Đề tài Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng chè nhằm tăng sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế

Các địa phương tăng cường quản lý kỹ thuật và chất lượng tại cơ sở qua việc chỉ đạo, giám sát kỹ thuật công nghệ trên dây chuyền chế biến, đảm bảo tạo ra chất lượng sản phẩm tốt ngay tại cơ sở, ngay trên dây chuyền sản xuất; tìm biện pháp giảm chi phí, tiêu hao nguyên vật liệu trong sản xuất, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thông qua quá trình Công nghiệp hóa-hiện đại hóa ngành chè, đặc biệt là ở các khâu héo và lên men chè, nhằm làm tăng hương thơm của sản phẩm chè, ngành chè Việt Nam nâng cấp các nhà máy, đảm bảo công suất đáp ứng vùng nguyên liệu, bảo dưỡng tốt các thiết bị hiện có, duy trì sản xuất ổn định và tuân thủ quy trình kỹ thuật. Các thành viên Hiệp hội chè, Tổng công ty chè Việt Nam cùng với các doanh nghiệp kinh doanh khác nghiêm túc thực hiện các cam kết xây dựng chương trình áp dụng tiến bộ kỹ thuật đồng bộ có mục tiêu đến 2005 và 2010; 100% đăng ký phấn đấu đạt tiêu chuẩn ISO 9002 vào năm 2003; xây dựng và mở rộng áp dụng hệ thống về phân tích rủi ro bằng kiểm soát tới hạn (HACCP) và về quản lý môi trường (ISO 14001) để bán chè xuất xứ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường; đầu tư xây dựng hệ thống kiểm nghiệm chất lượng, đặc biệt dư lượng hóa, lý trong hàng hóa chè tại các vùng, trên phạm vi cả nước, bằng hình thức các trạm cố định và di động, cả nội địa và cửa khẩu, vùng kiểm soát định kỳ, vừa kiểm soát theo lô mẫu, lô hàng.

doc94 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng chè nhằm tăng sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng biện pháp cụ thể để hoạch định chiến lược vùng, doanh nghiệp phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển chè của cả nước, tránh tình trạng phát triển "quá nóng" hoặc không lường trước được quy mô, năng lực thị trường. Một điểm khác cần lưu ý là chiến lược sản xuất - kinh doanh - thị trường phải gắn chặt với chiến lược phát triển, xử lý nguồn nhân lực và các mục tiêu phát triển xã hội. Ngành chè phải giao cho tiểu ban chính sách, kế hoạch đầu tư tập hợp ý kiến và xây dựng, hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển chè (Vốn, giống, trồng mới, thiết bị, chế biến, khoa học công nghệ, thủy lợi, thuế...) kiến nghị Nhà nước bằng văn bản. 2. Một số mục tiêu cơ bản phát triển sản xuất và xuất khẩu ngành chè Việt Nam đến năm 2010 2.1. Mục tiêu chung: Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 43/1999/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch sản xuất chè năm 2000 là 100.000ha và phương hướng phát triển đến năm 2005-2010 với nội dung chủ yếu sau đây: Xây dựng Ngành chè Việt Nam thành ngành sản xuất đa dạng sản phẩm cây trồng, vật nuôi, tận dụng các loại cây thuộc đồ uống để tạo ra nhiều loại sản phẩm khác nhau cho nước uống. Từ nay đến 2010, ngành chè Việt Nam đã đặt ra những định hướng mục tiêu: * Đáp ứng nhu cầu chè nội tiêu cả nước. Xuất khẩu ngày càng tăng, giữ vững và ổn định thị trường với số lượng lớn, tăng kim ngạch xuất khẩu lên 200 triệu USD/ năm. * Căn cứ chiến lược tiếp thị và mở rộng thị trường, nâng thị phần của chè Việt Nam trên thị trường thế giới lên 8-10%, với các biện pháp tổng thể về: đảm bảo tổng khối lượng và thời gian giao hàng, đảm bảo chất lượng, đảm bảo mức giá cả cạnh tranh bằng giá bình quân thế giới, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp tuyên truyền quảng cáo chè phù hợp với thị hiếu, đảm bảo vệ sinh thực phẩm. Đặc biệt là tạo điều kiện cho người sản xuất tiếp cận thị trường, hiểu được yêu cầu người mua, thấy được yếu kém của mình mà thay đổi, đầu tư lại để bán được, bán có hiệu quả. * Phát triển toàn diện các quy mô sản xuất thích hợp với từng vùng. Chú trọng phát triển các loại hình trang trại các hình thức chế biến chè phù hợp với quy mô từng vùng nguyên liệu. Hiện đại hóa công nghiệp chế biến chè, chú trọng sản xuất chè đặc sản và các loại chè chất lượng cao đáp ứng mọi nhu cầu tiêu thụ trong nước và thế giới. * Nhanh chóng xây dựng hệ thống tiêu chuẩn toàn diện và thống nhất về: chất lượng nguyên liệu, chất lượng sản phẩm, quy trình, quy phạm về canh tác và chế biến, tiêu chuẩn kho tàng, tiêu chuẩn về vệ sinh công nghiệp và nhà máy, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn xuất khẩu. * Tiến tới tổ chức hội chợ chè, các phiên đấu giá chè để người mua người bán hiểu nhau, đáp ứng được nhu cầu của nhau. Tất cả những nhân tố trên nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho ngành chè Việt Nam, phấn đấu thực hiện mục tiêu chè Việt Nam có sản phẩm đạt chất lượng cao, người làm chè có cuộc sống ấm no, văn minh, ngành chè Việt Nam phát triển, đóng góp vào sự phát triển đất nước. Một số chỉ tiêu mà ngành chè đặt ra trong vài năm tới: Bảng 14: Một số chỉ tiêu của ngành chè Việt Nam từ năm 2000 đến 2010 Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Tổng diện tích chè cả nước (ha) 816.922 104.000 104.000 Diện tích chè kinh doanh (ha) 70.192 92.500 104.000 Diện tích chè trồng mới (ha) 4.550 2.800 - Năng suất bình quân (tấn tươi/ha) 4,23 6,1 7,5 Sản lượng búp tươi (tấn) 297.600 490.000 665.000 Sản lượng trà khô (tấn) 66.000 108.000 147.000 Sản lượng xuất khẩu (tấn) 42.000 78.000 110.000 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 60 120 200 Nguồn: Sách cây chè: sản xuất, ché biến, tiêu thụ. Nhà xuất bản Nghệ An, năm 2003 2.2. Mục tiêu trên từng khu vực thị trường 2.2.1. Đối với thị trường truyền thống. Những thị trường như Nga, các nước SNG, các nước Đông Âu, Trung Cận Đông, Anh ... đã nhập khẩu chè Việt Nam trên 40 năm. Đây là những thị trường quen thuộc nên cần phải duy trì và tăng thị phần nhập khẩu chè của họ đối với sản phẩm chè của ta. Mặc dù những thị trường này nhập khẩu chè Việt Nam với khối lượng lớn và đa phần là những thị trường dễ tính nhưng chúng ta vẫn cần phải cố gắng hoàn thiện sản phẩm, chú ý đến công tác tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng chè ở thị trường này để cải tiến chất lượng sản phẩm xuất khẩu kể cả bao bì, nhãn má, bao gói. Trong nhiều năm trở lại đây, chúng ta đã mất khá nhiều thị trường truyền thống như Hungari, Rumani, Slovakia, Bungari... mà gần đây nhất là thị trường Iraq. Vì vậy, phải đưa ra những giải pháp trước mắt để khôi phục lại những thị trường này, sau đó tăng dần thị phần xuất khẩu chè Việt Nam trên nước bạn. 2.2.2. Đối với thị trường tiềm năng. Nghiên cứu kỹ đặc điểm, lợi thế và những rào cản trong chiến lược xuất khẩu sản phẩm chè sang các thị trường này, đặc biệt cần quan tâm và chú trọng đến những thị trường có tiềm năng rất lớn và nhiều rào cản như EU, Mỹ, Nhật Bản. - Với thị trường EU: Đây là một thị trường có quy mô lớn, với 15 nước chiếm 386 triệu dân, chiếm tới 1/5 giá trị thương mại toàn cầu, là thành viên chủ chốt của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thị trường này có đặc điểm tiêu dùng riêng, nhu cầu đa dạng, phong phú về hàng hóa. Người Châu Âu có thói quen tiêu dùng các loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Điều này chứng tỏ chiến lược cạnh tranh về giá không phải là giải pháp tối ưu khi thâm nhập thị trường này. Ngược lại, việc đầu tư để quảng bá và khuyếch trương thương hiệu là việc làm trước mắt và tối quan trọng đối với các nhà xuất khẩu chè Việt Nam. Hơn nữa, thị trường EU rất khó tính, lại phát triển bậc nhất thế giới nên những yếu tố liên quan đến an toàn và sức khỏe của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế khác, nhưng hiện EU vẫn bảo hộ chặt chẽ vì rào cản kỹ thuật rất nghiêm ngặt. Có 5 rào cản lớn nhất là: Tiêu chuẩn chất lượng; tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm; tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng; tiêu chuẩn bảo vệ môi trường; tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm xã hội. Bên cạnh đó, trong chính sách Ngoại thương của mình EU cũng đưa ra các loại thuế mà những nước nhập khẩu vào EU phải đảm bảo, đó là thuế nhập khẩu, chính sách chống bán phá giá, thuế tiêu thụ, thuế giá trị gia tăng, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch và lệnh cấm. Có thể nhận thấy việc vượt qua được những rào cản trên là vô cùng khó khăn nhưng ngành chè của chúng ta đã và đang nỗ lực để chè Việt Nam không chỉ tồn tại trên thị trường EU mà còn được người tiêu dùng biết đến như một loại nước uống ưa thích. - Về thị trường Mỹ: Đặc điểm của thị trường này là sức mua lớn, thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính. Khác với thị trường EU, yếu tố giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn cả chất lượng sản phẩm. Hàng hóa bán tại thị trường Mỹ phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật ở đây vô cùng phức tạp, Mỹ có nhiều quy định pháp luật chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán, các quy định về chất lượng và kỹ thuật...Khi các nhà xuất khẩu chưa nắm rõ các quy định về luật lệ ở Mỹ thường cảm thấy khó khăn khi làm ăn ở thị trường này. Mỹ còn áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Có 2 loại hạn ngạch là hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch tuyệt đối. Còn một điểm nữa, đó là sự khác biệt giữa thuế MFN và thuế phi MFN rất lớn. Hiện nay hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải chịu mức thuế suất trung bình khoảng 35%, nhưng khi được hưởng Quy chế quan hệ thương mại bình thường (NTR), hàng hóa Việt Nam chỉ chịu mức thuế trung bình khoảng 4-5%. Nó cho thấy việc một quốc gia được hưởng MNF của Mỹ ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của hàng hóa của quốc gia đó trên thị trường Mỹ. Mục tiêu cơ bản là thâm nhập được thị trường này, nâng dần thị phần, đáp ứng thỏa mãn các yêu cầu thị trường này đưa ra, để từ đó trở thành một bạn hàng tin cậy đối với Mỹ. Đặc biệt cần phải lưu ý một số vấn đề sau khi đưa sản phẩm chè Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ: ă Có 2 cách tiếp cận thị trường: bán hàng trực tiếp cho người mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Lựa chọn cách nào là tùy thuộc vào mỗi doanh nghiệp. Thương nhân Mỹ thường đặt hàng với khối lượng lớn, có khi họ chung thủy với một công ty trong một vài năm liền. Vì các nhà phân phối Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối trên phạm vi toàn cầu, nghĩa là hàng không chỉ bán ở Mỹ mà đi khắp thế giới. ă Khi vào thị trường Mỹ thì nên sử dụng tư vấn vì Mỹ là một quốc gia sống và làm việc theo pháp luật thực sự. ă Phải xin được chứng chỉ quốc tế như ISO 9000, SA 8000, HACCP... khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này. - Về thị trường Nhật: Đây cũng là thị trường có đặc điểm nhu cầu tiêu thụ chè lớn, giống với EU, thị trường này cũng đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm. Nhật tuy là thị trường nhập khẩu chè lâu đời của Việt Nam nhưng lại với số lượng không cao. Do vậy, Việt Nam cũng đã tiến hành những giải pháp mới nhằm tăng chất lượng sản phẩm. Mục tiêu của Việt Nam đối với thị trường này là tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, tăng xuất khẩu sang Nhật. 2.3.3. Đối với thị trường mới. Là những thị trường rất ít được biết đến trong danh sách những nước nhập khẩu chè của Việt Nam bởi số lượng nhỏ và mới có quan hệ với Việt Nam trong một vài năm gần đây. Có thể kể đến các thị trường thuộc khu vực Châu á như: Asean, Andora, Anbania, Ghana, Litva,...Kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam vào thị trường này khá khiêm tốn nhưng chúng ta cũng không được xem nhẹ mà ngược lại càng cần phải tăng cường xuất khẩu nhiều hơn nữa vào các thị trường này. Xét về một khía cạnh nào đó, thì đây cũng chính là những thị trường tiềm năng của chè Việt Nam mà chúng ta phải khai thác triệt để. II. Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam 1. Các giải pháp đối với ngành chè Việt Nam 1.1.Nhóm các giải pháp quy hoạch, phát triển ngành chè Trong sản xuất chè, việc bố trí các vùng nguyên liệu (sản xuất nông nghiệp) gắn liền với các cơ sở chế biến (nhà máy) là hết sức quan trọng, để từ đó có chiến lược đầu tư, cải tiến công nghệ sản xuất, tăng năng suất, chất lượng chè trong nước và quốc tế. 1.1.1. Đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả Để là một doanh nghiệp thành công trong cạnh tranh, trước tiên cần có đội ngũ năng lực, nhạy bén hơn so với các đối thủ, trong đó đào tạo và phát triển đúng hướng, có chọn lọc là biện pháp tốt nhất vì con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Ngành chè cần có chiến lược đào tạo từ công nhân đến kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật thông qua những hình thức như: tổ chức thi nâng bậc, thi thợ giỏi, ca sản xuất có chất lượng; nâng cao trình độ kỹ thuật, tay nghề thợ bậc cao trong lĩnh vực sản xuất chế biến chè và nâng cao kỹ thuật sử dụng thiết bị chế biến chè tại cơ sở. Bên cạnh đó, các tổ chức, đơn vị có thể đề ra những bộ tài liệu ngắn hạn và nâng cao đối với các công nhân kỹ thuật; gửi đi đào tạo tại các viện, các trường đại học đối với cán bộ kỹ thuật để trong vài ba năm tới đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, các chuyên gia kỹ thuật xuất sắc và lực lượng công nhân có tay nghề cao. Ngành chè cũng cần phát huy tốt hiệu quả đòn bẩy của chính sách lương bổng và đãi ngộ bằng thực hiện các quy chế linh hoạt và công bằng. 1.1.2. Nâng cao giá trị sử dụng đất qua việc phát triển vùng nguyên liệu: Trên cơ sở địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu và quỹ đất hiện có ở địa phương, ngành có thể quy hoạch vùng nguyên liệu chè theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng, có kế hoạch phục hồi thâm canh 70.000 ha chè hiện có, đồng thời tập trung trồng mới chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc, cụ thể là: + Đối với vùng cao: trồng chè cổ thụ như chè Shan tuyết, chè đặc sản khoảng 10.000ha. + Đối với vùng thấp: trồng chè đốn khoảng 20.000ha. + Hình thành một số vùng chè cao sản để sản xuất các loại chè có chất lượng cao và chè hữu cơ để cung cấp cho thị trường trong nước và chè xuất khẩu. Bằng các giải pháp đồng bộ, ngành thay đổi cơ cấu giống chè phù hợp để nguyên liệu tốt nhất: giống chè mới trồng bằng cành có năng suất cao, chất lượng tốt đến định hình phải đạt 30%. Các thành viên phải tự mình lên kế hoạch cân đối cho đơn vị mình và vùng; xây dựng tập đoàn giống mới, tuyển chọn thuần hóa tại chỗ từ 4-5 giống bổ sung theo công thức chung; làm vườn ươm ngay tại khu vực chuẩn bị trồng mới, dâm cành đủ 100% diện tích đất trồng. Ngành chè cũng cần chỉ định các thành viên làm trung tâm nhân giống tự cân đối theo từng cụm vùng có sự phân công đầu tư dịch vụ toàn diện của chi hội. - Về chuẩn bị giống chè và cơ cấu giống: Hiệp hội chè Việt Nam nên cân đối đủ giống cho chương trình phát triển hàng năm đối với các đơn vị đăng ký sớm, cần phải chuẩn bị giống từ cuối năm trước mới có đủ giống tốt, đủ tiêu chuẩn cho trồng mới. Hiệp hội cũng cần phối hợp với các địa phương Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Lâm Đồng, Cao Bằng, Bắc Cạn mở hệ thống mạng lưới các vườn ươm giống tại các vùng đang mở rộng diện tích trồng chè tập trung quy mô lớn. Mặt khác, người làm chè cần tránh một thực trạng làm chè theo phong trào, các cơ sở được chỉ định hay tự phát làm giống cố gắng đẩy cho các đơn vị trồng chè những giống nhất định, thiếu chủ động cho xây dựng mặt hàng chất lượng cao hay nhân trồng chè hạt bằng các giống cũ, lẫn tạp. -Về chăm sóc, thâm canh chè: Người trồng chè thực hiện sử dụng phân khoáng cân đối, nhiều yếu tố bằng các dạng phân đa yếu tố (hỗn hợp, phức hợp) trên nền phân hữu cơ đầy đủ để vừa đảm bảo năng suất, chất lượng cao, an toàn thực phẩm và hiệu quả cao trên cơ sở hiệu suất sử dụng phân bón cao. Bên cạnh đó, các địa phương cần xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các công trình phụ trợ trên đồi chè, đảm bảo các điều kiện sinh thái như bể nước, cây che bóng và tưới, tiêu nước trên đồi chè, riêng thủy lợi trên chè rất cần có sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước về các công trình đầu mối và tuyến trục đến đầu mỗi nương đồi, giúp giảm chi phí trực tiếp trong giá thành sản phẩm chè. - Về thu hoạch và bảo quản: Trước khi cân nhận nguyên liệu, các cán bộ cần tránh tình trạng nguyên liệu trong cấp nọ lại có tỷ lệ phần trăm cấp kia, chẳng hạn trong B có A có C hay trong B có C, D. Chính hàng loạt doanh nghiệp "phi quy trình kỹ thuật" tranh chấp thu mua nguyên liệu đã làm phát sinh dần việc hái lẫn loại, mua giá vượt cấp, tác động xấu trở lại sản phẩm, thậm chí nhiều vùng dân thu hái không cần phẩm cấp, chỉ cần thỏa thuận theo lô nguyên liệu. Ngành chè cần thiết áp dụng trở lại việc thu hái đúng cấp, đúng trật, đúng số lá chừa, sửa bằng mặt tán để vừa tăng năng suất đồi chè10-15%, vừa có chất lượng nguyên liệu đúng. Đây cũng là cơ sở tiền đề cho chế biến công nghệ không lẫn loại, tiết kiệm, hiệu quả. - Về chất dinh dưỡng cho chè: + Chất hữu cơ tại chỗ được cây ép xanh bao gồm: Cành lá chè sau khi đốn Cây phân xanh + tỉa cành các cây bóng mát. Cỏ xới xong phơi, toàn bộ chất hữu cơ được đưa xuống rạch cầy vùi ép. + Phân hữu cơ: là thành phần không thể thiếu được đối với chè Việt Nam, một năm 10 tấn có hỗ trợ 1 tấn từ 50.000 đồng trở lên. Loại này có thể thay một phần bằng phân khoáng hữu cơ tổng hợp. Bón phân là một quy định bắt buộc để cho chè sinh trưởng tốt dầy lá, nội chất tốt. Khi bón phân thì phải bón thúc cân đối bằng NPK, không bón lệch đạm. Các vườn chè là vùng tập trung làm thí điểm cần bón thêm khô dầu, phần tử bột xương cá theo công thức của Mỹ. - Về phun thuốc trừ sâu: Từng công ty quản lý thống nhất toàn diện các vườn chè mà ta thu mua, củng cố tổ chức thành tổ sản xuất để hợp tác giúp đỡ đổi công và kiểm tra lẫn nhau, từ 1 đến 2 tổ có 1 máy động cơ. Công ty vừa cung cấp thuốc vừa quản lý phun thuốc (có bồi dưỡng + phòng hộ theo sản phẩm làm ra). Các đơn vị phải kiên quyết hủy ngay những lô chè phát hiện còn dư lượng thuốc sâu hoặc mới phun chưa đủ thời gian phân hủy, không lạm dụng thuốc trừ sâu. Dịch vụ thuốc trừ sâu sẽ do hợp tác xã hoặc doanh nghiệp đứng ra đảm nhận; bắt buộc người nông dân sử dụng thuốc trừ sâu trong danh mục Nhà nước chỉ định và được kiểm soát chặt chẽ của Chi cục bảo vệ thực vật. Tiền phun thuốc sẽ trừ vào giá chè và người nông dân không phải mất tiền trước. Làm như vậy chúng ta sẽ quản lý được thuốc trừ sâu, vệ sinh môi trường và đảm bảo sức khỏe cho người phun thuốc. Vừa qua, EU đã ban hành quy định mới, có hiệu lực từ tháng 7/2003, theo đó, giới hạn dư lượng thuốc trừ sâu trong chè xuất khẩu sang EU là 0.01 ppm (ppm: phần triệu) thay vì 0,1 ppm như trước đây. Chính vì vậy, mà ngành chè phấn đấu từ nay đến 2005, chè Việt Nam không còn tàn dư thuốc trừ sâu độc hại. 1.1.3. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa quy trình công nghệ chế biến: Việc hiện đại hóa thiết bị và công nghệ chế biến chè là một tất yếu khách quan, một nhu cầu bức thiết của công nghiệp thực phẩm và ngành chè trên con đường hòa nhập với thị trường thế giới, nâng cao sức cạnh tranh. Trong tổng sản phẩm chè xuất khẩu trong vài năm gần đây, nguyên liệu chè phần lớn đều đã qua xử lý của công nghiệp chế biến với các loại hình khác nhau, trong đó có nhiều loại công nghệ tiên tiến trên thế giới hiện nay. Điều này càng chứng minh xu thế không thể đảo ngược của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp chế biến trong ngành chè. Hiệp hội chè Việt Nam cần phối hợp cùng các đơn vị hữu quan hoàn thiện sớm nhất quy định tiêu chuẩn của một nhà máy chế biến chè. Trong đó, coi trọng các tiêu chí cứng về con người quản lý, kỹ thuật, về chất lượng thiết bị, quy trình công nghệ, về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo môi trường, cũng như quy mô, cự ly trong vùng nguyên liệu. Ngoài ra, còn có các tiêu chí mềm trong các mối quan hệ thị trường khi chưa kiểm soát được toàn phần như sự chuyển đổi mặt hàng, cơ chế giá thu mua đầu vào, bán sản phẩm đầu ra. Ngành chè cần đổi mới hay cải tiến thiết bị tiên tiến, hiện đại phù hợp, đồng bộ vì con người chỉ kiểm soát tốt được quy trình khi có sự ổn định chất lượng thiết bị; phối hợp bảo quản nguyên liệu, trong chế biến chè đen, áp dụng héo tự nhiên kết hợp nhân tạo, đảm bảo thời gian héo 8-16 tiếng, trung bình 12 tiếng, sẽ góp phần tạo hương sản phẩm ngay từ giai đoạn đầu. Trong chế biến chè đỏ (lên men bán phần) và cả trong chè xanh, việc héo nhẹ để tạo hương cũng đã được một số nước áp dụng. Bên cạnh đó, các đơn vị phải hết sức chú trọng điều kiện và thời gian vò cũng như lên men chè, vì đây là công đoạn dễ bị "cắt xén" trong quy trình, nhất là các xưởng chế biến nhỏ, mà đây lại là điểm khác biệt quan trong cần thiết nhất của chế biến chè đen. Khi chế biến chè xanh, các cán bộ kỹ thuật nên chú ý các thiết bị, công nghệ mới cho tạo hình ngay từ khâu bán thành phẩm trên cơ sở lựa chọn nguyên liệu, đa dạng hóa loại hình, tránh can thiệp bằng thiết bị, dụng cụ va đập trong khâu hoàn thành sản phẩm; sau đó, thực hiện quy trình chế biến đúng loại từ nguyên liệu, góp phần đảm bảo điều kiện tốt cho sấy, sàng, tạo mặt hàng không lẫn, độ ẩm sản phẩm sau chế biến không cao; hoàn thiện điều kiện kho tàng, chế độ, phương pháp bảo quản tiên tiến, giữ tốt chất lượng chè ( riêng độ ẩm sản phẩm đến vào thùng cần đảm bảo không vượt quá 6%). Trên cơ sở đánh giá hiện trạng thiết bị công nghệ, Hiệp hội có thể ban hành và áp dụng thống nhất tiêu chuẩn về dây chuyền chế biến các loại chè ngành sẽ cải tạo nâng cấp, đổi mới công nghệ và vệ sinh thực phẩm, đưa công nghệ mới với các thông số kỹ thuật thích ứng vào sản xuất để sản phẩm sản xuất ra thích hợp với thị trường và thị hiếu tiêu thụ. 1.1.4. Đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu: Hiệp hội chè Việt Nam khuyến khích các đơn vị tăng cường sản xuất và xuất khẩu chè đen, phẩm cấp cao như P, OP; giảm dần chè phẩm cấp thấp; chú trọng và ưu tiên sản xuất chè phẩm cấp cao, chè an toàn thực phẩm, chè hữu cơ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao ở các thị trường khó tính; tăng tỷ lệ chè đen sản xuất theo công nghệ CTC tiên tiến so với công nghệ cũ OTD cũng như tỷ lệ xuất khẩu chè xanh, chè hương sang các nước Châu á có truyền thống uống chè xanh như: Đài Loan, Singapo, Trung Quốc, chế biến theo kinh nghiệm, công nghệ hiện đại học hỏi từ các nước có truyền thống làm chè xanh. Ngành chè cần cân đối tỷ lệ giữa chè xuất khẩu và chè nội tiêu theo hướng đẩy mạnh sản xuất chè nội tiêu mà vẫn đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu; đẩy mạnh xuất khẩu chè có thương hiệu, có xuất xứ hàng hoá, hạn chế xuất khẩu chè thô. 1.1.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Các địa phương tăng cường quản lý kỹ thuật và chất lượng tại cơ sở qua việc chỉ đạo, giám sát kỹ thuật công nghệ trên dây chuyền chế biến, đảm bảo tạo ra chất lượng sản phẩm tốt ngay tại cơ sở, ngay trên dây chuyền sản xuất; tìm biện pháp giảm chi phí, tiêu hao nguyên vật liệu trong sản xuất, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thông qua quá trình Công nghiệp hóa-hiện đại hóa ngành chè, đặc biệt là ở các khâu héo và lên men chè, nhằm làm tăng hương thơm của sản phẩm chè, ngành chè Việt Nam nâng cấp các nhà máy, đảm bảo công suất đáp ứng vùng nguyên liệu, bảo dưỡng tốt các thiết bị hiện có, duy trì sản xuất ổn định và tuân thủ quy trình kỹ thuật. Các thành viên Hiệp hội chè, Tổng công ty chè Việt Nam cùng với các doanh nghiệp kinh doanh khác nghiêm túc thực hiện các cam kết xây dựng chương trình áp dụng tiến bộ kỹ thuật đồng bộ có mục tiêu đến 2005 và 2010; 100% đăng ký phấn đấu đạt tiêu chuẩn ISO 9002 vào năm 2003; xây dựng và mở rộng áp dụng hệ thống về phân tích rủi ro bằng kiểm soát tới hạn (HACCP) và về quản lý môi trường (ISO 14001) để bán chè xuất xứ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường; đầu tư xây dựng hệ thống kiểm nghiệm chất lượng, đặc biệt dư lượng hóa, lý trong hàng hóa chè tại các vùng, trên phạm vi cả nước, bằng hình thức các trạm cố định và di động, cả nội địa và cửa khẩu, vùng kiểm soát định kỳ, vừa kiểm soát theo lô mẫu, lô hàng. Trên cơ sở việc thống nhất các quy chuẩn về nông nghiệp, công nghệ trở thành định chế tổ chức ngành hàng, các địa phương sẽ áp dụng việc cấp phép đăng ký về mở rộng diện tích, phân vùng nguyên liệu, xây dựng mới nhà máy trên cơ sở được sự thống nhất của Hiệp hội chè Việt Nam, góp phần ổn định thị trường trong nước từ nguyên liệu đến sản phẩm, nâng cao chất lượng chè Việt Nam. 1.2. Nhóm các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chè Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp tham gia thị trường đều quan tâm, song để tìm được biện pháp thích hợp không đơn giản. Ngành chè phải xem xét, đánh giá một cách đầy đủ về thực trạng, lợi thế, khả năng cạnh tranh của ngành đối với các đối thủ, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu...nghiên cứu để đưa ra các bước đi và giải pháp thích hợp. 1.2.1. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ, xuất khẩu chè Việt Nam. Nước chè là một thứ đồ uống truyền thống của nước ta. Do vậy, với số dân khoảng 80 triệu người thì đây là một thị trường tiêu thụ chè rất lớn. Ngày nay khi đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, công nghiệp chế biến phát triển, tiêu dùng chè chế biến có chất lượng cũng là đòi hỏi của thị trường chè nội địa. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng chè trên thế giới cũng đang ngày một tăng. Khối lượng chè hàng năm chiếm hơn 2/3 sản lượng sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, thị trường nước ngoài cũng đòi hỏi rất nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, để mở rộng và ổn định thị trường chè cần phải kết hợp giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Trong chiến lược phát triển ngành chè trong những năm tới, việc kết hợp cả hai thị trường này phải được thể hiện ngay trong việc bố trí sản xuất, chế biến, áp dụng công nghệ mới vào cả sản xuất nguyên liệu chè đến công nghệ chế biến cả trong việc tổ chức và quản lý ngành chè với tư cách là một ngành kinh tế quan trọng trong nông nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân. Ngành chè có thể phối hợp các Bộ ngành có liên quan giải quyết tốt thị trường, cụ thể là: + Củng cố phát triển thị trường đã có, thâm nhập thị trường mới bằng quảng bá sản phẩm, phấn đấu giảm chi phí vận chuyển và bán hàng; để bảo vệ nhãn hiệu chè, cần đăng ký bảo hộ độc quyền theo pháp luật tại Cục Sở hữu công nghiệp (SHCN). Đây là một khoản đầu tư, chứ không phải một khoản chi phí đắt hay rẻ. + Tăng thị phần chè Việt Nam trên các thị trường quốc tế bằng cách tìm hiểu khẩu vị, thị hiếu của người tiêu dùng. + Mở rộng thị trường nhập khẩu trực tiếp chè của Việt Nam như thị trường Trung Cận Đông vì hàng năm thị trường này có thể nhập khẩu tới 50.000 tấn chè đen; giữ vững và đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, các bạn hàng lớn đã được xác định như Iraq, Pakistan, Nga, Châu Âu, Đài Loan; tăng thị phần ở một số thị trường mới như Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Ailen, Séc..., tập trung xúc tiến thương mại ở các thị trường lớn như Đức, Ba Lan, Anh; khôi phục lại thị trường Đông Âu và Nga, hàng năm các thị trường này nhập khoảng 30-50.000 tấn chè/ năm. + Kích cầu và trọng cầu là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động thị trường. Vì vậy phải đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại mở rộng quy mô và năng lực thị trường, tập trung vào các thị trường lớn, tranh thủ các thị trường nhỏ; có kế hoạch mở rộng quyền kinh doanh và quyền phân phối của doanh nghiệp chè Việt Nam trên thị trường, coi đó là một ưu thế để từng bước hội nhập vào thị trường thế giới trong những năm tới. 1.2.2. Giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Việc giảm chi phí và hạ giá thành có thể thực hiện thông qua các biện pháp như: nghiên cứu áp dụng công nghệ mới cũng là một cách giảm bớt các công đoạn sản xuất, tăng khả năng cung cấp dịch vụ và nhờ đó giảm được chí phí, đề cao và phát huy tính tự chủ, sáng tạo của các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong ngành. Hiệp hội chè cần quy định giá mua chè tươi hợp lý, đảm bảo lợi ích của người trồng chè. Sau khi tham khảo ý kiến của Ban Vật giá Chính phủ, các đơn vị công bố giá mua chè tươi nguyên liệu tối thiểu ngay từ đầu vụ, để hướng dẫn các cơ sở mua chè nguyên liệu. Trước mắt, Hiệp hội cũng cần thiết lập Sàn giao dịch chè Việt Nam tại Hà Nội, tạo điều kiện tiếp xúc trực tiếp giữa người sản xuất với khách hàng. Các hội viên, doanh nghiệp, các cá nhân tham gia gửi chè đến Sàn giao dịch vừa tư vấn, vừa trực tiếp giao dịch, không cần ủy thác, tránh được tình trạng để khách dìm giá, ép giá. Người mua hiểu được thực chất sản phẩm, người bán biết được yêu cầu người mua, trên cơ sở đó, mạnh dạn đầu tư, cải tiến để có sản phẩm tốt, giá tốt có lợi cho cả đôi bên. Đây là bước chuẩn bị cho hình thành Trung tâm đấu giá, mua bán chè theo lô hàng, tránh tình trạng "mẫu một đằng, hàng giao một nẻo" gây nỗi bất bình cho người mua. 1.2.3. Củng cố, tạo dựng uy tín và danh tiếng cho sản phẩm chè Việt Nam. Ngành chè Việt Nam cần tạo dựng uy tín thương hiệu chè ngay những ngày tháng đầu từ chất lượng đảm bảo của mỗi sản phẩm với mẫu mã, bao bì đẹp và giá cả hợp lý. Bởi vậy, với sự năng động, dám nghĩ, dám làm, sản phẩm chè Việt Nam đã và sẽ khẳng định, phát triển trên thị trường trong và ngoài nước hơn nữa. Chiếm lĩnh thị trường và chiếm được ngày càng nhiều thị phần là mục tiêu của một nhà sản xuất. Do đó việc marketing về thị trường rất quan trọng mà mọi nhà sản xuất đều quan tâm đến khi vào một thị trường. Mỗi tổ chức, cá nhân tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng định thương hiệu, nhãn hiệu chè Việt Nam trên các thị trường, đồng thời tích cực triển khai chương trình xúc tiến thương mại, sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trường đã có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu lớn... Việc tiếp thị quảng cáo thương hiệu chè Việt Nam ở thị trường Châu Âu là rất quan trọng và quyết định lớn đến việc kinh doanh chè Việt Nam ở thị trường này. Với kinh nghiệm kinh doanh ở thị trường này chúng ta đang hướng tới những vấn đề lớn sau: * Thành lập các văn phòng đại diện cho ngành chè ở các nước Châu Âu. Văn phòng này có nhiệm vụ tiếp thị, quảng cáo thương hiệu chè Việt Nam. Tổ chức đội ngũ cán bộ ở đây gọn nhẹ song có khả năng hoạt động độc lập linh hoạt am hiểu phong tục, tập quán, sở thích của dân bản xứ và có khả năng ngoại giao tốt. * Các văn phòng đại diện tổ chức các biện pháp tiếp thị, quảng cáo thương hiệu chè bằng các biện pháp thông tin đại chúng. Ngoài ra cũng có thể quan tâm đến biện pháp tiếp thị cổ điển bằng cách: Tổ chức các nhóm nhỏ ở các trung tâm thương mại lớn ở các nước, quảng cáo các loại chè Việt Nam, cho khách nếm thử các loại chè Việt Nam và tặng quà bằng chè cùng các tờ rơi. * Thông qua các văn phòng này để tìm kiếm các đối tác kinh doanh để ký các hợp đồng lâu dài. Nếu tổ chức tốt việc tiếp thị, quảng cáo thương hiệu chè Việt Nam ở thị trường Châu Âu thì tạo điều kiện cho sự phát triển ngành chè Việt Nam rất lớn, đóng góp vào sự phát triển kinh tế Việt Nam. Trong nền kinh tế Việt Nam, việc tìm một thương hiệu được lòng thị trường là điều cấp bách và không phải là quá sớm. 1.2.4. Xây dựng quan hệ hợp tác kinh tế bền vững với các nước trên thế giới Trong điều kiện thiếu vốn của chúng ta hiện nay, muốn có máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, thị trường tiêu thụ bền vững nhất thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Trên thực tế, chúng ta đã tiến hành hợp tác quốc tế trong những năm gần đây và đã thu được những kết quả đáng kể, rút kinh nghiệm quá trình hợp tác, liên doanh với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Bỉ, Đài Loan, Nhật....để những năm tới sẽ hợp tác với Mỹ, Nga, các nước Đông - Tây - Âu, Iraq, Iran, mở rộng quan hệ hợp tác với Nhật và ấn Độ nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật công nghệ hiện đại, thị trường tiêu thụ để đẩy nhanh việc hiện đại hóa sản xuất chè của nước ta. Trong quan hệ hợp tác: lấy hợp tác công nghệ chế biến và bao tiêu sản phẩm là chính đồng thời coi trọng hợp tác Khoa học kỹ thuật, đồng thời kêu gọi Chính phủ các nước dành cho Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi. Chúng ta cần đẩy mạnh mối quan hệ ở cấp Chính phủ, Bộ, Hiệp hội giữa Việt Nam với các nước nhằm tranh thủ được sự hỗ trợ khoa học (đầu tư giống, công nghệ trồng và chế biến...). Thông qua Hiệp định chính phủ song phương với các nước có nhu cầu nhập chè Việt Nam, để khai thông thị trường bằng Hiệp định thương mại, đổi hàng, trao đổi, tín dụng; có chính sách tài trợ xuất khẩu. 1.3. Nhóm các giải pháp tổ chức quản lý và thực hiện mục tiêu, chính sách phát triển ngành chè của Nhà nước. Hoạt động của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích chung của toàn ngành, chính vì vậy phải có sự phối hợp tổ chức chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, các đơn vị trực thuộc, các cá nhân để hoàn thành tốt các việc sau: 1.3.1. Tổ chức quản lý tốt các mục tiêu Nhà nước đặt ra: dựa trên nguyên tắc phát triển trên phạm vi cả nước đồng thời nhằm làm hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi đối với từng đối tượng quản lý. Trên cơ sở đó có thể dự kiến một phương thức quản lý mới tối ưu đối với ngành chè với tư cách là một ngành kinh tế - kỹ thuật gắn với lợi ích của những địa phương có cây chè. Các đơn vị tập trung sức lực làm tốt chiến lược thị trường, đảm bảo có thị trường bền vững, lâu dài để sản xuất được ổn định. Hiệp hội chè Việt Nam, mà trước hết là Tổng công ty chè Việt Nam, sẽ đảm bảo có thị trường bền vững trong nước và đặc biệt ở nước ngoài để hướng dẫn người sản xuất làm ra sản phẩm hợp thị hiếu người tiêu dùng, giữ được bạn hàng lâu dài cho sản phẩm chè của Việt Nam; bao tiêu toàn bộ sản phẩm hoặc nhận ủy thác, hoặc tạo điều kiện cho các công ty, các địa phương tham gia trực tiếp xuất khẩu và thông báo giá sàn, giá trần cho các mặt hàng xuất khẩu. Tổ chức chế biến sản phẩm từ chè búp tươi hoặc tinh chế chè khô để nâng cao giá trị của sản phẩm tạo thêm lợi nhuận để đầu tư cho phát triển chè. Đội ngũ tiếp thị và kinh doanh giỏi được đào tạo để nắm bắt nhanh, phát hiện được các bí quyết của sản xuất, sự đòi hỏi của khách hàng, hướng dẫn cho sản xuất tạo ra những sản phẩm phù hợp nhất. Các địa phương xây dựng và quản lý tốt lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật để có công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, tạo ra được các giống chè mới để sản xuất ra sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thị trường; xây dựng được các quy trình, quy phạm, các định mức kinh tế-kỹ thuật tiên tiến cho mỗi loại sản phẩm, quản lý chặt chẽ các quy trình quy phạm này nhằm tạo ra sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường. Hiệp hội chè có thể cung cấp toàn bộ thiết bị, máy móc (kể cả thiết bị toàn bộ và đơn lẻ), phụ tùng thay thế, các quy trình, quy phạm nông-công nghiệp, những sáng kiến, phát minh về chè. Ngành triển khai tổ chức hệ thống thông tin liên lạc ở các vùng chè-vốn rất khó khăn như hiện nay-làm cho người làm chè hiểu biết các thông tin mới để tham gia sản xuất tạo ra các sản phẩm hợp thị hiếu và xử lý sản phẩm chè của mình đảm bảo sản xuất có lợi cao nhất; tổ chức đào tạo cán bộ công nhân viên chức, nâng cao trình độ cho cán bộ và công nhân kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, đưa công tác quản lý vào nề nếp nhằm đảm bảo sản xuất-kinh doanh có hiệu quả cao, đời sống người làm chè không ngừng được cải thiện. Trong nền kinh tế thị trường, cần phải có các chuyên gia hàng đầu. Vì vậy, việc đào tạo và tái đào tạo Giám đốc, kế toán trưởng, các chuyên gia kỹ thuật và công nhân có tay nghề giỏi phải coi là ưu tiên số một. 1.3.2. Hoàn thiện các cơ chế chính sách. Các công ty và xí nghiệp chè Việt Nam cần xây dựng các chính sách hợp lý nhằm thu hút khuyến khích người lao động yên tâm sản xuất, đẩy mạnh thâm canh và bán sản phẩm cho Công ty một cách ổn định. Đối với những hộ khó khăn, các vùng khó khăn, các Công ty phải rà soát lại, có chính sách ưu tiên, hoặc đề nghị nhà nước giảm, miễn thuế cho họ trong một thời gian nhất định. Với những hộ thuộc diện đến theo chương trình kinh tế mới, mở các lớp tập huấn để hướng dẫn, chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái và phòng trừ sâu bệnh cây chè. Đối với xí nghiệp thành viên, các công ty cần tạo điều kiện cho các đơn vị có quyền tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh. Về vốn, cần mạnh dạn vay vốn đầu tư, tranh thủ những nguồn vốn khác, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài để quy hoạch mở rộng các diện tích chè, đưa các giống mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào thâm canh và xây dựng các cơ sở thu mua, sơ chế ở các vùng sâu vùng xa. 2. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước. 2.1. Chính sách đầu tư và tín dụng: Trên cơ sở đầu tư hợp lý, tính đủ theo hướng thâm canh, Nhà nước có hỗ trợ đầu tư và tín dụng phù hợp, cụ thể là: + Đối với chè trồng ở vùng cao coi như rừng phòng hộ (chè cổ thụ), được áp dụng chính sách hỗ trợ như trồng rừng phòng hộ tại Quyết định số 01/1988/QĐ TTg ngày 29 tháng 07/1998 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Dự án trồng 5 triệu ha rừng, mức hỗ trợ là 2,5 triệu đồng/ha, lấy từ nguồn vốn trong kế hoạch trồng rừng hàng năm, phần vốn còn lại do người trồng chè tự đầu tư bằng vốn tự có hoặc vốn vay. + Đối với trồng chè có đốn, huy động mọi nguồn vốn để phát triển vùng nguyên liệu chè như mục tiêu đã đề ra, bao gồm: Một là, vốn ngân sách Nhà nước đầu tư hỗ trợ, xây dựng các công trình thủy lợi đầu mối (theo dự án được các cấp thẩm quyền phê duyệt), nghiên cứu khoa học và công nghệ, khuyến nông chuyển giao tiến bộ kĩ thuật mới về cây chè, trước mắt trong năm 1999 cho phép Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sử dụng nguồn vốn sự nghiệp khuyến nông năm 1999 của Bộ để nhập nội 2 triệu hom giống chè có năng suất cao, chất lượng tốt để từng bước nhân rộng thay thế dần giống chè năng suất thấp hiện có, thực hiện di dãn dân, thuộc các chương trình định canh, định cư, di dân giải phóng lòng hồ, hỗ trợ việc chế tạo sản xuất các máy móc công cụ cơ khí, phục vụ cho việc trồng trọt, sơ chế và chế biến chè. Hai là, vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước đầu tư cho các dự án cải tạo đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư mới cho sơ chế và chế biến chè. Ba là, vốn tín dụng ngân hàng: bảo đảm kịp thời vốn vay cho nhu cầu của người trồng chè. Bốn là, vốn nước ngoài bằng các hình thức liên doanh, liên kết, vốn ODA. 2.2. Hỗ trợ về khoa học - công nghệ - môi trường: Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ phát triển ngành chè như: Tuyển chọn, lai tạo các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao và tổ chức chuyển giao nhanh đến hộ gia đình. Hình thành vùng chuyên canh tập trung sản xuất chè sạch, không dùng hóa chất độc hại, tăng mức sử dụng phân hữu cơ, phân bón vi sinh, phòng trừ sâu bệnh bằng chế phẩm sinh học. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm chè xuất khẩu bằng khoa học kĩ thuật, bổ sung giống mới có chất lượng tốt và thâm canh cao, thủy lợi tưới tiêu vườn chè, cơ khí nông nghiệp nhỏ, sản xuất đại trà an toàn; đầu tư đổi mới từng phần và đồng bộ trang thiết bị nhà xưởng để nâng cao chất lượng chế biến đa dạng hóa sản phẩm. Đầu tư xây dựng Viện nghiên cứu chè về trang thiết bị, thông tin và đào tạo cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề, tập huấn kĩ thuật cho hộ nông dân làm chè. Học tập, liên doanh với các công ty xuyên quốc gia, để tranh thủ hùn vốn, kĩ thuật, màng lưới đấu trộn, đóng gói bao bì, bán buôn bán lẻ đến tận tay người tiêu dùng, ngay tại thị trường Việt Nam. Tổ chức những đợt khảo sát ngắn hạn có mục tiêu cụ thể, thiết thực và địa chỉ ứng dụng, triển khai nhằm giải quyết những yêu cầu cấp bách của ngành chè Việt Nam. Vận dụng kinh nghiệm quản lí các đồn điền sản xuất chè đen của Srilanca, Kênia, ấn Độ, các trang trại gia đình sản xuất chè xanh ô long, Bao chủng của Đài Loan, danh chè xanh Trung Quốc. 2.3. Hỗ trợ trong tổ chức sản xuất: Nhà nước phát huy và hỗ trợ các thành phần sản xuất - kinh doanh chè gồm quốc doanh, tư nhân, hộ nông dân, trang trại gia đình, liên doanh với nước ngoài, công ty vốn nước ngoài 100%; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí nông trường quốc doanh, thực hiện giao đất khoán vườn chè cho hộ gia đình, công nhân viên nông trường và nhân dân trong vùng, nông trường chuyển sang làm dịch vụ vật tư kĩ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, cổ phần hóa. Đồng thời, Nhà nước cũng khuyến khích xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ cho các ngành sản xuất nói chung và sản xuất chè nói riêng. 3. Một số kiến nghị với Nhà nước. Để bảo đảm sự phát triển bền vững thì Nhà nước cần phải bổ sung hoàn thiện quy hoạch ngành chè dựa trên những cơ sở khoa học. Bên cạnh việc phát huy tiềm lực trong nước, tận dụng các thế mạnh của Việt Nam về kinh nghiệm, đất đai, khí hậu, lao động, cần phải xây dựng một đề tài cấp Nhà nước để nghiên cứu: "Những cơ sở khoa học để phục vụ quy hoạch phát triển ngành chè Việt Nam đến năm 2010". Ngành chè Việt Nam sẽ phối hợp với Chính phủ tổ chức vận động các thành viên tham gia nghiên cứu đề tài này. Nhằm ổn định đời sống người dân trồng chè, việc đưa quản lý theo tiêu chuẩn vào nền nếp, thực hiện phương thức tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, tiến tới xây dựng liên minh công nông bền vững cả về chính trị và kinh tế theo mô hình "Nhà máy của nông dân", thì Nhà nước cần thực hiện ngay chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ nông sản đối với người sản xuất được quy định trong Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ: "Các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản mang tính thời vụ được vay vốn từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mua nông sản hàng hóa theo hợp đồng...". Để làm tốt việc này, không thể thiếu sự tác động có hiệu quả của Nhà nước. Chính phủ có thể cho phép các doanh nghiệp tiêu thụ chè của nông dân theo hợp đồng được vay vốn từ quỹ Hỗ trợ xuất khẩu với lãi suất 0,36%/tháng. Quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè đen nay toàn bộ thủ tục pháp lý đã hoàn tất; kế hoạch hành động, tổ chức, nhân sự đã sẵn sàng để hoạt động. Nếu đã có quỹ này thì những khó khăn tạm thời của các thành viên tham gia bảo hiểm sẽ tự giải quyết được. Tuy nhiên, để thu được tiền từ các thành viên tham gia quỹ bảo hiểm đóng góp thì ít nhất cũng phải đến hết năm 2003 (tức là sau khi các thành viên có báo cáo quyết toán tài chính). Trong khi, để triển khai bất kỳ hoạt động nào của quỹ cũng đòi hỏi phải có tiền để chi. Do vậy, trước mắt, Nhà nước cần hỗ trợ cho quỹ 05 tỷ đồng để cho quỹ có thể triển khai các hoạt động theo kế hoạch. Về lâu dài, việc ra đời Quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè không chỉ có lợi cho nông dân trồng chè, cho các đơn vị xuất khẩu chè mà Nhà nước cũng có lợi lớn về nhiều mặt. Khi Nhà nước là một bên tham gia đóng góp vào quỹ này thì sẽ động viên, khích lệ các doanh nghiệp tham gia và việc vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho quỹ sẽ thuận lợi. Do vậy, Chính phủ cần cho sử dụng nguồn vốn từ chương trình hợp tác có được của ngành chè trước đây làm nguồn quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè. Khoản tiền được sử dụng cho quỹ này coi như phần đóng góp một lần của Nhà nước cho quỹ với tư cách là người được hưởng lợi từ quỹ này mang lại. Tổng công ty chè Việt nam đã ký hợp đồng xuất khẩu sang Iraq năm 2003 là 15.000 tấn chè. Tình hình Iraq hiện nay cho thấy việc thực hiện hợp đồng này sẽ gặp khó khăn, trong khi việc tăng xuất khẩu vào các thị trường ngoài Iraq hoặc tìm kiếm thị trường mới đều đòi hỏi có thời gian và tiền bạc. Nhằm chủ động nắm để phát triển thị trường này, Nhà nước cần chọn chè làm điểm tập trung chỉ đạo của Chính phủ để rút kinh nghiệm chung cho những sản phẩm khác. Tại điểm được chọn sẽ tập hợp lực lượng của một số Bộ, ngành, Hiệp hội chè Việt Nam và một số Hội viên của Hiệp hội có năng lực, để phân tích tình hình, xác định mục tiêu cụ thể, thống nhất các giải pháp và kế hoạch phối hợp hành động để đạt mục tiêu chung là nắm và phát triển thị trường Iraq đồng thời cho phép các đơn vị xuất khẩu chè (do Hiệp hội đề xuất) được vay vốn ưu đãi với lãi suất ưu đãi đặc biệt để mua 15.000 tấn chè tạm trữ trong thời gian từ 6 đến 9 tháng: Thời gian bắt đầu sẽ do Chính phủ quyết định tùy tình hình thực tế. Nhà nước cần ban hành tiêu chuẩn chè Việt Nam không được đưa ra thị trường (cả trong nước và xuất khẩu). Nhà nước nên đầu tư một trung tâm xác nhận chất lượng chè. Giao cho một cơ quan có đủ điều kiện làm việc này một cách công tâm, khách quan để tổ chức quản lý Trung tâm này. Hiệp hội chè Việt Nam cũng là một cơ quan thích hợp để làm việc này. Trong quy trình xây dựng văn bản pháp luật, nên có quy định: Cơ quan soạn thảo văn bản, khi trình Chính phủ, phải có ý kiến tham gia bằng văn bản của Hiệp hội ngành hàng đối với chủ trương, chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn liên quan đến ngành hàng đó. Nhà nước cần tổ chức và phân công lại sản xuất của ngành chè như: đầu tư thủy lợi cho cây chè, nhất là trồng chè cành mà không có nước thì không thể sống được; giảm thuế nông nghiệp với thời gian phù hợp cho việc khuyến khích nông hộ thay đổi giống chè; hỗ trợ giá cây giống 50% cho hộ nông dân và 100% cho hộ là người dân tộc thiểu số; khi cấp giấy phép xây dựng nhà máy, thành lập doanh nghiệp chế biến chè phải có vùng nguyên liệu và theo tiêu chí quy định; trợ cước vận chuyển chè búp tươi ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và vận chuyển than từ Thành phố Hồ Chí Minh lên (Lâm Đồng) như năm trước. Chính phủ cũng cần ban hành những chính sách khuyến khích sản xuất và xuất khẩu chè (chính sách đầu tư cho vay vốn, thuế sử dụng đất, thuế đối với sản phẩm mới) và đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng chè. Cơ chế pháp lý đối với doanh nghiệp nhà nước chưa tạo điều kiện pháp lý, tâm lý chủ động sáng tạo trong xâm nhập thị trường mới và mở rộng thị phần đã có trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Cần có chính sách, cơ chế tài chính của Chính phủ đối với doanh nghiệp, tạo hành lang pháp lí thông thoáng gắn trách nhiệm và quyền lợi, đảm bảo quyền tự chủ và sáng tạo, tích cực đào tạo nâng cao năng lực cán bộ thị trường và nhiệt tình của cán bộ doanh nghiệp. Kết luận Chè không phải là một thứ thực phẩm, một thứ dược phẩm, mà là một quan niệm sống, một thành tố văn hóa của nhiều dân tộc phương Đông trong đó có Việt Nam. Ngày nay, chè còn là một thứ không thể thiếu được cả ở những nước Phương Tây. Có lẽ chính vì tầm quan trọng lớn lao đó mà hiện nay chè là một trong những đồ uống được ưa chuộng nhất thế giới Ngành chè Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, đến nay cũng đã khẳng định được vị trí cũng như tầm quan trọng đối với con người và đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, việc phát triển ngành chè vẫn còn nhiều bất cập và khó khăn cần được giải quyết. Chúng ta cần phải cương quyết trong việc vứt bỏ những lạc hậu, hủ tục và xóa sạch các rào cản kinh tế trong tiến trình hội nhập sản phẩm chè Việt Nam trên thị trường quốc tế để tiến tới một ngành chè phát triển bền vững, ổn định và lâu dài. Tiềm năng của ngành chè Việt Nam còn lớn, thuận lợi có nhiều nhưng cũng còn lắm truân chuyên, gập ghềnh trên con đường trưởng thành, hội nhập vào guồng quay nhịp thở lo toan đầy trách nhiệm của Đất nước để tạo ra một hương sắc cùng bản sắc chè Việt Nam. Mỗi ngôi nhà đều bắt đầu bằng nền móng. Một đất nước phát triển cũng phải bắt đầu từ một nền tảng vững chắc, chính vì vậy phát triển ngành chè một cách bền vững cũng là tạo nền tảng vững chắc cho đất nước phát triển Tài liệu tham khảo. 1. GS. Đỗ Ngọc Quý. Cây chè: sản xuất, chế biến, tiêu thụ. Nhà xuất bản Nghệ An. Năm 2003 2. Tạp chí Tea & coffee asia. 3rd Quarter 2002 (August, September, October). 3. Tạp chí Người làm chè, số 2-10 (năm 2001), số 1-10 (năm 2002), số 12-21(tháng 1-10 / năm 2003). 4. Tạp chí Kinh tế và Khoa học kỹ thuật chè. Các số 1-4/1990 và 1/1991; số 1/1995; số 1,2/1996; số 3/1999; số 4/1999 và 1/2000; số 2+3/2000. 5. Trần Xuân Kiên, Chìa khóa để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội 1998. 6. FAO. 7. Khó khăn và giải pháp đối với tăng trưởng bền vững của những nền kinh tế đang chuyển đổi, Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, Hà Nội, năm 1998. 8. Báo cáo của Tổng công ty chè Việt Nam. 9. Báo cáo của Hiệp hội chè Việt Nam. 10. Chuyên đề Văn hóa chè Việt Nam, Hiệp hội chè Việt Nam 2002. 11. Đỗ Ngọc Quỹ-Nguyễn Kim Phong, Cây chè Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội, 1997. 12. Hoàng Mạnh Tuấn, Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1997. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Tổng quan về thị trường chè thế giới và ngành chè Việt Nam 4 I. Tổng quan về thị trường chè thế giới 4 1. Sản lượng và nhu cầu tiêu thụ chè trên thế giới 4 1.1. Sản lượng 4 1.2. Nhu cầu 6 2. Các nước cung cấp và xuất khẩu chè chủ yếu trên thế giới 9 2.1. Tình hình chung 9 2.2. Một số nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới 10 3. Các nước tiêu thụ và nhập khẩu chè chủ yếu trên thế giới. 13 3.1 Tình hình chung. 13 3.2. Một số nước nhập khẩu chè chủ yếu trên thế giới. 13 4. Giá chè thế giới. 17 5. Xu hướng biến động chè thế giới trong thời gian tới. 19 5.1. Về sản lượng và nhu cầu. 19 5.2. Về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu chính. 20 5.3. Về giá cả. 22 II.Tổng quan về ngành chè Việt Nam 23 1. Giới thiệu về sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam. 23 1.1. Thời kỳ trước năm 1990. 23 1.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay. 26 2. Vị trí cây chè trong đời sống và nền kinh té Việt Nam. 26 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam. 28 3.1. Các nhân tố sản xuất. 28 3.2. Các nhân tố về thị trường. 29 3.3. Các nhân tố về tổ chức và quản l.ý. 29 Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua. 30 I. Thực trạng xuất khẩu chè Việt Nam ( giai đoạn 1999 - 6/2003 ) 30 1. Đánh giá chung. 30 2. Các đánh giá về khu vực thị trường. 34 2.1. Đối với thị trường truyền thồng. 34 2.2. Đối với thị trường tiềm năng. 38 II. Năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam. 42 1. Khái quát về nằng lực cạnh tranh. 42 2. Các nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè. 42 3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam. 43 3.1 Nguồn nhân lực. 43 3.2. Vùng nguyên liệu. 46 3.3. Công nghiệp chế biến. 50 3.4. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. 52 3.5. Chất lượng sản phẩm. 54 3.6. Thị trường. 56 3.7. Về hiệu lực và hiệu quả tổ chức quản lý chính sách. 60 II. Những thành tựu đạt được và tồn tại trong xuất khẩu chè Việt Nam trong thời gian qua. 61 1. Những thành tựu đạt được. 61 2. Những tồn tại. 63 3. Nguyên nhân 65 3.1. Nguyên nhân khách quan. 65 3.2. Nguyên nhân chủ quan 65 Chương III: Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. 67 I. Quan điểm và mục tiêu phát triển chè xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới. 67 1. Những quan điểm chủ yếu để phát triển sản xuất và xuất khẩu chè VN. 67 2. Một số mục tiêu cơ bản phát triển sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam đến 2010. 68 2.1. Mục tiêu chung. 68 2.2. Mục tiêu trên từng khu vực thị trường. 70 2.2.1. Đối với thị trường truyền thống. 70 2.2.2. Đối với thị trường tiềm năng. 70 2.2.3. Đối với thị trường mới. 72 II. Các giải pháp nhằm tăng khả năng của mặt hàng chè Việt Nam. 73 1. Các giải pháp đối với ngành chè Việt Nam 73 1.1. Nhóm các giải pháp quy hoạch, phát triển ngành chè 73 1.1.1. Đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả 73 1.1.2. Nâng cao giá trị sử dụng đất qua việc phát triển vùng nguyên liệu 73 1.1.3. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa quy trình công nghệ chế biến 76 1.1.4. Đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 77 1.1.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu 78 1.2. Nhóm các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam trên thị trường quốc tế 79 1.2.1. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ, xuất khẩu chè Việt Nam 79 1.2.2. Giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu 80 1.2.3. Củng cố, tạo dựng uy tín và danh tiếng cho sản phẩm chè Việt Nam 81 1.2.4. Xây dựng quan hệ hợp tác kinh tế bền vững với các nước trên thế giới 82 1.3. Nhóm các giải pháp tổ chức quản lý và thực hiện mục tiêu, chính sách đối với ngành chè của Nhà nước. 83 1.3.1. Tổ chức quản lý tốt các mục tiêu Nhà nước đặt ra 83 1.3.2. Hoàn thiện các cơ chế chính sách 84 2. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước 85 2.1.Chính sách đầu tư và tín dụng. 85 2.2. Hỗ trợ về khoa học-công nghệ-môi trường. 86 2.3. Hỗ trợ trong tổ chức, sản xuất 86 3. Một số kiến nghị với Nhà nước 87 Kết luận 90 Tài liệu tham khảo 91

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0082.doc
Tài liệu liên quan