và quyền SHTT, các dịch vụ về KT&KT... 
- Xem xét và loại bỏ những cản trở không hợp lý về vấn đề chi phí đối với việc 
sử dụng các dịch vụ bên ngoài bao gồm cả các DVPTKD, loại bỏ hoặc sửa đổi 
những quy định bất hợp lý dẫn đến việc tuỳ tiện của các cán bộ thuế trong việc áp 
loại thuế và mức thuế. 
- Hạ thấp điều kiện tham gia thị trường mà các nhà cung cấp dịch vụ tiềm năng 
phải tuân thủ khi gia nhập thị trường, ví dụ như đối với dịch vụ đào tạo dạy nghề. 
- Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia cung cấp các DVPTKD, tạo một sân 
chơi bình đẳng giữa các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân, NN, công cộng và nước 
ngoài. 
Chính phủ và các nhà tài trợ cần hỗ trợ cho các nhà cung cấp DVPTKD nhằm 
tăng cường khả năng cung cấp của họ, đặc biệt là trong các lĩnh vực nguồn nhân lực, 
máy móc, công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng tiếp thị,... cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình 
cổ phần hoá các DNNN và áp dụng các biện pháp đa dạng hoá khác, đặc biệt đối với 
các DNNN hiện đang độc quyền cung cấp DVPTKD. 
Hàng năm, Chính phủ thông qua các tổ chức và bằng cơ chế thích hợp cần đánh 
giá khả năng của nhà cung cấp DVPTKD dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện đã đặt 
 68
ra. Dựa trên đánh giá này mà Chính phủ nên lập ra một danh sách các nhà cung cấp 
đạt các yêu cầu của khách hàng sử dụng DVPTKD và sau đó hỗ trợ cho họ để họ có 
thể tăng khả năng cung cấp DVPTKD cho các DN, đặc biệt là các DNVVNV. 
Trong trường hợp không có các nhà cung cấp trong nước, nên cho phép các đại 
lý độc quyền cung cấp quốc tế được phép cung cấp các dịch vụ tuân thủ các điều 
kiện nhất định; ở những vùng và khu vực không có các nhà cung cấp địa phương, 
cần cho phép các đại lý độc quyền cung cấp quốc tế cung cấp các DVPTKD cho các 
DN địa phương. 
Chính phủ và các nhà tài trợ cần hỗ trợ các nhà cung cấp DVPTKD, đặc biệt là 
các nhà cung cấp DVPTKD cho các DNVVNV dựa trên các nguyên tắc mà các 
khách hàng DVPTKD có thể lựa chọn các loại hình dịch vụ dựa trên nhu cầu của 
mình, lựa chọn các nhà cung cấp do Chính phủ chỉ định, đặt ra thời gian cung cấp 
dịch vụ do chính họ quyết định. 
NN cần ban hành nghị định về quản lý và hỗ trợ việc phát triển DVPTKD, nhằm 
thành lập cơ chế hợp tác, sử dụng các biện pháp hỗ trợ hiện đại và cải thiện hiệu quả 
và ổn định của việc hỗ trợ của NN đối với thị trường DVPTKD. 
Các nhà cung cấp phải ngày càng tăng khả năng cung cấp DVPTKD về cả chất 
lượng và khối lượng, đặc biệt là khả năng đào tạo các nhà quản lý và đào tạo quản lý 
nội bộ. Cần áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 đối với quá trình cung 
cấp dịch vụ để tạo ra những dịch vụ có chất lượng cao hơn. 
Các hiệp hội kinh doanh và các hiệp hội ngành nghề cần xây dựng các nguyên 
tắc và quy định về các tiêu chuẩn chuyên nghiệp và đạo đức kinh doanh đối với tổ 
chức của mình và tất cả các thành viên phải tuân thủ các nguyên tắc và quy định đó. 
Thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo và các hoạt động khác của các tổ chức này 
sẽ khuyến khích các thành viên của họ cải thiện chất lượng của mình. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
44029.pdf