Trong trường hợp khách hàng thực hiện đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử thông qua mạng internet hay điện thoại, ngân hàng sẽ có một số khó khăn trong việc kiểm tra, xác thực khách hàng do thiếu các phương tiện truyền thống như: chữ kí, chứng minh thư Trong trường hợp này, thông thường các ngân hàng xác định khách hàng thông qua việc yêu cầu khách hàng điền đầy đủ vào mẫu đề nghị giao dịch ngân hàng điện tử và gửi đến ngân hàng, trong mẫu này có những thông tin mà chỉ có ngân hàng và khách hàng mới có thể biết được. Ví dụ, các thông tin mà Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam yêu cầu khách hàng của mình phải điền đầy đủ khi có đề nghị thiết lập giao dịch điện tử là: tên người mở tài khoản, số, ngày, số chứng minh thư, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ e-mail,số zip. Trong đó, chỉ có thông tin về mã số zip là chỉ có ngân hàng và khách hàng mới biết được. Song đây chỉ là mã giao dịch nên không có quy định buộc ngân hàng và khách hàng phải giữ bí mật. Mặt khác, mã số này không chỉ sử dụng cho khách hàng trong giao dịch mở tài khoản tiền gửi mà còn sử dụng trong các mẫu giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm nên khả năng bị tiết lộ thông tin là khá cao.
90 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Ngân hàng Ngoại Thương, còn có nhiều nguyên nhân xuất phát từ chính những khách hàng, họ là yếu tố chính của việc triển khai dịch vụ e-banking. Mọi loại hình kinh doanh mới chỉ có thể thành công khi khách hàng nhiệt tình với nó, chính vì vậy khách hàng là nhân tố quyết định đến thắng lợi của e-banking. ở đây, nguyên nhân của việc khách hàng của e-banking còn ít là do thói quen dùng tiền mặt tồn tại trong nhân dân đã quá lâu mà không phải có thể thay đổi một chốc, một lát. Ngày nay, trong khi trên thế giới việc nhận tiền lương hàng tháng đều thông qua việc chuyển tiền vào tài khoản của các cá nhân, thì ở Việt Nam việc này lại rất ít các cơ quan thực hiện, nó chỉ được thực hiện ở một số doanh nghiệp nước ngoài, ở các liên doanh và ở một số ngân hàng, tổ chức tài chính, tín dụng.Điều này thực sự là rất cồng kềnh và khó khăn cho bộ phận kế toán nhưng nó vẫn được tiến hành, do chính những người lao động muốn được cầm lấy, nắm lấy số tiền mà họ làm ra được trong tháng. Đây là một thói quen cố hữu, lâu đời, đã hình thành và bám rễ rất sâu và khó thay đổi trong người dân. Có thể nói “độ sâu tài chính” của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp bởi tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt còn rất cao, trên 30% trong thanh toán bán buôn và hơn 95% trong thanh toán bán lẻ. Thực tế cho thấy, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán là rất bất tiện, tốn kém nhiều chi phí kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản và lại không an toàn.
Bên cạnh đó, đời sống nhân dân ta mặc dù đã được cải thiên rất nhiều, nhưng mức thu nhập, tích lũy còn thấp, do vậy hệ thống tài khoản cá nhân ở Việt Nam chưa phát triển. Điều này cũng trái ngược với xu thế chung khi mà các nước trên thế giới đang tiến tới nền văn minh tiền tệ, ngân hàng trở thành người quản lý chính, là thủ quỹ của toàn xã hội, mỗi cá nhân đều có tài khoản tại ngân hàng.
Cùng với hai vẫn đề trên là chính tâm lý của khách hàng khi tham gia vào dịch vụ mới này. Đó là tâm lý e ngại, sợ rủi ro cũng như chưa hiểu hết được những tiện ích mà ngân hàng điện tử đem lại cho chúng ta. Đây là do người dân không được tiếp nhận những kiến thức này một cách chính thức mà thông qua những nguồn tin không chính xác nên chưa hiểu rõ, thậm chí còn hoang mang không dám sử dụng. Đồng thời mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, nhiều người chưa quen với việc sử dụng các dịch vụ hiện đại của ngân hàng, khó thích nghi ngay và ngại tìm hiểu. Hơn nữa, nhiều người vẫn coi dịch vụ này là chỉ dành cho những người có thu nhập cao. Chính những điều trên đã hạn chế rất nhiều đến lượng người sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng.
Trên đây là một số những nguyên nhân chính của các hạn chế, tồn tại của ngân hàng điện tử. Biết được những nguyên nhân trên, chúng ta có thể đưa ra những biện pháp để hạn chế những tồn tại và có những giải pháp để sao cho phát triển e-banking tại Ngân hàng Ngoại Thương có hiệu quả.
Chương III
Giải pháp mở rộng và phát triển
dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam nói chungvà tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng
Thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Thuận lợi
Như đã phân tích ở trên, phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là xu hướng tất yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển. Chính vì vậy, trong thời gian tới, việc triển khai loại hình dịch vụ này ở các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ diễn ra phổ biến hơn. Trong thời gian qua, Việt Nam đang dần dần khắc phục những khó khăn, tồn tại để việc phát triển e-banking ngày càng có thuận lợi. Có thể thấy, trong tương lai, dịch vụ sẽ có một môi trường tương đối thuận lợi để phát huy các tiện ích của mình.
Một trong những thuận lợi đầu tiên phải kể đến cho sự phát triển của dịch vụ e-banking ở Việt Nam là Việt Nam có môi trường kinh tế- xã hội ổn định, tốc độ tăng trưởng ở mức tương đối cao so với trong khu vực và trên thế giới, đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện rõ rệt.
Sau khi tiến hành đổi mới, đưa đất nước phát triển theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc phát triển kinh tế và có môi trường xã hội- chính trị ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm ở mức ổn định cao, mỗi năm mức độ tăng trưởng trung bình là từ 5-7%. Đây là tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với thế giới và tốc độ này luôn được giữ ổn định ngay cả khi nền kinh tế thế giới và khu vực gặp khó khăn hay bị khủng hoảng. Bên cạnh đó, môi trường xã hội và chính trị của Việt Nam rất ổn định, tạo điều kiện cho mọi ngành kinh tế của đất nước phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian qua, Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là quốc gia có môi trường ổn định nhất và là điểm đầu tư an toàn nhất trong khu vực cũng như trên thế giới. Đây thực sự là môi trường thuận lợi để kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp.
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2003, tuy phải đối mặt với nhiều thách thức như: chịu ảnh hưởng của dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), chiến tranh ở Irắc, hiệp định AFTA có hiệu lực với việc cắt giảm thuế nhập khẩu và bãi bỏ các hạn chế về mặt định lượng đối với hàng hoá nhập khẩu (1.416 mặt hàng) từ mức thuế suất 40-50% xuống còn thấp hơn hoặc bằng 20% và còn tiếp tục giảm theo lộ trình cam kết của hiệp định AFTA hay như tình hình thời tiết không mấy thuận lợiđã có những ảnh hưởng rất lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, nhưng nền kinh tế của chúng ta trong 6 tháng đầu năm 2003 đã đạt được mức tăng trưởng khá, thể hiện đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,9% so với cùng kì năm trước, trong đó đóng góp của khu vực dịch vụ vào mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế là 6,38%1 Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 4 (7+8/2003)
.
Chính sự an toàn của môi trường kinh tế-chính trị-xã hội đã tạo tiền đề cho sự ổn định của đồng Việt Nam, làm cho ngành tài chính tiền tệ của Việt Nam cũng được đà phát triển mạnh mẽ, trong đó đáng kể nhất là ngành ngân hàng. Ngành ngân hàng của Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng, trong thời gian qua, sau khi nhận thức được những điều kiện thuận lợi đã tăng tốc đầu tư cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho nhân dân.
Môi trường xã hội ổn định và phát triển cao làm cho đời sống nhân dân Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước cải thiện rõ rệt, mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tạo điều kiện cho họ tiếp xúc với những loại hình dịch vụ mới, tiện ích và hiện đại. Với mức sống của nhân dân ngày một cao như thế này, chúng ta có thể tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp của loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử.
Bên cạnh môi trường ổn định, chúng ta còn một thuận lợi nữa là ngành ngân hàng của Việt Nam luôn có sự giúp đỡ và ủng hộ của các nhà lãnh đạo Nhà nước Việt Nam, ngân hàng Nhà nước, đồng thời nhận được sự hỗ trợ của ngân hàng thế giới.
Bắt đầu từ khi ngành ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử, ngành đã nhận được sự quan tâm quý báu cũng như những chỉ đạo sát sao từ phía các nhà lãnh đạo Nhà nước và của Ngân hàng Nhà nước trong việc định ra chiến lược phát triển chung cho toàn ngành, đề ra những chính sách, qui định để tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ này tồn tại và phát triển. Trong thời gian qua, sau khi nhận thức được vai trò và vị trí của thanh toán điện tử, Việt Nam đã cho ra đời nhiều văn bản pháp lý để tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho ngành này phát triển. Có thể kể đến một số văn bản pháp lý quan trọng phục vụ cho hoạt động của ngân hàng điện tử như: Thông tư liên tịch Tổng cục Bưu điện-Bộ Nội vụ-Bộ Văn hoá thông tin số 08/TTLT ngày 24/5 năm 1997, Quyết định số 308- QĐ/NH2 ngày 16/9/1997, Quyết định số 371/1999/QĐ/NHNN1 ngày 19/10/1999, Quyết định 212/2002/QĐ/NHNN ngày 20/3/2002, Quyết định 44/QĐ/TTg ngày 21/3/2002, Quyết định 349/2002/QĐ/NHNN ngày 17/4/2002 ..
Ta thấy rằng, việc ứng dụng chứng từ điện tử, chữ kí điện tử, bảo vệ thông tin cho khách hàng trong hoạt động ngân hàng là tất yếu trong quá trình tin học hoá, nhằm từng bước mở rộng các dịch vụ hiện đại. Đối với ngân hàng, ưu tiên hàng đầu là xây dựng hệ thống thanh toán điện tử hiện đại phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước, đồng thời, chuẩn bị những dịch vụ cần thiết phục vụ cho nhu cầu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong tương lai. Mặt khác, ứng dụng chứng từ điện tử trong nghiệp vụ kế toán và thanh toán ngân hàng còn tạo điều kiện để các ngân hàng Việt Nam tham gia vào các quá trình trao đổi, hợp tác kinh tế với các nước ASEAN thông qua các chương trình hợp tác kĩ thuật. ý nghĩa quan trọng của các quyết định trên là, ngân hàng là ngành đầu tiên ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng chứng từ điện tử và chữ kí điện tử trong giao dịch hạch toán, thanh toán. Xét về mặt xã hội, các quyết định trên còn có ý nghĩa trong việc khởi tạo môi trường pháp lý cho ứng dụng công nghệ thông tin bào các ngành kinh tế nói riêng. Như vậy, các quyết định trên sẽ mang lại lợi ích trực tiếp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và cho mỗi người dân nếu tham gia trong hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Hiện nay, vì nhiều lý do mà các dịch vụ như home banking, internet banking ở Việt Nam chưa phát triển mạnh, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của khách hàng. Có thể nói, việc ban hành những văn bản pháp luật trên vào thanh toán điện tử ngân hàng là một quyết định đúng đắn, kịp thời và tất yếu để các ngân hàng Việt Nam mở rộng, bắt kịp với xu thế phát triển của các ngân hàng trongkhu vực và thế giới.
Một trong những thuận lợi nữa cho hoạt động của dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam là sự giúp đỡ của Ngân hàng thế giới. May mắn là một số ngân hàng thương mại của Việt Nam trong đó có Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới để cải tổ các hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng và các hệ thống này cũng có độ hiện đại không kém của các ngân hàng khác trên thế giới. Đồng thời, Ngân hàng Thế giới cũng đã phổ biến cho Việt Nam những kinh nghiệm của một số nước khác trên thế giới trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã hoàn thành và chính thức đưa vào vận hành hệ thống thanh toán bù trừ giữa Ngân hàng Nhà nước và 6 ngân hàng thương mại lớn từ tháng 5 năm 2001, kết thúc giai đoạn I của dự án Hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Với giai đoạn II, từng ngân hàng sẽ thực hiện tiểu dự án, trong đó có một cấu phần quan trọng dành cho việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử và sẽ hoàn thành vào cuối năm 2003.
Cùng với những thuận lợi trên, chúng ta còn thấy rõ, hiện nay, công nghệ thông tin đang được phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đây thực sự là một thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam bởi vì sự ra đời và phát triển của e-banking gắn liền với những ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng.
Qua những phân tích trên đây, có thể nhận thấy, trong tương lai dịch vụ ngân hàng điện tử có một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển và mở rộng trong toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các ngân hàng cần phải nắm bắt được những thuận lợi này, phát huy hết những ưu điểm của ngân hàng mình để ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng mà cụ thể là phát triển dịch vụ ngân hàng một cách có hiệu quả nhất.
Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, trong thời gian tới, ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng cũng sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử.
Một trong những khó khăn và thách thức đã, đang và sẽ tồn tại có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển của dịch vụ e-banking là môi trường pháp lý của Việt Nam. Trong phần thuận lợi trên, chúng ta đã phân tích được mặt tích cực của các văn bản pháp lý mà Việt Nam đã ban hành rất kịp thời để tạo điều kiện cho hoạt động của dịch vụ e-banking. Nhưng nhìn chung, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của dịch vụ ngân hàng điện tử.
Mặc dù dịch vụ ngân hàng điện tử đã được triển khai tương đối lâu ở Việt Nam, từ năm 1994, nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa xây dựng được một hành lang pháp lý hoàn chỉnh để đảm bảo cho e-banking hoạt động có hiệu quả. Chúng ta còn chưa có luật về thương mại điện tử, luật về chữ ký điện tử, những luật về sử dụng kỹ thuật số và công nghệ thông tin trong nền kinh tế nói chung. Mà điều này chẳng khác gì chúng ta có ô tô mà chưa có đường đi, không biết chạy đường nào. Điều này tương đối dễ hiểu, vì ngân hàng điện tử vẫn còn là một loại hình dịch vụ mới mẻ, để hoàn thiện môi trường pháp lý thì cần phải có nhiều thời gian. Nhưng trong điều kiện thế giới đã phát triển mạnh mẽ thì càng đòi hỏi chúng ta phải có những thay đổi tương ứng để cho phù hợp với sự phát triển này.
Song song với các lợi ích rõ rệt, thương mại điện tử nói chung, ngân hàng điện tử nói riêng cũng đặt ra hàng loạt những thách thức, những đòi hỏi cần phải được đáp ứng. Những đòi hỏi của ngân hàng điện tử là một tổng thể của hàng chục vấn đề như : hạ tầng cơ sở công nghệ; hạ tầng về tiền tệ; hạ tầng cơ sở nhân lực; bảo mật, an toàn; bảo vệ sở hữu trí tuệ; bảo vệ người tiêu dùng; môi trường kinh tế pháp lý Hiện nay, Việt Nam mới đang trong quá trình hoàn thành các văn bản pháp lý cho thương mại truyền thống. Tuy nhiên, triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử là tình huống bắt buộc đối với Việt nam trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy mà việc việc xây dựng một khung pháp lý cho nó cũng chính là một đòi hỏi và là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết.
Hiện nay, Chính phủ mới chỉ ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về việc quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet; cung cấp thông tin lên mạng Internet; biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an ninh quốc gia trong hoạt động Internet chứ không có các văn bản pháp luật cụ thể điều chỉnh về thương mại điện tử. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, thì vấn đề môi trường pháp lý cho ngân hàng điện tử hoạt động lại cấp thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta chưa có luật về chữ kí điện tử, chứng từ điện tửđể điều hoạt động của loại hình dịch vụ mới này. Hiện nay, mặc dù đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh về thanh toán điện tử nhưng vẫn còn khá đơn giản, khi đem áp dụng thì còn nhiều điều chưa được làm rõ. Điều này ít nhiều đã có những ảnh hưởng đến việc triển khai dịch vụ này. Đồng thời, hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu tính ổn định, đồng bộ và hiệu quả thi hành chưa cao, nên trong thời gian tới, chúng ta phải có biện pháp thay đổi để tạo điều kiện cho không chỉ ngân hàng điện tử mà còn nhiều loại hình dịch vụ mới có môi trường thuận lợi trong quá trình ra đời và phát triển.
ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng một khung pháp luật cho thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng phải đối mặt với những thách thức sau :
Trước hết, hệ thống pháp luật của Việt Nam còn chưa ổn định, thiếu chặt chẽ và hiệu lực thi hành chưa cao. Ví dụ, Bộ luật dân sự và một số văn bản khác đã có những quy định khá chi tiết về bảo vệ quyền tác giả. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này vẫn còn có những vi phạm.
Thứ hai, chúng ta chưa có sự lựa chọn chính thức cuối cùng về phạm vi của TMĐT. Như đã đề cập, các tổ chức quốc tế đưa ra những định nghĩa khác nhau về TMĐT theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Đối với Việt nam, hiện nay chúng ta vẫn còn đang băn khoăn về phạm vi của khái niệm này. Khi chưa có định nghĩa pháp lý chính thức khẳng định phạm vi của TMĐT, chúng ta chưa thể giới hạn phạm vi của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để tiến hành việc sửa đổi, bổ sung hay xây dựng quy định mới cần thiết và phù hợp.
Thứ ba, các thiết chế pháp lý khác của Việt nam còn chưa phát triển đồng bộ. Cơ quan nào sẽ có thẩm quyền kiểm tra, xác minh tính hợp pháp của các chữ ký điện tử và các văn bản, hợp đồng được thoả thuận, ký kết bằng phương tiện điện tử? Các giao dịch được thực hiện trên Internet có liên quan tới các quốc gia khác thì cơ quan thuế Việt nam hay cơ quan thuế nước ngoài sẽ được quyền thu thuế và thu bao nhiêu thì hợp lý? Liệu cơ quan hải quan đã có được cơ chế cần thiết để kiểm định xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm phần mềm máy tính chưa? Tất cả những câu hỏi đó còn chưa có lời giải đáp trong hệ thống pháp luật tại Việt nam.
Đây thực sự là một bài toán mà Việt Nam cần xem xét và có các giải pháp khắc phục ngay trước mắt. Chúng ta biết rằng, dịch vụ ngân hàng điện tử đã được phát triển mạnh mẽ ở các nước trên thế giới cũng như ở một số nước trong khu vực, đó là do họ có một môi trường pháp lý thuận lợi làm cho hoạt động của loại hình dịch vụ này ngày càng được mở rộng. Có thể dẫn chứng một số quốc gia như:
ở Hoa Kỳ, chính phủ không có các hạn chế không cần thiết đối với thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng, nếu chính phủ cần phải tham gia thì chỉ là tạo môi trường pháp lý giản dị và nhất quán cho nó, mà không phải là điều tiết nó. Và như chúng ta biết, công nghệ thông tin đã được ứng dụng mạnh mẽ vào ngành ngân hàng, dịch vụ ngân hàng cũng ra đời từ đây và Mỹ là quốc gia phát triển nhất loại hình dịch vụ này.
Một quốc gia khác là Singapore, để tạo điều kiện cho hoạt động của dịch vụ ngân hàng điện tử, Singapore đã đưa ra các văn kiện quan trọng bậc nhất điều chỉnh hoạt động của dịch vụ này như: Luật giao dịch điện tử, luật chống lạm dụng máy tính điện tử, luật bí mật riêng tư,
Có thể thấy rằng, thế giới và khu vực đã thấy trước được tầm quan trọng và vai trò không thể thiếu được của ngân hàng điện tử trong cuộc sống và sự phát triển của quốc gia và đã có những điều chỉnh phù hợp để tạo điều kiện cho dịch vụ này được phát triển mạnh mẽ. Chúng ta cần phải xem xét những kinh nghiệm của họ để xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho dịch vụ này phát triển.
Khó khăn thứ hai mà dịch vụ ngân hàng điện tử phải đối mặt là sự phát triển công nghệ thông tin của Việt Nam còn yếu kém, mặc dù trong thời gian qua đã có những cải thiện rõ nét trong thời gian qua. Chúng ta còn thiếu một lượng lớn các chuyên gia trong lĩnh vực này, đồng thời thị trường công nghệ thông tin của chúng ta còn chưa phát triển và phát triển chưa đồng đều ở các địa phương. Cơ sở hạ tầng thông tin của quốc gia còn kém phát triển và phát triển chưa đồng bộ. Các sản phẩm về công nghệ thông tin trong thời gian qua của chúng ta đều phải nhập khẩu từ các nước phát triển trên thế giới.
Như chúng ta đã biết, trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin. Đến nay, hầu hết mọi cơ quan, ban ngành, bộ máy hành chính các cấp, mọi tổ chức chính trị- văn hoá- xã hội, hệ thống giáo dục đào tạo và nhiều gia đình đã và đang sử dụng máy tính trong hoạt động hàng ngày. Với hàng triệu chiếc máy tính đang vận hành và hàng ngàn mạng máy tính nội bộ, mạng diện rộng đang tạo ra một thị trường khá hấp dẫn cho nền công nghệ thông tin nước nhà. Mặc dù có rất nhiều tiến bộ trong ứng dụng, nhưng nhìn chung thị trường công nghệ thông tin Việt Nam còn khai, phân bổ chưa đồng đều, phần nhiều máy tính khai thác ít tính năng, nhiều nơi còn lãng phí. Các ứng dụng chuyên ngành đang sử dụng chủ yếu được phát triển trên nền công nghệ của những năm đầu thập kỷ 90. Bản thân từ góc độ người ứng dụng, một bộ phận không nhỏ có tâm lý không muốn đổi mới quá nhanh đưa đến xáo trộn, một bộ phận khác tích cực đổi mới nhưng lực bất tòng tâm: kinh phí, nhân lực thiếu, yếuĐiều này sẽ không tạo ra động lực cho dịch vụ ngân hàng điện tử phát triển vì sự phát triển của e-banking gắn liền với sự phát triển của công nghệ thông tin quốc gia.
Bên cạnh những khó khăn trên là những khó khăn, thách thức từ chính phía ngành ngân hàng. Đó là vấn đề cải tổ lại hệ thống ngân hàng. Muốn phát triển dịch vụ e-banking, chúng ta phải tiến hành đồng thời với việc cải tổ lại hệ thống ngân hàng. Khó khăn lớn nhất đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi thực hiện phương thức kinh doanh này là phải thực hiện việc cải tiến quản lý, cải tổ lại bộ máy tổ chức của ngân hàng song song và dựa trên ứng dụng công nghệ, đồng thời với việc xây dựng cơ sở pháp lý. Đây là điều không dễ dàng với các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng. Nếu chúng ta không cải tổ thì các công nghệ mới áp dụng vào sẽ không có hiệu quả. Trong thời gian qua, một số ngân hàng trong đó có ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã có một số đề án cải tổ bộ máy của mình cho phù hợp với cơ cấu các dịch vụ mới.
Cuối cùng, thách thức lớn nhất mà ngành ngân hàng Việt Nam phải đối mặt khi triển khai dịch vụ e-banking vẫn là vấn đề nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ này bao gồm: trình độ hiểu biết của cán bộ ngân hàng về những ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng, số lượng và chất lượng của các chuyên gia công nghệ thông tin. Đối với cán bộ ngân hàng, những hiểu biết của họ về dịch vụ ngân hàng điện tử còn hạn chế, kiến thức về các phương tiện điện tử nói chung và internet nói riêng nhiều khi chưa được phổ cập nên gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai loại hình dịch vụ này. Còn đối với các chuyên gia về công nghệ thông tin, chúng ta không những còn thiếu về số lượng mà cả năng lực chuyên môn cũng là bài toán khó cần giải quyết.
Qua việc phân tích những thuận lợi và khó khăn đối với dịch vụ ngân hàng điện tử trong tương lai, ta thấy rằng, ngành ngân hàng sẽ phải đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn khi triển khai loại hình dịch vụ này, đồng thời cũng có nhiều điều kiện thuận lợi tạo điều kiện cho nó phát triển. Tuy nhiên, khó khăn vẫn là nhiều hơn, chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phải biết khắc phục những khó khăn, thách thức, tận dụng các điều kiện thuận lợi, phát huy những thế mạnh của ngân hàng mình, chỉ có vậy, các ngân hàng mới thành công trong quá trình phát triển dịch vụ e-banking.
Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Chúng ta đều biết rằng, bất kỳ một loại hình dịch vụ hiện đại nào được cung cấp bởi ngân hàng cũng kèm theo rủi ro cho người sử dụng dịch vụ đó. Hơn nữa, những loại hình dịch vụ càng có nhiều lợi ích thì mức độ rủi ro càng cao. Tuy nhiên, đối với loại hình dịch vụ e-banking- một loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ đối với Việt Nam thì cả ngân hàng và khách hàng đều phải cùng nhau tìm mọi biện pháp khắc phục rủi ro và từng bước hoàn thiện dịch vụ. Nếu làm được điều đó, thì chắc chắn trong tương lai không xa, dịch vụ e-banking sẽ được sử dụng rộng rãi và mang lại thu nhập không nhỏ cho hệ thống ngân hàng.
Để xây dựng được hệ thống các giải pháp hữu hiệu cho sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử trong thời gian tới, chúng ta cần nắm rõ quan điểm mở rộng và phát triển loại hình dịch vụ này. Quan điểm phát triển dịch vụ e-banking về nguyên tắc phải bám sát quan điểm phát triển kinh tế- xã hội trong 10 năm 2001-2010 và kế hoạch 5 năm của Nhà nước Việt Nam. Từ đó, Việt Nam quán triệt tư tưởng phát triển loại hình dịch vụ này là:
Ngân hàng điện tử có một vai trò và vị trí quan trọng trong thực hiện chiến lược hiện đại hóa ngành ngân hàng và phát triển kinh tế- xã hội trong thời kì công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Đẩy mạnh hoạt động của dịch vụ ngân hàng điện tử trong tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam .
Ưu tiên vấn đề cải cách lại hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh để nhằm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng điện tử.
Hoàn thiện môi trường pháp lý và các chính sách liên quan nhằm tạo cơ hội mở rộng dịch vụ ngân hàng điện tử.
Trên cơ sở các quan điểm về phát triển dịch vụ e-banking trên, tôi xin kiến nghị đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của loại hình dịch vụ còn mới mẻ này.
Giải pháp đối với Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng đã đạt nhiều thành tích rất đáng khích lệ trong công tác triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử. Đến nay, hầu như các ngân hàng đều đã có những sản phẩm của loại hình dịch vụ này, dù rằng chỉ là ở mức sơ khai. Tuy nhiên, công tác triển khai của các ngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục ngay nếu họ muốn đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của dịch vụ này trong thời gian tới.
Xét cho cùng, về cả hai giác độ của ngân hàng và khách hàng, dịch vụ e-banking vẫn có khả năng đem lại nhiều lợi ích hơn là bất lợi. ít nhất, ngân hàng có thể thấy được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Hơn nữa, trong thời đại công nghệ thông tin và trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống không còn đem lại lợi thế cạnh tranh cũng như nhiều doanh lợi cho các ngân hàng nữa, buộc các ngân hàng phải phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Trong bối cảnh đó, phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử là một giải pháp sáng suốt, mang tính chiến lược.
Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là rất cần thiết. Sau đây, tôi xin kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam một cách hiệu quả hơn.
Để thực hiện giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử một cách có hiệu quả, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phải tính đến một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược công nghệ thông tin cho ngân hàng mình nhằm thực hiện chiến lược tổng thể của ngân hàng, có tính đến nội lực của ngân hàng mình. Đây là nhiệm vụ tối quan trọng, nó sẽ giúp ngân hàng có một hướng đi thích hợp trong thời gian dài, qua đó, có thể thấy được mục tiêu cần đạt được và tìm các biện pháp để thực hiện được mục tiêu đó.
Thứ hai, phải có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo ngân hàng. Với tầm nhìn của mình, lãnh đạo ngân hàng có thể thấy một khối thống nhất, trong đó có ngân hàng điện tử để có thể hoà nhập giữa dịch vụ ngân hàng điện tử với các phần khác. Hơn nữa, với sự quan tâm của lãnh đạo ngân hàng mới có thể huy động nguồn lực về tài chính, nhân lực và trang thiết bị cần thiết.
Thứ ba, một giải pháp cũng rất quan trọng nữa là ngân hàng phải tiến hành cải tổ lại bộ máy tổ chức của ngân hàng mình dựa trên công nghệ thông tin. Nếu chúng ta không tiến hành cải tổ thì các công nghệ mói áp dụng sẽ không có hiệu quả, đồng thời sẽ không có sự đồng bộ ở các khâu. Nếu như ngân hàng tiến hành cải tổ lại toàn bộ các bộ phận như: bộ máy quản lý, các phòng ban, nhân sự thì việc thành công trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử là dễ dàng, khả năng cạnh tranh của họ sẽ tăng lên rất nhiều và không thua kém gì các ngân hàng nước ngoài. ở đây, Vietcombank cần phải đổi mới mô hình tổ chức kinh doanh: Cơ cấu lại mô hình tổ chức hiện đại, đổi mới hoàn thiện trụ sở chính và chi nhánh theo hướng mô hình ngân hàng thương mại hiện đại, với bộ máy tinh gọn, phù hợp với tổ chức kinh doanh và quản lý theo các sản phẩm dịch vụ để phù hợp với yêu cầu hiện đại hoá các quy trình nghiệp vụ. Cùng với hoạt động trên, ngân hàng nên tích cực mở các khoá đào tạo do các chuyên gia về e-banking hướng dẫn cho toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng để mở rộng tầm hiểu biết và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của họ vào thực tiễn. Phải gửi các nhân viên tới các ngân hàng của các nước phát triển đã triển khai thành công dịch vụ ngân hàng điện tử để học tập những kinh nghiệm mà ngân hàng họ đạt được, từ đó về triển khai áp dụng vào ngân hàng mình trên cơ sở thực tiễn của Vietcombank.
Thứ tư, một trong những giải pháp quan trọng nhất vẫn là vấn đề về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Trên cơ sở sắp xếp, định biên lại lao động trong toàn hệ thống để có kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài cho hoạt động của các ngân hàng nói chung và hoạt động của dịch vụ ngân hàng điện tử. Trước hết tập trung quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt tại trụ sở chính và chi nhánh, đào tạo nâng cao chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ chuyên gia các nghiệp vụ chủ yếu của dịch vụ e-banking đạt tiêu chuẩn trình độ các ngân hàng nước ngoài đóng tại Việt Nam và các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Thứ năm, để tận dụng triệt để hệ thống ngân hàng điện tử đã xây dựng, cần phải nhân rộng việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ điện tử. Để thực hiện tốt điều này, ngân hàng phải có một kế sách tiếp thị khách hàng, không những là doanh nghiệp lớn mà cả doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hộ gia đình, cá thể. Mỗi ngân hàng thương mại đều phải tích cực tuyên truyền giới thiệu về dịch vụ e-banking cùng những tiện ích và thuận lợi mà nó đem lại cho người sử dụng, từ đó, khách hàng mới hiểu rõ hơn và muốn tham gia vào loại hình dịch vụ còn tương đối mới mẻ này. Đồng thời, phải tìm hiểu thói quen của khách hàng và giải quyết những thắc mắc, băn khoăn của họ để có thể đáp ứng, trả lời những yêu cầu đó một cách tốt nhất. Chỉ có như vậy, khách hàng mới thực sự yên tâm khi quyết định lựa chọn dịch vụ này. Vì, như chúng ta đã biết, dân chúng nước ta với đa phần là nông dân, mức sống còn thấp thì điều kiện tiếp cận với công nghệ thông tin là chưa phổ biến, chính vì vậy các ngân hàng phải thông qua mọi phương tiện truyền thông để có thể tuyên truyền, phổ biến đến mọi người về sản phẩm này.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phải tập trung vào đối tượng khách hàng là những doanh nghiệp vừa và nhỏ và những người có thu nhập cao trước. Bởi vì, nếu áp dụng dàn trải thì sẽ rất khó, vì những người nông dân chẳng hạn, họ sẽ không thể quan tâm, nhưng những doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người có thu nhập cao trong xã hội thì họ luôn sẵn sàng sử dụng các dịch vụ này, có điều phải làm sao cho nó tiện dụng và chi phí phải là thấp nhất. Ngân hàng cũng phải hiểu tâm lý và thói quen sử dụng của khách hàng, giải quyết những băn khoăn, thắc mắc của họ. Đây là một yêu cầu rất quan trọng, vì chỉ có xác định đúng đối tượng thì chúng ta mới tập trung vào một cách có hiệu quả. Đồng thời, Vietcombank cũng không được sao lãng việc tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân những tiện ích và sự thuận lợi của dịch vụ ngân hàng điện tử để không chỉ có các doanh nghiệp, những người có thu nhập cao mới sử dụng dịch vụ này mà cả những người có thu nhập ở mức trung bình cũng có thể sử dụng dịch vụ này thường xuyên. Trong thời gian tới, Vietcombank cần phải mở rộng hoạt động tiếp xúc giữa ngân hàng với các doanh nghiệp và các hộ sản xuất để giới thiệu nhiều hơn nữa về e-banking. Ngoài ra, không chỉ giới thiệu dịch vụ ngân hàng điện tử của ngân hàng đối với các khách hàng ở trong nước mà còn phải quan tâm tới những khách hàng là cá nhân nước nước ở Việt Nam cũng như người Việt Nam ở nước ngoài, vì những đối tượng này là những người thường xuyên phải tiến hành giao dịch gửi tiền và thanh toán dịch vụ, hàng hoá. Với chiến lược này, khách hàng của dịch vụ e-banking sẽ ngày càng được mở rộng và số lượng giao dịch ngân hàng điện tử sẽ tăng lên rõ rệt.
Thứ sáu, vấn đề an toàn cần được giải quyết thấu đáo cho khách hàng yên tâm, tuy nhiên, cũng không nên quá phức tạp, mà vẫn phải dễ sử dụng và tiện lợi. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp hệ thống mạng thông tin của hệ thống ngân hàng bị xâm nhập và tài sản, thông tin của khách hàng tại ngân hàng đã bị lạm dụng gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng và khách hàng của họ. Như ta đã biết, mới đây, tại Việt Nam, việc website của Vietcombank bị tấn công và tạm dừng cung cấp dịch vụ trong vòng một ngày là ví dụ điển hình về sự cấp thiết của vấn đề bảo đảm an toàn, bảo mật hệ thống thông tin. Với thực trạng này, các ngân hàng khi thực hiện kết nối, giao dịch ngân hàng điện tử thì trước hết phải chuẩn bị thật kĩ lưỡng, có biện pháp, chính sách rõ ràng về chiến lược đảm bảo an toàn, bí mật thông tin. Một hệ thống thông tin bảo đảm an toàn bảo mật phải đáp ứng được nguyên tắc căn bản là:
Đảm bảo tính tin cậy: thông tin không bị truy cập trái phép bới những người không có thẩm quyền
Đảm bảo tính nguyên vẹn: thông tin không thể bị sửa đổi, làm giả
Đảm bảo tính sẵn sàng để đáp ứng như cầu của những người có thẩm quyền.
Đảm bảo tính không thể từ chối: thông tin phải đảm bảo được cam kết về mặt pháp luật bởi người cung cấp.
Để an toàn cho khách, ngân hàng có thể dùng các giải pháp như: sử dụng mật mã (password), cho phép đánh máy sai mật mã tối đa tới 3 lần, qui định thời gian vào mật khẩu, bức tường lửa để tránh những kẻ phá hoại, qui định hạn mức giao dịch, yêu cầu tài khoản chỉ định
Khi tiến hành giao dịch ngân hàng điện tử, để đảm bảo thiết lập giao dịch đúng đối tượng, tránh sự giả mạo, trong đề nghị thiết lập giao dịch như đã đề cập, tránh việc cấp tên giao dịch, mã số giao dịch sai đối tượng, tránh việc tiếp cận, xâm nhập, tiết lộ tên giao dịch, mã số giao dịch trong quá trình truyền tin, ngân hàng phải:
Xác định chính xác thông tin, dữ liệu mà khách hàng điền vào mẫu. Trong trường hợp sử dụng mã số (như mã số zip của Vietcombank) để nhận biết khách hàng thì phải xác định rõ cả khách hàng và nhân viên ngân hàng về trách nhiệm giữ bí mật về thông tin này.
Lựa chọn hình thức chuyển giao thông tin về tên giao dịch, mã số giao dịch theo phương thức thích hợp bảo đảm an toàn hơn. Việc sử dụng thư điện tử chỉ được thực hiện khi đã được mã hoá, bảo đảm an toàn, không bị tiếp cận, đọc trộm trong quá trình chuyển tin.
Giao dịch ngân hàng điện tử là loại hình hoạt động tương đối mới, có tiểm ẩn nhiều rủi ro. Việc kết nối, giao dịch, chuyển thông tin thông qua mạng internet cũng đạt khách hàng vào rủi ro về thông tin cá nhân có thể bị tiết lộ do sự xâm nhập trái phép. Do vậy, cần có thông báo trước cho khách hàng để đảm bảo rằng: một là, khách hàng hiểu rõ những rủi ro có thể phát sinh và thực hiện các biện pháp bảo mật thích hợp, khách hàng phối hợp cùng với ngân hàng đảm bảo chính sách an toàn thông tin trên mạng. Hai là, chấp thuận, cho phép kết nối, giao dịch, chuyển giao thông tin qua mạng internet, bảo đảm sự an toàn cho thông tin cá nhân của khách hàng.
Thứ bảy, cần có các giải pháp về chế độ uỷ quyền, phân quyền, phân trách nhiệm rõ ràng và kèm theo nó là cơ chế kiểm soát về chế độ này.
Thứ tám, gắn việc giáo dục, phổ biến cho khách hàng với việc đào tạo cán bộ ngân hàng. Ngân hàng có thể khuyến khích cán bộ ngân hàng học hỏi, sử dụng dịch vụ này bằng cách bán máy vi tính có chiết khấu, cung cấp tài liệu và sử dụng internet miễn phí trong một khoảng thời gian nào đó, phối hợp với nhà cung ứng phần mềm có kế hoạch đào tạo lâu dài
Thứ chín, ngân hàng phải biết học tập kinh nghiệm của các ngân hàng khác trên thế giới, biết vận dụng kinh nghiệm đó vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các nước đã triển khai thành công dịch vụ này và điều kiện thực tế ở Việt Nam, đặc biệt là những điều kiện của ngân hàng mình để có đối sách phát triển e-banking cho phù hợp.
Thứ mười, phải tăng cường phát triển các thị trường mới. Đối với thị trường trong nước: Tiếp tục mở rộng, phát triển mạng lưới chi nhánh của Vietcombank ở các khu công nghiệp mới, khu kinh tế cửa khẩu, khu đô thị mới theo hướng chỉ cung cấp các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng điện tử để họ có thể chỉ sử dụng dịch vụ này tiến hành giao dịch với khách hàng. Đây thực sự là những địa điểm then chốt cần phải mở rộng, vì lượng tiền giao dịch ở những khu vực này là tương đối lớn. Ví dụ, trong thời gian tới, Vietcombank cần phải đặt thêm nhiều máy ATM, mở thêm nhiều chi nhánh ở đây.
Đối với thị trường nước ngoài: Mở rộng thêm các ngân hàng đại lý, nghiên cứu thành lập thêm các văn phòng đại diện của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam tại nước ngoài để tăng cường phát triển dịch vụ e-banking của Vietcombank trên toàn cầu. Tăng cường giới thiệu sản phẩm này tới mọi khách hàng, hạ thấp chi phí, tăng chất lượng dịch vụ và thời gian xử lý để có thể cạnh tranh với những ngân hàng trong nước họ.
Cuối cùng, không quên phối hợp với các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô, các ngành liên quan để có thể từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách và nhất là cơ sở hạ tầng truyền thông, chi phí giao dịch điện tử
Dịch vụ ngân hàng điện tử, có thể nói, mở ra nhiều triển vọng nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi Ngân hàng Ngoại Thương cần có chiến, sách lược và bước đi phù hợp. Chỉ có điều chắc chắn là, khách hàng sẽ không phụ lòng những ai có tầm nhìn chiến lược với phương châm “bình đẳng, đôi bên cùng có lợi”.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, trở thành ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động có hiệu quả nhất Việt Nam, đi tiên phong trong phong trào ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực ngân hàng, được nhiều tổ chức có uy tín trên thế giới bình chọn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam. Có được những kết quả trên là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên ngân hàng không ngừng vươn lên, học hỏi và luôn đổi mới chính mình. Tuy nhiên, giai đoạn mới của sự phát triển của đất nước với nhiệm vụ trọng tâm là tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo nhịp độ cao và bền vững, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những yêu cầu mới nặng nề và phức tạp đối với công cuộc đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Những năm tới, ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phải tiếp tục cải cách sâu rộng và triệt để hơn, tìm ra những giải pháp hoàn thiện các nghiệp vụ của mình. Bên cạnh đó, ngân hàng phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Trong đó, đặc biệt phải chú ý phát triển dịch vụ e-banking, đây chính là xu hướng phát triển tất yếu của ngân hàng.
Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp mọi hoạt động của ngành ngân hàng, chính vì vậy, mọi chỉ đạo của NHNN đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển dịch vụ e-banking của Việt Nam. Trong thời gian tới, để e-banking thực sự phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, trước tiên, NHNN cần phải có định hướng chiến lược phát triển e-banking chung cho tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bên cạnh những nghị định của Chính phủ, NHNN cần phải có các thông tư chỉ đạo trực tiếp việc áp dụng các văn bản pháp lý trong thực tiễn hoạt động. Đồng thời, do đây là cơ quan trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của ngành ngân hàng nên hiểu rất rõ những yêu cầu của ngành này trong quá trình triển khai dịch vụ e-banking, NHNN phải có những kiến nghị với Nhà nước để ban hành các văn bản pháp lý phù hợp với thực tiễn phát triển của dịch vụ này.
Phải có sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo NHNN vì với tầm nhìn của mình, NHNN sẽ tổ chức hệ thống ngân hàng cùng triển khai dịch vụ e-banking thành một khối thống nhất, tăng cường sức mạnh của cả hệ thống, làm cho hiệu quả của dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam đạt được là cao nhất.
NHNN cần phải thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các chuyên đề hay những khoá đào tạo các ngân hàng trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử, đồng thời đó cũng là cơ hội để các ngân hàng trong nước trao đổi kinh nghiệm với nhau, rút ra các bài học kinh nghiệm cho mình để sao cho tránh được những lỗi mà các ngân hàng khác đã gặp phải.
NHNN phải tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước hợp tác với các ngân hàng nước ngoài để học tập kinh nghiệm của họ. Ngoài ra, tạo điều kiện cho các cán bộ các ngân hàng đi nước ngoài, học tập kinh nghiệm của những nước đã có những thành công trong công tác triển khai dịch vụ này.
Cuối cùng, NHNN phải là cơ quan giám sát, kiểm tra trực tiếp các vi phạm của các ngân hàng trong quá trình triển khai e-banking. Chỉ có như vậy, NHNN mới sửa chữa kịp thời những sai sót mà các ngân hàng thương mại trong nước phạm phải, tránh cho các ngân hàng khác khỏi đi phải những vết xe đổ của họ. Bên cạnh đó, luôn động viên, khích lệ các ngân hàng vượt qua mọi khó khăn, tiến hành thành công một loại hình dịch vụ còn tương đối mới mẻ này.
3. Giải pháp đối với Chính phủ
Trong mọi lĩnh vực, những ý kiến chỉ đạo từ phía các nhà lãnh đạo Nhà nước luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động để đưa các doanh nghiệp phát triển theo đúng hướng, đặc biệt trong giai đoạn Việt Nam đang thực hiện đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế. Như chúng ta đã phân tích ở trên, môi trường pháp lý của Việt Nam mặc dù đã có những cải thiện rõ rệt trong thời gian qua, nhưng nhìn chung là chưa đáp ứng được những yêu cầu của sự phát triển của e-banking trong thời gian tới. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng phát triển, Chính phủ và Quốc hội cần phải ban hành các văn bản, các nghị định, chủ trương, phương hướng, biện pháp cụ thể cho dịch vụ này.
Như chúng ta đã biết, môi trường pháp lý của các hoạt động công nghệ thông tin, của các hoạt động trên mạng và các hoạt động mang tính thương mại đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết : thừa nhận tính pháp lý của thương mại điện tử; thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử; bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử; bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử; quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ khu vực các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước; bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ; bảo vệ bí mật riêng tư; bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang Web , thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền vi-rút phá hoại...Thực tế cho thấy, chúng ta đã có một số văn bản pháp luật liên quan tới thương mại điện tử như quyết định cho ngành ngân hàng được sử dụng chứng từ điện tử trong hạch toán và thanh toán, chữ kí điện tử.Tuy nhiên, những văn bản này còn sơ sài, chưa tạo khung pháp lý đầy đủ về thương mại điện tử.
Với những thách thức to lớn về mặt pháp luật nói trên, Việt Nam sẽ làm cách nào để xây dựng khung pháp luật về thương mại điện tử và ngân hàng điện tử? Có lẽ việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế và áp dụng chúng vào điều kiện Việt Nam là cách tiếp cận hợp lý để giải quyết vấn đề này.
Hiện nay trên thế giới có hai cách tiếp cận chính đối với khung pháp luật về thương mại điện tử. Cách thứ nhất là xây dựng và ban hành một hay một vài đạo luật về các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử (TMĐT). Cách thứ hai là sửa đổi, bổ sung tất cả các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại cho phù hợp với TMĐT. Lựa chọn cách tiếp cận nào sẽ tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của từng nước.
Thực tiễn của Việt Nam liên quan tới việc lựa chọn giải pháp xây dựng khung pháp luật về TMĐT mang những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về thương mại của ta còn chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ và hiệu lực thi hành thấp, cần liên tục được bổ sung, sửa đổi, ngay cả khi không nảy sinh vấn đề hoàn toàn mới mẻ như TMĐT.
Thứ hai, hoạt động lập pháp của Việt Nam mang đặc điểm là đối với những quan hệ xã hội còn mới mẻ và chưa phát triển thì chúng ta chưa điều chỉnh bằng luật ngay mà chỉ ban hành pháp lệnh hoặc nghị định. Lý do quan trọng của thực tế này là ở chỗ thủ tục soạn thảo và ban hành pháp lệnh hoặc nghị định thường giản tiện hơn nhiều so với thủ tục ban hành luật. Thủ tục đó cho phép vừa tiết kiệm được thời gian soạn thảo vừa kịp thời đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của cuộc sống. Mặt khác, các đạo luật nếu được ban hành cũng chỉ có thể được thực thi trong thực tiễn sau khi đã có các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành.
Với những đặc điểm nêu trên của hệ thống pháp luật và của hoạt động lập pháp ở Việt Nam, nên chăng chúng ta sẽ áp dụng cả hai cách tiếp cận về xây dựng khung pháp luật thương mại điện tử trên thế giới ? Một mặt, việc ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ nghị định của Chính phủ, là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu trước mắt phát triển thương mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử (NHĐT) nói riêng. Nội dung của văn bản này phải đề cập một số vấn đề cấp bách và chung nhất như khái niệm TMĐT, NHĐT, chính sách TMĐT, NHĐT của Chính phủ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc góp phần xây dựng và phát triển TMĐT, NHĐT ở Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng cần có cách tiếp cận lâu dài và tổng thể hơn hướng tới việc sửa đổi bổ sung toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực khác có liên quan như pháp luật hợp đồng, pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật thuế, pháp luật hình sự.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản pháp luật, Thủ Tướng Chính phủ phải luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao ngành ngân hàng trong quá trình triển khai dịch vụ e-banking, đồng thời tạo điều kiện cho một số ngân hàng chưa đủ năng lực tài chính vay vốn để tiến hành hiện đại hoá ngân hàng dựa trên sự phát triển của công nghệ thông tin. Chỉ có như vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam mới có điều kiện mở rộng, phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử theo đúng hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Kết luận
Xúc tiến ngân hàng điện tử là xu thế chung của thế giới trên con đường phát triển nền kinh tế tri thức và hướng đến xã hội thông tin. Chấp nhận ngân hàng điện tử là một sự tự nguyện có tính cam kết, dựa trên sự hiểu biết với một quyết tâm cao để hội nhập và phát triển với thế giới và khu vực trước bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại đang diễn ra cực kỳ sôi động.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc hội nhập mang theo cả thời cơ và thách thức, nhưng thách thức lớn nhất sẽ là không tham gia gì cả. Ngân hàng điện tử thực chất là những hoạt động kinh tế mới, vô cùng năng động, sử dụng những công cụ hiện đại nhất để thu thập, xử lý và chuyển tải những khối lượng lớn thông tin khổng lồ để đưa ra các quyết định nhanh chóng và chính xác. Nếu không tham gia các hoạt động này nguy cơ tụt hậu và lệ thuộc vào nước ngoài sẽ tăng lên.
ở Việt Nam mà cụ thể là ở Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, ngân hàng điện tử mới đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Trước mắt còn rất nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua, song việc phát triển loại hình dịch vụ mới mẻ này là hướng đi đúng đắn, là một xu thế tất yếu đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng. Không những nó góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành ngân hàng Việt Nam mà còn giúp Việt Nam hội nhập vững chắc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, các ngân hàng Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phải xem xét đề ra chiến lược và lộ trình thích hợp để triển khai thành công dịch vụ e-banking ở Việt Nam. Có như vậy, các ngân hàng Việt Nam mới tăng được sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế và khu vực.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do đề tài còn khá mới và khó nên chắc chắn không thể tránh được những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc để tôi có thể hoàn thiện đề tài này hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
Sách
Thương mại điện tử, Bộ thương mại, nhà xuất bản thống kê, năm 1999
Thành công nhờ Internet, nhóm tác giảElicom, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2000
Các văn bản pháp luật
a. Các văn bản pháp luật điều chỉnh về internet
- Nghị định của Chính phủ số 21/CP ngày 5/3/1997 về việc ban hành "Quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập, sử dụng mạng INTERNET ở Việt Nam"
- Quyết định số 1110/BC ngày 21/5/1997 về việc cấp phép cung cấp thông tin lên mạng Internet
- Thông tư liên tịch Tổng cục Bưu điện - Bộ Nội vụ - Bộ Văn hoá Thông tin số 08/TTLT ngày 24/5/1997 hướng dẫn cấp phép việc kết nối, cung cấp và sử dụng Internet ở Việt nam.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ số 848/QĐ-BNV(A11) ngày 2/10/1997 ban hành quy định về biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an ninh quốc gia trong hoạt động Internet ở Việt nam.
- Quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện số 679/1997/QĐ-TCBĐ ngày 14/11/1997 về việc ban hành thể lệ dịch vụ Internet.
b. Các văn bản điều chỉnh về thanh toán điện tử
- Nghị định 91-CP ngày 25/11/1993 của Chính phủ về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thông tư số 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Quyết định số 308-QĐ /NH2 ngày 16/9/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế về lập, sử dụng, kiểm soát, xử lý, bảo quản và lưu trữ chứng từ điện tử của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 353-1997/QĐ/NHNN2 ngày 22/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế chuyển tiền điện tử.
- Quyết định số 469/1998/QĐ-NHNN2 ngày 31/12/1998 về việc ban hành Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ chuyển tiền điện tử trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
- Quyết định số 56/1999/QĐ-NHNN2 ngày 12/2/1999 ban hành quy định về xây dựng, cấp phát, sử dụng và quản lý mã kháo bảo mật trong thanh toán chuyển tiền điện tử của NHNN.
- Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày19/10/1999 ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng.
- Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày19/10/1999 ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng.
- Quyết định 44/QĐ/TTg ngày 21/3/2002 về việc sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các ngân hàng và các tổ chức khác được thực hiện dịch vụ thanh toán.
- Quyết định số 52/QĐ/NHNT/QLT ngày 01 tháng 04 năm 2002 của tổng giám đốc ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam về việc ban hành “Hướng dẫn qui trình nghiệp vụ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ATM”
Báo và tạp chí
Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề 2003 về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Tạp chí Ngân hàng số 5 năm 2002, số 4,11năm 2003
Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng số 1, 4 năm 2003
Tạp chí Tin học ngân hàng số 4 năm 2003
Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam số 6, 7 năm 2002
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 8, 10, 14, 16 năm 2003
Tạp chí Tin học và đời sống số 4, 5, 6 năm 2003
Thời báo ngân hàng số 3, 61, 66 năm 2003
Tài liệu nội bộ
Lịch sử Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Báo cáo kết quả tài chính 6 tháng đầu năm 2002
Báo cáo tình hình kinh doanh năm 2002
Báo cáo kết quả tài chính 6 tháng đầu năm 2003
Thông tin từ các trang web
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 200.Doc