Ngày nay khoa học - công nghệ đang dần thực sự trở thành lực lượng sản xuất chi phối trực tiếp đến tình hình sản xuất của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc nắm bắt, làm chủ trình độ công nghệ hiện đại sẽ đem lại sự phát triển lâu dài, bền vững ổn định cho quốc gia cũng như lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cho mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay vấn đề đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong nước là yếu tố quyết định sự sống còn của nền kinh tế và là yếu tố không thể thiếu được để chúng ta đi lên xây dựng CNXH mà trước mắt là đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Con đường để chúng ta cách tân công nghệ ngắn nhất là CGCN từ nước ngoài vào trong nước. Tuy nhiên việc CGCN từ nước ngoài vào trong nước có mang lại hiệu quả mong muốn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào phía chúng ta.
90 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rước hết nó phải thích nghi được điều kiện tự nhiên của Việt Nam, và tiếp đó quá trình khai thác sử dụng, “Việt Nam hoá” công nghệ đó không vượt quá khả năng của người Việt Nam.
2.2.2. Giá cả của công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam phải hợp lý
Trong điều kiện còn eo hẹp về nguồn lực tài chính như hiện nay, khi CGCN chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng tới yếu tố giá cả công nghệ trong mối quan hệ với tính hiện đại của nó.
Chúng ta không nhất thiết cứ phải bỏ ra một khoản tiền quá cao để tiếp nhận công nghệ tiên tiến nhất bởi lẽ, thứ nhất với khoản tiền quá cao như thế chưa hẳn chúng ta tiếp nhận được công nghệ hiện đại tiên tiến nhất mà nó còn phụ thuộc vào trình độ nhận biết của phía Việt Nam và thiện chí của phía nước
ngoài. Thứ hai, công nghệ quá cao không những giá chuyển giao rất cao, mà chi phí vận hành công nghệ đó cũng rất cao, trong khi vốn của ta không nhiều, hơn nữa trình độ khoa học kỹ thuật của ta còn yếu kém chưa cho phép tiếp thu một cách có hiệu quả nhất công nghệ hiện đại đó, như thế sẽ gây lãng phí thậm chí còn phá hỏng cả những trang thiết bị đã được trang bị trước đó. Thứ ba, trong điều kiện vốn còn eo hẹp song rất nhiều ngành sản suất của nền kinh tế cũng như các bộ phận sản xuất trong một đơn vị sản xuất đều có nhu cầu bức thiết về đổi mới công nghệ, do vậy chúng ta không thể bỏ ra một sự đầu tư quá lớn vào CGCN quá cao trong vài bộ phận mà bỏ qua một nhu cầu cấp thiết của phần lớn nền kinh tế, như vậy sẽ không có hiệu quả về tổng thể.
Tóm lại trong quá trình CGCN, khi tính tới yếu tố hiện đại và giá cả công nghệ, chúng ta luôn phải xem xét chúng một mối quan thống nhất với cùng mục tiêu là đổi mới công nghệ trong nước, từng bước CNH - HĐH nền kinh tế. Phải tuỳ từng khâu, từng ngành mà đưa ra sự tính toán hợp lý giữa hai vấn đề là tính hiện đại và giá cả của công nghệ được chuyển giao.
Việc chúng ta lựa chọn mức độ hiện đại của một công nghệ và mức giá của nó ngoài việc căn cứ vào vai trò nội tại của nó và giá trị nội tại của nó ra còn phải xét vai trò phức hợp của công nghệ. Thông thường với cùng một tính năng kỹ thuật cùng mức độ hiện đại, song công nghệ nào mà có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành sản xuất có liên quan, thì công nghệ đó dễ được chấp nhận hơn dù rằng giá có cao hơn công nghệ cùng loại khác.
2.3. Góp phần tăng năng suất lao động và giải quyết tốt việc làm
Trong khi năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 30% so với thế giới, thì việc tăng năng suất lao động luôn là yêu cầu bức thiết đặt ra với mỗi doanh nghiệp. Năng suất lao động được tính bằng số đơn vị sản phẩm trên một đơn vị thời gian hoặc số lao động trên một đơn vị sản phẩm trong một kỳ sản xuất. Do vậy để tăng năng xuất lao động chúng ta có thể đưa ra các phương án:
- Thứ nhất giảm thời gian lao động trung bình kết tinh trong một đơn vị sản phẩm.
- Giảm số lượng lao động trên một đơn vị sản phẩm trong một kỳ sản xuất.
- Tăng quy mô sản xuất với tốc độ lớn hơn tốc độ tăng của số lao động dựa trên nguyên tắc “hiệu quả tăng theo quy mô”.
Để thực hiện bất kỳ một phương án nào trong ba phương án nêu trên, chúng ta cũng phải nhờ tới sự trợ giúp của một công nghệ sản suất ưu việt hơn với những công nghệ chúng ta đã có trước đó. Tuy nhiên trong phương án hai, để thực hiện được, trong thời điểm ngắn hạn chúng ta có thể bỏ qua yếu tố đổi mới công nghệ nhưng bắt buộc phải tăng cường độ lao động của mỗi người lao động. Xét về lâu dài việc tăng cường độ lao động của người lao động kéo dài liên tục sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn và chỉ giới hạn ở một vài ngành có kỹ thuật giản đơn. Xét về mặt hiệu quả việc tăng năng suất lao động theo phương án hai sẽ kém hiệu quả, bởi một chi phí cho một giờ lao động làm thêm sẽ lớn hơn rất nhiều so với chi phí một giờ lao động bình thường, trong khi năng suất lao động cận biên của người lao động giảm dần.
Vì vậy trong lâu dài, phương án thứ hai sẽ khó được chấp nhận nếu như chúng ta muốn đi lên CNH - HĐH, nó chỉ là một phương án phụ trợ áp dụng trong một điểm ngắn hạn nhất định mà thôi. Như vậy để đi vào quá trình CNH - HĐH nhất thiết chúng ta phải nâng cao năng suất lao động của nền sản xuất, thông qua việc “tăng hiệu quả sản suất theo quy mô” hoặc giảm số thời gian lao động trung bình kết tinh trong mỗi đơn vị sản phẩm kết tinh theo sản phẩm. Để làm được điều đó, phải tính tới yếu tố đổi mới công nghệ. Một công nghệ chúng ta cần trước hết nó phải đảm bảo được những tiêu chí hiện đại, phù hợp như đã nêu ở trên, ngoài ra công nghệ đó phải có tác dụng trực tiếp tới tăng năng lực cạnh tranh và giải quyết thoả đáng vấn đề việc làm.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được quyết định bởi tính ưu việt về tính năng kỹ thuật so với sản phẩm cùng loại và có hiệu quả về thương mại tương đối. Để đạt được điều đó, ngoài vai trò trực tiếp của công nghệ ra, chúng ta cần phải có sự trợ giúp của các nguồn lực vận hành và sử dụng công nghệ đó trong quá trình sản xuất, đặc biệt là nguồn nhân lực.
Theo thống kê của Bộ lao động Thương binh xã hội (LĐTB&X H) đến năm
1997 cả nước có hơn 40 triệu lao động chiếm 55% dân số ước tính, năm 2000 là
45,1 triệu. Trong giai đoạn 1996 - 2000 nguồn lao động cả nước mỗi năm tăng khoảng 1,24 triệu. Về cơ cấu, phần lớn lực lượng lao động Việt Nam là lao động trẻ. tập trung vào nhóm tuổi 15-24; 25-34 và 35-44 trong nhóm đó tuổi 25-34 chiếm tỷ lệ cao nhất[32].
Với nguồn lao động dồi dào như trên, chúng ta nhất thiết phải cân nhắc một
giải pháp công nghệ có kết hợp hài hoà giữa tính ưu việt về kỹ thuật và sử dụng tối đa lao động, và phát huy được thế mạnh về nguồn lao động của mình để tạo ra một sức sản xuất và năng lực cạnh tranh lớn, tận dụng tối đa lợi thế so sánh tương đối của nền kinh tế.
2.4. Tiết kiệm nguồn tài nguyên
Khi lựa chọn một công nghệ ngoài việc đánh giá trình độ hiện đại về tính năng kỹ thuật của chúng, cũng như vấn đề giải quyết việc làm do công nghệ đó đem lại, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tiết kiệm nguồn tài nguyên của mỗi giải pháp công nghệ. Bởi vì bất cứ một nguồn tài nguyên nào cũng chỉ là hữu hạn, do vậy trong khi sản xuất ngày hôm nay chúng ta không thể không tính tới tương lai. Thông thường một công nghệ hiện đại sẽ luôn giúp cho người khai thác công nghệ đó tiết kiệm được đầu vào trong quá trình ứng dụng công nghệ cho sản xuất. Tuy nhiên theo cách đó còn phiến diện bởi lẽ sự phân bổ các nguồn tài nguyên khác nhau ở các nước hoàn toàn khác nhau, cùng một loại tài nguyên là đầu vào sản xuất cho một sản phẩm nhất định ở các nước luôn khác nhau.
Do vậy một giải pháp công nghệ được gọi là tiết kiệm nguồn tài nguyên nó không có nghĩa chỉ dừng lại ở việc giảm thiểu chi phí vật liệu đầu vào trên một
đơn vị sản phẩm, mà nó còn phải là giải pháp công nghệ có thể tận dụng được
[32] TS Bùi Anh Tuấn - Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - NXB Thống kê Hà Nội- 2000.
nguồn tài nguyên hiện có của nước ta song vẫn cho ra sản phẩm cuối cùng như
mong muốn có cùng tính năng so với sản phẩm khác cùng loại.
Một công nghệ còn được gọi là tiết kiệm tài nguyên là công nghệ mà lượng thải công nghiệp sản sinh ra trong quá trình sản xuất là tương đối thấp, tức là khả năng hấp thụ của công nghệ trong khi sản xuất luôn đạt hiệu quả cao. Ngoài ra một công nghệ mà lượng thải công nghiệp của nó tạo ra trong chu trình sản xuất đầu tiên song vẫn có thể tận dụng cho các chu trình sản xuất sau đó hoặc tận dụng cho một số lĩnh vực sản xuất sau đó hoặc cho một số lĩnh vực sản xuất có liên quan khác (mà công nghệ cùng loại khác không có khả năng này) cũng được coi là một giải pháp công nghệ có khả năng tiết kiệm nguồn tài nguyên.
2.5. Bảo vệ môi trường sinh thái
Ngày nay ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu và kéo theo đó là những thiên tai bệnh tật ngày một trầm trọng và phức tạp hơn. Do đó khắc phục ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái đang trở thành một chương trình trọng điểm trong chiến lược phát triển bền vững nói chung và chiến lược phát triển khoa học công nghệ nói riêng của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam.
Rút kinh nghiệm của một số nước NICs trong quá trình đẩy tốc độ phát triển kinh tế ở giai đoạn đầu thời kỳ CHH - HĐH họ đã không chú ý yếu tố phát triển lâu dài và ổn định, hậu quả là sau khi đã đạt được những mục tiêu về phát triển công nghiệp đã đặt ra, thì đồng thời họ cũng phải ghánh chịu những hậu quả nặng nề về ô nhiễm môi trường sinh thái do chính tác nhân công cuộc CNH gây nên. Là người đi sau, Việt Nam chúng ta ý thức rất rõ điều này và ngay từ bây giờ, trong giai đoạn đầu của thời kỳ CNH - HĐH, chúng ta cần phải cân nhắc xử lý hài hoà vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế trong mỗi giải pháp công nghệ cụ thể. Nếu một giải pháp công nghệ chỉ đạt được những tiêu chí nêu trên thì mới chỉ là điều kiện cần để chúng ta lựa chọn giải pháp công nghệ đó, như vậy để định hướng cho phát triển bền vững thì chúng ta phải tính
tới vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái của công nghệ. Bảo vệ môi trường sinh thái sẽ đem lại những lợi ích sau:
- Giảm thiểu chi phí để hạn chế và khắc phục những ô nhiễm tác động tới môi trường xung quanh.
- Bảo vệ sức khoẻ của người lao động từ đó giảm được chi phí về y tế, chi phí công nhân nghỉ việc do ốm đau bệnh tật.
- Tạo ra những sản phẩm sạch an toàn cho người tiêu dùng và sử dụng. Như vậy trên bình diện xã hội, sẽ có lợi cho sức khoẻ cộng đồng, trên góc độ doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ giảm thiểu được những chi phí do phải bồi thường về những khiếu nại của khách hàng tới chất lượng sản phẩm. Và quan trọng hơn hết là doanh nghiệp tạo được niềm tin và sự yên tâm cho khách hàng trong quá trình tiêu dùng, đó là yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
- Giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp trong nước có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thị trường đầy tiềm năng song khó tính (Mỹ, Nhật, EU).
Một công nghệ được gọi là công nghệ bảo vệ môi trường sinh thái là công nghệ đảm bảo các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, công nghệ đó không có tác hại tới người lao động, môi trường sản xuất, môi trường thiên nhiên, hoặc những tác hại đó ở mức thấp nhất trong giới hạn cho phép.
- Thứ hai, những sản phẩm dịch vụ do áp dụng giải pháp công nghệ đó đem lại, không ảnh hưởng xấu tới người tiêu dùng, người sử dụng dù ở mức độ trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình tiêu dùng, sử dụng hoặc sau đó.
- Thứ ba, một giải pháp công nghệ sản xuất hoàn hảo phải đi kèm theo nó là những giải pháp khắc phục những hậu quả do nó gây nên có tính khả thi, và có giải pháp xử lý lượng thải công nghiệp sản sinh trong quá trình sản suất có hiệu quả, ngoài ra trong một số trường hợp giải pháp công nghệ có thể tái tạo nguồn tài nguyên đã sử dụng hoặc nguồn tài nguyên đã dùng trong chu trình trước có thể tạo ra nguồn tài nguyên khác không tác hại đến môi trường.
- Thứ tư một giải pháp công nghệ được coi là bảo vệ môi trường sinh thái là sau khi hết thời hạn sử dụng, những yếu tố thuộc phần cứng của công nghệ trong qúa trình xử lý dỡ bỏ hoặc tiêu huỷ sẽ không tốn kém nhiều chi phí hay việc dỡ bỏ xử lý nó có thể thực hiện, và không có hoặc ít có tác động đến môi trường.
2.6. Thúc đẩy phát triển nền khoa học trong nước, tăng cường khả năng làm chủ
và ứng dụng tiến bộ khoa học trên thế giới
CGCN từ nước ngoài vào trong nước là con đường ngắn nhất để chúng ta rút ngắn khoảng cách tụt hậu về khoa học công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên nếu công nghệ chuyển giao vào Việt Nam luôn đi quá xa so với trình độ khoa học kỹ thuật trong nước cũng như công nghệ đó chỉ có thể vận hành khai thác được trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc vào sự trợ giúp của yếu tố nhân vật lực từ phía nước ngoài, thì đến một lúc nào đó chúng ta sẽ đi theo con đường mòn phát triển kỹ thuật của các nước tiên tiến. Và kết quả là chúng ta không có khả năng tự hấp thụ công nghệ, nền kinh tế luôn lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài và luôn ở tình trạng tụt hậu về công nghệ so với các nước phát triển. Vì vậy ngay từ bây giờ trong quá trình CGCN chúng ta phải tính tới việc nhập khẩu những công nghệ có tính năng bổ trợ cho sự phát triển khoa học công nghệ trong nước, tiếp cận và tiến tới làm chủ tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Đó là những giải pháp công nghệ:
- Thứ nhất, áp dụng nhiều giải pháp kỹ thuật mới được tiêu chuẩn hoá trên thế giới, về các tiêu chí tính năng kỹ thuật.
- Thứ hai, giải pháp công nghệ sử dụng tối đa những kiến thức khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng được giảng dạy và trình diễn trong các viện nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
- Thứ ba, một giải pháp công nghệ mà việc tiếp cận, cập nhật thông tin liên quan đến giải pháp công nghệ đó luôn trong khả năng có thể với phía Việt Nam. Thông tin đó trước hết là thông tin liên quan nguồn CGCN, thông tin về những cải tiến công nghệ đã đang và sẽ xảy ra. Tiếp đó là những thông tin về bản thân nội tại của một giải pháp công nghệ mà chúng ta dự định chuyển giao được cụ
thể bằng những thuyết minh và tài liệu kỹ thuật. Đương nhiên các thuyết minh và tài liệu kỹ thuật đó sẽ là bộ phận không thể tách rời trong mỗi cuộc CGCN, bản thân các tài liệu kỹ thuật thuyết minh đó phải mang tính trung thực, chính xác đầy đủ cũng như dễ hiểu với bên tiếp nhận.
- Thứ tư, đó là thị trường công nghệ mà xuất xứ của chúng thường ở các thị trường nguồn về khoa học và công nghệ, mà ở đó việc chuyển giao ít gặp phải những hạn chế về quy mô, đối tượng và thông tin chuyển giao.
Để việc CGCN từ nước ngoài vào trong nước thực sự thúc đẩy sự tiến bộ của nền khoa học công nghệ trong nước, trong quá trình CGCN chúng ta cần phải xem xét cân nhắc những tiêu chí về thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước của công nghệ ngoại nhập một cách linh hoạt. Đối với những lĩnh vực khác đầu ngành, có tác động phức hợp tới các lĩnh vực mà chúng ta cần phải có cú đột phá tiến tới làm chủ và theo kịp thế giới (công nghệ thông tin, y học, dược phẩm, công nghệ sinh học, vật liệu mới) nhất thiết trong quá trình chuyển giao công nghệ chúng ta phải cân nhắc tới bốn tiêu chí nêu trên).
2.7. Luôn có khả năng tái chuyển giao
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi đề cập đến khả năng tái chuyển giao của những công nghệ đã được chuyển giao vào Việt Nam, đa số các ý kiến cho rằng đây là khả năng không tưởng. Bởi lẽ công nghệ mà Việt Nam tiếp nhận đều thuộc loại trung bình so với khu vực. Việt Nam là địa chỉ cuối cùng của dòng CGCN trên thế giới. Tuy nhiên xét về lâu dài khi mà quá trình CNH - HĐH của Việt Nam đã đi vào quỹ đạo phát triển, việc tái CGCN ở Việt Nam là hoàn toàn có thể, và thậm chí trong thời gian tới chúng ta vẫn có thể tính tới vấn đề này. Điều quan trọng là phụ thuộc vào công nghệ mà chúng ta chuyển giao lần đầu và khả năng hấp thụ, cải tiến công nghệ ngoại nhập của chúng ta.
Khái niệm tái CGCN cần được hiểu, nó không đơn thuần là việc chúng ta du nhập công nghệ ngoại nhập sau khi qua một quá trình sản xuất chúng ta lại chuyển nguyên bản công nghệ đó sang một nước tiếp theo. Nếu hiểu theo nghĩa này, thì công nghệ mà Việt Nam du nhập ở lần thứ nhất phải hoàn toàn ở mức
tiên tiến trên thế giới và khu vực, có như vậy chúng ta mới có thể tái chuyển giao sang các nước tiếp theo. Ở đây khái niệm tái CGCN cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn:
- Thứ nhất, một giải pháp công nghệ ban đầu được du nhập vào Việt Nam qua một quá trình khai thác, cải tiến và đã bị “Việt Nam hoá” nếu có hiệu suất cao hơn ban đầu vẫn có thể được các nước khác chấp nhận và đặc biệt là các nước có điều kiện tương đồng Việt Nam (Điều này được minh chứng rất rõ, là ban đầu chúng ta phải du nhập công nghệ phần mềm từ nước ngoài, nhưng sau quá trình khai thác, một số giải pháp công nghệ phần mềm đã bị “thuần phục” bởi trí tuệ Việt Nam mặc dù nó vẫn dựa trên nguyên lý cơ bản của giải pháp công nghệ ban đầu song tính hiệu quả và tiện lợi ưu việt hơn nhiều).
- Thứ hai, khái niệm tái CGCN ở Việt Nam còn được hiểu đó là chuyển giao nội bộ từ bộ phận này sang bộ phận khác có liên quan trong cùng ngành sản xuất, chuyển giao từ trung tâm nghiên cứu tới cơ sở sản xuất, chuyển giao từ bộ phận có tiềm lực về công nghệ và tài chính mạnh hơn xuống bộ phận có tiềm lực yếu hơn.
Để “đi tắt đón đầu”, đẩy nhanh CNH - HĐH trong một số ngành chủ chốt cũng như đạt được hiệu quả cao hơn trong tất cả các ngành còn lại, trong quá trình CGCN chúng ta cũng cần phải xem xét tới khả năng “tái chuyển giao nội bộ” của công nghệ mà mình dự định chuyển giao ban đầu. Một công nghệ hiện đại và có khả năng tái chuyển giao khi du nhập vào Việt Nam chẳng những nó sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu để rút ngắn khoảng cách về khoa học - công nghệ giữa Việt Nam và thế giới, mặt khác chính nhờ “khả năng tái chuyển giao” mà công nghệ đó đem lại, nền kinh tế sẽ thu được những lợi ích vô cùng to lớn. Nếu như một công nghệ không có khả năng tái chuyển giao nội bộ, thì sau khi hết thời gian sử dụng công nghệ đó, hoặc công nghệ đó không còn hiệu quả, chúng ta lại phải tốn kém chi phí cho một cuộc chuyển giao mới từ nước ngoài vào. Một giải pháp công nghệ không có tính tái chuyển giao nội bộ, điều đó có nghĩa chúng ta phải liên tiếp thực hiện những cuộc chuyển giao rời rạc, độc lập,
kết quả của nó là những công nghệ cũ không ngừng tăng lên, trong khi công nghệ hiện đại hơn mang tính chiến lược không hề có, nền khoa học công nghệ trong nước “dậm chân tại chỗ” và hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài.
Một công nghệ được gọi là có khả năng “tái chuyển giao” phải đáp ứng
được những yêu cầu sau:
- Phải đảm bảo tính hiện đại và phù hợp như đã đề cập trong tiêu chí hiện
đại và phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam.
- Tính hao mòn “vô hình” của công nghệ diễn ra trong một thời gian tương
đối dài.
- Chỉ cần qua một số điều chỉnh nhỏ mà từ một giải pháp công nghệ áp dụng cho việc chế tạo ra một loại sản phẩm này, có thể dễ dàng chuyển sang áp dụng cho việc chế tạo sản phẩm khác, phục vụ nhu cầu khác (từ một giải pháp công nghệ nhưng có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau, khi có một sự điều chỉnh tương đối).
Trên đây là 7 tiêu chí nói lên tính thích hợp của một giải pháp công nghệ với Việt Nam. Tuy nhiên tính quan trọng của mỗi tiêu chí luôn khác nhau, nó tuỳ thuộc vào mỗi khâu mỗi lĩnh vực cụ thể.
3. Lựa chọn công nghệ thích hợp trong một số ngành cụ thể
Trong tất cả các cuộc chuyển giao dù ở lĩnh vực nào tiêu chí hiện đại luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu và không thể bỏ qua trong việc đưa ra quyết định lựa chọn một giải pháp công nghệ.
Đối với ngành công nghiệp mà Việt Nam có thể thành công cao và có độ hấp dẫn cao (công nghệ phần mềm tin học, sản phẩm chế biến từ nông sản...), trong quá trình chuyển giao thứ tự ưu tiên của các tiêu chí là: hiện đại phù hợp với thực tế Việt Nam; thúc đẩy phát triển khoa học trong nước tăng cường khả năng làm chủ và ứng dụng tiến bộ khoa học trên thế giới; góp phần tăng năng suất giải quyết tốt việc làm; có khả năng tái chuyển giao và tiếp theo là các tiêu chí còn lại.
Với ngành công nghiệp Việt Nam có khả năng thành công cao, song độ hấp dẫn của nó thấp (máy móc thiết bị nhỏ; nhóm linh kiện và sản phẩm điện tử; dệt may; da dày; đồ chơi; đóng tàu chuyên dụng vừa và nhỏ) khi chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam thứ tự các tiêu chí được ưu tiên là góp phần tăng năng suất lao động giải quyết việc làm; hiện đại phù hợp với thực tế Việt Nam; bảo vệ môi trường sinh thái...
Với các ngành công nghiệp độ hấp dẫn cao, song khả năng thành công thấp (công nghệ vật liệu mới; dược phẩm; năng lượng mới; truyền thông...) trong quá trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào, tiêu chí quan trọng hàng đầu là hiện đại phù hợp thực tế Việt Nam; thúc đẩy nền khoa học trong nước phát triển tăng cường khả năng làm chủ và ứng dụng tiến bộ khoa học trên thế giới; bảo vệ môi trường sinh thái và tiếp theo là các tiêu chí còn lại.
Với các ngành công nghiệp mà độ hấp dẫn thấp, khả năng thành công thấp tiêu tốn nhiều tài nguyên ảnh hưởng tới môi trường trên phạm vi lớn (hoá chất cơ bản, sản suất xi măng, thép, lọc dầu) khi du nhập công nghệ thứ tự ưu tiên là tiêu chí hiện đại phù hợp với thực tế Việt Nam; bảo vệ môi trường sinh thái; tiết kiệm nguồn tài nguyên; góp phần tăng năng suất lao động giải quyết việc làm và tiếp theo là các tiêu chí còn lại.
Bảng 3: Việt Nam và sự lựa chọn cho các ngành công nghiệp
Tiêu chí
Việt Nam có khả năng thành công
Cao
Thấp
Độ hấp dẫn
Cao
- Công nghệ tin học (phần mềm)
- Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp nhiệt đới
-Công nghệ vật liệu mới
- Năng lượng mới
-Truyền thông
- Công nghiệp dịch vụ tầm xa (kiểm
VŨ THẾ ANH, A1 CN9 71
toán, bảo hiểm, tài chính)
- Công nghiệp du lịch
- Dược phẩm
Thấp
- Máy móc thiết bị nhỏ
- Nhóm linh kiện và sản phẩm điện tử
- Dệt may da dày đồ chơi
- Đóng tàu chuyên dụng vừa và nhỏ
- Sản xuất đồ gia dụng
- Hoá chất cơ bản
- Lọc dầu
-Sản xuất thép
- Xi măng
Tuy nhiên sự phân luồng cho các lựa chọn ở trên chỉ mang tính tương đối và có ý nghĩa tham chiếu, và có thể thay đổi theo mục tiêu phát triển khác nhau ở các thời kỳ khác nhau.
II. CÁC GIẢI PHÁP LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ THÍCH HỢP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM.
1. Có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của chuyển giao công nghệ
Một sự nhận thức, đánh giá đúng đắn về tầm quan trọng của CGCN là yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi cuộc CGCN. Từ nhận thức ban đầu đó sẽ phối tới chính sách định hướng, trước khi thực hiện một cuộc chuyển giao, cũng như trong quá trình khai thác công nghệ đã chuyển giao. Một nhận thức về tầm quan trọng của CGCN tới nền kinh tế trong nước nếu như có những lệch lạc, thiếu sót ngay từ ban đầu, sẽ kéo theo hàng loạt thất bại, mà chúng ta không thể khắc phục hoặc khó khắc phục, những thất bại đó sẽ xảy ra trên cục diện lớn của nền kinh tế ở mọi khâu sản xuất, và diễn ra theo một phản ứng dây chuyền trong một thời gian lâu dài không xác định.
Qua nghiên cứu những kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực CGCN cũng như căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, cho thấy một nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của CGCN được thể hiện trên những khía cạnh sau:
- CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam là hướng quan trọng nhất hiện nay để đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ nước ta, là con đường ngắn nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với thế giới về khoa học và công nghệ. Tuy nhiên về lâu dài việc nâng cao năng lực công nghệ quốc gia là giải pháp quan trọng xuyên suốt quá trình CNH - HĐH. Thành công trong CGCN được chứng tỏ bằng cách làm chủ công nghệ thông qua những nỗ lực liên tục về tiếp thu công nghệ, thích nghi hoá và cuối cùng là phải sản sinh ra những công nghệ mới. Sự hoàn toàn lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài sẽ kìm hãm việc đuổi bắt trình độ khoa học - công nghệ của các nước phát triển.
- CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam chỉ thực sự phát huy vai trò của nó nếu như các điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để tiếp nhận và khai thác công nghệ được chuyển giao thích ứng được yêu cầu mà công nghệ đó yêu cầu. Điều này có nghĩa công nghệ được chuyển giao vào nội địa phải phù hợp với điều kiện thực tế của nơi tiếp nhận có như vậy công nghệ được chuyển giao mới phát huy tối đa hiệu quả trên cơ sở kết hợp tính ưu việt về tính năng khai thác của công nghệ đó với lợi thế tương đối về nguồn lực trong nước.
2. Xây dựng chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về ưu tiên phát triển công nghệ
Trên cơ sở những nhận thức đúng đắn về vai trò của CGCN tới nền kinh tế, chúng ta phải đưa ra hệ thống chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về ưu tiên phát triển công nghệ.
Hệ thống chính sách đòi hỏi phải mang tính nhất quán, bởi vì nếu không có sự nhất quán trong chính sách chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình đổi mới công nghệ, đó là tình trạng “trên nói dưới không nghe”, “mạnh ai người ấy làm”. Kết quả CGCN sẽ không đem lại cái đích mà chúng ta hướng tới, thậm
chí phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do chính sách không nhất quán về
CGCN đem lại.
Hệ thống chính sách về ưu tiên phát triển công nghệ và CGCN bao gồm: Chính sách ưu tiên phát triển lĩnh vực chuyển giao, và chính sách hỗ trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ .
2.1. Về lĩnh vực ưu tiên chuyển giao công nghệ
Qua việc căn cứ và phân tích đánh giá thực tế về tiềm năng và nhu cầu về
công nghệ trong nước chúng ta có thể đưa ra một số lĩnh vực ưu tiên CGCN như
sau:
- Bằng mọi khả năng có thể tranh thủ CGCN tiên tiến trên thế giới để thực hiện “đi tắt đón đầu” trong các ngành (viễn thông, điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới).
- Đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh CGCN phục vụ CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Chú trọng CGCN nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ
sản phục vụ xuất khẩu và công nghiệp hàng tiêu dùng.
- CGCN một cách có chọn lọc cho các ngành công nghiệp nặng (năng lượng, vật liệu xây dựng, cơ khí luyện kim, hoá chất).
2.2. Về chính sách hỗ trợ cho phát triển công nghệ và CGCN
2.2.1. Chính sách về vốn cho CGCN
Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII chỉ rõ: “Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều vốn, sử dụng vốn có hiệu quả”. Nguồn vốn trong nước là quyết định nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Điều then chốt là huy động vốn bằng cách nào, sử dụng nguồn vốn như thế nào để có hiệu quả.
Chúng ta có thể huy động tối đa nguồn tích luỹ tiết kiệm từ dân cư đang tạm nhàn rỗi để đầu tư cho phát triển nói chung và cho hoạt động CGCN nói
riêng. Để thu hút được nguồn vốn này Nhà nước cần có biện pháp giảm thủ tục phiền hà, có chính sách lãi suất thích hợp có lợi cho người dân đồng thời xây dựng chế độ bảo hiểm tiền gửi đối với những tài khoản trong ngân hàng nội địa ở Việt Nam. Bên cạnh đó dần tạo ra một môi trường lành mạnh hấp dẫn trong hoạt động thị trường mở.
Huy động vốn từ nước ngoài (chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA) là hai nguồn vốn lớn có tính khả thi cao. Để huy động nguồn vốn FDI Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện về những chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đó phải triệt tiêu nạn quan liêu hành chính, giảm thiểu rườm rà trong việc tạo các nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA.
Trên cơ sở đã có nguồn vốn cần thiết, Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng trang trải vốn cho hoạt động đổi mới công nghệ và CGCN theo nguyên tắc
sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn để đổi mới công nghệ như cho vay với lãi suất thấp, chỉ với điều kiện phương án có tính khả thi chứ không cần thế chấp; cho vay để thanh toán nợ trước khi đổi mới công nghệ; có thể trả nhiều lần.
- Đối với các lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam cần “đi tắt đón đầu”, còn mới lạ với các doanh nghiệp, mà chỉ có các trung tâm nghiên cứu và triển khai khoa học mới có khả năng hấp thụ song đòi hỏi lượng vốn quá lớn vượt quá khả năng của họ, ngân hàng có thể cấp vốn với mức lãi suất thấp thậm chí bằng không với điều kiện bảo lãnh của Nhà nước.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng cho dù có sự hỗ trợ hoặc ưu đãi trong các biện pháp tài chính, tín dụng song dứt khoát không thực hiện chế độ bao cấp.
2.2.2. Về chính sách thuế
Những ưu đãi về thuế đối với những hoạt động đổi mới và CGCN vào Việt
Nam được thể hiện trên các phương diện sau:
- Phải làm cho các sắc thuế của Việt Nam có tính thuyết phục nội dung các sắc thuế phải thông suốt rõ ràng và ít thay đổi nhất.
- Dùng công cụ về thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
hiện đại phù hợp với hướng ưu tiên của Nhà nước. Cụ thể:
+ Áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp với các thiết bị, giải pháp công nghệ tiên tiến.
+ Miễn mọi loại thuế cho các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử
bằng công nghệ mới.
+ Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm đối với các sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng trong nước, hoặc công nghệ nội sinh mới.
+ Khi đánh thuế vào hoạt động CGCN cần lưu ý: chỉ nên đánh thuế ở mức độ hợp lý với phần thu được từ bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hỗ trợ kỹ thuật của chuyên gia nước ngoài, tuy nhiên để khuyến khích việc đào tạo công nhân chúng ta không nên đánh thuế vào phần lợi thu được từ việc đào tạo công nhân (mặc dù đào tạo công nhân cũng thuộc nội dung CGCN).
3. Không ngừng hoàn thiện công tác quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ
Ngày nay đứng trước sức ép của sự cạnh tranh gay gắt, bản thân mỗi doanh nghiệp luôn luôn phải tính đến việc không ngừng cải thiện năng lực cạnh tranh của mình, trong đó đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt nhất trực tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào, vì lợi ích trước mắt luôn nỗ lực cách tân công nghệ hiện có bằng mọi khả năng có thể, thậm chí chỉ chạy theo việc phát triển lối mòn khoa học kỹ thuật nước ngoài mà không tính tới việc phát triển công nghệ một cách bền vững. Do vậy nhất thiết đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước tới hoạt động chuyển giao công nghệ, để ngăn chặn tình trạng du nhập công nghệ một cách lan tràn, trùng lặp gây lãng phí nguồn lực đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là vấn đề quan trọng đầu tiên chi phối các doanh nghiệp theo quy luật kinh tế khách quan. Nếu không có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận sẽ sẵn sàng du nhập những công nghệ không có chiều sâu thậm chí không có lợi tới cộng đồng đi ngược mục tiêu chung của công cuộc CNH - HĐH hoá đất nước, phương hại lợi ích quốc gia.
Công tác hoàn thiện chính sách quản lý hoạt động CGCN nước ngoài vào
Việt Nam thể hiện trên các phương diện sau:
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạch định chính sách quản lý hoạt động CGCN cũng như trong giám sát việc chấp hành các quy chế đổi mới CGCN của các doanh nghiệp. Để thực hiện các yêu cầu nói trên cần tăng cường vai trò của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ công nghiệp cùng các cơ quan hữu quan để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ dưới đây:
+ Tham mưu cho chính phủ trong việc hoạch định các chính sách phát triển công nghệ cũng như trong việc hoàn thiện môi trường thể chế và hệ thống các chính sách nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược CNH - HĐH.
+ Xây dựng các quy chế đánh giá công nghệ phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.
+ Phối hợp cùng các cơ quan hữu quan xem xét lại các điều khoản có liên quan đến đổi mới và CGCN để kiến nghị sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các thể chế không chỉ nhằm khuyến khích các loại hình đầu tư góp nhiều vốn mà còn đặc biệt khuyến khích các loại hình đầu tư góp phần nâng cao năng lực công nghệ quốc gia thông qua dạy nghề, truyền đạt các kỹ năng quản lý và nhập khẩu công nghệ đảm bảo sự phát triển lâu bền của đất nước.
- Các cơ quan Nhà nước cần có sự phối hợp tốt để phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ của nước ngoài tại Việt Nam, từ đó tăng thêm lòng tin của các đối tác trong quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam.
- Cần có các biện pháp hữu hiệu, thuận tiện cho việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam.
4. Hoàn thiện hệ thống giám định, thẩm định, kiểm toán
Trong những năm qua, do hệ thống giám định, thẩm định và kiểm toán của nước ta còn hạn chế về số lượng và yếu kém về năng lực, chính vì vậy mà trong quá trình du nhập công nghệ nước ngoài vào trong nước chúng ta đã gặp phải rất nhiều thua thiệt như không biết được chính xác lai lịch và độ tuổi công nghệ; công nghệ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lớn, giá cả công nghệ vượt quá cao so với giá trị thực có.
Mặt khác công tác giám định, thẩm định, kiểm toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tiên có chấp nhận đình chỉ thậm chí huỷ bỏ một cuộc CGCN từ nước ngoài vào trong nước. Chính vì hai lý do nêu trên, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống giám định, thẩm định, kiểm toán nhằm phục vụ có hiệu quả cho công tác giám định, thẩm định, kiểm toán trong hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam.
Công tác hoàn thiện hệ thống tổ chức hoạt động và nâng cao năng lực hoạt động của giám định, thẩm định, kiểm toán Việt Nam được tập trung trên các phương diện sau:
- Xây dựng một cơ chế kiểm soát thống nhất, hệ thống tổ chức thích hợp phục vụ công tác giám định và thẩm định kiểm toán.
- Vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giám định, thẩm định, kiểm toán cần phải được luật hoá. Dành sự ưu tiên cho các tổ chức giám định và kiểm toán Việt Nam. Bên cạnh đó có sự kết hợp lựa chọn các công ty giám định và kiểm toán nước ngoài.
- Đối với các công nghệ và dự án công trình mà Việt Nam chưa đủ trình độ, phương tiện kỹ thuật để tiến hành giám định, thẩm định và kiểm toán có thể tổ chức đấu thầu hoặc thuê công ty giám định và kiểm toán có uy tín nước ngoài tiến hành giám định, kiểm toán thông qua hợp đồng thương mại trên cơ sở luật pháp quốc tế có sự giám sát của các cơ quan chức năng Việt Nam.
- Tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác tổ chức quản lý tiêu chuẩn, đo lường, kiểm tra chất lượng, cũng như nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ nhân lực hoạt động trong các cơ quan kiểm tra tiêu chuẩn đo lường.
- Xây dựng hệ thống thông tin công nghệ và đảm bảo cập nhật kịp thời để phục vụ cho việc thẩm định kiểm toán, đánh giá công nghệ cũng như lựa chọn thiết bị công nghệ.
- Xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật, và giới hạn cho phép của các nội dung liên quan đến CGCN (mức độ tiên tiến dây chuyền thiết bị, tính năng kỹ thuật, an toàn lao động, an toàn phóng xạ, ô nhiễm môi trường, nhu cầu thị trường, giá cả công nghệ).
5. Đẩy mạnh công tác tư vấn trong hoạt động chuyển giao công nghệ
Hoạt động tư vấn đóng vai trò là người “dẫn đường chỉ lối” cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình tìm tòi đổi mới công nghệ. Một hoạt động tư vấn có hiệu quả sẽ giúp phía nhập công nghệ tìm được nguồn công nghệ thích hợp, giảm thiểu được những chi phí không cần thiết, và quan trọng hơn hết là sự đầu tư vào du nhập công nghệ là đúng nơi đúng chỗ. Để hoạt động tư vấn trong CGCN có hiệu quả chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Thành lập một hội đồng tư vấn CGCN bao gồm: đại diện các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học, nghiên cứu triển khai, đại diện các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp. Hội đồng này có nhiệm vụ nghiên cứu khảo sát số liệu, tập hợp ý kiến đề đạt của các doanh nghiệp tổ chức có nhu cầu du nhập công nghệ để có thể tham mưu cho Nhà nước trong việc đưa ra chính sách cụ thể nhằm khuyến khích CGCN tiên tiến, phù hợp, có định hướng.
- Tăng cường việc tìm kiếm xử lý công bố các thông tin về CGCN trên thế giới để giúp doanh nghiệp trong việc tìm nguồn, lựa chọn công nghệ, đàm phán về mua bán công nghệ. Việc này có thể thực hiện được thông qua hợp tác liên kết (song phương hoặc đa phương) với các tổ
chức xúc tiến thương mại, các hiệp hội chuyên môn, các tổ chức dịch vụ
thông tin công nghệ của các nước.
6. Kết hợp hài hoà công nghệ nội sinh và công nghệ chuyển giao từ nước ngoài, từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh
Kết hợp du nhập công nghệ nước ngoài và công nghệ nội sinh là con đường ngắn nhất để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. CGCN từ nước ngoài vào trong nước và phát triển công nghệ nội sinh có tác động qua lại hữu cơ với nhau. Công nghệ nhập ngoại sẽ có vai trò thúc đẩy và dẫn dắt hỗ trợ phát triển công nghệ nội sinh. Công nghệ nội sinh có vai trò làm tăng năng lực hấp thụ công nghệ nước ngoài sử dụng công nghệ đó đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên cả hai nguồn công nghệ ngoại nhập và nội sinh chỉ thực sự đem lại hiệu quả nhất nếu như chúng ta có một sự bố trí kết hợp khai thác hai nguồn công nghệ này một cách thích hợp. Nếu không, hai nguồn công nghệ này sẽ không thể thúc đẩy lẫn nhau phát triển thậm chí triệt tiêu lẫn nhau thao chiều hướng tiêu cực.
Sự phối kết hợp hài hoà hai nguồn công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ nội sinh được thể hiện qua cách thức sau:
-Trong bất cứ ngành sản xuất nào, công nghệ nội sinh cũng phải chiếm tỷ lệ
nhất định cho dù là ít nhất, ở khâu đơn giản nhất.
-Trong mỗi ngành sản xuất, mức độ đòi hỏi đổi mới công nghệ ở mỗi khâu là khác nhau, vì thế tuỳ thuộc vào yêu cầu đổi mới của từng khâu sản xuất mà đưa ra quyết định đổi mới công nghệ bằng việc du nhập công nghệ ngoại hay tự nâng cao công nghệ nội sinh cho phù hợp. Có thể đồng thời kết hợp việc sử dụng công nghệ nội sinh cho khâu sản xuất này bên cạch sử dụng công nghệ ngoại nhập cho khâu sản xuất khác trong cùng một ngành sản xuất. Hoặc trong cùng một khâu sản xuất có thể đồng thời kết hợp công nghệ ngoại nhập trên cơ sở nền tảng của công nghệ nội sinh.
- Trong quá trình du nhập công nghệ nước ngoài vào Việt Nam chúng ta kiên trì phấn đấu thực hiện nguyên tắc MAYA (Most advanced yet acceptable- hiện đại nhất nhưng có thể tiếp thu được) trên cơ sở đó trong quá trình khai thác
và sử dụng công nghệ ngoại nhập chúng ta sẽ có thể tiếp thu làm chủ và “Việt
Nam hoá” công nghệ ngoại nhập nâng cao năng lực công nghệ nội sinh.
7. Phát triển đào tạo, nghiên cứu và triển khai.
7.1. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động CGCN
Nhân tố con người là nhân tố trung tâm, là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố quan trọng, là động lực quyết định đến sự phát triển khoa học công nghệ của mỗi quốc gia. Công nghệ được chuyển giao bởi con người và cũng chính do con người khai thác và điều hành. Công nghệ được chuyển giao sẽ không thể phát huy được tác dụng nếu như tách rời nó với yếu tố con người. Và yếu tố quan trọng nhất trong CGCN chính là con người điều hành công nghệ. Như vậy khai thác chất xám trong nước cũng như nâng cao việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trong nước là công việc tối cần thiết mà bất cứ quốc gia nào cũng phải quan tâm hàng đầu, coi đó là quốc sách.
Công tác phát triển nguồn nhân lực phục vụ CGCN được tập trung vào những điểm sau:
- Gấp rút lập kế hoạch dài hạn phát triển khoa học, công nghệ, môi trường theo các định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Phát huy tác dụng của đội ngũ cán bộ khoa học hiện có, trên cơ sở đó tiếp tục phát triển lên trình độ cao hơn cả về mặt chất và lượng.
- Xây dựng một số chương trình với tài trợ và ưu đãi đặc biệt để nghiên cứu một số hướng công nghệ ưu tiên ở tầm quốc gia. Gấp rút đào tạo (kết hợp trong và ngoài nước) đội ngũ cán bộ giỏi về công nghệ cho các lĩnh vực ưu tiên này.
- Phải luôn đào tạo lại, và cập nhật hoá các kiến thức về khoa học và công nghệ mới cho đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
- Thay đổi về căn bản phương thức tổ chức đào tạo, nghiên cứu và triển khai theo hướng nhất thể hoá ba khâu này sao cho hoạt động nghiên cứu ở các trường các viện gắn chặt hơn nữa với nhu cầu đổi mới công nghệ của khu vực
sản xuất, trên cơ sở đó đổi mới và hoàn thiện chương trình đào tạo theo hướng tăng cường nội dung công nghệ trong hệ thống giáo dục.
- Phải đảm bảo một cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu công tác nghiên cứu khoa học, cũng như một chế độ đãi ngộ xứng đáng cho những người hoạt động trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ, nhất là trong các ngành công nghệ cao.
- Từng bước nâng cao mặt bằng chung về dân trí, cùng với phát triển khoa học, công nghệ giáo dục thực sự là vấn đề quốc sách hàng đầu.
7.2. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu triển khai.
Trong giai đoạn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hệ thống nghiên cứu và triển khai dịch vụ kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo quá trình phát triển tối ưu của nền kinh tế theo kế hoạch định hướng. Hệ thống này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu hướng phát triển của tất cả mọi hệ thống và phân hệ đang vận hành trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống R &D là trung tâm nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ ngoại nhập có hiệu quả nhất, là trung tâm đầu ngành đầu mối trong việc tiếp nhận, tư vấn và giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc khai thác và sử dụng công nghệ nội sinh và công nghệ ngoại nhập có hiệu quả mong muốn.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay hệ thống nghiên cứu và triển khai ở các viện các trường còn yếu kém, hoạt động chưa có hiệu quả, chưa có mối gắn kết thực sự giữa công tác nghiên cứu triển khai R&D ở các viện với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó chưa tạo ra cho các doanh nghiệp một năng lực cần thiết để có thể hấp thụ cải tiến và làm chủ công nghệ được chuyển giao.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác R & D chúng ta nhất thiết phải phát triển công tác này theo những hướng sau đây:
- Đổi mới quản lý và tiến hành quy hoạch tổ chức cơ quan nghiên cứu và triển khai theo một hệ thống có cơ cấu hợp lý, theo hướng tập trung thống nhất, liên kết chặt chẽ giữa các lĩnh vực khoa học, giữa các ngành khoa học và các
ngành kinh tế - kỹ thuật để giải quyết những vấn đề có tính chất chiến lược tổng hợp, liên ngành với nền kinh tế quốc dân.
- Cần gắn các tổ chức và hoạt động về nghiên cứu và triển khai với hệ thống sản xuất vật chất và kinh doanh nhằm nhanh chóng nâng cao trình độ khoa học công nghệ của sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh, cũng như hướng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai có mục đích cụ thể rõ ràng và thực tế.
- Nâng cao mức độ tự chủ và tài chính của các cơ quan nghiên cứu và triển khai thông qua các hoạt động dịch vụ và bán các kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp theo hợp đồng. Ngoài ra chính phủ cần chuyển việc cấp kinh phí theo chương trình, đề tài sang phương thức khoán gọn, đấu thầu.
- Khuyến khích việc thành lập cơ sở nghiên cứu và triển khai trong các doanh nghiệp, cũng như đa dạng hình thức tổ chức nghiên cứu và triển khai trên nguyên tắc tự trang trải về tài chính.
- Mọi hoạt động nghiên cứu và triển khai luôn luôn phải gắn liền với diễn biến của thị trường. Hoạt động nghiên cứu - triển khai; marketing; sản xuất là ba quá trình không tách rời nhau. Nếu không tuân thủ quy luật này thì nghiên cứu và triển khai sẽ không mang lại hiệu quả về thương mại như mong muốn.
Hình 3: Các giai đoạn của chu trình nghiên cứu
SẢN XUẤT
HÀNG LOẠT
Khoa học - Triển khai công nghệ - Sản xuất - Tiêu thụ
CƠ BẢN
Ý ĐỒ, PHÁT TRIỂN KHOA HỌC
Nghiên cứu thị trường
NGHIÊN CỨU KHOA
ỨNG DỤNG
Phân tích lựa chọn
phương án
Nhu cầu tiềm năng
So sánh những sản phẩm cùng loại
Giá cả
khả quan
Phân tích giá cả, lợi nhuận
RA QUYẾT ĐỊNH
CÓ KHÔNG
Triển khai
Kỹ thuật Kinh tế
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
Thử nghiệm
Sản phẩm trong phòng thí nghiệm
Giá thành
Thiết kế chuẩn
bị sản xuất
Sản phẩm mẫu
Giá bán
Loại Zero
Lợi nhuận
Chuẩn bị qui trình công nghệ
Chuẩn bị
sản xuất
Dự kiến giá cả
Chuẩn bị
thị trường
Tiêu thụ
Sản xuất hàng loạt Tiêu thụ sản phẩm
Dịch vụ sau khi bán
Bảo hành
Nguồn: Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Tính - Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam (một số vấn đề lý luận và thực tế) Nxb Chính trị quốc gia, 1999
KẾT LUẬN
Ngày nay khoa học - công nghệ đang dần thực sự trở thành lực lượng sản xuất chi phối trực tiếp đến tình hình sản xuất của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc nắm bắt, làm chủ trình độ công nghệ hiện đại sẽ đem lại sự phát triển lâu dài, bền vững ổn định cho quốc gia cũng như lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cho mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay vấn đề đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong nước là yếu tố quyết định sự sống còn của nền kinh tế và là yếu tố không thể thiếu được để chúng ta đi lên xây dựng CNXH mà trước mắt là đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Con đường để chúng ta cách tân công nghệ ngắn nhất là CGCN từ nước ngoài vào trong nước. Tuy nhiên việc CGCN từ nước ngoài vào trong nước có mang lại hiệu quả mong muốn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào phía chúng ta.
Khoá luận đi vào nghiên cứu về thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt nam với các đặc điểm tóm tắt như sau:
- Trình độ của phần lớn công nghệ được chuyển giao quá lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, mức độ ô nhiễm lớn, chi phí vận hành cao.
- Các doanh nghiệp chưa ý thức được đầy đủ tầm quan trọng của công nghệ, mặt khác chưa đủ trình độ và vốn để tiếp nhận các công nghệ mới.
- Trình độ công nghệ giữa các lĩnh vực không đồng đều, có những lĩnh vực tương đối tiên tiến (viễn thông) nhưng còn nhiều lĩnh vực rất lạc hậu (cơ khí, thép, xi măng, dệt) và thậm chí có những lĩnh vực đang ở giai đoạn rất sơ khai hoặc chưa có gì (sinh học, vật liệu mới, vũ trụ).
- Ngược lại, giá cả của công nghệ được chuyển giao rất đắt so với trình độ của chúng do chúng ta chưa có đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực và một phần cũng do các tiêu cực trong quá trình ký kết hợp đồng.
Xuất phát từ thực tế trên và trong điều kiện Việt Nam hiện nay công nghệ
thích hợp là công nghệ tạo ra sản phẩm mà sử dụng nhiều nhân công với trình độ
kỹ năng ở mức trung bình phù hợp với mức thu nhập, thanh toán của người sử dụng (sản phẩm) và khai thác (công nghệ); tận dụng được các nguồn tài nguyên phong phú giá rẻ; phù hợp quy mô sản xuất nhỏ và trung bình ở Việt Nam; từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh và không tách rời vấn đề bảo vệ môi trường.
Tóm lại, khoá luận này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ và CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm lựa chọn công nghệ thích hợp với Việt Nam.
Nắm vững các kiến thức liên quan đến hoạt động CGCN để từ đó có thể vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp CGCN thực tế khác nhau là yêu cầu cấp bách hiện nay. Và quan trọng hơn hết, trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó các doanh nghiệp sẽ không ngừng nâng cao kiến thức kinh nghiệm của mình trong khi thực hiện hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động đó, từ đó góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do thời gian và trình độ chuyên môn có hạn, khoá luận này chưa thể đề cập được đầy đủ các chi tiết cũng như các giải pháp cho từng lĩnh vực cụ thể như các giải pháp để tính giá thành công nghệ, đánh giá trình độ thực của công nghệ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam, ban hành ngày 9/1/1995. [2] Báo lao động số 9/1996.
[3] Chương trình kỹ thuật về công nghệ vật liệu thành công sau ba năm hoạt động - Tạp chí Nhịp sống Công nghiệp số 21/2002.
[4] Giáo sư - PTS Tô Xuân Dân, PTS Vũ Xuân Lộc - Quan hệ kinh tế
quốc tế - Nhà xuất bản Hà Nội, 1997.
[5] Trần Hữu Dũng - Thử đánh giá khả năng bắt kịp các nước láng giềng của Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 286 - tháng 9/ 2000.
[6] Bùi Hồng Đới - Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng công thương
Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11/2001.
[7] Nguyễn Hoàng Giáp - Khai thác môi trường kinh tế quốc tế cho CNH
- HĐH - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 267 - tháng 9/ 2000.
[8] Nguyễn Văn Hảo - Chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản vào các nước
ASEAN, luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương.
[9] Linh Hoa - Ngành xi măng Việt Nam, Công nghệ lạc hậu năng lực yếu - Báo Khoa học và Phát triển số 44 ngày 31/10-6/11/2002.
[10] Nguyễn Mạnh Hùng - Giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số tháng 11/2002.
[11] Nguyễn Mạnh Hùng - Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số tháng
11/2002.
[12] Phan Lê - Công ty thuê tài chính mô hình phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11/2001.
[13] Lê Huy Khôi - Hướng đi nào cho ngành thép Việt Nam - Tạp chí
Con số và Sự kiện số 8/2002.
[14] Vũ Chí Lộc - Giáo trình chuyển giao công nghệ - Trường Đại học Ngoại thương, 1998.
[15] Vũ Chí Lộc - Giáo trình đầu tư nước ngoài - Trường Đại học Ngoại thương - NXB Giáo Dục, 1997.
[16] Võ Đại Lược - CNH - HĐH Việt Nam đến năm 2000, NXB Khoa học xã hội, 1996.
[17] Kỳ Minh - Bảo Châu - Triển vọng của ngành công nghệ thông tin ở
nước ta - Tạp chí Con số và Sự kiện số quý I/2002.
[18] Nghị định 45/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 01/7/1998 của Chính phủ
Quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ.
[19] Tiến sỹ Lưu Văn Nghiêm - Định hướng thị trường trong phát triển công nghệ đường sắt trước tiến độ hội nhập - Tạp chí kinh tế và Dự báo số 6/
2002.
[20] Dương Ngọc - Cách mạng tạo sức bật cho nền kinh tế Việt Nam trở thành một quốc gia Công nghiệp vào 2020 - Thời báo kinh tế Việt Nam, số Quốc Khánh 02/9/2002.
[21] Giáo sư Nguyễn Đình Phan - CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, tạp chí KCM ngày 3/1998.
[22] Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghệ ngày 28/01/ 1989.
[23] Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội 5 năm
2001 - 2005 - Bao cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đảng IX.
[24] Quyết định 2109/1997 QĐBKHHCN & MT. Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng. Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.
[25] Danh Sơn - Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước vở Việt Nam - Thực trạng vấn đề và giải pháp - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 264 tháng 5/2000.
[26] Tạp chí công nghiệp số 20/ 1999.
[27] Tạp chí công nghiệp quý I/2002. [28] Tạp chí công nghiệp số 20/2002.
[29] Tạp chí Kinh tế Việt Nam và thế giới, số 71 xuất bản tháng 6/1999. [30] Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế, Luận văn thạc sỹ kinh tế - Trường
Đại học Ngoại thương.
[31] Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 22/3/1995.
[32] Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Thịnh - Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam. (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn) - NXB chính trị quốc gia, 1999.
[33] Trần Văn Thọ, CNH Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bình
Dương, NXB TP. HCM, 1997.
[34] Tiến sỹ Bùi Anh Tuấn - Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. NXB Thống kê Hà Nội, 2000.
[35] Vũ Hữu Tửu - Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương - Trường Đại học
Ngoại thương - NXB Giáo Dục, 1998.
[36] Quốc Trường và Minh Phương - Tổng công ty bưu chính viễn thông
Việt Nam 10 năm đổi mới và phát triển - Kinh tế và Dự báo tháng 6/ 2002.
[37] Thanh Xuân - Thương mại điện tử còn “xa lạ” với Doanh nghiệp
Việt Nam - Báo Khoa học và Phát triển số 50 ngày 12/12/2002. [38] Văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII, IX.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8355.doc