Đề tài Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội

MỞ ĐẦU Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thực hiện nhiệm vụ đó không thể tách rời với việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để hoàn thành được mục tiêu đó thì yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối cao của Hiến pháp đựợc đảm bảo và có một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà trước hết là hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong những năm qua, cùng với công cuộc cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nói riêng cũng đã có nhiều bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước ngày càng được nâng cao, bước đầu đáp ứng được nhu cầu đổi mới và sự tin tưởng và ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn, nhất là đòi hỏi của một Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân, Quốc hội còn phải tiếp tục đổi mới cả về nhận thức, lý luận lẫn tổ chức thực hiện các chức năng của mình trong thực tiễn. Duy trì định hướng đó, Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra chủ truơng là cần phải “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, xác định rõ phạm vi, nội dung cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội”. Đi sâu nghiên cứu việc thực hiện chức năng Hiến định “ giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước, đặc biệt từ sau khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu lực (8- 2003) cho thấy: mặc dù Quốc hội nước ta đã có nhiều nỗ lực nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế pháp lý, cải tiến quy trình, tăng cường điều kiện hỗ trợ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát, nhưng xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, giám sát vẫn là khâu yếu nhất và hiệu lực và hiệu quả chưa cao trong tổng thể việc thực hiện các chức năng của Quốc hội, chưa xứng tầm với quyền giám sát tối cao mà Quốc hội được trao. So với yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống, quy định của Hiến pháp, pháp luật và nguyện vọng của nhân dân thì giám sát tối cao của Quốc hội còn phải đổi mới một cách mạnh mẽ hơn nữa, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang tiến hành mạnh mẽ ở nước ta. Tóm lại, mặc dù sự ra đời về Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến chức năng giám sát tối cao của Quốc hội nhưng vẫn đang còn tồn tại nhiều vấn đề về những biện pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Trong điều kiện nói trên thì việc tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại để đưa ra những giải pháp là những điều rất cần thiết để nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 1. Tính cấp thiết của đề tài 2 2. Tình hình nghiên cứu. 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 6 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 7 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận. 8 6. Kết cấu của tiểu luận. 8 NỘI DUNG 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI 8 1.1 Quốc hội. 8 1.2 Quyền giám sát của Quốc hội. 10 1.3 Hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội - khái niệm, mối quan hệ, các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo. 14 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY. 21 2.1 Kết quả đạt được. 21 2.2 Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. 29 2.3. Nguyên nhân của hạn chế. 34 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI. 39 3.1 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. 39 3.2 Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. 42 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. 44 KẾT LUẬN 50 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51 Nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội hiện nay

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2327 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình hoạt động chung của Quốc hội và theo quyền hạn, trách nhiệm được quy định. Nội dung giám sát của các đoàn thường tập trung vào giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, việc quản lý sử dụng đất đai, việc thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương. b.Ý thức của các đối tượng giám sát trong việc chấp hành thực hiện các kiến nghị giám sát được bước đầu nâng cao. Qua giám sát các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đưa ra nhiều ý kiến, kiến nghị ( thông qua các báo cáo thẩm tra, thuyết trình và thảo luận) đóng góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Các cơ quan chịu sự giám sát đã tích cực cộng tác, đáp ứng yêu cầu của cơ quan giám sát. Phần lớn những kết luận, kiến nghị của cơ quan giám sát đã được cơ quan chức năng tiếp thu, chuyển hoá vào quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cơ chế chính sách và công tác chỉ đạo điều hành của ngành, lĩnh vực. Từ đó đã góp phần tạo nên thành tựu chung về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh. Trong các báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ hằng năm, Chính phủ đã khẳng định thành quả đạt được có phần đóng góp quan trọng từ kết quả giám sát của Quốc hội. Tác động của hoạt động giám sát cũng đã tạo nên chuyển biến đáng kể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp. c. Hoạt động giám sát được dư luận xã hội đánh giá tích cực. Tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đại biểu Quốc hội với ý thức trách nhiệm trước cử tri cả nước đã đóng góp nhiều ý kiến thiết thực, thẳng thắn có tinh thần xây dựng đối với các báo cáo, khẳng định mặt làm được, mặt chưa làm được trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Quốc hội cũng đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc phối hợp với các cơ quan khác của bộ máy nhà nước để hoàn thiện những giải pháp hữu hiệu, những phương án tối ưu ở tầm vĩ mô để giải quyết những vấn đề bức xúc của đời sống nhân dân. Cùng với việc mở rộng dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội, hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn đã phản ánh những vấn đề đang được dư luận quan tâm, tạo không khí đối thoại tại các kỳ họp của Quốc hội , thu hút sự quan tâm theo dõi của cử tri. Mức độ nhanh nhạy trong việc lựa chọn những vấn đề trọng điểm để giám sát cũng góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này và tăng thêm lòng tin của cử tri đối với hoạt động giám sát của Quốc hội. 2.1.2 Về hiệu quả hoạt động giám sát. a. Các hoạt động giám sát cơ bản đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Cách thức tổ chức giám sát của Quốc hội ngày càng được cải tiến, hoàn thiện theo hướng tăng cường hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội để giảm những vấn đề cụ thể không thuộc phạm vi, đối tượng giám sát. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X và khoá XI “điểm nổi bật là các cơ quan của Quốc hội đã tích cực cải tiến, tìm những hình thức thích hợp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của mình như: thực hiện giám sát theo chuyện đề, đi sâu khảo sát, theo dõi sát sao việc giải quyết kiến nghị sau giám sát về những vấn đề đang sôi động trong đời sống kinh tế - xã hội như: vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực trạng, phương hướng đổi mới hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước”. Hoạt động giám sát thực hiện chủ yếu tại các cuộc làm việc , xem xét báo cáo của Chính phủ, các bộ ngành, kết hợp với giám sát thực tế tại địa phương, cơ sở, vừa thực hiện giám sát thường xuyên vừa giám sát theo chuyên đề. Lần đầu tiên tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI tiến hành giám sát tại kỳ họp chuyên đề về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, qua đó tìm biện pháp nâng cao chất lượng thi hành luật. Hình thức giám sát này tạo nên được những tiếng vang nhất định, là sự nhắc nhở có trọng lượng đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực mà mình quản lý. Trong năm 2007, tại các kỳ họp Quốc hội đã tiến hành xem xét báo cáo chuyên đề bao gồm: - Giám sát việc thực hiện dự án Khí - điện - đạm Bà Rịa – Vũng Tàu - Giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và luật thực hành thực hành tiết kiệm chống lãng phí. - Giám sát việc thực hiện pháp luật về cấp giấy chngứ nhận quyền sử dụng đất. Quy trình thực hiện các hình thức giám sát được tiến hành theo quy định và luôn được quan tâm, cải tiến cho phù hợp. Đặc biệt hình thức chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội đã trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên, dân chủ trong các kì họp Quốc hội, được cử tri cả nước quan tâm, theo dõi và hoan nghênh. Tại mỗi kỳ họp các đại biểu Quốc hội đã thực hiện hàng trăm chất vấn đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhấn dân tối cao và các nhân sự cấp cao khác giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có nhiều cải tiến, giảm bớt thời gian trình bày báo cáo, tăng tính đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa các đại biểu Quốc hội với người trả lời chất vấn, chất lượng câu hỏi chất vấn và trả lời được nâng lên… Quá trình thực hiện chất vấn đã có sự phát triển mới về chất, đã có sự đan xen giữa việc đối thoại, tranh luận trực tiếp do không khí cởi mở giữa người chất vấn và người trả lời chất vấn. Thời gian giành cho chất vấn cũng được cái thiện hơn trước. Do vậy có thể khẳng định rằng : hoạt động giám sát, đặc biệt là hoạt động chất vấn và giám sát chuyên đề đã có tác động nhất định đối với Chính phủ các bộ, ngành, các cơ quan của Chính phủ góp phần tạo nên những chuyển biến mới trong công tác điều hành, chỉ đạo của các cơ quan này. Nhìn chung hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua đã có nhiều cải tiến, từng bước thực hiện thực chất vai trò giám sát tối cao của Quốc hội. Việc thực hiện các hoạt động giám sát đã đáp ứng chương trình giám sát của Quốc hội, hàng năm các cơ quan Quốc hội đề ra, đảm bảo được chất lượng và các nội dung giám sát được lựa chọn đã đáp ứng được yêu cầu thực tế đời sống xã hội. Hình thức giám sát theo chuyên đề đã được Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội đầu tư nhiều thời gian công sức, hoạt động chất vấn không ngừng được cải tiến và nâng cao chất lượng. Trong thời gian giữa các kỳ họp Quốc hội, theo chức năng, nhiệm vụ pháp luật quy định và thực hiện sự phân công theo Nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội đã tích cực và thường xuyên tiến hành các hoạt động giám sát. Công tác tham mưu, tổng hợp, báo cáo kết quả giám sát cũng có nhiều tiến bộ, góp phần nâng cao hiệu quả giám sát. b. Hoạt động giám sát đã mang lại kết quả đáng ghi nhận có tác động tích cực đến đời sống xã hội. Trong các khoá Quốc hội gần đây, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có nhiều tiến bộ đáng kể, chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao. Nhìn chung kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội đã có tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội thời gian qua đã tập trung vào việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Việc Quốc hội thông qua nghị quyết về chươn trình hoạt động giám sát hằng năm trong đó lựa chọn những vấn đề trọng tâm, bức xúc trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, phù hợp với yêu cầu của thực tế đã làm cho hoạt động giám sát đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của cuộc sống. Các hoạt động giám sát của Quốc hội tiến hành trong thời gian qua đã bao quát đầy đủ các lĩnh vực kinh tế, ngân sách, các vấn đề xã hội, văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ, quốc phòng an ninh, đối ngoại và công tác tư pháp, đồng thời cũng tập trung vào những vấn đề thực sự bức xúc trong đời sống xã hội. Bên cạnh việc xem xét báo cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định, Quốc hội đã đi sâu giám sát các chuyên đề theo chương trình hoạt động giám sát hằng năm, như xem xét các báo cáo về việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản; việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai; việc triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội về dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất; về chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Quốc hội đã thẳng thắn chỉ ra những kết quả đã đạt được , những yếu kém, khuyết điểm, nguyên nhân, giải pháp khắc phục và đã thông qua các nghị quyết nhằm tạo chuyển biến tích cực trong thực hiện các vấn đề quan trọng này, góp phần thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó Quốc hội cũng đã xem xét các báo cáo chuyên đề về kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, về chất lượng giáo dục và tình hình đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá, việc thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho nhân dân; về tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý; việc thực hiện chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn… Quốc hội đã thẳng thắn chỉ rõ những kết quả đạt được, những khuyết điểm yếu kém, nguyên nhân, giải pháp khắc phục và đã thông qua các nghị quyết nhằm tạo chuyển biến tích cực trong thực hiện các vấn đề quan trọng này, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2.2 Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Thời gian qua, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã giành nhiều thời gian và nỗ lực cho hoạt động giám sát và hoạt động này đã đạt được một số kết quả được nhân dân cả nước ghi nhận, khẳng định được vai trò hoạt động giám sát trong đời sống chính trị và tác động của nó đối với đời sống xã hội như đã khái quát ở phần trên. Tuy nhiên khách quan nhìn nhận thì giám sát vẫn là hoạt động “còn yếu, hiệu quả chưa cao, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu giải quyết” (Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá X).Những hạn chế về hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội có thể khái quát trong một số nội dung sau đây: 2.2.1 Khả năng thực hiện thẩm quyền giám sát, áp dặt chế độ trách nhiệm chính trị của các chủ thể chưa được phát huy tối đa. Đây là vấn đề liên quan đến nhận thức, cơ chế pháp lý, cách thức tổ chức và năng lực thực hiện hoạt động giám sát của các chủ thể. Hiện nay về phương diện lý luận, chức năng giám sát của Quốc hội trong cơ chế tập trung quyền lực Nhà nước vấn chưa được rõ ràng. Phạm vi giám sát của Quốc hội như thế nào cho đúng nguyên lý tổ chức quyền lực là một vấn đề đang được tranh luận. Quốc hội có giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước ở cả trung ương và địa phương hay không? Quốc hội có nên giám sát hoạt động của cơ quan tư pháp hay không? Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát như thế nào? Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục làm rõ. Chính những vấn đề chưa được làm rõ, chưa thống nhất về mặt lý luận này đã tạo nên những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát thực tế mà đặc biệt là phạm vi giám sát quá rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực, từ những vấn đề trọng đại đến những việc cụ thể…mà thực chất là không tương xứng với vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và không phù hợp với năng lực thực tế cũng như nguyên tắc tổ chức hoạt động của Quốc hội. Từ đó hạn chế đáng kể hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. 2.2.2 Việc thực hiện các kiến nghị giám sát của các đối tượng chịu sự giám sát chưa triệt để. Thực tế cho thấy cuối mỗi kì họp Quốc hội đều ra nghị quyết về giám sát, các đoàn giám sát của các uỷ ban đều có kiến nghị nhưng các yêu cầu kiến nghị của Quốc hội thông qua hoạt động giám sát chưa được quan tâm theo dõi và đôn đốc việc nghiên cứu, giải quyết. Tình trạng “giám sát rồi để đấy hoặc “ giám sát xong tình trạng lại tệ hơn khi chưa giám sát” không phải là hiếm. Việc cán bộ ngành, cơ quan, tổ chức, khi bị giám sát thì hứa hẹn qua loa nhưng sau đó không có giải pháp nào để xử lý những vướng mắc, sai phạm vẫn còn phổ biến. Nhiều thủ trưởng các bộ, ngành sẵn sàng nhận khuyết điểm nhưng rồi tình trạng hoạt động của cơ quan vẫn không cải thiện, thiếu sót vẫn không được sữa chữa, lời hứa vẫn không được thực hiện từ kỳ họp này sang kỳ họp khác mà không có sự truy cứu trách nhiệm. Chính vì vậy vẫn còn tình trạng tại diễn đàn Quốc hội có những vấn đề được các đại biểu Quốc hội chất vấn đi chất vấn lại nhiều lần tại các kỳ họp liên tiếp, tỷ lệ các vụ việc được giải quyết các vấn đề chính sách được làm sáng tỏ còn thấp, chế độ trách nhiệm của các cơ quan công quyền còn chưa được làm rõ. Vấn đề này thể hiện sự thiếu nghiêm minh trong thực thi các kiến nghị giám sát, đồng thời cũng thể hiện tính hiệu lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội chưa cao, chưa đúng tầm của một cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất được trao quyền giám sát tối cao. 2.2.3 Kết quả giám sát chưa thoả mãn được yêu cầu của xã hội và mong mỏi của cử tri. Thời gian qua mặc dù hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội và đại biểu Quốc hội đã tập trung vào các vấn đề nóng bỏng, bức xúc mà cử tri cả nước và đại biểu Quốc hội quan tâm. Tuy nhiên nhiều lĩnh vực nóng bỏng về kinh tế - xã hội, thi hành pháp luật, nổi lên là nạn tham nhũng, buôn lậu ngày càng có chiều hướng gia tăng, thất thoát trong nhiều ngành kinh tế mũi nhọn: ngân hàng, điện, xây dựng cơ bản vẫn chưa giảm đáng kể. Một số mặt hoạt động của Chính phủ còn tồn tại một số vấn đề chưa giải quyết dứt điểm, nhiều sai phạm của thành viên Chính phủ chưa được xử lý kiên quyết và triệt để. Mức độ kết quả đạt được so với mục tiêu giám sát đề ra cũng như tác động của các kiến nghị giám sát do vậy chưa cao. Điều này chứng tỏ hiệu lực và hiệu quả giám sát còn hạn chế và gây nên tâm trạng thiếu tin tưởng, bức xúc trong dư luận xã hội. 2.2.4 Kết quả đạt được so với mục đích tiến hành các hoạt động giám sát chưa tương xứng. Mặc dù sau khi có luật hoạt động giám sát, việc thực hiện và xây dựng chương trình giám sát hằng năm của Quốc hội đã được tiến hành chặt chẽ và nề nếp hơn nhưng tính khoa học vẫn còn nhiều hạn chế, xu hướng ôm đồm, dồn nhiều nội dung giám sát trong một thời gian có hạn đã làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này. Nội dung và số lượng các cuộc giám sát mặc dù đã được đưa vào chương trình, kế hoạh hằng năm nhiều hơn hẳn so với trước nhưng vẫn còn ít và chưa cân đối so với hoạt động lập pháp, nhiều lĩnh vực giám sát còn chưa sâu, chưa thường xuyên( như giám sát ngân sách…) Một số nội dung rất quan trọng như việc quản lý, sử dụng ngân sách, công tác cải cách hành chính chưa được tập trung giám sát có hiệu quả. Các nội dung giám sát lớn, quan trọng chưa có sự phân bố đồng đều mà còn tập trung nhiều vào một số Uỷ ban. Công tác chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong hoạt động giám sát chưa được tiến hành thường xuyên và hiệu quả còn hạn chế; chưa phát huy được sức mạnh tổng thể. Giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa làm được nhiều và thường xuyên, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân vẫn còn lung túng, hiệu quả chưa cao. Việc xét báo cáo của Chính phủ còn mang tính hình thức, chưa có đánh giá cụ thể về hoạt động của các cơ quan Chính phủ hoặc chế tài đối với những hoạt động chưa hiệu quả của cơ quan này. Mặc dù thời gian qua. Quốc hội đã có quyết định bãi miễn, kỷ luật một số quan chức chính phủ nhưng vẫn còn nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa được đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Một số nội dung lớn đã được giám sát, đã có Nghị quyết của Quốc hội nhưng chưa có điều kiện để xem xét kỹ việc thực hiện. Đánh giá sự chuyển biên thực tế sau giám sát do vậy không mang lại hiệu quả thiết thực, không xác định được tác động đối với đời sống xã hội. Bên cạnh đó một số quy trình, thủ tục giám sát chưa được thực hiện đầy đủ. Từ thực tế triển khai hoạt động giám sát, xét trên gó độ phương thức, quy trình giám sát có thể nhận thấy một số hạn chế cơ bản sau: Việc lựa chọn phương thức giám sát đôi khi còn lung túng, việc áp dụng các hình thức giám sát còn chưa linh hoạt và hiệu quả. Nhiều cuộc giám sát mới dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình nên hiệu quả chưa cao, mới chỉ dừng ở mức độ khảo sát. Một số hoạt động giám sát còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội; sự phối hợp giám sát giữa cơ quan của Quốc hội với các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội ở địa phương và Hội đồng nhân dân chưa được thống nhất và thường xuyên. 2.2.5 Hiệu quả kinh tế của hoạt động giám sát chưa được xác định. Đây là vấn đề tuy đã được đề cập đến tại một số kỳ họp, trong báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội, nhưng đến nay vẫn chưa có phương thức xác định. Thực tế cho thấy kinh phí hằng năm giành cho hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội là một phần không nhỏ trong kinh phí hoạt động chung của Quốc hội. Kinh phí hằng năm giành cho hoạt động giám sát của Quốc hội cũng như các cơ quan của Quốc hội thường chiếm khoảng 1/3 kinh phí hoạt động hàng năm cho hoạt động giám sát, chủ yếu là chi cho việc tổ chức các đoàn đi giám sát và giám sát việc ban hành văn bản của các bộ, ngành. Tính riêng trong quý I/ 2006 số lượt đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, một số đoàn đại biểu Quốc hội đã là 87 đoàn và chi phí cho các đoàn giám sát là con số không nhỏ. Tuy nhiên hiệu quả chi phí với kết quả thu được rất khó cân đo, đong đếm khi mà các hoạt động giám sát nói trên không mang lại kết quả định lượng mà chỉ có thể định tính ở mức độ tác động của nó trong một lĩnh vực, đối với một vấn đề nào đó. 2.3. Nguyên nhân của hạn chế. 2.3.1 Nguyên nhân khách quan. Thứ nhất là do mô hình tổ chức Nhà nước chưa có tiền lệ trong lịch sử. Với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã đưa ra một mô hình tổ chức chừa hề tồn tại trong lịch sử nước ta. Việt Nam đã trải qua một giai đoạn lịch sử dài trong chế độ phong kiến và ngót một thế kỉ nằm dưới gót giày thực dân với chế độ thuộc địa và sau khi giành thắng lợi thì tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa tư bản, vì vậy trong lịch sử chưa hề tồn tại hình thức nhà nước pháp trị hay pháp quyền. Cho đến thời điểm này Đảng là người đầu tiên khởi xướng quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền vì vậy trên con đường đầy mới mẻ chúng ta chưa thể nhanh chóng đạt được những thành công, mặt khác trong quá trình thử nghiệm sẽ gặp không ít những khó khăn, vấp váp đòi hỏi chúng ta phải rút ra những bài học kinh nghiệm. Đó cũng là quy luật tất yếu của sự vận động lịch sử. Chính vì thế mà những yếu kém trong hoạt động giám sát của Quốc hội cũng là điều dễ hiểu, và chúng ta cần có cái nhìn khách quan biện chứng để giữ vững niềm tin vào công cuộc xây dựng đất nước. Thứ hai là do ảnh hưởng của tâm lý dân tộc và do hậu quả chiến tranh kéo dài. Do chịu tác động của tư tưởng và quan niệm của xã hôi phong kiến đã khiến cho một thời gian dài người Việt có tâm lý “an phận” ,”e ngại” né tránh trong việc đấu tranh phê phán những người có quan hệ với mình đặc biệt là quan hệ trên - dưới nảy sinh trong chính những người làm việc trong bộ máy nhà nước những người đại diện cho lợi ích của cử tri làm ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát của Quốc hội. Chính vì thế nên họ làm việc thường không tách biệt giữa tình cảm và công việc nên bị chi phối nhiều bởi những quan hệ xã hội. Là những người dại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân nhưng họ còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác khiến cho việc giám sát cũng không được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác, do hậu quả chiến tranh kéo dài nên tâm lý ỷ lại vào chỉ dẫn của cấp trên, chỉ thực hiện theo mệnh lệnh và các thủ tục có sẵn đã khiến cho người dân trông chờ và hướng dẫn cụ thể mới tiến hành công việc hoặc mới thực hiện các quy định. Với đại biểu Quốc hội, tâm lý trông chờ, tuân thủ đã giải thích cho việc Quốc hội được quyền bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhưng khi chưa có quy trình, thủ tục cụ thể thì đại biểu cũng không thực hiện được. Điều đó thể hiện sự cứng nhắc trong cách làm việc của các đại biểu quốc hội, vì thế nên tính kịp thời trong hoạt động giám sát sẽ bị hạn chế và có khi đánh giá không đúng hiện thực để kịp thời đưa ra những giải pháp. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan. Trước hết là do nhận thức chưa đúng đắn và thống nhất về vai trò giám sát của Quốc hội. Trong thực tế vẫn còn nhận thức cho rằng, trong điều kiện một Đảng cầm quyền, không có sự đối lập như nước ta thì việc Quốc hội tiến hành hoạt động giám sát được không ít quan chức coi là làm khó cho các cơ quan Nhà nước khác; Quốc hội ít “ thông cảm”, “gây căng thẳng” hoặc chưa đặt mình vào vị trí của những người bị giám sát, đánh giá, chất vấn. những quan điểm như thế khiến cho việc giám sát của Quốc hội không được triển khai một cách đồng bộ và đôi khi còn dè dặt nể nang. Thứ hai là chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa được làm rõ Do chưa có sự rõ ràng thống nhất quan điểm về vị trí, vai trò giám sát tối cao cũng như phạm vi đối tượng giám sát của Quốc hội nên đã dẫn đến tình trạng lúng túng, không nhất quán, chồng chéo trong triển khai hoạt động giám sát, các lĩnh vực giám sát nhiều khi tràn lan, thiếu trọng điểm. Có ý kiến thì cho rằng Quốc hội cần giám sát toàn bộ các hoạt động của cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, tất cả việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng Quốc hội chỉ nên dừng lại ở phạm vi giám sát hoạt động của Chính phủ và giám sát trách nhiệm tư lệnh ngành, lĩnh vực, giám sát hoạt động của tàon án nhân dân tối cao,viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chính sự không thống nhất trong quan điểm đó khiến việc phối hợp chỉ đạo thống nhất là rất khó khăn. Mặt khác thì hệ quả giám sát của Quốc hội cũng chưa được nhận thức đúng là chỉ mang tính chính trị thông qua các hình thức xử lý như khen ngợi, phê phán hoặc đặt vấn đề tín nhiệm. Thứ ba là cơ chế pháp lý về giám sát chưa hoàn thiện. Sau một thời gian thực hiện từ năm 2003 đến nay, thực tế cho thấy rằng: một số quy định trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội còn chung chung hoặc chưa thật phù hợp với thực tiễn, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời. Do đó về khía cạnh pháp lý đang đặt ra nhiều nội dung cần tiếp tục phải nghiên cứu và sửa đổi; bổ sung như: cần phải làm rõ một số khái niệm về giám sát của Quốc hội (như: phạm vi giám sát của Quốc hội, đối tượng và các công cụ giám sát cả Quốc hội đặc biệt là hệ quả giám sát của Quốc hội); thủ tục thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đói với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, thủ tục để thành lập ủy ban điều tra, cơ chế tiếp thu giải quyết các kết luận, kiến nghị sau giám sát và cơ chế thực hiện các kiến nghị không được thực hiện. Thứ tư là sự phân biệt giữa giám sát của Quốc hội với giám sát của các cơ quan chức năng chưa rõ ràng. Do hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội chưa được phân biệt rõ với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát cũng như hoạt động kiểm tra thanh tra của các cơ quan Chính phủ, nên thời gian qua có những lĩnh vực giám sát bị chồng chéo, hay trái lại, bị bỏ lửng, có sự chồng chéo về thẩm quyền, phạm vi, đối tượng và phương thức giám sát. Cơ chế giám sát và phối hợp giám sát giữa các cơ quan thực hiện chức năng giám sát trong đó Quốc hội giữ vị trí giám sát tối cao chưa được xây dựng một cách đồng bộ làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả giám sát và không tránh khỏi tình trạng chồng chéo, lấn sân. Thứ năm là nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động giám sát của các cơ quan Quốc hội chưa hợp lý Ủy ban thường vụ Quốc hội: do các thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội hiên nay đều đồng thời là lãnh đạo Quốc hội hoặc kiêm chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, các ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, phải thực hiện nhiều công việc khác nhau nên thời gian và năng lực giành cho hoạt động của ủy ban thường vụ Quốc hội tại các phiên họp dài khoảng 10 ngày hàng tháng là không nhiều, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc cảu cả Ủy ban thường vụ Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội. Hơn nữa, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội được tổ chức theo hình thức làm việc theo chế độ tập thể và chưa có cơ chế hữu hiệu để có thể lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nghiên cứu các vấn đề để giám sát chuyên đề tại các phiên họp nên hiệu quả giám sát chưa cao. Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội: Việc tổ chức hệ thống ủy ban của Quốc hội nước ta hiện nay chưa được thực hiện trên cơ sở một nguyên tắc rõ ràng. Điều này một mặt làm cho phạm vi phụ trách giữa các ủy ban còn có sự đan xen, mặt khác chưa phủ hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội gây không ít khó khăn trong việc xác định phạm vi, đối tượng giám sát. Cơ cấu thành viên của các ủy ban của các thành viên của Quốc hội còn có một tỷ lệ lớn các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm. Điều này dẫn đến một thực tế là hoạt động của các ủy ban chủ yếu dựa vào bộ phận thường trực làm ảnh hưởng đến nguyên tắc làm việc tập thể của ác ủy ban. Hình thức nghe ý kiến của các chuyên gia hoặc ghe điều trần tại các ủy ban liên quan đến các vấn đề đang được xem xét mới chỉ được một số ít các ủy ban áp dụng và theo cách thức chưa thống nhất. Điều này làm hạn chế tính chuyên môn trong các báo cáo thẩm tra luật cũng như trong các kiến nghị giám sát của các ủy ban Thứ sáu là một số quy trình thủ tục giám sát chưa đầy đủ và thiếu tính khả thi Thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quôc hội bầu, phê chuẩn; hình thức hoạt động này còn chưa mang tính khả thi do luật chưa quy định cụ thể thủ tục để các đại biểu có thể làm thế nào có được số lượng ủng hộ là 20% qua các hình thức tự vận động thỏa thuận với các đại biểu khác cho đủ số lượng quy định. Thủ tục thành lập ủy ban điều tra của Quốc hội: thủ tục thành lập ủy ban lâm thời để tiến hành các hoạt động điều tra những kiến nghị của đại biểu về việc thành lập ủy ban điều tra phải qua 2 lần xem xét: tại ủy ban thường vụ Quốc hội (tại đây chủ thể kiến nghị ít có cơ hội trình bày kiến nghị của mình) và trước toàn thể Quốc hội trên cơ sở kiến nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hôi. Như vậy khả năng kiến nghị của đại biểu trở thành hiện thực khá khó khăn. Một số quy định về chất vấn chưa rõ ràng: quy định pháp luật đối với hoạt động chất vấn chưa xác định rõ về giới hạn những lĩnh vực mà đại biểu được phép chất vấn, về quyền của bộ trưởng chỉ trả lời những vấn đề liên quan đến chính sách…. Một số đại biểu Quốc hội được bầu ra theo cơ chế cũ (luật cũ) chưa có đủ điều kiện để đảm đương công tác giám sát của Quốc hội trong công cuộc đỏi mới ở nước ta. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI. 3.1 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Hiện nay chúng ta đang thực hiện mục tiêu là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và để đạt được mục tiêu đó thì ta cần phải hoàn thiện cơ chế giám sát đảm bảo bộ mày nhà nước hoạt động dựa trên khuôn khổ và quy định của pháp luật. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối cao của Hiến pháp được đảm bảo và có một cớ chế kểm tra, giám sát hiệu quả mà trước hết là hoạt động giám sát của Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là một đòi hỏi tất yếu khi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó các quy đinh pháp luật được của Nhà nước và công dân tuân thủ, phát huy được tối đa sự tham gia của công dân (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thiết chế đại diện) vào hoạt động quản lý nhà nước, vào quy trình hoạch định chính sách, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền. Mặc khác chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hoạt động hội nhập về mọi mặt với thế giới bên cạnh những thuận lợi thì cũng đầy những nguy cơ và thách thức vì thế Quốc hội cũng phải nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát để thúc đẩy đất nước phát triển. Quốc hội trong một môi trường hội nhập toàn cầu thì cần phải được tổ chức và vận hành như một Quốc hội hiện đại và mang tính chuyên nghiệp, tức là phải phù hợp với chuẩn mực chung, với xu thế phát triển của nền nghị viện hiện đại. Tuy nhiên chúng ta không thể rập khuôn một hình ảnh hay một mô hình Quốc hội của nước ngoài hay mô hình tổ chức chính quyền của nước ngoài cho thực tiễn của Việt Nam, vì rõ ràng mô hình nào muốn vận hành tốt thì phải dựa trên cơ sở truyền thống lịch sử, nền tảng chính trị, văn hóa, trên cách nghĩ, cách làm của người Việt, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam Vấn đề quan niệm đầu tiên cần làm rõ là mô hình tổ chức Quốc hội. Về bản chất, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước đang có nhiều yếu tố gần với mô hình cộng hòa đại nghị nơi mà Quốc hội có quyền lập pháp và giám sát hoạt động của hành pháp. Vấn đề khái niệm về giám sát là một vấn đề rất lớn ở nước ta vì chúng ta quan niệm Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất mà theo đó Quốc hội thực hiện quyền giám sát để đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh. Nếu Quốc hội giám sát mọi cơ quan Nhà nước tức là giám sát cả Ủy ban Thường vụ Quốc hội, như vậy rất khó thực hiện và hiệu lực hiệu quả giám sát về cơ bản là khó đạt được. Còn nếu đã vận hành theo cơ chế lập pháp thì Quốc hội sẽ gám sát hành pháp, đó là mối quan hệ tương tác giữa lập pháp và hành pháp tạo nên bản chất của hệ thống, bản chất của thể chế. Vấn đề thứ hai là nền tảng bầu cử. Hiện nay, do cơ chế bàu cử chúng ta đang có tình trạng đại diện chồng chéo khi đại biểu vừa đại diện cho lợi ích của cử tri cả nước vừa đại diện cho quyền lợi của cử tri địa phương bầu ra mình. Tình trạng này dẫn đến Quốc hội trong nhiều trường hợp mang tính chất như một thượng viện, vì đại diện cho địa phương mạnh hơn. Vấn đề thứ ba là vấn đề xung đột lợi ích. Xung đột lợi ích ở đây lầ xung đột giữa lợi ích của cả nước và địa phương, giữa cái chung và cái riêng mà đại biểu sẽ phải đương đầu trong hoạt động, nhát là trong hoạt động giám sát. Trong xung đột giữa lợi ích của cả nước và địa phương thì trong một số trường hợp đại biểu đã phải đặt lợi ích của địa phương lên trên vì đại phương là người bầu ra mình nên việc bảo vệ lợi ích cho địa phương là một phương kế hữu hiệu đảm bảo sự tái cử nếu được bầu lại tại địa phương đó. Vấn đề thứ tư là khả năng bảo tồn năng lực thể chế. Vấn đề cơ bản ở đây là năng lực của đại biểu Quốc hội. Năng lực đại biểu tức là năng lực của một người làm chính khách thì ngoài việc học tập, bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức và kĩ năng còn cần đến bản lĩnh và năng khiếu của mỗi cá nhân. Như vậy những thách thức của đổi mới và hội nhập đã dặt ra nhiều vấn đề trong hoạt động giám sát của Quốc hội và đòi hỏi Quốc hội cần nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Mặt khác vấn đề nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của quốc hội cũng là yêu cầu đặt ra từ việc khắc phục những yếu kém tồn tại trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Những hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội trong những năm gần đây nếu không được khắn phục thì hậu quả của nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới pháp chế của Nhà nước mà về lâu dài, những hạn chế đó từng bước có tác động bất lợi cho việc thực hiện nguyên tắc thống nhất quyền lực Nhà nước. Vì vậy vấn đề đổi mới để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là vấn đề cấp bách vừa là vấn đề lâu dài để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. 3.2 Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội phải gắn với đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là với hoạt động lập pháp. Hoạt động giám sát chỉ là một chức năng của Quốc hội và nó không phải là một hoạt động có ý nghĩa độc lập tuyệt đối, vì vậy, đổi mới hoạt động giám sát phải được đặt trong tiến trình chung của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong mối liên hệ hữu cơ và đồng bộ với đổi mới Quốc hội. Để hoạt động giám sát có hiệu quả, pháp luật được thực thi trong cuộc sống, một yêu cầu đặt ra là phải có chiến lược lập pháp đồng bộ. Trong mối quan hệ với lập pháp, mục đích của hoạt động giám sát là nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật. Do vậy để tăng cường chất lượng công tác giám sát, phải gắn hoạt động giám sát với việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, để tăng cường chất lượng công tác giám sát phải theo sát yêu và phục vụ hoạt động lập pháp của Quốc hội. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội là quá trình đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng thẩm quyền luật định, tăng cường năng lực kiểm soát và đánh giá hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát. Quốc hội phải thực hiện đúng thẩm quyền, phạm vi giám sát tối cao, không lấn sân hoặc làm thay các yếu tố khác của cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước cao nhất, phù hợp với tổ chức và cách thức hoạt động của Quốc hội hiện nay. Quốc hội, đặc biệt là đại biểu Quốc hội phải được tăng cường năng lực để có đủ khả năng kiểm soát, đánh giá đúng đắn hoạt động và áp đặt chế độ trách nhiệm đối với các đối tượng chịu sự giám sát. Xây dựng mô hình giám sát có hiệu lực và hiệu quả hơn. Mô hình giám sát lý tưởng có khả năng mang lại hiệu lực và hiệu quả thực sự cần được xây dựng trên cơ sở khoa học về tổ chức quyển lực nhà nước, trên nguyên tắc cơ chế vận hành của Quốc hội và nó phải phù hợp với điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Mô hình đó phải thật sự làm Quốc hội mạnh lên, Chính phủ mạnh lên. Trong cơ chế một Đảng cầm quyền của nước ta hiện nay thì việc thiết kế một mô hìng đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo tính chất của một Nhà nước pháp quyền và tính dân chủ là vấn đề cần được quan tâm. Đổi mới tư duy về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của Quốc hội. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động giám sát của Quốc hội trước hết là đổi mới trong nhận thức về quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Việc đảm bảo tính độc lập của Quốc hội trong hoạt động giám sát là một gải pháp quan trọng trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội. 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Vì khái niệm hiệu lực và hiệu quả giám sát có mối quan hệ chặt chẽ vói nhau (hiệu lực là tiền đề, là cơ sở cho hiệu quả và hiệu quả là kết quả minh chứng cho hiệu lực) nên việc phân biệt tách bạch giải pháp nâng cao hiệu lực và giải pháp nâng cao hiệu quả là hết sức khó khăn, không tránh khỏi trùng lặp. Tuy nhiên ở mức độ nhất định chúng ta cũng có thể phân định một cách tương đối thành các nhóm và phân tích cụ thể thấy được tác động và mức độ áp dụng phù hợp của chúng trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta. 3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao hiệu lực giám sát của Quốc hội. - Xác định phạm vi đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp với vị thế và đặc thù hoạt động của Quốc hội. Qua nghiên cứu các học thuyết và nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước cũng như xuất phát từ thực tiến hoạt động giám sát những năm qua của Quốc hội nước ta, có thể thấy rằng phạm vi giám sát của Quốc hội nước ta là quá rộng, khó có thể thực thi trong điều kiện hiện nay. Do đó muốn quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thực thi có hiệu lực và hiệu quả thực sự thì Quốc hội chỉ nên tập trung giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan và các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Giải pháp này là phù hợp với vị thế của Quốc hội nói chung và chức năng giám sát tối cao nói riêng. Quan niệm này phù hợp với khả năng và thực tiễn giám sát của Quốc hội, đồng thời nó cũng gần giống với quan niệm của nhiều nước về chức năng giám sát của Quốc hội: Giám sát Quốc hội trước hết là giám sát Chính phủ. - Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan nhà nước khác. Muốn hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu lực và hiệu quả cao thì cần đặt nó trong một cơ chế giám sát chung, trong đó các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước khác làm nền tảng cho hoạt động giám sát mang tính tối cao. Cần thống nhất nhận thức về chức năng giám sát của Quốc hội, theo đó Quốc hội cần tập trung thực hiện một cách thực chất, có hiệu quả vai trò giám sát hoạt động đối với cơ quan hành pháp (Chính phủ) với sự phân định rõ phạm vi, đối tượng giám sát của Quốc hội là chỉ đối với cơ quan hành pháp và những vấn đề mang tính chính sách. Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội chỉ tập trung vào việc giám sát hoạt động (xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật) của các cơ quan và cá nhân có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ máy nhà nước. - Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Trước hêt phải làm rõ trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội nhằm phân biệt được giám sát của Quốc hội khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát của các cơ quan nhà nước khác và vị trí của Quốc hội trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước nói chung. Thứ hai, cần bổ sung các quy định cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát và đặc biệt là chủ thể có trách nhiệm giải quyết kiến nghị thông qua hoạt động giám sát. Thứ ba, cần phải quy định cụ thể quy trình, thủ tục và điều kiện thực hiện quy trình, thủ tục tron hoạt động giám sát. Thứ tư, cần xây dựng được các quy đinh cụ thể về các chế tài bảo đảm hiệu lực của giám sát, thực sự phát huy hiệu quả của hoạt động giám sát. - Xác định một mô hình giám sát hợp lý. Cách tổ chức hoạt động của Quốc hội, trong đó có hoạt động giám sát, phụ thuộc vào mô hình thể chế. Hiến pháp cần có quy định bảo đảm Hiến pháp phải có vị trí tối thượng, muốn sửa đổi Hiến pháp phải được toàn dân phúc quyết. Đối với Quốc hội: nên đưa chức năng đại diện vào Hiến pháp, có bước đi phù hợp để tiến tới một Quốc hội chuyên nghiệp (cải tiến chế độ bầu cử, tăng số đại biểu chuyên trách, hoạt động giám sát thường xuyên…) 3.3.2 Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội. - Cải thiện vị thế, điều kiện và tăng động lực giám sát cho đại biểu Quốc hội. Để nâng cao năng lực giám sát của đại biểu cần tập trung vào một số công việc sau: Thứ nhất, về lâu dài cần cải cách hệ thống bầu cử để hình thành nền tảng bầu cử quốc gia, theo đó cần xây dựng lại các khu vực bầu cử tránh tình trạng đại diện chồng chéo… Cần sớm thiết kế, nghiên cứu mô hình Viện Địa phương nhằm giảm xung đột giữa lợi ích của địa phương và lợi ích của Quốc gia. Trước mắt nếu chưa thể thành lập một cơ quan đại diệncho lợi ích địa phương như vậy thì nên tăng số lượng đại biểu trung ương sao cho tỷ lệ này cũng phải mang tính áp đảo. Thứ hai, phải nâng cao động lực giám sát cho đại biểu Quốc hội, đảm bảo tính độc lập trong hoạt động giám sát. Vấn đề xung đột lợi ích “ trên - dưới” khi mà các đại biểu phải giám sát cấp trên theo ngạch chuyên môn hoặc hành chính của mình một khi không được giải quyết thì sẽ khó mang lại hiệu quả. Cần tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách để có một lực lượng đại biểu toàn tâm toàn ý, giành toàn bộ thời gian và trí tuệ cho “nghề đại biểu”. Thứ ba, cần có sự đầu tư thích đáng vào việc bồi dưỡng kĩ năng giám sát cho đại biểu. Các kỹ năng giám sát cần thiết đối với đại biểu Quốc hội bao gồm: kỹ năng chất vấn, kỹ năng vận động, thảo luận và biểu quyết, kỹ năng phân tích và đánh giá thông tin; kỹ năng hình thành kiến nghị và tình bày kiến nghị … Thứ tư, đại biểu Quốc hội còn cần được đảm bảo những điều kiện cần thiết, như bộ phận tham mưu giúp việc, được cung cấp thông tin, kinh phí để thực hiện hoạt động giám sát. Bên cạnh đó phải có quy định về chế tài đối với đại biểu không hoàn thành trách nhiệm đại biểu, không còn được cử tri tín nhiệm hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hay quy chế hoạt động của Quốc hội. - Đổi mới phương thức giám sát. Qua nghiên cứu thực tiến triển khai hoạt động giám sát trong những năm qua, có thể nhận thấy một số vấn đề quy trình thủ tục cần được đổi mới như sau: Đổi mới quy trình, thủ tục nghe báo cáo và ra nghị quyết về báo cáo công tác của các đối tượng chịu sự giám sát và các báo cáo chuyên đề khác tại kỳ họp Quốc hội. Đổi mới phương thức chất vấn. Đổi mới phương thức thực hiện hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Cụ thể hoá một số tủ tục để đảm bảo tính khả thi (thủ tục thành lập ỷ ban lâm thời để tiến hành điều tra một vấn đề nhất định và bỏ phiểu tín nhiệm) Đổi mới phương thức giám sát thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cảu công dân. - Tăng cường hiệu quả sử dụng các công cụ giám sát. Những công cụ giám sát được Quốc hội các nước áp dụng phổ biến nhất là: thảo luận, biểu quyết, chất vấn, đề xuất kiến nghị; luận tội, điều trần, điều tra; bỏ phiếu tín nhiệm… Đối với Quốc hội Việt Nam, thực tế cho thấy chất vấn là công cụ giám sát được sử dụng hiệu quả nhất trong thời điểm hiện nay. Do vậy chất vấn cần được tiếp tục sử dụng và cải tiến để phát huy hiệu năng cao hơn như phần đổi mới phương thức chất vấn ở trên đã đề cập. Một công cụ giám sát cần được các Uỷ ban của Quốc hội nước ta nghiên cứu, sử dụng là hình thức “điều trần”. Đối với Việt Nam đây là một khái niệm mới và chưa được coi là một công cụ giám sát hiệu quả cũng như chưa có quy trình áp dụng tối ưu. Trong khi đó điều trần là một phương thức được sử dụng rất phổ biến và hiệu quả ở Quốc hội các nước. Điều trần là một hình thức giám sát hiệu quả bởi nó mang tính làm rõ vấn đề, tính tranh luận cởi mở, cơ hội trình bày ý kiến rộng rãi cho các bên liên quan, không chịu áp lực gay gắt về thời gian như các cuộc tranh luận hay chất vấn ở nghị trường nên thường đi được tới cùng của vấn đề. 3.3.3 Nhóm gải pháp về các điều kiện đảm bảo hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. - Thống nhất nhận thức, quan niệm về hoạt động giám sát của Quốc hội. Trước hết cần xác định rõ hơn tầm quan trọng đặc biệt của việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, coi đây là thẩm quyền của cơ quan thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Phải coi đẩy mạnh hoạt động giám sát là một khâu không thể thiếu liên quan mật thiết đến hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước để qua đó Quốc hội mới bảo đảm thực hiện được đầy đủ, đồng bộ các chức năng của mình với chất lượng cao nhất. Cần có một cách nhìn nhận đúng đắn và thực sự coi trọng hoạt động giám sát. Các đối tượng chịu sự giám sát cần tập trung giải quyết kịp thời các kiến nghị qua giám sát và coi đó như là một biện pháp, cách thức nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao chất lượng của cơ chế bảo đảm và tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật. - Thành lập và phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ quan hỗ trợ hoạt động giám sát. Với tính chất hoạt động đặc thù của mình, Quốc hội không thể tự mình giám sát tất cả mọi công việc, nếu không có sự trợ giúp của các cơ quan chuyên môn của Quốc hội. Căn cứ điều kiện thực tế của Quốc hội Việt Nam, để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, về trước mắt cững như lâu dài, Quốc hội cần nghiên cứu, xây dựng các thiết chế hỗ trợ hoạt động giám sát như Thanh tra Quốc hôi, Kiểm toán trực thuộc Quốc hội, Cơ quan phân tích chính sách…để bảo đảm cho Quốc hội có đầy đủ công cụ thực sự tiến hành hoạt động giám sát một cách thực chất, đạt được các mục đích giám sát của Quốc hội về khía cạnh pháp lý và khía cạnh kinh tế. -Tăng cường chất lượng các dịch vụ thông tin và nghiên cứu phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội. Thông tin phục vụ Quốc hôi – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, nơi ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh của đất nước – trong một chừng mực nào đó có những đặc thù khác với thông tin phục vụ các đối tượng khác như Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp… Hiệu quả hoạt động giám sát phụ thuộc vào thông tin mà đại biểu Quốc hội được cung cấp có đầy đủ, chính xác, kịp thời hay không phụ thuộc vào thông tin mà đại biểu Quốc hội được cung cấp có đầy đủ, chính xác, kịp thời hay không. Một kênh thông tin độc lập với thông tin của Chính phủ sẽ giúp Quốc hội giám sát cơ quan hành pháp có hiệu quả. - Phát huy vai trò của các Hiệp hội và các phương tiện thông tin đại chúng trong hoạt động giám sát. Truyền thông chính là cầu nối giữa Quốc hội, giữa các vị đại biểu Quốc hội với cử tri và nhân dân cả nước, là kênh thông tin truyền tải các hoạt động giám sát của Quốc hội đến với cử tri và nhân dân cả nước, là kênh thông tin truyền tải các hoạt động giám sát của Quốc hội đến với nhân dân và qua đó để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình với chính cơ quan đại biểu do mình trực tiếp bầu ra, kịp thời phát hiện, cánh báo và phê phán những biểu hiện tiêu cực, sai trái, qua đó giúp Quốc hội có thể nắm được và tiến hành giám sát một cách chính xác, kịp thời, đúng đối tượng và sát với đòi hỏi khách quan. Sự tham gia (đặc biệt là trong các phiên điều trần tại uỷ ban), của các hiệp hội, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp cũng góp phần tăng cường hiệu quả giám sát nếu như các tổ chức nói trên xuất phát từ quyền lợi của giai tầng mà mình đại diện cung cấp thông tin, nêu chính kiến, phát hiện những sai phạm của cơ quan Nhà nước…giúp Quốc hội có cơ sở để giám sát cụ thể, đạt được hiệu quả cao. - Đảm bảo các điều kiện vật chất - kỹ thuật, bộ máy giúp việc thực hiện hoạt động giám sát. Các điều kiện này cần được đảm bảo đầy đủ và đồng bộ căn cứ trên nhu cầu thực tế của chủ thể giám sát và khả năng đáp ứng của nền kinh tế cũng như của các cơ quan có liên quan. Điều này là rất quan trọng bởi nó quyết định trực tiếp tới hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. KẾT LUẬN Như vậy, thông qua việc nghiên cứu và làm rõ những khái niệm có liên quan và phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội để tìm ra những nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội đã giúp ta có hiểu biết sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hoạt động giám sát của Quốc hội cũng như vị trí vai trò to lớn của Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước. Với vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các hoạt đông thi hành pháp luật của cơ quan hành pháp, Quốc hội trong những năm qua đã có rất nhiều nỗ lực để cải thiện cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát. Và trên thực tế những cố gắng đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực và có tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập sâu rộng với thế giới và tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính trị để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà đòi hỏi ở hoạt động giám sát của Quốc hội những yêu cầu cao hơn nữa để đáp ứng trước những biến đổi của tình hình mới. Quốc hội cần phải giám sát chặt chẽ hơn nữa, có cơ chế giám sát linh hoạt, có chế tài xử lý nghiêm minh để hoạt động giám sát mang lại hiệu quả cao trên thực tế. Hy vọng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng sự nỗ lực của các cơ quan Quốc hội thì hoạt động giám sát ngày càng đạt hiệu quả cao hơn và Quốc hội xứng đáng là người đại diện cho tiếng nói của quần chúng nhân dân, là người đại biểu trung thành của nhân dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặng Văn Chiến (chủ biên),(2005). “Quy trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội”, Ban công tác lập pháp trực thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Ngyễn Đăng Dung ( chủ biên), (2007), “ Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên),(2006), “ Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên),(2004), “ Quyền giám sát của Quốc hôi - nội dung và mục tiêu từ góc nhìn tham chiếu”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Trần Ngọc Đường (chủ biên), (2005), “ Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Văn Giảng (chủ biên), (2008), “Một số gải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của Uỷ ban kiểm tra các cấp”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trương Thị Hồng Hà (2007), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học. Phạm Văn Hùng (2004), “Quyền giám sát của Quốc hội đối với Toà án Nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân”, Luận án Tiến sĩ luật học. Phạm Ngọc Kỳ, (2000), “Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Phạm Trọng Kỳ, (1993), “ Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam’, Luận án Tiến sĩ. Lưu Văn Luân, (2003), “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội”, Luận án Tiến sĩ lịch sử. Trần Tuyết Mai, (2009), “ Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học. Nguyễn Thị Thanh (chủ biên), (2008), “Quyền lực chính trị và cầm quyền”, Khoa Chính trị học, Học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam, (2003), “Luật hoạt động giám sát của Quốc hội”,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam, (1979), “Hiến pháp” (dự thảo), Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của Quốc hội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam, (2002), “Luật tổ chức Quốc hội”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Văn phòng Quốc hội, (2006), “Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Thanh Vân, (2003), “Cơ sở lý luận của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học. .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnang_cao_hieu_luc_va_hieu_qua_giam_sat_cua_quoc_hoi_viet_nam_hien_nay_9355.doc
Tài liệu liên quan