Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn.Do đó, việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào.
Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn dài so với các khoản vốn có tính thời hạn thấp để xem xét sự ổn định của nguồn vốn huy động. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp để tăng các khoản huy động có thời hạn dài. Chi phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng đều quan tâm. Để có được chi phí đầu vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các ngân hàng phải xem xét khoản mục nào có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực tế các khoản huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có tính ổn định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động vốn thì các ngân hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa trong cơ cấu vốn huy động của mình. Bên cạnh đó các khoản vốn huy động từ khu vực dân cư rất tiềm tàng giúp Ngân hàng mở rộng kinh doanh tín dụng tiêu dùng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông có lợi cho nền kinh tế.
66 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cực như: áp dụng lãi suất mềm dẻo, linh hoạt do đó nguồn tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên đáng kể qua các năm , cụ thể là:
Năm 1998 huy động động được 57557 triệu, năm1999 tăng lên 57795 triệu về số tuyệt đối tăng +238 triệu, về số tương đối tăng +4%; năm 2000 đạt 69354 triệu, tăng +11559 triệu so với năm 1999.
Ta thấy xu hướng tăng của tiền gửi tiết kiệm nhanh hơn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, chi nhánh cần mở rộng loại tiền gửi này hơn nữa để tăng tổng nguồn huy động vì nó có tính ổn định và lãi suất huy động thường nhỏ hơn mức lãi suất khác.
Bảng 5: Cơ cấu tiền gửi của dân cư
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tiền gửi tiết kiệm
57557
29,4
57795
26.8
69354
27
2. Phát hành kì phiếu
138489
70,6
157838
73,2
189406
73
Tổng
196046
100%
215633
100%
258760
100%
Nguồn: phòng kế toán và ngân quĩ
Một hình thức được Ngân hàng dùng để huy động vốn có hiệu quả đó là phát hành các kì phiếu ngân hàng. Qua bảng 5 ta thấy huy động qua phát hành kì phiếu có xu hướng tăng nhanh qua các năm: năm 1998 huy động được 138489 triệu, năm 1999 đạt 157838 triệu, tăng + 19349 triệu và năm 2000 đạt 189406 triệu, tăng + 31568 triệu. Huy động bằng hình thức phát hành kì phiếu tăng mạnh hơn so với các hình thức khác sở dĩ là do nó hấp dẫn hơn đôí với dân chúng ở lãi suất cao và thời hạn ngắn. Trong thực tế kì phiếu có thời hạn 3 tháng, 6 tháng rất được dân cư ưa chuộng.
III. Đánh giávề hoạt động huy động vốn của Ngân hàng:
1. Những mặt làm được:
Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh của NNN0 &PTNT Từ Liêm có sự tăng trưởng toàn diện, các mặt chỉ tiêu đều đảm bảo chất lượng và hiệu quả an toàn trong hoạt động. Riêng công tác huy động vốn đã được những thành công sau:
1.1. Nguồn vốn chi nhánh huy dộng được tăng nhanh qua các năm
Chi nhánh đã biết phát huy năng lực của mình cũng như các ưu thế hiện có được để huy động vốn có hiệu quả, thể hiện ở chỗ nguồn vốn huy động năm sau luôn cao hơn năm trứơc và vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, dân cư khá ổn định giúp chi nhánh có nguồn tiền gửi chi phí thấp, ít biến động hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động cho vay và đầu tư của Ngân hàng.
1.2. Nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn
Hàng năm nguồn vốn huy động được luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng, ngoài ra Ngân hàng còn thường xuyên hỗ trợ về vốn cho các ngân hàng cơ sở ( Mỗ, Nhổn, Chèm) cũng như đóng góp với Nhà nước hàng trăm tỉ đồng để đầu tư cho các vùng kinh tế khác. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính của mình.
1.3. Ngân hàng có cơ cấu vốn tương đối hợp lý và ổn định
Qua số liệu phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong một số năm qua ta thấy tỉ trọng các nguồn huy động ít thay đổi và tỉ trọng này là khá hợp lý so với tình hình hoạt độngcủa Ngân hàng và địa bàn hoạt động. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã cố gắng nhiều trong công tác huy động vốn.
1.4. Ngân hàng đã tạo được mối quan hệ gắn bó, sâu sắc và uy tín với khách hàng
Điều này thể hiện ở chỗ Ngân hàng đã khắc phục được điểm yếu về địa điểm hoạt động, thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Do Ngân hàng đặt trụ sở xa đường phố chính nên tạo nên tâm lý ngại đến ngân hàng của khách hàng, phần nào hạn chế khả năng hút khách và huy động vốn của Ngân hàng, nhưng bằng cách mở rộng màng lưới và tăng cường công tác tuyên truyền, tiếp thị nên đã giữu được chữ tín với khách hàng trong việc gửi tiền. Hiện nay Ngân hàng có 7 điểm huy động vốn trên địa bàn huyện được đặt tại những nơi đông dân cư . Vì vậy bằng những biện pháp thiết thực, Ngân hàng đã tạo được uy tín với khách hàng trong việc thu hút vốn, tạo nên thành công chung trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.5. Ngân hàng đã hiện đại hoá giao dịch ngân hàng:
Hiện nay tất cả các phòng ban của Ngân hàng đều được trang bị máy vi tính, góp phần hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Riêng phòng kế toán và ngân quĩ đảm nhiệm chức năng quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ hiện đại đã giảm nhẹ rất nhiều công việc, mọi giao dịch đều thông qua máy và việc quản lý nguồn vốn huy động cũng chính xác hơn, đơn giản hơn, góp phần vào hiệu quả công tác huy động vốn.
1.6. Ngân hàng đã phát huy được tinh thần đoàn kết tập thể trong việc huy động vốn
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đội ngũ cán bộ ngân hàng đã có nhiều sáng kiến đóng góp trong quá trình huy động vốn tạo nên thành công của ngân hàng trong hoạt động huy động vốn. Từ đó khơi gợi tinh thần đoàn kết của mỗi cán bộ vì sự phát triển không ngừng của Ngân hàng trong tương lai.
2. Những mặt hạn chế:
2.1. Nguồn vốn huy động được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có
Không thể thống kê một cách chính xác về số tiền nhàn rỗi trong dân cư hiện là bao nhiêu, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng con số đó lớn hơn rất nhiều so với con số mà ngân hàng huy động được. Huyện Từ Liêm đang trong giai đoạn” thay da , đổi thịt”, thu nhập của người dân ổn định và bắt đầu tăng trưởng, nguồn vốn tiết kiệm để dành cũng tăng lên. Trong khi địa bàn cần rất nhiều vốn để phát triển thì một lượng tiền khổng lồ lại nằm rải rác trong dân chúng, đều này thể hiện ở tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm chưa cao trong tổng nguồn huy động . Trong tương lai ngân hàng cần đề ra những giải pháp hữu hiệu để thu hút ngày càng nhiều tiền gửi dân cư, nhằm giải đáp một phần câu hỏi về vốn cho sự phát triển của huyện Từ Liêm.
2.2. Nguồn vốn huy động được sử dụng chưa nhiều
Tuy vốn huy động tương đối lớn nhưng tổng nguồn lại chưa nhiều: năm 1998 vốn huy động đạt 240366 triệu , nguồn sử dụng đạt 99798 triệu; năm 1999 huy động được 260525 triệu, sử dụng 119326 triệu và năm 2000 huy động 312630 triệu, sử dụng 198194 triệu. Tổng nguồn vốn được sử dụng để cho vay và đầu tư có tăng lên trong các năm nhưng còn ít so với tổng nguồn huy động, điều này có ảnh hưởng đến kế hoạch huy động vốn của ngân hàng vì nhu cầu huy đọng vốn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính ở một số nước trong khu vực năm 1997 đến nay, nền kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại và giảm sút gây không ít khó khăn cho các ngân hàng thưong mại: nhu cầu vay vốn của nền kinh tế giảm nhiều, vốn của các ngân hàng bị đóng băng. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân chung, nhưng chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm cần chủ động tìm ra biện pháp tháo gỡ tình thế, tăng doanh số cho vay nhằm tạo điều kiện cho công tác huy động vốn trong tương lai mà trước mắt là năm 2001 cũng như thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng trôi chảy và hiệu quả.
3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công tác huy động vốn tại NHN0 &PTNT Từ Liêm
3.1. Công tác sử dụng vốn:
Một ngân hàng không thể xây dựng kế hoạch và chiến lược huy động vốn của mình mà bỏ qua việc phân tích công tác sử dụng vốn vì nếu ngân hàng không làm tốt công tác cân đối vốn thì vốn huy động ứ đọng, ngân hàng không thể cho vay hay đầu tư trong khi vẫn phải tră lãi cho các nguồn huy động. Chính vì điều này mà NHN0 &PTNT Từ Liêm rất coi trọng công tác sử dụng khi xem xét và xây dựng chiến lược vốn. Xuất phát từ kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư và cho vay ngân hàng đã xây dựng cho mình một kế hoạch vốn. Hiện nay do nguồn vốn huy động trung và dài hạn còn hạn chế, nên Ngân hàng vẫn phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung ,dài hạn. Khi mà nhu cầu vốn trung, dài hạn tăng lên thì ngân hàng không thể sử dụng biện pháp này được mà phải tăng cường huy động vốn trung và dài hạn . Nhu cầu vốn trung và dài hạn sẽ thúc đẩy huy động vốn trung ,dài hạn và là một trong những căn cứ để ngân hàng xác định lượng vốn cần huy động. Ngân hàng cần phải quyết tâm đẩy mạnh công tác huy động vốn trong toàn bộ chi nhánh từ lãnh đạo đến các cán bộ, tích cực đóng góp đề xuất các giải pháp.
Tóm lại: chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm đã rất quan trọng hoạt động sử dụng vốn, coi đó là nhân tố hàng đầu tác động trực tiếp đến công tác huy động vốn của ngân hàng huy động vốn phải thực sự gắn liền với sử dụng vốn . Có như vậy thì công tác huy động vốn của chi nhánh mới thực sự đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của khách hàng. Đây cũng là phương châm giúp cho sự thành công của Ngân hàng trong thời gian qua.
3.2. Lãi suất:
Sau khi Ngân hàng đã xây dựng được một chiến lược vốn phù hợp và bắt dầu tiến hành huy động vốn thì lúc này lãi suất sẽ là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của khối lượng vốn huy động được cũng như quyết định đến tốc độ huy động vốn và cơ cấu các nguồn huy động. Chính vì thế công cụ lãi suất đã được sử dụng hết sức mềm dẻo, thường xuyên thay đổi qua các thời kì.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1997
1998
1999
2000
1. Tiền gửi không kỳ hạn
% tháng
0,45
0,5
0,25
0,2
2. Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng
0,7
0,75
0,5
0,35
3. Tiền gửi kỳ hạn 6 tháng
0,8
0,9
0,6
0,5
4. Tiền gửi kỳ hạn 12 tháng
0,9
1,0
0,7
0,55
Ta thấy lãi suất tiền gửi của ngân hàng có nhiều biến động qua các năm nhưng trong đó tiền gửi kì hạn dài hơn luôn có mức lãi suất cao hơn, điều này sẽ thu hút khách hàng gửi tiền dài hạn tuy vậy tiền gửi dài hạn ở ngân hàng chưa nhiều.
Vậy bằng công cụ lãi suất Ngân hàng có thể tăng hoặc giảm qui mô huy động của mình và có thể thay đổi cơ cấu trong nguồn huy động, nhưng để có được một mức lãi suất hợp lý đòi hỏi Ngân hàng không chỉ phân tích nhu cầu vốn huy động và tình hình sử dụng vốn của mình mà còn phải thường xuyên theo dõi sự biến động lãi suất của các Ngân hàng Thương mại khác trên thị trường để có thể điều chỉnh lãi suất hợp lý cho từng thời điểm cụ thể.
3.3. Các hình thức huy động:
Một yếu tố gây ảnh hưởng đến công tác huy động viốn của NHN0 &PTNT Từ Liêm là các hình thức huy động chưa phong phú, mới chỉ dừng lại ở những hình thức quen thuộc như tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,12 tháng, chưa cải tiến và áp dụng những hình thức mới. Cho nên giảm sự quan tâm của các khách hàng đối với các loại tiền gửi của ngân hàng, ảnh hưởng đến doanh số huy độnh của kế hoạch đã đề ra.
NHN0 &PTNT Từ Liêm dã biết được điểm yéu của mình và đang tìm cách khắc phục. Mong rằng trong thời gian không lâu Ngân hàng sẽ có được những hình thức huy động đa dạng đáp ưng được cả nhu cầu của khách hàng cũng như của ngân hàng.
3.4. Các hình thức tiếp thị quảng cáo:
Trong cơ chế thị trường thì công việc quảng cáo là không thể thiếu đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh tế, các Ngân hàng Thương mại cũng đã có nhiều hình thức quảng cáo tiếp thị trên báo chí ,phát thanh truyền hình... nhằm giới thiệu các hoạt động sẽ làm hài lòng khách hàng của mình để thu hút nhiều khách hàng về mình hơn. Thời gian qua công tác tiếp thị quảng cáo ở NHN0 &PTNT Từ Liêm còn ít gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng nhất là đối với hoạt động huy động vốn, bởi vì khách hàng không biết đến các hình thức huy động của ngân hàng, không biết đến các lợi ích mà các dịch vụ ngân hàng mang lại. Do đó ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến hoạt động tuyên truyền quảng cáo góp phần vào hiệu quả công tác huy động vốn.
Như vậy qua phân tích ở trên ta có thể thấy công tác huy động vốn của chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm đã đạt được những thành công đáng kể, góp phần vào thành công chung của hoạt động kinh doanh ngân hàng.Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại tồn tại cần phải khắc phục để ngày một hoàn thiện công tác này hơn.
Muốn vậy chúng ta phải đề ra được những giải pháp để giải quyết khó khăn cho ngân hàng, đồng thời có ý kiến kiến nghị lên các cấp nhằm hỗ trợ cho công tác huy động vốn của chi nhánh NHN0 & PTNT Từ Liêm đạt kết quả cao hơn. Tất cả những vấn đề vừa nêu sẽ được xem xét ở chương tiếp theo.
Chương III : những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm
I. Định hướng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm
Nhiệm vụ đặt ra cho chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmtrong thời gian tới là phải tiếp tục triển khai những mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Trong năm 2001 hoạt động kinh doanh của chi nhánh theo hướng sau:
Tiếp tục đẩy mạnh kinh doanh, củng cố và mở rộng thị trường hoạt động, đảm bảo hiệu quả, an toàn nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật để thích ứng trong quá trình hội nhập
Xây dựng và củng cố để trỏ thành một chi nhánh vững mạnh về mọi mặt
Nguồn vốn huy động tăng từ 20 -22 % so với năm 2000
Tổng dư nợ tăng từ 20 -25 % so với năm 2000
Nợ quá hạn : dưới 1% dư nợ
Quỹ thu nhập : tăng +10%.
Đảm bảo đủ chi phí tiền lương và thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
II. Nhu cầu vốn của huyện Từ Liêm
Huyện Từ Liêm là nơi tập trung nhiều dự án phát triển trong thời gian sắp tới và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Đây sẽ là nơi xây dựng khu liên hợp thể thao, khu công nghiệp nam Thăng Long, đồng thời có dự án nhà ở mới và đường cao tốc Láng -Hoà Lạc chạy qua. Những dự án này sẽ làm thay đổi bộ mặt của huyện nhưng cũng đặt ra không ít vấn đề cho ban lãnh đạo. Thực trạng kinh tế hiện nay của huyện gặp nhiều khó khăn, cần phải có sự hỗ trợ rất lớn về nhièu mặt. Khi thành phố ra quyết định thành lập quận mới - quận Cầu Giấy thì một số địa điểm phát triển đã được tách ra, sát nhập vào quận mới gây không ít thiệt thòi cho huyện. Với đặc điểm là vùng mạnh về nông nghiệp nên kinh tế của huyện phát triển còn chậm. Số doanh nghiệp nhà nước đặt tại huyện ít, người dân chủ yếu hoạt động sản xuất và buôn bán nhỏ, cơ sở vật chất còn nghèo chưa đủ điều kiện để thu hút các dự án đầu tư nước ngoài.
Để có thể hoà mình vào sự phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của thành phố nói riêng và để trở thành một trung tâm kinh tế, từng bước xây dựng huyện hiện đại, vững mạnh thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn.
Trong sự phát triển đó thì bản thân huyện phải đóng vai trò chủ thể. Khi mà sự trợ giúp từ ngân sách nhà nước là có hạn và vốn đầu tư nước ngoài vào còn hạn chế, hơn nữa tuy ngân sách huyện thu có đạt nhưng không đủ bù chi nên vai trò thu hút vốn tư nội tại huyện, nhất là trong tầng lớp dân cư để đầu tư thông qua các Ngân hàng Thương mại là yếu tố vô cùng quan trọng. Với lợi thế hoạt động lâu năm trên địa bàn, đã có nhiều mối quan hệ giao dịch với dân cư và có nhiều khách hàng truyền thống. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm cần thấy được cơ hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm
1. Ngân hàng nên chuyển đến nơi có địa điểm thuận lợi hơn
Như chúng ta đã biết địa điểm của ngân hàng chiếm vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong công tác huy động vốn nói riêng. Do vậy chi nhánh nên tích cực hơn nữa trong việc xin chuyển trụ sở đến địa điểm thuận lợi hơn. Nếu Ngân hàng được chuyển đến các trục đường chính như trên mặt đương thị trấn Cầu Diễn chẳng hạn, thì có nói đây là giải pháp hữu hiệu không những tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch với khách hàng mà còn tăng được vốn huy động từ dân cư.
2. Tập trung thực hiện chiến lược huy động vốn theo chỉ đạo của Trung ương
Ngân hàng cần nắm bắt và triển khai kịp thời các ý kiến chỉ đạo của ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thông qua các chủ trương và chính sách về huy động vốn. Đồng thời kết hợp với tình hình thực tế tại địa bàn huyện để có chính sách về lãi suất tiền gửi thật mềm dẻo, linh hoạt đảm bảo vừa thực sự hấp dẫn đối với khách hàng vừa mang tính cạnh tranh cao và bản thân ngân hàng có lợi. Ngân hàng cần chú trọng nguồn vốn lãi suất thấp, thời gian dài và ổn định.
3. Luôn tạo sự an tâm đối với người gửi tiền
Như chúng ta đều biết khi rời xa vốn liếng một thời gian dài để gửi vào ngân hàng, người gửi tiền thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh tế, sự ổn định của hoạt động ngân hàng nơi mình ký thác tiền vào. Chính vì vậy, vấn đề giải toả tâm lý cho khách hàng để tăng nguồn vốn huy động là vấn đề mà các Ngân hàng Thương mại luôn nghiên cứu để đạt được điều mà khách hàng mong muốn. Xác định được tầm quan trọng của chữ tín trong hoạt động ngân hàng, ngoài các biện pháp thực hiện hàng ngày như : đảm bảo khả năng thanh toán tức thời, cung ứng một cách nhanh nhất các tiện ích sẵn có, trụ sở khang trang thoáng mát thì yếu tố bảo hiểm tiền gửi cần được ngân hàng quan tâm và thực hiện một cách đầy đủ, kịp thời.
4. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn
Trong những năm qua chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm luôn tìm mọi cách đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của mình. Đặc biệt đối với loại tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư, đây là những nguồn huy động truyền thống đối với nghành ngân hàng nói chung thì ngân hàng đã mở rộng bằng nhiều kỳ hạn huy động vốn khác nhau : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng...Tuy nhiên khó khăn đối với ngân hàng là việc thiếu các nguồn vốn dài hạn nên thực tế các hình thức huy động vốn dài hạn chưa được khai thác đúng mức, tiền gửi có kỳ hạn còn chiếm tỷ trọng nhỏ, xu hướng tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế thấp hơn so với tiền gửi của dân cư.
Trong khi thị trường chứng khoán ở Hà Nội chưa thực sự được đưa vào hoạt động thì hình thức huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu (12 tháng, 13 tháng) đã đáp ứng được nhu cầu trước mắt của chi nhánh. Do tâm lý dân chúng nước ta còn dè dặt trong việc gửi tiền dài hạn nên trong giai đoạn hiện nay ngân hàng nên tiếp tục biện pháp này. Bên cạnh đó ngân hàng nên phát hành thêm hình thức chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng vô danh để có thể chuyển nhượng được hoặc có thể bán lại cho các Ngân hàng Thương mại trước ngày đáo hạn.
Đối với huy động tiền gửi tiết kiệm, để phát triển hình thức tiết kiệm dài hạn thì ngân hàng nên tạo ra các loại tài khoản có mục đích, có như vậy dân chúng mới an tâm gửi tiền dài hạn mà không sợ mất giá vì mục đích của việc gửi tiền tiết kiệm là để mua nhà, mua các phương tiện sinh hoạt đắt tiền ... sẽ được đảm bảo bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh như đô la Mỹ. Hơn nữa cần tiếp tục đa dạng hoá các hình thức gửi tiền như nên mở rộng các hình thức gửi gọn lấy gọn, gửi lẻ lấy gọn để tăng tiền gửi có kỳ hạn.
Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn mở ra các loại tài khoản phục vụ thường xuyên giao dịch và không thường xuyên giao dịch, loại dành cho các doanh nghiệp và loại dành cho dân cư, loại có số dư lớn, loại có số dư nhỏ, loại có hưởng lãi và không hưởng lãi...Tuỳ theo từng loại khách hàng để mở cho họ một loại tài khoản thích hợp hoặc một khách hàng có thể mở hai hoặc ba loại tài khoản phù hợp với hoạt động kinh tế của mình.
Tóm lại, công tác huy động vốn của ngân hàng có nhiều bất cập đặc biệt là huy động nguồn dài hạn. Một số biện pháp mở rộng huy động vốn dài hạn nói trên cần phải được ngân hàng phối hợp với sự cộng tác giúp đỡ của nhiều cơ quan, tổ chức và đặc biệt là phụ thuộc vào những chính sách của Nhà nước và sự phát triển của các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khoán.
5. Đẩy mạnh chính sách khách hàng
Không như những hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng mang tính thường xuyên và lâu dài, khả năng tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ tín của khách hàng kể cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Đặc biệt, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, có khách hàng chỉ quan tâm đến dịch vụ và chất lượng các dịch vụ của ngân hàng mà yếu tố lãi suất không phải là yếu tố quyết định nữa. Điều đó khẳng định rằng, chính sách khách hàng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm.
5.1. Công tác cán bộ
Để làm tốt chính sách này, chi nhánh cần phải làm tốt công tác cán bộ, cụ thể là phải tuyển chọn những cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt đặc biệt là các cán bộ làm việc ở phòng giao dịch. Cán bộ cần có thái độ vui vẻ, nhiệt tình phục vụ, tôn trọng khách hàng để tạo được lòng tin tuyệt đối của khách hàng với ngân hàng.
5.2. Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng
Để triển khai chính sách khách hàng thực sự có hiệu quả, đi vào nề nếp chi nhánh nên thành lập tổ nghiên cứu khách hàng, tổ này gồm các lãnh đạo của chi nhánh như giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng, phó phòng cùng với các cán bộ phòng kinh doanh - họ luôn phải quan hệ với khách hàng để từ đó có thể nắm bắt được một cách dễ dàng những yêu cầu đòi hỏi của khách hàng và có những biện pháp đáp ứng kịp thời những yêu cầu đó.
5.3. Phân loại khách hàng
Đây là công tác rất cần thiết đối với các hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh, trên cơ sở phân loại khách hàng chi nhánh có những chính sách ưu tiên, khuyến khích thích hợp đối với các khách hàng có số tiền gửi lớn, ổn định, khách hàng có uy tín.
ưu đãi về lãi suất : đây là vấn đề khách hàng hết sức quan tâm khi đặt vấn đề với ngân hàng, công tác huy động vốn của ngân hàng luôn sống động, phù hợp với từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. “Người bán vốn" là các tổ chức kinh tế và dân cư, “người mua vốn" là ngân hàng, hai bên cùng có lợi qua giá cả là lãi suất ngân hàng trả cho người bán. Như vậy, giá cả có thể lên xuống theo cung và cầu trên thị trường, theo quy định của ngân hàng nhà nước, theo sự thoả thuận giữa người bán và người mua. Vì thế ngân hàng phải có chính sách lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, thoả đáng cho những khách hàng có nguồn tiền gửi lớn nhưng vẫn phải đảm bảo mặt bằng lãi suất của các ngân hàng trên địa bàn.
Đối với các tổ chức tài chính có số dư tiền gửi bình quân lớn, ổn định thường xuyên chẳng hạn từ 5 tỷ đồng trở lên, thời hạn gửi từ 1 năm trở lên có thể tăng mức lãi suất lên 0,05%/tháng so với lãi suất huy động hiện hành. Các đơn vị này nếu có nhu cầu vay trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến ngày đáo hạn thì Chi nhánh có thể cho vay với lãi suất giảm 0,05% tháng so với lãi suất hiện hành.
Đối với khách hàng là dân cư, nếu có nhu cầu vay trong khi có kỳ phiếu, trái phiếu hay tiền gửi tiết kiệm tại chi nhánh còn trong hạn thì được vay vốn với mức lãi suất giảm 0,02%/tháng so với lãi suất hiện hành.
+ ưu đãi về dịch vụ : cung cấp các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
Những khách hàng có số tiền gửi lớn cần gửi vào hoặc lấy ra tại chi nhánh thì khi có yêu cầu ngân hàng có thể cử cán bộ giao dịch đến tận nơi thu nhận hay phát cho khách hàng với chi phí tối thiểu.
Khách hàng cần mở tài khoản tiền gửi với số lượng tiền lớn, ổn định chỉ cần gọi điện đến chi nhánh, cán bộ của ngân hàng có thể đến tận nơi hướng dẫn khách làm thủ tục, giải đáp thắc mắc và nhanh chóng hoàn tất các thủ tục cần thiết.
Miễn thu phí ấn chỉ thông thường đối với các đối tượng có sử dụng các khế ước vay tiền, bảng kê rút vốn, bộ hồ sơ mở tài khoản ...
Khách hàng gửi tiền có nhu cầu chuyển tiền từ USD sang VND chi nhánh sẽ thực hiện nhanh chóng, thủ tục đơn giản, miễn phí
5.4. Tăng cường và không ngừng mở rộng các dịch vụ
Trong hệ thống Ngân hàng Thương mại đã từ lâu tồn tại sự cạnh tranh gay gắt, không có giới hạn để kéo về mình những khách hàng lớn. Đối với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmdoanh thu từ hoạt động dịch vụ còn rất khiêm tốn, nhưng cũng đã khẳng định được sự đổi mới trong phong cách hoạt động kinh doanh của mình để thắng các đối thủ cạnh tranh khác đồng thời hoà nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước. Bên cạnh đó, để hoạt động dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả trong việc thu hút các khách hàng mới và tăng nguồn vốn huy động qua đó tăng mức thu nhập của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmcần phát triển hơn nữa các dịch vụ sau:
Dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn thông tin : trong dịch vụ này ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, tính toán nguồn tài trơ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Trong lĩnh vực kinh doanh, thông tin được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Cho nên ngân hàng nên có bộ phận tư vấn quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin chuyên môn liên quan tới các lĩnh vực hoạt động của các khách hàng của mình để kịp thời nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và cung cấp cho khách hàng các thông tin quan trọng, cần thiết.
Dịch vụ tư vấn tài chính : qua thực tế đã chứng minh rằng nhiều khi ngân hàng cũng phải giúp cho doanh nghiệp trong việc lập, phân tích tài chính... Vì vậy, sự ra đời dịch vụ này là rất cần thiết cho các doanh nghiệp.
Tư vấn về pháp luật : ngân hàng có thể giúp nhiều cá nhân, doanh nghiệp nắm rõ các quy định của luật pháp để thực hiện đúng như: luật công ty, luật kinh tế, luật doanh nghiệp nhà nước. Vì nhiều doanh nghiệp còn chưa được thực sự nắm vững được quyền và nghĩa vụ của mình, do vậy nhiều khi để xảy ra những lỗi đáng tiếc, chịu thiệt thòi trong quan hệ kinh tế.
6. Tiếp tục sắp xếp lao động và mở rộng mạng lưới kinh doanh tại những địa bàn có tiềm năng, từng bước đào tạo nâng cao trình độ và tay nghề của cán bộ công nhân viên.
Theo kinh nghiệm của các nước, hai yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế là vốn và con người, trong đó con người đóng vài trò chủ thể chính, quan trọng nhất trong sự phát triển. Xu hướng trong những năm tới, khi mà các điều kiện vật chất và vốn của các Ngân hàng Thương mại tương đương nhau thì ngân hàng nào có đội ngũ cán bộ mạnh sẽ thắng thế trong cạnh tranh. Cho nên vấn đề nhân sự luôn được các ngân hàng quan tâm bằng các hình thức đào tạo như : tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, đào tạo lại, khuyến khích cán bộ học thêm ... Các ngân hàng thật sự đang bước vào một cuộc cạnh tranh mới - cạnh tranh trí tuệ.
Không nằm ngoài xu hướng phát triển đó, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmcần chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên để họ có thể nắm bắt kịp thời những thay đổi vầ thích ứng với sự phát triển chung của xã hội.
7. áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại:
Nhất là khâu thanh toán, nghiên cứu để áp dụng phương thức “ gửi một nơi, lấy nhiều nơi” tạo mọi điều kiện thuận lợi khi giao dịch với ngân hàng cấp trên, thông tin liên lạc và thực hiện thanh toán không chứng từ với các chi nhánh trong cùng hệ thống
8. Làm tốt công tác tiếp thị:
Công tác này phải được tiến hành đến từng doanh nghiệp, bằng các luồng thông tin khác nhau, cán bộ tín dụng là người có thể nắm bắt được lý lịch của khách hàng mà mình muốn đặt quan hệ, sau đó trực tiếp xuống đơn vị, giới thiệu cho họ biết về các nghiệp vụ, các hình thức huy động vốn của ngân hàng qua đó thể hiện được ưu thế của ngân hàng so với các ngân hàng khác trong cùng địa bàn. Có thể có các biện pháp khuyến mãi nhằm thu hút các khách hàng mới tạo cảm tình tốt ngay từ các quan hệ đầu tiên. Đối với các khách hàng lớn, lãnh đạo chi nhánh nên xuống tận nơi gặp gỡ trực tiếp khách hàng để tạo sự tôn trọng và tin cậy lẫn nhau.
Ngoài ra, để thu hút nhiều hơn nữa khách hàng lớn chi nhánh nên dùng phương thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội nghị khách hàng lớn, tặng quà lưu niệm để tuyên truyền và giúp khách hàng có điều kiện hiểu thêm về hoạt động tại chi nhánh mình. Đặc biệt trong việc vận động các cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh thì công tác quảng cáo vô cùng quan trọng. Có như vậy, người dân mới hiểu được sự thuận tiện khi sử dụng tài khoản này, và từ đó chi nhánh mới tăng được nguồn vốn huy động có lãi suất thấp.
9. Huy động thông qua các kênh khác
- Chi nhánh nên hợp đồng với các công ty bảo hiểm để vận động khách hàng của chi nhánh mua bảo hiểm cho vốn vay hoặc bảo hiểm chất lượng các công trình. Nếu làm được điều này thì ngoài phần thu từ phí, chi nhánh còn huy động được vốn thông qua tài khoản tiền gửi của các công ty tại chi nhánh, vàtránh được rủi ro.
- Hợp đồng với các cơ quan bưu điện, điện lực, sở nhà đất... để tổ chức thanh toán qua tài khoản tiền gửi cá nhân về tiền nhà, tiền điện, tiền điện thoại hay trả lương cho các cán bộ của cơ quan đó.
10. Thường xuyên làm tốt công tác thi đua khen thưởng để hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn :
Ngân hàng phải có chính sách khen thưởng, khuyến khích hợp lý đối với các cá nhân, phòng ban có thành tích, sáng kiến trong nghiên cứu khoa học và phương pháp thực tiễn trong công tác khơi nguồn cho chi nhánh. Có thể thấy rằng, công tác huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmđã đạt được những thành tích nhất định, nhưng so với tiềm năng của địa bàn thì chưa tương xứng. Các cán bộ ngân hàng cần thấy được vai trò của ngân hàng trong sự phát triển của huyện, khi nhu cầu vốn của địa bàn cần rất lớn nhưng khả năng huy động vốn còn hạn chế. Cho nên từ lãnh đạo cho đến toàn bộ cán bộ của chi nhánh phải thực sự tìm ra giải pháp cho ngân hàng mình bằng tài năng và nỗ lực của bản thân vì họ là người duy nhất hiểu rõ về đặc điểm và tính chất của khách hàng, của các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, ban lãnh đạo ngân hàng cần có các chính sách khen thưởng kịp thời để khuyến khích các cá nhân, tập thể cùng tham gia.
Rõ ràng, bằng các nghiệp vụ, các biện pháp đa dạng và nâng cao chất lượng các hoạt động của ngân hàng, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmsẽ tạo ra được một sức cạnh tranh lớn nhằm thu hút khách hàng về mình ngày càng nhiều và để tiến tới thoả mãn mọi nhu cầu và tâm lý của khách hàng. Kết quả là, ngân hàng sẽ có khả năng thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội. Tuy nhiên, một điều hết sức cơ bản là phải có các điều kiện cơ bản để đảm bảo cho các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả cao và thực sự có tính khả thi lớn khi đưa vào thực tiễn. Ta biết rằng trong xu hướng phát triển ngày nay, không một ngân hàng nào có thể phát triển mà không có sự liên kết chặt chẽ với các ngân hàng khác, hơn thế nữa chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmlà một chi nhánh trực thuộc chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội và sau đó là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước như các Ngân hàng Thương mại khác và cao hơn nữa là chịu sự chi phối, chỉ đạo của chính phủ Việt Nam như các thành phần kinh tế khác. Các biện pháp đưa ra sẽ không thể phát huy được tác dụng nếu như chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không tạo ra được môi trường thuận lợi và ổn định để giúp chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmthực hiện chúng. Bên cạnh đó để có thể huy động vốn các chi nhánh cần có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về các quan điểm có tính định hướng của Đảng và Nhà nước cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế nói chung và hệ thống các Ngân hàng Thương mại nói riêng. Chính vì lẽ đó, chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải có chính sách phù hợp.
IV. Các điều kiện đảm bảo tính khả thi để thực hiện các biện pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm
1. Kiến nghị với chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vai trò điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế do vậy chính phủ rất quan trọng trong việc điều hướng mọi hoạt động của một quốc gia. Chính phủ là cơ quan thực hiện luật pháp hoá các chủ trương, chính sách và những biện pháp cần thiết trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm thể hiện ý chí của cả nước. Hơn thế, chính phủ cũng cần nắm bắt kịp thời những chi tiết chưa đầy đủ hoặc chưa cụ thể trong hệ thống luật pháp để từ đó tiến hành bổ sung tạo điều kiện xây dựng một môi trường pháp lý hoàn thiện và ổn định, đảm bảo cho mọi người dân an tâm và tin tưởng khi sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng cũng như lĩnh vực ngân hàng và hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong phạm vi hoạt động huy động vốn nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, cần tiếp tục được sự quan tâm và hỗ trợ nhiều phía của Chính phủ.
1.1. Tiếp tục hoàn thiện luật ngân hàng
Tại hội nghị Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm 1997 đã tiến hành thông qua hai bộ luật : luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng.
Có thể nói rằng sự ra đời của hai bộ luật trên cùng với sự điều tiết của luật ngân sách, luật công ty, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thương mại ... sẽ đảm bảo được tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, thay thế cho hai pháp lệnh Ngân hàng là pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh hợp tác xã , tổ chức tín dụng và công ty tài chính đã bộc lộ nhiều bất cập trong việc điều hành cũng như thực thi có hiệu quả trong điều kiện hệ thống ngân hàng nước ta đang từng bước chuyển đổi hoà nhập chung với hệ thống ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong khi đó, mọi hoạt động tiền tệ tín dụng và kể cả các định chế hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng đòi hỏi phải hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật, làm cho mọi hoạt đọng trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng được kiểm soát chặt chẽ. Chỉ có như vậy, tất cả các nguồn vốn của quốc gia được tập trung đầy đủ và thoả đáng, lợi ích của các thành phần kinh tế mới được bảo vệ một cách đúng đắn. Nếu như không có hệ thống luật pháp quy định rõ về thao tác nghiệp vụ, nội dung, tính chất hoạt động của tất cả các đối tượng hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng thì có thể các đơn vị kinh tế không có chức năng tín dụng cũng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn. Điều này dẫn đến tình trạng nguồn vốn huy động được bị phân tán, không thể tập trung hoàn toàn vào các định chế ngân hàng và do đó các ngân hàng cũng không thể có sự phối hợp kịp thời và hợp lý, từ đó rủi ro cho người gửi tiền là rất có thể xảy ra, gây khó khăn cho công tác huy động vốn cũng như công tác đầu tư, cho vay theo đúng định hướng của nền kinh tế.
Sau gần bốn năm ra đời, hai luật đã phát huy được những ưu điểm của mình : góp phần luật hoá các hoạt động tiền tệ - tín dụng, bảo vệ hoạt động ngân hàng, định hướng cho các ngân hàng làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, tăng cường an toàn cho người gửi tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho người vay vốn ... giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó hai bộ luật cũng còn nhiều điều cần bổ sung và hoàn thiện hơn nữa để trở thành “ kim chỉ nam “ cho hoạt động ngân hàng ở nước ta.
Rõ ràng, sự ra đời của luật ngân hàng là kết quả tất yếu của quá trình phát triển và chuyển đổi của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên để có thể kiểm nghiệm được tính đúng đắn của nó thì cần phải có thời gian, có sự theo dõi, bổ sung liên tục những khiếm khuyết tiến tới ngày càng hoàn thiện bộ luật ngân hàng.
1.2. Đẩy mạnh việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan và có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam hiện nay.
Với cơ chế huy động vốn như thời gian trước và hiện nay thì không thể đáp ứng theo nhu cầu của nền kinh tế đặt ra nhất là nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời tạo ra điều kiện thu hút và sử dụng tốt nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam. Thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, thông qua phát hành chứng khoán, mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thnàh tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Trước đây, người dân Việt Nam chỉ biết khai thác lợi ích nguồn vốn tiết kiệm và của để dành của mình bằng cách gửi vào ngân hàng hưởng lãi. Nhưng khi có thị trường chứng khoán với nhiều loại hàng hoá phong phú mang lại lợi ích cao hơn sẽ thu hút được lượng lớn khách hàng. Từ đó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi khổng lồ có thể dùng đầu tư vào nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh làm cho mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội chuyển đến những nơi có nhu cầu đầu tư và sử dụng có hiệu quả nhất và với giá rẻ nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ khác.
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người có vốn không sợ vốn của mình bị bất động mà có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường chứng khoán để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm sôi động.
Khi chưa có thị trường chứng khoán, các Ngân hàng Thương mại nước ta chủ yếu huy động vốn ngắn hạn, các nguồn vốn trung và dài hạn được huy động thông qua việc phát hành các trái phiếu. Tuy nhiên việc sử dụng công cụ này không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao, vì khả năng thanh khoản của trái phiếu không phải là đơn giản.
Thị trường chứng khoán sẽ giúp cho việc phát hành và chuyển đổi trái phiếu trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Chính vì vậy, ngân hàng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn trong các tầng lớp dân cư.
Thị trường chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt đông jgần một năm nay và phần nào thể hiện được “sức mạnh” của mình. Nhưng do số lượng hàng hoá quá ít và cả nước mới có một sàn giao dịch nên chưa thúc đẩy được thị trường chứng khoán phát triển. Theo kế hoạch của uỷ ban chứng khoán nhà nước thì cuối quý 2 năm 2001 sở giao dịch ở Hà Nội sẽ khai trương và đi vào hoạt động. Mong rằng chính phủ có nhiều biện pháp hỗ trợ hơn nữa để thị trường chứng khoán ở Việt Nam phát triển và đem lại kết quả như mong muốn.
1.3. Tạo ra sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng, nó có thể tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn nhưng cũng có thể cản trở, hạn chế công tác huy động vốn. Nếu nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm phát thấp, thu nhập người dân cao và đồng nội tệ được giữ vững thì sẽ tạo cho ngân hàng rất nhiều điều kiện thuận lợi như : hoạt động ngân hàng ổn định, không bị các yếu tố tác động làm ảnh hưởng, người dân có nhiều tiền nhàn rỗi hơn làm tăng doanh số huy động của ngân hàng, các tổ chức kinh tế làm ăn vững chắc sẽ có nguồn tiền gửi ngân hàng nhiều hơn... Và ngược lại, nền kinh tế bất ổn với các yếu tố vĩ mô luôn thay đổi sẽ làm cho hoạt động ngân hàng bị xáo động, hoạt động huy động vốn bị cản trở nhiều. Nói chung, sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng cho mọi sự phát triển và tăng trưởng của đất nước và cho việc thu hút các nguồn vốn vào ngân hàng.
Trong tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập sự ổn định của kinh tế vĩ mô là giữ vững tỷ lệ lạm phát một con số, tăng thu nhập bình quân đầu người bền vững, giữ sự ổn định giá trị đồng nội tệ. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động các nguồn vốn cho các Ngân hàng Thương mại.
2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:
Với chức năng là cơ quan quản lý các Ngân hàng Thương mại và là ngân hàng của các Ngân hàng Thương mại, có tầm quan trọng rất lớn các chiến lược huy động vốn của các ngân hàng, đồng thời cũng định hướng cho các Ngân hàng Thương mại trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn hiện nay. Chính sách hợp lý và cách thức điều hành đúng đắn sẽ là tiền đề có tác động tích cực đối với công tác huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại.
Kinh nghiệm thực tế các năm qua đã cho thấy, bằng các biện pháp kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, giữ tỷ giá hối đoái ổn định và tạo ra hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh... đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua quá trình điều hành và tổ chức thực hiện các chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và khắc phục những thiếu sót. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và điều hành một chính sách tiền tệ hợp lý nhằm khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo theo sát với tín hiệu của thị trường, các can thiệp của Ngân hàng Nhà nước phải thông qua thị trường bằng các hệ thống công cụ tiền tệ gián tiếp như : thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu. Nếu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước quá chặt chẽ đôi khi vượt sự cần thiết thì sẽ gây khó khăn cho sự hoạt động của các Ngân hàng Thương mại. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện:
Tiếp tục kìm chế lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát dưới hai con số; ổn định giá trị đồng nội tệ. Trong hai năm 1999 và 2000 tình trạng thiểu phát liên tục diễn ra làm cho nền kinh tế phát triển châm, nguồn vốn huy động của các ngân hàng được sử dụng không nhiều, có Ngân hàng Thương mại ứ động khá nhiều vốn không cho vay được làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng: một mặt các ngân hàng vẫn phải trang trải nguồn chi phí huy động, một mặt phải tìm mọi cách để tránh tình trạng nguồn vốn bị đóng băng. Thiểu phát không phải là tốt đối với nền kinh tế đang cần sự phát triển như ở nước ta, thiểu phát sẽ kìm hãm sự tăng trưởng, làm cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Hơn nữa, những tháng cuối năm 2000 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và USD tăng mạnh, gây tâm lý dao động cho người dân khiến cho họ rút tiền gửi để dự trữ ngoại tệ, mua vàng hay dự trũ các tài sản có giá trị làm cho nguồn vốn của các Ngân hàng Thương mại giảm mạnh.
Năm 2001 là năm bản lề cho thiên niên kỷ mới, có ý nghĩa rất quan trọng đối với những giai đoạn tiếp theo. Nghành ngân hàng cần thấy được vị trí và vai trò của mình trong sự phát triển của xã hội, với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những biện pháp hợp lý, tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại hoạt động ổn định. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải tìm cách giúp đỡ các Ngân hàng Thương mại tìm cách phá vỡ tảng băng ứ đọng vốn, một nguyên nhân làm cho nguồn vốn này không giải ngân được là do lãi suất còn quá cao đối với các doanh nghiệp vay vốn. Khi mà nền kinh tế gặp khó khăn, các doanh nghiệp cũng chịu sự ảnh hưởng đó thì việc hạ lãi suất khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để bứt phá khỏi sự trì trệ là điều hết sức quan trọng, nó sẽ góp phần khơi thông nền kinh tế. Và như thế nền kinh tế phát triển, nguồn vốn được sử dụng. Các Ngân hàng Thương mại lại tiếp tục công tác huy động vốn để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của sự phát triển
Thực hiện lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải đảm bảo lãi suất thực dương, có lợi cho người gửi tiền, đồng thời cũng mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Nghiên cứu thực hiện cơ cấu lãi suất phù hợp theo hướng lãi suất trung và ngắn hạn phải có khỏng cách so với lãi suất ngắn hạn để thực sự thu hút được người gửi tiền trung và dài hạn.
Qua các số liệu phân tích ở chương II, ta thấy tiền gửi không kỳ hạn của dân cư là khá cao. Thông thường ở các nước phát triển thì loại tiền gửi này chỉ nhằm mục đích giúp cho các khách hàng thanh toán tiền mua hàng hoá và dịch vụ được thuận tiện mà ngân hàng không phải trả một đồng lãi suất nào. Ngược lại, khách hàng cũng không phải trả tiền dịch vụ cho ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay dân chúng vẫn chưa quen với các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và công tác thanh toán ngân hàng vẫn chưa thực sự hấp dẫn mới chỉ trong giai đoạn hiện đại hoá, do vậy ngân hàng vẫn nên trả lãi cho khoản tiền này. Khi hệ thống thanh toán của ngân hàng đã thực sự hoàn thiện và khách hàng thực sự tin tưởng vào loại hình dịch vụ này thì ngân hàng nên áp dụng hình thức giảm lãi suất và tiến tới không trả lãi nữa, khách hàng chỉ được hưởng dịch vụ phí từ ngân hàng mà thôi. Nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện được nguyên tắc này, đây sẽ là một nguồn vốn hết sức hấp dẫn cho các Ngân hàng Thương mại.
Thực hiện chế độ điều hành tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Tránh tình trạng quy định tỷ giá cố định để rồi lại rơi vào trường hợp của Thái Lan trong năm 1997 vừa qua. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu và xem xét biên độ dao động quy định cho các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ... sao cho thích hợp vừa quản lý được khối lượng ngoại tệ đồng thời vẫn khuyến khích cá thành phần kinh tế phát triển theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra cho hệ thống ngân hàng.
Nghiên cứu và sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như : thẻ tín dụng, rút tiền bằng máy tự động... Qua đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ tự động của ngân hàng đồng thời nó cũng là hình thức ngân hàng huy động thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong các đơn vị kinh tế cũng như các tầng lớp dân cư. Đặc biệt Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các cơ quan như : bưu điện, giáo dục, ngân hàng ... phải trả lương qua hệ thống ngân hàng bằng cách mở cho họ một tài khoản cá nhân.
Cho phép các Ngân hàng Thương mại được phép thực hiện việc mua bán các loại giấy tờ có giá cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc... nhất là đối với các giấy tờ có giá dài hạn.
Thực hiện đổi mới công nghệ ngân hàng, tăng cường công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, thanh toán liên ngân hàng, chuyển tiền điện tử, trang bị hệ thống máy tính hiện đại...nhằm cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ ngân hàng đa dạng, phong phú và thuận tiện cho các khách hàng.
3. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Vói tư cách là cấp quản lý cao nhất của hệ thống Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cần tạo mọi thuận lợi cho các chi nhánh hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Ngân hàng cần cập nhật nhanh nhất mọi nguồn tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng để từ đó chắt lọc và có sự chỉ đạo kịp thời với các chi nhánh. Tuỳ vào tình hình hoạt động của mỗi chi nhánh mà ngân hàng có thể giao chỉ tiêu hoạt động. Tuy hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng đặc điểm của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp là phục vụ cho nông nghiệp, góp phần xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân nên cần có sự chỉ đạo sát sao của các cấp để các chi nhánh đi đúng hướng đã định.
Cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chi nhánh. Do hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp có mạng lưới rộng khắp, cấp độ hoạt động rộng (Ngân hàng Nông nghiệp cấp 4 ) nên việc quản lý trực tiếp từ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đến từng chi nhánh là rất khó thực hiện. Để công tác quản lý có hiệu quả, ngân hàng cần có một hệ thống quản lý ở các chi nhánh cấp tỉnh, thành phố thật sự trung thực và hiệu quả.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần cho phép các chi nhánh tự quyết định hoạt động kinh doanh của mình trong một chừng mực nào đó. Mỗi chi nhánh có địa bàn hoạt động khác nhau, đặc điểm địa lý dân cư ở mỗi nơi cũng khác nhau. Nếu như Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cứ cứng nhắc áp dụng một nguyên tắc nào đấy cho tất cả các chi nhánh thì có thể hiệu quả đem lại sẽ không cao. Ngân hàng nên cho phép các chi nhánh tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của ngân hàng, tình hình kinh tế địa phương, tâm lý khách hàng ... để quyết định hành động cho phù hợp, tránh không gây bất ổn cho địa bàn, cho các ngân hàng trong khu vực và nhất là không ảnh hưởng đến hoạt động chung của toàn hệ thống.
Kết luận
Bước vào cơ chế thị trường đã hơn một thập kỷ, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những thành công đáng kể : giảm được chỉ tiêu siêu lạm phát xuống một tỷ lệ ổn định trong nhiều năm, ổn định nền kinh tế và đóng góp vào sự tăng trưởng của xã hội. Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmđã thật sự hoà nhập vào môi trường kinh doanh mới, đầy sức cạnh tranh và hấp dẫn trong nền kinh tế đang có nhiều thay đổi. Sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước còn đòi hỏi một khối lượng vốn lớn. Do vậy vai trò tạo vốn của nghành ngân hàng được coi là hoạt động then chốt. Hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động có tầm quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại nói chung và của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm nói riêng.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định trong công tác huy động vốn, song chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmsẽ gặt hái được những thành công mới trong công tác huy động vốn trong một tương lai gần. Để đạt được kết quả như mong muốn, đòi hỏi chi nhánh phải có các biện pháp kết hợp đồng bộ : với sự cố gắng của bản thân ngân hàng la chính, trong đó có sự hỗ trợ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng như các cơ quan hữu quan khác.
Hoàn thành bản khoá luận này bản thân em mong muốn sẽ đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào việc tháo gỡ những khó khăn về công tác huy động vốn tại ngân hàng. Tuy nhiên, vì đây là một vấn đề hết sức phong phú và bản thân là một sinh viên mới chỉ dừng lại nghiên cứu về lý luận là chủ yếu, về thực tiễn còn nhiều hạn chế. Cho nên bản khoá luận có thể chưa đáp ứng được những mong muốn của cơ quan thực tế. Em rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô giáo, và cơ quan thực tiễn để bản khoá luận được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường Tài chính - Frederic. S. Mishkin.
2. Tạp chí Ngân hàng các số năm 1998, 1999, 2000 và 2001.
3. Các giải pháp nhằm huy động vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH - Nguyễn Trung Kiên - NXB Thống kê.
4. Ngân hàng thương mại - Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải - NXB TP. Hồ Chí Minh.
5. Đề tài nghiên cứu khoa học "Phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ truyền thống của Ngân hàng đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường". - TS. Nguyễn Đức Thảo.
6. Tiền và hoạt động Ngân hàng - Lê Vinh Doanh - NXB TP Hồ Chí Minh.
7. Luật Ngân hàng Nhà nước và luật Các Tổ chức Tín dụng.
8. Bải giảng của các thầy cô khoa nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng.
9. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm năm 1998, 1999, 2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6734.doc