MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 
 I. Việc làm và tạo việc làm 
 1. Việc làm. 
 a) Khái niệm và phân loại. 
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều định nghĩa 
nhằm làm sáng tỏ: “việc làm là gì? ”. Và ở các quốc gia khác nhau do ảnh hưởng của 
nhiều yếu tố (nhưđiều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp ) người ta quan niệm về việc 
làm cũng khác nhau. Chính vì thế không có một định nghĩa chung và khái quát nhất về 
việc làm. 
 Theo bộ luật lao động_ Điều 13: “ Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp 
 luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. 
Trên thực tếviệc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức: 
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó. 
+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử dụng hoặc 
quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành công việc đó. 
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới 
hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt 
động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành viên khác trong gia đình có 
quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. 
Khái niệm trên nói chung là khá bao quát nhưng chúng ta cũng thấy rõ hai hạn chế cơ 
bản. Hạn chế thứ nhất: hoạt động nội trợ không được coi là việc làm trong khi đó hoạt 
động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không hề 
nhỏ. Hạn chế thứ hai: khó có thể so sánh tỉ lệ người có việc làm giữa các quốc gia với 
nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào luật 
pháp, phong tục tập quán, Có những nghềở quốc gia này thì được cho phép và được 
coi đó là việc làm nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm. Ví dụ: đánh bạc ở Việt Nam bị 
cấm nhưng ở Thái Lan, Mỹđó lại đựơc coi là một nghề thậm chí là rất phát triển vì nó 
thu hút khá đông tầng lớp thượng lưu. 
 Theo quan điểm của Mac: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp 
 giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vỗn, tư liệu sản xuất, công nghệ, ) để 
 sử dụng sức lao động đó). 
 Sức lao động do người lao động sở hữu. Những điều kiện cần thiết như vốn, tư liệu sản 
 xuất, công nghệ, có thể do người lao động có quyền sở hữu, sử dụng hay quản lý 
hoặc không. Theo quan điểm của Mac thì bất cứ tình huống nào xảy ra gây nên trạng 
thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó 
đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất việc làm. 
Tuỳ theo các mục đích nghiên cứu khác nhàu mà người ta phân chia việc làm thành 
nhiều loại. 
Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc ta có việc làm chính và việc làm phụ 
+ Việc làm chính: là việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất hay có thu 
nhập cao nhất. 
+ Việc làm phụ: là việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau công 
việc chính. 
Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành việc làm bán thời gian, việc làm đâỳđủ, 
việc làm có hiệu quả, 
 b) Các đặc trưng của việc làm 
Nghiên cứu các đặc trưng của việc làm chính là việc tìm hiểu cơ cấu hoặc cấu trúc dân 
số có việc làm theo các tiêu chí khác nhau nhằm làm rõ các khía cạnh của vấn đề việc 
làm. Bao gồm có: 
+ Cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi. 
Cho biết trong số những người có việc làm thì tỉ lệ nam, nữ là bao nhiêu; độ tuổi nào là 
lực lượng lao động chính (chiếm phần đông trong lực lượng lao động). 
+ Sự thay đổi quy mô việc làm theo vùng (nông thôn- thành thị). 
Cho biết khả năng tạo việc làm ở hai khu vực này cũng như tiềm năng tạo thêm việc 
làm mới trong tương lai. 
+ Cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế. 
Cho biết ngành kinh tế nào trong nền kinh tế quốc dân có khả năng thu hút được nhiều 
lao động nhất ở hiện tại và tương lai; sự dịch chuyển lao động giữa các ngành này. 
Trong nền kinh tế quốc dân ngành kinh tếđược chia làm 3 khu vực lớn. Khu vực I: 
ngành nông nghiệp và lâm nghiệp; khu vực II: ngành công nghiệp, xây dựng, giao 
thông vận tải, khai thác mỏ, năng lượng; khu vực III: dịch vụ. 
+ Cơ cấu việc làm theo nghề. 
Cho biết nghề nào hiện tại đang tạo ra được nhiều việc làm nhất và xu hướng lựa chọn 
nghề nghiệp trong tương lai của người lao động. 
+ Cấu trúc việc làm theo thành phần kinh tế. 
Cho biết hiện tại lực lượng lao động đang tập trung nhiều nhất trong thành phần kinh 
tế nào và xu hướng dịch chuyển lao động giữa các thành phần kinh tế trong tương lai. 
Thành phần kinh tế được chia dựa trên quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. 
Luận văn chia làm 3 chương, dài 40 trang
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
40 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2100 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a giải thích như sau: 
+ Cuối thập kỉ 80 đầu thập kỉ 90 sau sự sụp đổ của Liên Xô, hàng loạt các nước 
XHCN ở Đông Âu cũng liên tiếp sụp đổ. Sau biến cố chính trị này tất cả lao động 
nước ngoài ở các nước này đều phải trở về nước trong đó có lao động Việt Nam. 
Mặt khác, từ trước cho đến thời điểm đó Liên Xô và các nước Đông Âu vốn là thị 
trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam nên khi xảy ra biến cố này 
Việt Nam thực sự rơi vào tình thế bị động trong cả việc giải quyết việc làm, ổn 
định đời sống cho người lao động về nước và việc tiếp tục duy trì hoạt động xuất 
khẩu lao động. Vì thế số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài năm 1992 chỉ 
dừng lại ở con số 810 người. 
+ Năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á mà đầu 
tiên là ở ThaiLan. Cuộc khủng hoảng kéo theo nó là sự sụp đổ, trì trệ nền kinh tế 
của các nước trong khu vực, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài tại 
các nước này. 
Bảng 2: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực tại một số nứơc châu á. 
Tỷ lệ tăng trưởng 
GDP(%) 
Tỷ lệ thất 
nghiệp(%) 
Nước, 
lãnh thổ 
95-97 1998 1997 1998 
Sự giảm giá 
đồng tiền 
6/97-5/98 
Số lao 
động 
nứơc 
ngoài 
Chính sách 
điều chỉnh về 
lao động 
Nhật Bản 2 2,0 3,4 4,3 - 1354 +Duy trì c/t 
TNS. 
+G/hạn HĐ về 
ĐT 
Singapo 7,8 2,5 1,8 - -19 (12/97) H/chế nhập l/đ 
phổ thông 
Hàn Quốc 7,2 <1,0 2,6 6,5 -55 (12/97) 210 Tạm dừng 
Malaysia 8,6 2,0 2,5 
3,7 -48(1/98) 2500 Hồi hương lao 
động bất hợp 
pháp 
 20
Đài Loan 297 Nhập lao động 
xd, dịch vụ các 
nước ĐNA 
Hồng 
Kông 
5,00 3,5 2,9 4,0 Hạn chế 
 Nguồn: Niên giám thống kê di dân châu á. 
 Những năm sau đó tỷ lệ tăng so với năm trước được khôi phục (93, 94) và rồi 
lại có xu hướng giảm dần. Điều đó cho thấy: 
+ Thứ nhất, chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng các biện pháp khắc phục 
kịp thời, nhạy bén với thời cuộc để chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong 
thời gian ngắn hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam lại nhanh chóng đi vào 
sự ổn định. 
+ Thứ hai, hoạt động xuất khẩu lao động thực sự đã bị yếu tố thị trường chi phối 
nghĩa là phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu trên thị trường, xuất hiện tính cạnh tranh 
gay gắt với các nứơc xuất khẩu lao động khác, đặc biệt là các nứơc trong khu vực 
như ThaiLan, Philippin, Indonexia. Dù vậy, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt 
Nam vẫn khởi sắc. Năm 2003 số lao động được đưa đi làm việc ở nứơc ngoài 
chiếm tới 26,88% tổng số lao động trong cả giai đoạn 1990-2003. 
Về thị trường xuất khẩu lao động: không ngừng đựơc mở rộng và khai thác. Từ chỗ 
chỉ có 12 thị trường năm 1992 lên tới 46 thị trường vào năm 2003. Những kết quả 
đó cho thấy trong tương lai hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ còn gặt hái 
nhiều thành công hơn nữa. 
b) Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động. 
Hiện nay lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đang tham gia lao động ở 30 
nhóm ngành, nghề khác nhau như: xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt, máy, chế biến thuỷ 
sản, vận tải biển, đánh bắt hải sản, dịch vụ, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, Cụ 
thể là: 45% lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, 26% trong lĩnh vực xây 
dựng, 20% trong lĩnh vực cơ khí, 6% trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thuỷ sản, 
3% trong lĩnh vực khác. 
Tỷ lệ lao động có tay nghề là khoảng 65%; ở một số nước như Nhật Bản, Libia tỷ lệ 
này đạt gần 100%. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu lao động phổ 
thông có xu hướng giảm và tăng nhu cầu lao động có tay nghề (trước khi đi làm việc ở 
nứơc ngoài đã được đào tạo). 
Bảng 6: Lao động trong các ngành giai đoạn 1991-1999. 
 21
 Lĩnh vực Số lao động(người) Tỷ lệ lao động (%) 
Xây dựng 23.000 29,43 
Dệt may 11.000 14,08 
Thuyền viên, đánh 
cá 
14.500 18,56 
Các nghề p/thông 
khác 
29640 37,93 
Tổng 78140 100 
 Nguồn: tổng hợp từ nhiều nguồn 
 Yêu cầu một số ngành nghề mà các nước nhập khẩu lao động đòi hỏi. 
+ Thuyền viên: cường độ làm việc cao dù là thuyền trưởng hay thuyền viên, tiềm ẩn 
nhiều yếu tố rủi ro, đòi hỏi người thuyền viên phải có thể lực tốt, chịu được sóng gió, 
có tay nghề, có tác phong công nghiệp và vốn ngoại ngữ khá để thực hiện chính xác 
mệnh lệnh của thuyền trưởng. 
Thuyền viên Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được những yêu cầu trên đây. 
+ Thợ xây dựng: là loại lao động nặng nhọc chủ yếu diễn ra ngoài trời, công nghệ và 
máy móc xây dựng khá hiện đại, tổ chức thi công trên công trường rất khoa học, kỉ luật 
lao động nghiêm khắc, tiền công không cao, bình quân 250 USD/ người/tháng. 
Thợ lao động xây dựng Việt Nam khéo léo, dễ tiếp thu công nghệ nhưng tính vô kỷ 
luật cao nên chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số lao động bị trả về nước. 
+ Công nhân nhà máy: làm việc trong các nhà máy có trình độ tự động và chuyên 
môn hoá cao, đòi hỏi người lao động phải có sức chịu đựng, cường độ lao động cao, 
tính bền bỉ trong công việc cao, ý thức kỷ luật lao động cao để hoà nhập với công nhân 
nước khác. Thu nhập bình quân 500 USD/người/ tháng _ bằng 50-60% thu nhập của 
công nhân nước sở tại. 
Lao động Việt Nam ở nhóm này nói chung trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu 
nhưng trình độ ngoại ngữ kém, vô kỷ luật_ nhiều lao động phá vỡ hợp đồng bỏ ra làm 
ngoài. 
+ Lao động giúp việc gia đình: Yêu cầu ngoại ngữ tốt để giao tiếp hàng ngày với đối 
tượng phục vụ, phải sử dụng thành thạo các dụng cụ sinh hoạt, trung thực, tận tụy với 
công việc. 
Lao động Việt Nam làm việc trong lĩnh vực này chưa nhiều, một phần do ngoại ngữ 
yếu, một phần do quan niệm xã hội Việt Nam mấy năm gần đây mới coi giúp việc gia 
đình là một nghề. Tuy nhiên lao động Việt Nam trong lĩnh vực này cũng được đánh giá 
khá cao. 
c) Thị trường xuất khẩu lao động. 
 22
Nếu như giai đoạn 1980-1990: Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là thị trường 
xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam thì đến giai đoạn 1991-2003 thị trường 
đó lại là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Lybia, CHDCND Lào. Các thị trường mới tiềm năng 
như: Đài Loan, Malaysia. Thị trường Trung Đông và Châu Phi: chủ yếu là xuất khẩu 
chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục. Chúng ta đang dần tiến đến các 
thị trường khó tính nhưng đầy sức hấp dẫn như Mỹ, Nga, Canada, Singapor, Hylap, CH 
Ailen. Sau đây là tình hình cụ thể về lao động Việt Nam tại một số thị trường: 
 Tại Trung Đông. 
+ Lybia: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 
1990 thông qua hai hình thức: 
Một là, hợp tác trực tiếp theo thoả thuận giữa bộ quốc phòng hai nước. 1990-1994 đưa 
gần 2000 lao động cơ khí và lắp ráp sang làm việc tại các nhà máy của Lybia. Năm 
1994 sự hợp tác tạm dừng. Năm 1997 chương trình hợp tác được tiếp nối và triển khai 
với quy mô tính đến năm 2002 là 1000 người. 
Hai là, hợp tác gián tiếp thông qua một số công ty của Hàn Quốc, CHLB Đức, Hylap, 
Thụy Điển, Manta, Ba Lan trúng thầu tại Lybia. Từ năm 1992-2002 có 9000 người lao 
động trong đó 99% làm việc trong lĩnh vực xây dựng, còn lại là nghề khác. Thu nhập 
bình quân khoảng 210 USD/ người/ tháng. 
Tại thị trường này ít xảy ra các vấn đề với người lao động và đặc biệt là không có lao 
động bỏ trốn ra làm việc ngoài hợp đồng. 
+ Coet: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ 1996. 
Từ 1996-2002 mới có 4 công ty (VINACONEX, CONSTREXIM, OLECO, LOD) ký 
kết và thực hiện hợp đồng nhận thầu xây dựng trên 1000 biệt thự 2 tầng, đưa được trên 
200 lao động đi làm việc tại Coet. Tuy nhiên, do đối tác chưa thực sự nghiêm túc trong 
thực hiện hợp đồng. Mặt khác thời tiết nắng nóng, vật liệu cũng quá nặng so với sức 
khoẻ của người lao động Việt Nam, kỹ thuật khác xa với Việt Nam,…nên đến nay đây 
vẫn là thị trường bỏ ngỏ. 
+ Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất (UAE): bắt đầu có quan hệ hợp tác với 
Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1995. 
Trong giai đoạn 1995- 2002 Việt Nam đã đưa được trên 1000 lao động đi làm việc ở 
khu vực này. Số ở lại tính đến năm 2002 là 500 người. Ngành nghề chủ yếu là may 
mặc, xây dựng, phục vụ nhà hàng. Thu nhập của công nhân xây dựng khoảng 180-280 
USD/ người/tháng, nghề may khoảng 150 USD/ người/tháng. 
 Tại châu á. 
+ Nhật Bản: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ 
năm 1992. 
 23
Hình thức hợp tác chủ yếu là thông qua “chương trình tu nghiệp sinh nghề và thực tập 
kỹ thuật” cho phép lao động Việt Nam (gọi là tu nghiệp sinh) tham gia thu nghiệp nghề 
và thực hành tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. 
Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính vì: thứ nhất, người Nhật ít thiện cảm với lao 
động ngụ cư nước ngoài nên có quy định khá ngặt nghèo với lao động làm thuê nước 
ngoài; thứ hai, đặc điểm nổi bật của thị trường Nhật Bản là chỉ nhận lao động có tay 
nghề kỹ thuật từ một số cơ sở sản xuất công nghiệp như điện tử, xây dựng,… và lao 
động phải được học tiếng Nhật trước khi đi. 
Nhưng thị trường Nhật Bản cũng rất hấp dẫn bởi mức thu nhập cao. Mức lương cho 
người học nghề Việt Nam ở năm đầu tiên khoảng 700 USD/ tháng, sau khi thi tay nghề 
là 800 USD/ tháng. Khi làm thêm giờ người lao động sẽ được trả 150%so với mức 
lương chính. Từ năm 1992-2002: có 40 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam 
phối hợp với tổ chức hợp tác lao động quốc tế Nhật Bản (JITCO) đưa được khoảng 
10.000 lao động sang Nhật Bản tu nghiệp, chủ yếu trong lĩnh vực dệt, may, cơ khí, xây 
dựng phân bố trên khắp nước Nhật. Từ năm 1994 theo thoả thuận về chương trình tiếp 
nhận tu nghiệp sinh y tá. Theo đó, hàng năm Việt Nam đưa 15-20 người sang học ở 
một số trường y tá Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp các y tá này đựơc làm việc 4 năm tại 
bệnh viên Nhật Bản và được hưởng lương + chế độ khác như lao động Nhật Bản. Thị 
trường Nhật Bản ít coi trọng tầm vóc, ngôn ngữ của người lao động nước ngoài nhưng 
lại rất đề cao tính trung thực và kỷ luật trong lao động. Thế nhưng, lao động Việt Nam 
sang tu nghiệp tại Nhật đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài không ít gây thịêt hại về kinh 
tế cho cả hai bên và sự mất uy tín cho phía Việt Nam. Trong tương lai do dân số Nhật 
đang già hoá nên sẽ có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu lao động nhưng chủ yếu là các lao 
động có trình độ kỹ thuật cao. 
+ Hàn Quốc: chính thức đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao 
động từ năm 1993 chủ yếu thông qua chế độ tu nghiệp sinh. 
Tính đến năm 2000 có 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam được phép cung 
ứng TNS cho Hàn Quốc. Đó là: LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, 
OLECO, IMS, SULECO, SOVILACO đưa được tổng số lao động sang làm việc tại 
Hàn Quốc là 29.000 người chiếm khoảng 40% thị trường xuất khẩu lao động của Việt 
Nam kể từ khi thực hiện theo cơ chế mới. Năm 1996 số lao động đưa đi đạt mức kỷ lực 
ở con số 6.275 người. 
Năm Số lao động (người) 
1996 6275 
 24
1999 3700 
Đầu 2000 5500 
2003 Trên 4000 
Mức thu nhập bình quân là 500. 000 WON/tháng (trên 400USD/ tháng theo tỷ giá năm 
2000: 1USD = 1.100 WON). 
Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc thường phải làm các công việc 3D (nặng nhọc, kém 
hấp dẫn, độc hại) nên thu nhập thường không cao. Với các TNS thì trong 3 tháng đầu 
chỉ được hưởng mức lương bằng 60-70% lương chính thức. Người lao động nước 
ngoài trong đó có lao động Việt Nam không được hưởng các quyền lợi về lao động như 
lao động Hàn Quốc nên nhiều lao động đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài. Năm 2003 có 
tới 14.000 lao động Việt Nam là lao động bất hợp pháp. Theo ông Phạm Tiến Vân_ 
đại biện lâm thời đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc “ khoảng 60% số lao động Việt 
Nam tại Hàn Quốc đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài”. 
+ Đài Loan: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ 
năm tháng 11/1999. 
Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu rất lớn đối với lao động làm việc trong các 
nhà máy, giúp việc gia đình và khán hộ công. Lao động nước ngoài được hưởng các 
quyền lợi gần như lao động trong nước, mức tiền công chênh lệch không nhiều. Thời 
hạn hợp đồng làm việc ở Đài Loan là 2 năm, đựơc gia hạn hợp đồng 1 lần tối đa không 
quá 1 năm nhưng chi phí môi giới rất cao khoảng 5-6 tháng tiền lương tiết kiệm của 
người lao động. Tính đến năm 2000 có 139 doanh nghiệp Việt Nam chuyên doanh xuất 
khẩu lao động được phép cung ứng lao động cho Đài Loan trong đó có 34 doanh 
nghiệp được phép thí điểm cung ứng lao động khán hộ công và giúp việc gia đình. 
Cũng trong năm 2000 có 30/139 doanh nghiệp đã ký kết đựơc hợp đồng xuất khẩu lao 
động đưa được 6000 lao động (3256 nữ) sang làm việc tập trung ở ngành như điện tử, 
may mặc, dệt, xây dựng, thuyền viên đánh cá, riêng khán hộ công và giúp việc gia đình 
là 1950 người. Trong năm 2000 có 306 lao động bị trả về nước trước thời hạn chiếm 
5,7% số lao động đưa sang. Nguyên nhân 108 người (35,3%) vì lý do sức khoẻ; 127 
(41,5%) do tiếng Hoa kém; 11 người (3,59%) vi phạm kỷ luật; 6 người (1,96%) do phía 
chủ và công ty môi giới không chấp nhận. Từ tháng 11/1999 đến 2002 có 26.500 lao 
động phân bố ở 28 ngành nghề khác nhau trong đó làm việc sản xuất chế tạo chiếm 
50%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 32%, thuyền viên la 7%. Thu nhập bình 
quân là 250-300 USD/tháng. Năm 2003: 1500 lao động Việt Nam bị bắt giữ vì làm 
ngoài. 
 25
+ Malaysia: chính thức hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ cuối 
tháng 4/2002. 
Đây là quốc gia có diện tích bằng diện tích của Việt Nam nhưng dân số chỉ bằng 1/3; 
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 8%/năm. Luật pháp Malaysia quy định người lao 
động nước ngoài ở Malaysia được hưởng sự đối xử như đối với lao động bản xứ về tiền 
lương và các lợi ích khác. Thời hạn hợp đồng là 3 năm, có thể gia hạn 5 năm đối với 
lao động tay nghề thấp và 6 năm với lao động tay nghề cao. Thu nhập bình quân 
khoảng 200 USD/ tháng. Từ tháng 4 đến tháng 8/2002 đưa trên 4000 người đi làm việc, 
tính bình quân mỗi tháng đưa trên 1000 lao động. Từ tháng 4/2002 đến cuối 2003 có 70 
doanh nghiệp được chính phủ cho phép làm thí điểm xuất khẩu lao động sang Malai 
đã đưa 70.000 lao động đi làm việc, chủ yếu là lao động phổ thông cho lĩnh vực xây 
dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2003 đưa được 40.000 lao 
động. Đầu năm 2004, hơn 700 lao động Việt Nam trong ngành xây dựng bị mất việc. 
Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu về lao động có tay nghề và chuyên môn vừa 
phải, chi phí đi lại thấp. Trong tương lai thị trường Malai có thể tiếp nhận tới 200.000 
lao động Việt Nam. 
Tóm lại, ta thấy rằng thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ 
yếu mới chỉ ở khu vực châu á, chưa phát triển được ở các khu vực khác. Mặt 
khác, ngay trên chính thị trừơng truyền thống của mình thì tỷ lệ lao động Việt 
Nam trong tổng số lao động nước ngoài vẫn còn rất thấp. 
d) Doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 
Năm 1996 mới có 20 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động thì đến năm 
2003 con số này đã lên tới 156 trong đó có 15 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu lao 
động, 141 doanh nghiệp ngành nghề khác được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động; 
cũng trong số này thì có 85 doanh nghiệp thuộc 19 bộ, ngành, cơ quan trực thuộc chính 
phủ, 57 doanh nghiệp thuộc 31 tỉnh, thành phố, 11 doanh nghiệp thuộc 5 đoàn thể ở 
trung ương và 3 doanh nghiệp tư nhân đựơc làm thí điểm xuất khẩu lao động. Các công 
ty có uy tín lớn, đóng góp nhiều cho hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong 
thời gian qua như: công ty SONA, VIETRACIMEX ( thuộc bộ GTVT), VINACONEX 
( thuộc bộ xây dựng). Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu 
quả. Năm 2001, 1 doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép do vi phạm nghiêm trọng nghị 
định 152/CP và 4 doanh nghiệp do hoạt động kém hiệu quả; đình chỉ hoạt động của 1 
doanh nghiệp; khiển trách, cảnh cáo một số doanh nghiệp; công bố huỷ giấy phép hết 
thời hạn hoạt động của 7 doanh nghiệp. 
Đây chỉ là những con số thống kê trên sổ sách, trên thực tế còn tồn tại rất nhiều 
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này không hiệu quả nhưng chưa bị khiển 
 26
trách và còn rất nhiều doanh nghiệp ma mà các cơ quan quản lý nhà nước trong 
lĩnh vực này chưa nắm rõ hết đựơc. 
e) Cơ chế tài chính. 
Trong giai đoạn đầu (1980-1990) người lao động được sự bao cấp từ phía nhà nước và 
nước tiếp nhận lao động nên vấn đề tài chính không phải là một sức ép với người lao 
động. Nhưng trong giai đoạn này (từ 1991 trở đi) khi xuất khẩu lao động chịu sự tác 
động của quy luật thị trường thì nhà nước thôi không bao cấp nữa. Thay vào đó nhà 
nứơc ban hành một loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn chế độ tài chính đối với 
ngưới lao động đi làm việc ở nước ngoài trong đó phân định rõ trách nhiệm thu chi tài 
chính đối với người lao động, các tổ chức kinh tế và nghĩa vụ của họ với nhà nứơc. 
Luật xem ra là hợp lý nhưng vấn đề thực hiện nó thì còn gây nhiều bức xúc, tồn tại. 
Thứ nhất, vì lợi nhuận nhiều tổ chức kinh tế vẫn thu phí cao hơn so với pháp luật quy 
định và dĩ nhiên người lao động không biết điều này. Thứ hai, chưa có một cơ quan tài 
chính nào chính thức ra đời để hỗ trợ về tài chính cho người lao động. Người lao động 
muốn vay vốn thì phải thế chấp rất lớn ở ngân hàng, số tiền vay được cũng chỉ bằng 
80% tổng chi phí hợp pháp ghi trong hợp đồng, thủ tục lại rườm rà, lãi suất cao. 
Nói chung, các thủ tục của khâu tài chính chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người 
lao động. Cung cấp tài chính cho người lao động đi làm việc ở nứơc ngoài chưa 
phải là lĩnh vực quan tâm của các ngân hàng và quỹ tín dụng. 
II. LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ TỪ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG. 
1.Lợi ích 
a) Hiệu quả về kinh tế. 
 Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh doanh nên lợi ích về kinh tế bao giờ 
cũng được đặt làm đầu. 
 Lợi ích của nhà nứơc. 
Trong thời kỳ 1980-1990 thông qua các hiệp định liên chính phủ, nghị định thư nhà 
nước ta đã được tổng số là 277.183 lao động và chuyên gia đi làm việc ở các nước 
XHCN, trực tiếp thu về 263.062 triệu đồng (thời giá 1990) tức 482,1 triệu rúp phi mậu 
dịch. Riêng số lao động ở Iraq cuối 1989 nộp ngân sách nhà nứơc 4,1 triệu rúp và 9 
triệu USD. 
Bảng7: Số ngoại tệ thu về cho ngân sách nhà nước. 
 Đơn vị (triệu đồng) 
Năm Ngoại tệ thu về quy đổi 
đồngVN 
1989 102.940 
 27
1990 120.174 
1991 161.358 
1992 187.612 
1993 174.013 
1994 77.128 
Tổng 823.225 
 Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn. 
Nếu tính bình quân hàng năm mức chi phí quản lý cho một lao động đi làm việc ở nước 
ngoài là khoảng 30 USD và mức thu về khoảng 36,7 USD thì nhà nước lãi 6,7 USD/ 
người/ năm. Nếu hàng năm chúng ta đưa hàng chục nghìn thậm chí hàng trăm nghìn 
lao động đi làm việc ở nứơc ngoài thì ngân sách nhà nước sẽ tăng lên đáng kể. 
Lợi ích kinh tế của nhà nứơc còn được thể hiện ở việc giảm được hàng chục tỷ đồng 
cho ngân sách nhà nước do không phải giải quyết việc làm cho những người lao động 
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và một bộ phận nhỏ những người ăn theo (những 
người gián tiếp được tạo việc làm nhờ những lao động đi xuất khẩu). 
 Lợi ích với người lao động. 
Động cơ chủ yếu thúc đẩy họ đi làm việc ở nước ngoài chính là thu nhập cao. Theo các 
con số thống kê thì thu nhập bình quân của người lao động đi làm việc ở nước ngoài 
bằng 10-15 lần so với thu nhập của lao động trong nước. Chúng ta có thể lấy ví dụ như 
sau: 
Bảng 8: Thu nhập của lao động nước ngoài tại một số thị trường. 
 Đơn vị tính: USD/người/ năm. 
Nước 
Nghề 
Nhật Bản Hàn Quốc Lybia Đài Loan 
Laođộng 
phổ thông 
4.800 4.800 2.640 3.065 
Thợ nề, 
mộc 
6.000 3.042 
Thợ điện 6.000 6.000 3.042 
Thợ hàn 7.200 7.200 5.292 
Thợ dệt 6.000 6.000 4.800 
Thợ may 6.000 6.000 4.800 
Khán hộ 
công 
 3.065 
 28
 Nguồn: Tạp chí thị trường- giá cả số 3-2001, trang 27. 
Như vậy, sau khi hết hạn lao động ở nước ngoài (thường là 2 năm) người lao động có 
thể tích luỹ được 70-80 triệu đồng với lao động phổ thông và 200-210 triệu đồng với 
lao động có tay nghề . 
Trong giai đoạn 1980-1990 số hàng hoá mà người lao động Việt Nam ở các nước 
XHCN gửi về cho gia đình ước trị giá 720 tỷ đồng Việt Nam và ở các nước khác là 
trên 7 triệu USD. Từ năm 1991 đến nay theo lời phát biểu của thủ tướng Phan Văn 
Khải tại hội nghị xuất khẩu lao động và chuyên gia họp tại Hà Nội ngày 10,11-9/2001 
thì tính đến năm 2001 thu nhập ròng mà người lao động làm việc ở nước ngoài chuyển 
về nước là 1,2 tỷ USD/ năm. Riêng năm 2000 là 1,25 tỷ USD trong đó 250 triệu USD 
là của người đi lao động xuất khẩu theo các hợp đồng mới và 1 tỷ USD là do số lao 
động cũ ở lại làm việc và hoạt động kinh tế khác.. Năm 2002 con số này là 1,4 tỷ USD. 
 Lợi ích với doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 
Chưa có một thống kê cụ thể nào về lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trong 
lĩnh vực này nhưng qua báo cáo cho thấy tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu 
của hoạt động xuất khẩu lao động ở một số doanh nghiệp đạt 15-20%. 
Bảng 9: Số ngoại tệ thu về qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động giai đoạn 
1991-1999. 
Năm Số ngoại tệ thu về (1.000USD) 
1991 2.500 
1992 6.800 
1993 15.800 
1994 43.100 
1995 77.900 
1996 100.800 
1997 129.200 
1998 148.300 
1999 150.800 
Tổng 675.200 
Nguồn: Tạp chí thương mại số 15/2000, trang 6. 
Tóm lại, dù mới bước vào hoạt động xuất khẩu lao động đựơc 24 năm_ một thời 
gian quá ít so với kinh nghiệm hàng chục năm của các nước trong khu vực như 
Thai Lan, Indonexia, …, song chúng ta cũng bước đầu gặt hái được những thành 
công nhất định. Dẫu vậy chúng ta không khỏi trăn trở khi đặt các kết quả trên lên 
 29
bàn cân so sánh với kết quả đạt được của các quốc gia xuất khẩu lao động khác 
trong khu vực. 
Ví dụ: 
ở Philipin trong 2 năm 1997, 1998 lao động đi làm việc ở nước ngoài đã chuyển về 
nước gần 11 tỷ USD (bằng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1999). 
b) Hiệu quả về xã hội. 
Trước hết là, xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm tạm thời cho người lao 
động. Trong giai đoạn 1980-1990 giải quyết việc làm cho 3% lao động trong độ tuổi 
lao động (gần 27 vạn người), trong đó gần 60% là chưa có nghề và gần 4 vạn là lực 
lượng vũ trang đã hết hạn phục vụ trong quân ngũ. 
Hai là, với số tiền tích luỹ được cộng thêm kinh nghiệm sản xuất và tác phong công 
nghiệp đã học được người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau khi trở về nước có thể 
tự tạo việc làm cho bản thân mình và cho người khác. 
Ba là, một điều dễ thấy là thu nhập của người lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng 
lên, góp phần cải thiện, ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ. Đời sống 
nhân dân được ổn định đó cũng là nền tảng cho sự ổn định của xã hội, giảm bớt tệ nạn 
xã hội. 
Bốn là, thông qua xuất khẩu lao động góp phần làm tăng cường mối quan hệ hữu nghị 
và hợp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. 
Kết luận lại, ta thấy rằng hiệu quả kinh tế là cái quan tâm trước mắt và góp phần 
tạo ra hiệu quả xã hội_ cái quan tâm lâu dài. Và hiệu quả xã hội mới là cái đích 
cuối cùng mà chúng ta theo đuổi. 
III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ RỦI RO TRONG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ NGUYÊN NHÂN. 
1. Hạn chế. 
 Sức cạnh tranh của hàng hoá sức lao động Việt Nam còn kém hơn so với 
các nước khá 
+ Chất lượng lao động: 
 Về sức khoẻ: nói chung sức khoẻ lao động Việt Nam phù hợp với công việc giúp việc 
gia đình, làm việc trong nhà máy. Còn với các công việc như đi biển, công nghiệp xây 
dựng nhất là ở khu vực Trung Đông thì chưa đạt yêu cầu. Nhiều lao động không chịu 
nổi điều kiện làm việc nặng nhọc và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã bỏ về nước. 
 Về trình độ tay nghề: còn khá kém, chưa đáp ứng đựơc yêu cầu của người sử dụng lao 
động. Lao động nước ta hiện nay tập trung chủ yếu làm các công vịêc lao động phổ 
thông và các công việc có hàm lượng kỹ thuật thấp vì thế thu nhập của người lao động 
thường không cao. Ví dụ: muốn vào làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc chúng ta phải 
 30
đưa lao động đi với danh nghĩa là TNS vì những nước này chưa cho phép nhập khẩu 
lao động không có trình độ chuyên môn hay trình độ chuyên môn thấp. Họ chỉ nhận 
những lao động có trình độ kỹ thụât cao. Đây cũng là thịêt thòi với lao động Việt Nam 
vì TNS không được hưởng chế độ đãi ngộ về lương bổng ngang bằng lao động. Hãy so 
sánh với Ân Độ, hàng năm số lao động đi làm việc ở nước ngoài không nhiều nhưng 
đã chuyển về trong nước một số tiền khổng lồ là 11 tỷ USD/năm là do lao động của họ 
chủ yếu làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật cao, công nghệ cao. 
 Về trình độ ngoại ngữ: rất kém. Nhiều tranh chấp lao động xảy ra cũng bắt nguồn do 
người lao động không hiểu ý của người sử dụng lao động bởi sự bất đồng ngôn ngữ. 
Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại 
ngữ. Có thể nói nếu người lao động không biết một tý gì về ngoại ngữ thì không thể 
đưa đi làm việc ở nước ngoài được. 
 + Kỷ luật lao động: lao động Việt Nam được tiếng là cần cù, chịu khó, thông minh nhưng 
cũng được biết đến với tiếng tăm là kỷ luật lao động kém bởi tỷ lệ lao động bỏ trốn, 
phá vỡ hợp đồng khá cao gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Mà ở các nước 
công nghiệp kỷ luật lao động là vấn đề rất được coi trọng. 
 Nguyên nhân của vấn đề trên bắt nguồn từ chỗ: đối tượng được đưa đi làm việc ở 
nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua 
một lớp đào tạo chính quy nào về nghề cả. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn 
kém phát triển như Việt Nam đã vô tình hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, 
làm liều, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công 
nghiệp. Nhiều người trong số họ còn chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao 
động này hầu hết đều có cuộc sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn 
mang trên vai gánh nặng thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm 
được tiền cao. 
 Thị trường xuất khẩu lao động còn nghèo nàn. 
Hiện nay số nước tiếp nhận lao động Việt Nam đã lên tới 46 quốc gia và vùng lãnh thổ 
nhưng chủ yếu lại là các quốc gia trong khu vực Đông Nam á, Trung Bắc á, Trung 
Đông, một số nước ở Bắc Phi. Thị trường châu Âu và châu Mỹ là những thị trường rất 
hấp dẫn song chúng ta chưa tiếp cận được nhiều nếu không nói là quá ít. Đây mới 
chính là những thị trường đem về cho Việt Nam nguồn ngoại tệ lớn. 
Nguyên nhân: do chúng ta thiếu thông tin về thị trường lao động nước ngoài; thiếu sự 
quảng bá, tiếp thị hàng hoá sức lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, trên 
thực tế chất lượng hàng hoá sức lao động Việt Nam còn thấp lại mới xâm nhập vào 
trong lĩnh vực này nên các thị trường tiềm năng đều đã có đối thủ dày dặn kinh nghiệm 
hơn nhiều. 
 31
 Công tác quản lý xuất khẩu lao động còn yếu kém. 
+ Trong thời gian qua, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản 
lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và 
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa 
nắm rõ tình hình hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có 
phương hướng chỉ đạo hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt 
hiệu quả cao hơn. 
+ Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc cung cấp 
một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ sở cho hoạt 
động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho người dân về xuất 
khẩu lao động. 
+ Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau 
thực tế. 
+ Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây 
mất nhiều thời gian và tiền của. 
+ Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được 
tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả. 
Nguyên nhân: do sự tồn tại của các tư tưởng quản lý lỗi thời như quan liêu, chủ quan, 
nóng vội, nể nang của các cán bộ quản lý; do sự thiếu kính phí và sự nhận thức chưa rõ 
ràng về tầm quan trọng của công tác quản lý xuất khẩu lao động. 
2. Rủi ro trong xuất khẩu lao động. 
Trong thời gian trên sự rủi ro trong hoạt động xuất khẩu lao động bắt nguồn từ phía 
người sử dụng lao động không nhiều mà chủ yếu lại là từ người lao động. Điều này 
cũng cho thấy tình hình kinh tế của nước tiếp nhận lao động khá ổn định. Tuy nhiên, 
đầu năm 2004 vừa qua một rủi ro không may đã xảy ra với lao động Việt Nam: hơn 
700 công nhân trong lĩnh vực xây dựng ở Malaysia đã bị mất việc làm. 
Cũng trong thời gian trên thì tỷ lệ lao động Việt Nam phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài tuy 
không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ, đặc biệt là ở thị trường Nhật Bản và Hàn 
Quốc. 
Số vụ lừa đảo đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài tăng lên về cả 
số vụ và tính nghiêm trọng. 
 32
CHƯƠNG III 
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 
I, QUAN ĐIỂM VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NHẰM GIẢI 
QUÝÊT VIỆC LÀM . 
Hội nhập kinh tế quốc tế và xuất khẩu lao động là quá trình tất yếu của bất cứ một quốc 
gia nào. Việt Nam đã tham gia vào quá trình ấy trong rất nhiều lĩnh vực trong đó có 
lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế. Xuất khẩu lao động là một trong những khía cạnh 
của lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế. Không phải lúc nào hội nhập cũng đem lại thuận 
lợi, và cũng không phải lúc nào cũng gây ra những khó khăn. Vấn đề là ở chỗ phải biết 
tìm ra cơ hội, nắm lấy cơ hội, sử dụng triệt để cơ hội. Nhưng hội nhập phải luôn nhớ 
một nguyên tắc: “hoà nhập nhưng không hoà tan”. Hiểu nguyên tắc đó trong xuất khẩu 
lao động có nghĩa là làm sao để người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 
sau khi hết hạn đều sẵn sàng trở về nước, đều nhanh chóng bắt nhịp với cuộc sống, với 
bối cảnh kinh tế- xã hội cuả nước mình và sẵn lòng đem những kiến thức, kinh nghiệm 
mà mình đã có được để phục vụ cho đất nước. 
Muốn xuất khẩu lao động thực sự có hiệu quả thì trước tiên cần nhận thức đúng đắn về 
nó. Sau nữa cần có các kế hoạch phát triển dài hạn hay các chiến lược xuất khẩu lao 
động, trong đó phải xác định rõ đối tượng được đưa đi xuất khẩu lao động, thị trường 
xuất khẩu lao động cần hướng tới trong từng giai đoạn và các biện pháp thực hiện. 
Là một nước đi sau trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tất nhiên việc học hỏi kinh 
nghiệm của các nước đi trước là rất quan trọng nhưng chúng ta cũng không nên quá 
phụ thuộc vì đây là một loại hình kinh doanh đặc biệt và nền kinh tế thì luôn luôn biến 
đổi. Cái chúng ta cần phải làm là: “đi tắt, đón đầu”. Chúng ta cần xác định cầu lao 
động ở thế giới trong tương lai để có chiến lược cho phù hợp. 
II. MỤC TIÊU CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG. 
 Mục tiêu trước mắt. 
+ Làm thế nào để tăng số người lao động đi làm việc ở nước ngoài; 
+ Xây dựng thương hiệu cho hàng hoá sức lao động Việt Nam trên thị trường lao động 
quốc tế. 
 Mục tiêu lâu dài 
Giảm số lượng xuất khẩu lao động nhưng lại tăng giá trị xuất khẩu lao động. Điều đó 
có nghĩa là số lượng lao động đưa đi xuất khẩu lao động thì ít đi nhưng thu nhập ròng 
 33
mà người lao động đi xuất khẩu gửi về trong nước thì tăng lên đáng kể, hơn cả so với 
giai đoạn trước. 
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 
1. Các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt. 
 Làm thay đổi nhận thức về xuất khẩu lao động và thực hiện xã hội hoá về 
xuất khẩu lao động. 
+ Nhà nước và nhân dân cần hiểu đúng về xuất khẩu lao động, những lợi ích cũng như 
thiệt hại xuất khẩu lao động đem lại. Hiểu đúng thể hiện ở chỗ hành động phải đúng 
với tư duy, nhận thức; phù hợp với tình hình thực tế. Đây là quá trình lâu dài và chắc 
chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đầu tiên cần thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ 
lãnh đạo từ cấp trung ương đến cấp địa phương đặc biệt là các cán bộ quản lý chuyên 
trách về lĩnh vực xuất khẩu lao động hoặc cán bộ làm công tác quản lý lao động. Muốn 
vậy, cơ quan quản lý cấp nhà nước về xuất khẩu lao động (cục hợp tác với nước ngoài 
thuộc bộ lao động – thương binh và xã hội ) cần tổ chức thường xuyên, liên tục các 
khoá học bồi dưỡng, bổ sung kiến thức về xuất khẩu lao động. Sau đó chính những cán 
bộ này sẽ chịu trách nhiệm phổ biến kiến thức về xuất khẩu lao động cho nhân dân địa 
phương. Phương hướng thực hiện sẽ do cục hợp tác với nước ngoài chỉ đạo còn biện 
pháp thực hiện cụ thể thì do cán bộ địa phương tự quyết cho phù hợp với tình hình của 
địa phương mình. Trong quá trình thực hiện để đạt được kết quả tốt đẹp, cần thiết lập 
một kênh thông tin hai chiều giữa cục hợp tác lao động với nước ngoài và các địa 
phương. Mục đích của kênh thông tin này là nhằm thông báo chính xác tình hình xuất 
khẩu lao động và một số vấn đề khác có liên quan của địa phương cho cục biết đồng 
thời thông qua đó các địa phương có thể có được những thông tin cập nhật nhất về 
xuất khẩu lao động. 
+ Xã hội hoá về xuất khẩu lao động: nghĩa là làm cho mọi người dân đều có những 
hiểu biết cơ bản về xuất khẩu lao động. Muốn vậy, nhà nước cần tuyên truyền, quảng 
bá công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về xuất khẩu lao động. Để dân 
chúng có thể tiếp thu một cách dễ dàng nhất thì nhà nước nên xây dựng các chương 
trình tuyên truyền thật sinh động và gắn với cuộc sống thường ngày của người dân. Ví 
dụ, làm những thước phim tư liệu ngắn về đời sống, công việc của những người lao 
động Việt Nam làm việc tại nước ngoài, xây dựng những bộ phim hài mang tính giáo 
dục về xuất khẩu lao động và cho phát trên các chương trình giải trí của truyền hình, 
cung cấp những thông tin về tình hình thực hiện xuất khẩu lao động của cả nước, từng 
vùng trong một khoảng thời gian nhất định trên các bản tin thời sự…. 
 Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài 
và cung cấp miễn phí, công khai. 
 34
+ Đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực này là bộ Lao động- Thương binh và xã hội cần 
phỗi hợp chặt chẽ với bộ ngoại giao, đại sứ quán nước ngoài ở Việt Nam và đại sứ 
quán Việt Nam tại nước ngoài để luôn có những tin tức cập nhật về thị trường lao động 
nước ngoài. Thông tin thị trường lao động nước ngoài bao gồm các thông tin về: cung, 
cầu lao động chung ở trên thị trường và với riêng từng khu vực, ngành nghề; giá cả sức 
lao động với nhân công nước ngoài; các chế độ ưu đãi, quyền lợi của người lao động, 
điều kiện làm việc; loại công việc và yêu cầu của công việc với người lao động; số 
lượng lao động của các nước khác trên quốc gia đó; quan điểm và luật pháp của quốc 
gia tiếp nhận về nhập khẩu lao động nước ngoài. Ngoài ra, còn một số thông tin về kinh 
tế, chính trị, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động. Yêu cầu đối với thông 
tin: thông tin phải tương đối chính xác, kịp thời, khá đầy đủ, phải được thực hiện xây 
dựng một cách nghiêm túc vì đây là nền tảng quyết định sự thành công của nhiều khâu 
tiếp sau. 
Muốn xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động nước ngoài thì trước tiên bộ 
lao động – thương binh và xã hội cụ thể là cục hợp tác lao động với nước ngoài nên có 
một tờ báo riêng làm cơ quan phát ngôn cho mình. Trong tờ báo đó sẽ cho đăng tải tất 
cả chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, các văn bản pháp quy mới nhất về 
xuất khẩu lao động cũng như tình hình thực hiện xuất khẩu lao động trên toàn quốc và 
ở các tỉnh. Nếu chưa có điều kiện để phát hành tờ báo riêng cho mình về lĩnh vực xuất 
khẩu lao động thì bộ có thể cho xuất bản các chuyên đề về xuất khẩu lao động thường 
kỳ theo một ấn định thời gian nào đó (theo tháng, theo quý). Sau đó, tiến xa hơn nữa bộ 
có thể chỉ đạo thành lập các trung tâm hỗ trợ thông tin chuyên về một thị trường nào đó 
để phục vụ chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 
 Công tác cung cấp thông tin thị trường lao động nước ngoài rất quan trọng, đòi hỏi sự 
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, liên tục của nhiều cơ quan chức năng. Công tác này cần 
được thực hiện ngay và phải được tiến hành thường xuyên. 
 Làm tôt công tác Marketting trong xuất khẩu lao động. 
Khâu này chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và có thể 
có sự trợ giúp của nhà nước. Bao gồm hai nội dung chủ yếu là: nghiên cứu thị trường 
xuất khẩu lao động và quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động 
quốc tế. 
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu lao động: 
Là khâu trọng yếu của hoạt động Marketting nhằm mục đích tìm hiểu rõ các cơ hội và 
thách thức đang chờ đón ở thị trường đang nghiên cứu. Qua đó cho biết nên tiến vào thị 
trường nào là có lợi nhất và cách tiếp cận sao cho thành công nhất. Muốn vậy cần thực 
hiện các bước sau: 
 35
+ Sử dụng triệt để thông tin thị trường lao động nước ngoài mà nhà nước cung cấp 
đồng thời tự khai thác thêm nếu có thể. Khâu này doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên 
chủ động vì nhà nước cung cấp thông tin dù đầy đủ đến đâu cũng không thể bao quát 
hết tình hình thực tế đang diễn ra. Mặt khác, thông tin cũng là một vũ khí cạnh tranh 
giữa các doanh nghiệp cho nên doanh nghiệp càng có nhiều thông tin bí mật thì sức 
cạnh tranh càng cao. Và lấy thông tin như thế nào, từ đâu (trừ nguồn từ nhà nước) thì 
mỗi doanh nghiệp sẽ có cách làm khác nhau. 
+ Phân tích các thông tin có được bằng các phương pháp tin cậy và đánh giá các kết 
quả rồi cho kết luận. ở Việt Nam hiện nay chưa có những trung tâm chuyên về thực 
hiện các công việc trên cho nên rất có thể để thực hiện công việc trên các doanh 
nghiệp xuất khẩu lao động phải thuê chuyên gia nước ngoài hoặc chuyên gia trong 
nước có kinh nghiệm nhưng nếu vậy thì chi phí phải nộp của người lao động sẽ rất lớn. 
Vì thế nhà nước nên nghiên cứu có phương án xây dựng thí điểm sự hoạt động của một 
vài trung tâm chuyên hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác phân tích thông tin. Sau đó, 
dưới sức ép của cầu trong lĩnh vực này cùng với sự chỉ đạo của nhà nước thì các trung 
tâm dạng này tự khắc sẽ phát triển. 
+ Xây dựng các chiến lược, sách lược cho hoạt động xuất khẩu lao động và các biện 
pháp tiến hành cho phù hợp với điều kiện cụ thể, dựa trên cơ sở các kết quả đã phân 
tích. Đây là một bước rất quan trọng quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp xuất 
khẩu lao động. 
Quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động quốc tế. 
Đây chính là việc xây dựng thương hiệu cho hàng hoá sức lao động Việt Nam. Các 
biện pháp cụ thể như sau: 
+ Tuyển chọn thật kỹ, đào tạo kỹ trước khi đưa lao động đi. 
Muốn vậy, bản thân doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải chủ động trong việc cung 
cấp nguồn lao động nghĩa là luôn có sẵn trong tay lực lượng lao động có trình độ sẵn 
sàng đi xuất khẩu lao động bất cứ lúc nào. 
+ Có biện pháp quản lý chặt chẽ người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 
Để thực hiện được điều này cần có sự phối chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao 
động, đại sứ quán của Việt Nam tại quốc gia đó, cục hợp tác với nước ngoài và gia 
đình người lao động đi xuất khẩu lao động. Cần có những biện pháp xử phạt hành 
chính và tài chính thật nghiêm để phạt những người lao động đi xuất khẩu vô kỷ luật, 
vi phạm luật pháp nước ngoài. 
+ Có các biện pháp để người sử dụng nước ngoài tin và quen dùng lao động Việt Nam. 
Đối với từng thị trường có những đặc điểm riêng nên cần căn cứ vào đó để giáo dục ý 
thức của người lao động đi xuất khẩu để họ có những hành vi cư xử phù hợp, không 
 36
làm mất lòng người sử dụng lao động thậm chí là còn phải gây được thiện cảm với 
người sử dụng lao động. 
+ Có các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho lao động Việt Nam tránh xảy ra tranh chấp 
gây thiệt hại cho các bên. Chúng ta rất cần lấy lòng của người sử dụng lao động nước 
ngoài nhưng không phải vì thế mà chúng ta nhân nhượng cho những hành vi xâm phạm 
đến quyền lợi của người lao động, xâm phạm đến danh dự của người lao động. Vì thế 
doanh nghiệp cần lưu ý điều này khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài. Để doanh 
nghiệp bảo vệ lợi ích cho người lao động tránh vì lợi nhuận mà bán rẻ lao động trong 
nước thì nhà nước cần có những quy định luật pháp rõ ràng về vấn đề này. 
 Phối hợp chặt chẽ bộ, ngành có liên quan với các địa phương và với doanh 
nghiệp xuất khẩu lao động. 
Cần có sự cải cách thủ tục hành chính ở các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong 
lĩnh vực này để tăng cường sự hợp tác giữa các thành phần trên. Mục tiêu của biện 
pháp trên là để tránh các vụ lừa đảo đồng thời tăng quản lý nhà nước trong xuất khẩu 
lao động. Các rủi ro trong xuất khẩu lao động sẽ giảm xuống do có sự ràng buộc giữa 
các bên. Sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng là điều kiện 
tiền đề để hoạt động này đạt kết quả tốt hơn. Bộ lao động – thương binh và xã hội cần 
tổ chức theo định kỳ các buổi báo cáo về tình hình xuất khẩu lao động của các địa 
phương trong cả nước, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, 
các hội nghị tổng kết đánh giá tình hình xuất khẩu lao động chung, đánh giá vai trò 
cũng như điểm mạnh, điểm yếu của các địa phương, các doanh nghiệp trong xuất khẩu 
lao động chung của cả nước. Bên cạnh đó bộ cần thường xuyên hướng dẫn chỉ đạo thực 
hiện xuất khẩu lao động tăng cường công tác kiểm tra trong lĩnh vực này cũng như lắng 
nghe ý kiến phản hồi từ phía các doanh nghiệp, các địa phương để có những biện pháp 
điều chỉnh cho hợp lý hay có các văn bản giải thích thắc mắc kịp thời. 
 Về cơ chế tài chính. 
Cần có sự thông thoáng hơn. Nhà nước cần có các biện pháp để giảm chi phí đi xuất 
khẩu cho người lao động, khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu lao động như: 
+ Cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, có chính sách ưu đãi về thuế, nghiên 
cứu khả năng miễn thuế thu nhập cá nhân cho người lao động ít nhất là trong giai đoạn 
đầu. 
+ Có chính sách cho người nghèo vay vốn với lãi suất thấp. 
+ Nghiên cứu khả năng thành lập một quỹ tiền cho người lao động đi xuất khẩu lao 
động vay vốn (số tiền vay <= số tiền chi phí phải nộp hợp pháp) mà không phải thế 
chấp hoặc thế chấp ít, thủ tục vay vốn đơn giản, gọn nhẹ. 
 37
Để làm được việc này bộ lao động – thương binh và xã hội cần có sự phối hợp với bộ 
tài chính nghiên cứu khả năng tài chính cho các phương án trên. Nếu thấy khả thi thì 
lập ngay báo cáo đề nghị chính phủ phê duyệt. Bộ cũng nên xây dựng các phương án 
kêu gọi sự đầu tư, kinh doanh của các ngân hàng trong lĩnh vực này. 
 Thành lập hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 
Mục tiêu của biện pháp trên là để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu lao 
động đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp này. 
Các doanh nghiệp sẽ chia sẻ thông tin cho nhau, liên thông trong lĩnh vực đào tạo 
người lao động. Hiệp hội cũng sẽ thành lập quỹ tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp xuất 
khẩu lao động gặp rủi ro. Quỹ này do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng góp 
theo quy định của hiệp hội. Các biện pháp cụ thể: 
+ Nhà nước cần có văn bản pháp quy công nhận sự tồn tại của hiệp hội này. Sau đó nó 
nên được thành lập ngay dưới sự chỉ đạo của bộ Lao động- Thương binh và xã hội mà 
đại diện là cục hợp tác với nước ngoài. Bản thân hiệp hội cũng phải xây dựng quy chế 
hoạt động riêng cho tổ chức của mình nhưng không được trái pháp luật. 
+ Trong quá trình hoạt động thì hiệp hội cũng cần có sự ưu tiên của nhà nước để dần 
phát huy vai trò của mình. Chính phủ nên lắng nghe những bức xúc, phản hồi từ phía 
hiệp hội. 
Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần được công nhận là một bộ phận của 
hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam, được tham gia hoạt động và được hưởng các 
quyền lợi của hiệp hội. 
 Về luật pháp. 
Hiện nay chưa có bộ luật nào về xuất khẩu lao động. Vì thế, nhà nước cần xây dựng và 
ban hành ngay luật về xuất khẩu lao động trong đó quy định rõ các chế tài khen 
thưởng, xử phạt với các bên vi phạm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia xuất 
khẩu lao động, cơ chế tài chính…. Trong quá trình xây dựng luật nên tham khảo ý kiến 
từ phía bộ chủ quản, các địa phương và được thực hiện bởi cơ quan chuyên trách về 
luật. Nhà nước cũng cần chú ý lượng hoá tình hình và dự báo các biến động có thể xảy 
ra,… để luật không phải sửa đổi liên tục khi đi vào thực tế. Sau khi xây dựng luật xong, 
công tác ban hành luật cũng cần được coi trọng vì nếu thực hiện không đúng có thể 
đánh mất hết ý nghĩa của việc xây dựng luật. Nhà nước có thể thành lập một tổ điều tra 
viên thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động có tuân thủ 
theo đúng luật pháp hay không để có chế tài điều chỉnh cho phù hợp. Tổ điều tra viên 
này nên chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ bộ tư pháp và có sự phối hợp nhịp nhàng với bộ lao 
động – thương binh và xã hội. 
 Về công tác giáo dục người lao động đi xuất khẩu lao động. 
 38
Trước mắt, công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động cần được chú trọng đảm 
bảo cho người lao động có khả năng giao tiếp, hiểu mệnh lệnh của người sử dụng lao 
động. Muốn vây: 
+ Bộ lao động – thương binh và xã hội cần chỉ đạo việc ban hành giáo trình giảng dạy 
từng ngoại ngữ thống nhất. Giáo trình này được biên soạn bởi các nhà sư phạm có uy 
tín, sự đóng góp ý kiến của đại sứ quán Việt Nam tại quốc gia đó. Nội dung của giáo 
trình sẽ xoay quanh các chủ đề về đàm thoại trong cuộc sống sinh hoạt, trong sản xuất 
tại nước ngoài, đặc biệt chú ý đến một số thuật ngữ chuyên dùng trong một số ngành, 
nghề. Giáo trình nên viết dễ hiểu, chú trọng về văn phong giao tiếp chứ không phải 
ngữ pháp hay văn phong viết. 
+ Tuyển chọn giáo viên có trình độ ngoại ngữ tốt, kỹ năng sư phạm giỏi, có thể sử 
dụng những người lao động đã đi xuất khẩu lao động về có trình độ ngoại ngữ tốt (đã 
qua sát hạch và đạt tiêu chuẩn) và bồi dưỡng thêm cho họ kỹ năng sư phạm. 
+ Thi sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi. Vì thế, cần xây dựng tiêu chuẩn 
sát hạch. Để đạt được ý nghĩa của công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động thì 
việc sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi là điều thiết yếu và cần thực hiện 
nghiêm túc. Việc xây dựng tiêu chuẩn sát hạch cũng nên tham khảo ý kiến của đại sứ 
quán Việt Nam tại các quốc gia nước ngoài. 
Về giáo dục nghề trước hết nên tuyển chọn từ các trường dạy nghề, trung cấp đến đại 
học để tiết kiệm chi phí đào tạo cho doanh nghiệp cũng như người lao động. Còn về 
lâu dài thì doanh nghiệp cần chủ động tự tạo nguồn cho mình bằng cách tuyển người 
lao động có nhu cầu đi xuất khẩu lao động và tổ chức lớp đào tạo nghề cho họ trong 
dài hạn. Dù là người lao động đã được đào tạo nhưng để họ không khỏi ngỡ ngàng khi 
đi làm việc nước ngoài các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên tổ chức các khoá học 
ngắn hạn bồi dưỡng cho người lao động những kỹ năng cần thiết, cho người lao động 
biết môi trường làm việc của mình cũng như những phẩm chất cần thiết của người lao 
động trong xã hội công nghiệp hiện đại. 
Về công tác giáo dục ý thức kỷ luật của người lao động, chỉ thực sự phát huy được 
hiệu quả nếu nó được tiến hành trong một thời gian nhất định song song với quá trình 
đào tạo nghề cho người lao động do doanh nghiệp tiến hành. Trong quá trình học tập 
người lao động sẽ dần dần làm quen với các tác phong công nghiệp. Muốn vậy, doanh 
nghiệp xuất khẩu lao động cần biến lớp học của mình thành mô hình thu nhỏ của nơi 
làm việc mà người lao động sẽ làm việc khi đi xuất khẩu. 
2. Các biện pháp thực hiện mục tiêu lâu dài. 
Trong tương lai nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh, vì thế sẽ tạo ra nhiều chỗ 
làm mới. Kèm theo đó, tốc độ tăng dân số Việt Nam đang giảm dần khiến cung và cầu 
 39
lao động sẽ chênh lệch không nhiều. Nhu cầu giải quyết việc làm sẽ không còn gây áp 
lực như giai đoạn trước. Do vậy, xuất khẩu lao động cần có sự chuyển hướng. Cụ thể 
là: 
+ Xuất khẩu lao động vẫn được coi là hoạt động kinh tế mang tính chiến lược nghĩa là 
vẫn cần được đẩy mạnh và phát triển. 
+ Thay vì đẩy mạnh số lượng ta đẩy mạnh giá trị xuất khẩu lao động. Nghĩa là đẩy 
mạnh lao động đi làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao. 
Muốn vậy, công tác giáo dục người lao động trong tương lai cần phải coi trọng hàng 
đầu. Ngành nghề đào tạo chủ yếu là đào tạo lao động trong ngành công nghệ kỹ thuật 
cao từ bậc đại học trở lên. Chúng ta hoàn toàn có thể làm được điều này vì thực tế hiện 
nay Việt Nam có thế mạnh trong lĩnh vực này song thực hành còn yếu nên chất lượng 
chưa cao. Vì thế chính phủ cần đầu tư chi phí xây dựng cơ sở vật chất cho việc giảng 
dạy ngành này. Bên cạnh đó, do đặc trưng của ngành là biến đổi theo từng giây, từng 
phút nên cần cập nhật lên tục, thường xuyên sự thay đổi công nghệ thông tin trên thế 
giới để điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tế. Không chỉ có vậy, 
chúng ta cần vươn lên đứng trong tốp các nước dẫn đầu về phát triển công nghệ thông 
tin. Có như vậy cầu lao động Việt Nam trong lĩnh vực này mới tăng cao và giá cả cũng 
tương xứng với chất xám, chi phí chúng ta đã bỏ ra. Chúng ta cần đào tạo với số lượng 
nhiều để phục vụ cho xuất khẩu lao động và cho nhu cầu CNH-HDH đất nước. 
Bên cạnh việc tiến vào thị trường lao động của các nước phát triển ở lĩnh vực công 
nghệ cao, chúng ta còn có thể tiến vào thị trường lao động của các nước kém phát triển 
và đang phát triển ở Châu Phi thông qua việc xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực y tế, 
nông nghiệp. Lĩnh vực này sẽ không tốn nhiều chi phí như lĩnh vực đào tạo lao động 
cho ngành công nghệ cao. 
Điều tiếp theo cần làm là đào tạo cho người lao động có trình độ ngoại ngữ tốt: làm tốt 
4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết (ở mức độ thành thạo) đặc biêt chú trọng đào tạo các 
thuật ngữ chuyên ngành. 
Giáo dục ý thức cho người lao động, xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao 
động là công việc cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Người lao động ở đây 
hầu hết đều có trình độ cao nên công tác giáo dục hệ tư tưởng cũng cần có sự điều 
chỉnh khác với giai đoạn trước. Nhà nước vừa phải có biện pháp khuyến khích, vừa 
phải có biện pháp ràng buộc để tránh tình trạng chảy máu chất xám hay di cư lao động 
bất hợp pháp. 
Tóm lại, trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao 
động. Trong quá trình thực hiện cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. 
 40
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
a1.PDF