Đề án cũng phân tích thực trang của hệ thống các trung gian tài chính của Việt nam trên cơ sở đó đánh giá mức độ tham gia và kết quả đạt được.cùng với những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại,việc khắc phục nhứng nguyên nhân đó cho phép các trung gian tài chính co thể tham gia TTCK một các dễ dàng hơn
58 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am gia loại bảo hiểm này. Còn các loại hình bảo hiểm rủi ro, nhà nước chủ trương cho thực hiện từng bước một, phù hợp với nhu cầu thực tế và khi điều kiện kinh tế – xã hội cho phép. Vào cuối năm 1987, thực hiện chiến lược đổi mới nền kinh tế, nhà nước ta đã ban hành luật về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; cho phép các nhà đầu tư, các liên doanh được phép thực hiện bảo hiểm tại Bảo Việt hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do thoả thuận, đã mở đầu cho việc phát triển thị trường bảo hiểm tại Việt Nam. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bãi bỏ bao cấp trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, nghị định 100/CP ngày 18-12-1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã làm cho nhu cầu bảo hiểm tăng lên, thị trường bảo hiểm phát triển một cách đột biến; 7 công ty bảo hiểm mới ra đời, hơn 36 văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động (trước đó chỉ có Bảo Việt). Riêng bảo hiểm nhân thọ, được Bảo Việt triển khai đầu tiên vào năm 1996 và đến cuối năm 1999, Bộ Tài chính đã cho phép 4 công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có gần 20 doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, trong đó có trên 50% là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô thị trường cũng phát triển nhanh chóng Sự tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm trong thời gian này chủ yếu thuộc khu vực bảo hiểm nhân thọ, tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ chỉ vào khoảng 15%/năm trong những năm gần đây. Sản phẩm bảo hiểm cũng đa dạng và phong phú hơn, trước thời kỳ đổi mới chỉ có khoảng 20 loại sản phẩm, thu hẹp trong một số lĩnh vực truyền thống như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người. Đến nay, các sản phẩm bảo hiểm đã bao trùm hầu hết các lĩnh vực khác nhău của đời sống xã hội.
1.1.5 Công ty kiểm toán
Đến nay, Việt Nam đã có 18 công ty kiểm toán độc lập, bao gồm 5 công ty nhà nước, 8 công ty tư nhân, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 1 công ty liên doanh với tất cả trên 1500 lao động; trong đó, khoảng 300 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên quốc gia và một số người đã có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế.
Cùng với việc phát triển nhanh chóng về số lượng, việc tạo lập và hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý và hệ thống các nguyên tắc, thông lệ, chuẩn mực về nghiệp vụ kiểm toán cũng được tiến hành song song và đã tạo được các điều kiện thuận lợi ban đầu để hệ thống kiểm toán Việt Nam phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như chuẩn bị tham gia hội nhập vào thị trường tài chính khu vực
Tuy nhiên, trên thực tế, ngành kiểm toán Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, nhất là kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và năng lực quản lý của các công ty. Trong lúc đó, còn nhiều quy định hạn chế phạm vi hoạt động của các công ty kiểm toán nước ngoài và các công ty kiểm toán Việt Nam thì vẫn được nhà nước bảo hộ nhiều nên chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh để kích thích các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng hoạt động, dẫn đến tình trạng khách hàng không mấy thoả mãn khi sử dụng các thông tin kinh tế-tài chính do các công ty kiểm toán Việt Nam đưa ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ, chưa phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đặc biệt là sự ràng buộc về trách nhiệm pháp lý đối với các thông tin kế toán do kiểm toán xác nhận cũng như những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của các chức danh kiểm toán nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan, trung thực trong hành nghề kiểm toán. Tuy vậy, trong thời gian qua vẫn có một số doanh nghiệp kiểm toán hoạt động tốt, giữ được niềm tin của khách hàng và mở rộng được thị trường Sự ra đời của hệ thống kiểm toán Việt Nam gồm kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ được xem là một trong những thành tựu quan trọng đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế và kiểm toán được công nhận là một trong những ngành thương mại dịch vụ quan trọng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
1.1.6 Quỹ đầu tư
Sự đa dạng hoá các trung gian tài chính trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã góp phần ra đời các loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó phải kể đến hệ thống quỹ đầu tư phát triển (mô hình quỹ nhà nước) và quỹ đầu tư nước ngoài hiển diện tại Việt Nam.
Quỹ đầu tư phát triển: Các quỹ này là những tổ chức tài chính được thành lập bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do Uỷ ban nhân dân địa phương trực tiếp quản lý. Chức năng và nhiệm vụ của mỗi quỹ đầu tư có phần khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng địa phương. Đặc điểm hoạt động của quỹ cho phép khả năng huy động vốn rộng rãi trong công chúng, đầu tư vào các dự án lớn, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, mà lâu nay những dự án loại này vẫn phải chờ ngân sách. hiện nay chúng ta mới chỉ có Quỹ đầu tư nhà nước, chưa có các quỹ đầu tư tập thể để có thể khắc phục được những hạn chế nhất định của Quỹ đầu tư Nhà nước. Hiện nay, ngoài Quỹ đầu tư Nhà nước còn có khá nhiều loại, mô hình quỹ khác hoạt động tại Việt Nam cùng với tên gọi Quỹ. Có quỹ xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, có quỹ không tự hình thành, tự quản lý và cũng tự xử lý khi có sự việc xảy ra
Quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam:Hiện nay có rất nhiều quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như :Vietnam Fund Ltd, Beta vietnam Fund Ltd, Vietnam Enterprise Fund, Beta Mecong Fund Ltd, Lazard Vietnam Fund Ltd…. Tất cả các quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam đều là Qũy đóng. Người đầu tư muốn rút vốn có thể trao đổi với nhau hoặc mua bán tại Sở giao dịch nơi quỹ niêm yết. Cách thức hoàn vốn của các qũy là rất khác nhau, có thể hoàn vốn tại một thời điểm nhất định, hoặc cho phép chiết khấu sau mỗi thời hạn nhất định.
Quỹ đầu tư chứng khoán:Theo quy định quỹ này do công ty quản lý quỹ cùng vói các tổ chức cá nhân Việt nam và nước ngoài thành lập ,vốn điều lệ tố thiểu là 5 tỷ dồng Việt nam việc lập quỹ có phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng phải được UBCK chấp nhận.Hiện nay thị trường của chúng ta chỉ có quỹ đầu tư chứng khoán VF1,quỹ VF1 thành lập theo giây phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng ngày 24/3/2004 do UBCKNN cấpvới số vốn điều lệ là 300 tỷ và số lượng chứng chỉ quỹ là 30triệu đơn vị quỹ,thời hạn hoạt đọng của quỹ là 10 năm.Quỹ này đầu tư tối thiểu 60%tổng giá trị tài sản vào các loại chứng khoán dang và sẽ niêm yết, phần còn lại đầu tư vào các loại tài sản khácnhư công cụ của thị trường tiền tệ , bất động sản tiền mặt dự trữ
1.2 Thực trang tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1.2.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển nền kinh tế Việt nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bước đầu được triển khai nghiên cứu và chuẩn bị, trong đó những người đi tiên phong phải kể đến chính là các cơ quan ngân hàng, thể hiện đầu tiên là việc thành lập Ban nghiên cứu thị trường vốn đặt tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN). Đồng thời, NHNN cũng đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại (NHTM) xúc tiến việc nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về nhân lực và vật lực để có thể tham gia ngay từ đầu khi thị trường chứng khoán Việt nam ra đời và đi vào hoạt động.Thực hiện Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán, ngày 2/11/1999 NHNN đã có Thông tư số 04/1999/TT-NHNN5 hướng dẫn về việc thành lập công ty chứng khoán của NHTM, theo đó NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần của nhà nước và nhân dân được thành lập công ty chứng khoán trực thuộc, có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập. Hiện nay, các công ty chứng khoán thuộc hệ thống ngân hàng đang giữ vị trí nòng cốt trong số các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường. Cho đến nay, NHNN đã chấp thuận cho 4 NHTM quốc doanh gồm NHĐT&PT Việt Nam, Ngân hàng công thương việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,Ngân hàng ngoại thương Việt nam và các NHTM cổ phần là Ngân hàng á Châu và Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội,Ngân hàng Đông á được thành lập công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán trong thời gian vừa qua đều đã triển khai nhiều nghiệp vụ khác nhau như môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư...và bước đầu thu được những kết quả nhất định.
Sự tham gia của Tổng công ty bảo hiểm Việt nam vào thành lập công ty chứng khoán Bảo Việt(BVSC). Nhằm phát huy tối đa mạng lưới chi nhánh sẵn có, cộng với đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã có chiến lược thành lập công ty chứng khoán từ rất sớm. Công ty đã triển khai việc đào tạo cán bộ và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật song song với tiến trình thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt là công ty chứng khoán đầu tiên được nhận giấy phép hoạt động của UBCKNN. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt có trụ sở chính ở Hà nội và chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện tốt vai trò là tổ chức trung gian, BVSC đã sớm tổ chức thực hiện các điểm giao dịch từ xa như điểm giao dịch tại Hải Phòng và Long An thông qua các công ty thành viên của Bảo Việt để phục vụ cho cổ đông của các công ty niêm yết. BVSC cũng đã thực hiện việc điều tra nghiên cứu để triển khai thêm các điểm giao dịch từ xa tại các địa bàn, khu vực kinh tế lớn và phát triển thành các Đại lý nhận lệnh giao dịch
1.2.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán.
ở Việt Nam, Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán được ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK ngày 27/3/1999 và Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3 ngày 14/6/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3, được xem là cơ sở pháp lý ban đầu cho việc thành lập và phát triển của một loại hình định chế tài chính phụ trợ hết sức mới mẻ mà không kém phần quan trọng vào sự thành công của thị trường là các thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó thành viên lưu ký bao gồm thành viên lưu ký trong nước và thành viên lưu ký nước ngoài, thành viên lưu ký trong nước là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại Việt Nam được phép cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân trong nước, thành viên lưu ký nước ngoài là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty chứng khoán liên doanh tham gia cung cấp dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Đến nay, UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán cho 16 tổ chức tham gia làm thành viên lưu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, bao gồm: 13 công ty chứng khoán và 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam là tập đoàn ngân hàng HSBC; ngân hàng Deutsche Bank; ngân hàng Standard Chartered Bank. Trong đó, việc tham gia của 3 ngân hàng thương mại làm thành viên viên lưu ký được xem là sự tham gia trực tiếp của các ngân hàng vào dịch vụ chứng khoán mà không cần thiết phải thành lập các công ty con, và đây cũng là 3 ngân hàng thương mại duy nhất ở Việt Nam (bao gồm cả ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế) được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán.
1.2.3. Tham gia của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào Ngân hàng chỉ định thanh toán.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam hiện nay có quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện dịch vụ chuyển tiền VND cho nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam thông qua mạng lưới chi nhánh rộng lớn tại hầu hết các tỉnh, thành phố trên toàn quốc và hệ thống thanh toán tập trung an toàn, tiện lợi. Dịch vụ chuyển tiền VND góp phần làm phong phú thêm hoạt động thanh toán của ngân hàng và tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài tại Việt nam. Đây chính là điều kiện đặc biệt quan trọng để Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam được UBCKNN lưạ chọn làm ngân hàng chỉ định thanh toán phục vụ cho hoạt động của TTGDCK. Cho đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã mở và quản lý tài khoản giao dịch của TTGDCK, 13 công ty chứng khoán thành viên; mở và quản lý tài khoản ký quỹ cho 16 thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ; thực hiện thanh toán bù trừ chính xác, kịp thời các thanh toán giao dịch chứng khoán giữa các công ty chứng khoán thông qua TTGDCK, đảm bảo thanh toán tiền mua, bán chứng khoán thông suốt cho hàng nghìn nhà đầu tư trên toàn quốc thông qua hệ thống BIDV. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã thực hiện tốt các lệnh thanh toán bù trừ bằng tiền, thực hiện lệnh sử dụng Quỹ hỗ trợ thanh toán an toàn theo đúng giới hạn về quỹ hỗ trợ thanh toán, tổ chức tốt việc đối chiếu, kiểm tra các số liệu chuyển tiền thanh toán chứng khoán đã giao dịch với TTGDCK.
1.2.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ trên TTGDCK.
Cùng với việc triển khai phương thức đấu thầu trái phiếu qua Trung tâm giao dịch chứng khoán, Kho bạc Nhà nước tổ chức thí điểm việc phát hành trái phiếu theo phương thức bảo lãnh, nhằm tạo thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới cho ngân sách Nhà nước và đầu tư phát triển, đồng thời cung cấp hàng hoá đủ tiêu chuẩn giao dịch cho Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Bảo lãnh phát hành là phương thức bán trái phiếu mà người phát hành (Bộ Tài chính – Kho bạc Nhà nước) không trực tiếp bán các loại trái phiếu cho các nhà đầu tư mà uỷ quyền cho các tổ chức có đủ khả năng về vốn, trình độ nghiệp vụ, uy tín và có mối quan hệ rộng rãi với các nhà đầu tư trên thị trường thực hiện. Tổ chức bảo lãnh phát hành là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, các công ty tài chính. Đến nay đã có 21 đơn vị được công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, gồm 14 ngân hàng thương mại và 7 công ty chứng khoán.
1.2.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán.
Theo qui định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, công ty muốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng để niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung phải đáp ứng các điều kiện về phát hành chứng khoán ra công chúng, ngoài ra các báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận. Trong quá trình hoạt động, tổ chức niêm yết cũng như các tổ chức kinh doanh chứng khoán còn phải định kỳ nộp báo cáo tài chính có ý kiến kiểm toán cho UBCKNN và TTGDCK. Nhận thức tầm quan trọng của các tổ chức kiểm toán trong hoạt động của thị trường chứng khoán, UBCKNN đã ban hành Quyết định số 26-2000/QĐ-UBCK2 ngày 5/4/2000 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập cho các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán. Theo đó, tổ chức kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho các tổ chức tham gia thị trường phải là tổ chức kiểm toán đang hoạt động hợp pháp tại Việt nam, có trên 5 năm kinh nghiệm hoạt động tại Việt Nam và các kiểm toán viên có tối thiểu 2 năm kinh nghiệm hành nghề kiểm toán. Ngoài ra, tổ chức kiểm toán còn phải đáp ứng được các yêu cầu về vốn pháp định, số lượng kiểm toán viên tối thiểu trong công ty và số lượng khách hàng hàng năm...vv. Đến nay, UBCKNN đã chấp thuận cho 6 công ty kiểm toán độc lập trong tổng số 32 doanh nghiệp kiểm toán đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam được phép tham gia kiểm toán các tổ chức tham gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Công ty kiểm toán Việt Nam (Vietnam Auditing Company- VACO, Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC), Công ty kiểm toán và tư vấn (A&C), Công ty Kiếm toán và Kế toán (Auditing and accounting Co.- AAC), Công ty Kiểm toán và dịch vụ tin học (Auditing & informatic Services Company- AISC), Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán Sài Gòn (AFC-SAIGON)
2. Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán
2.1 Các giải pháp vĩ mô
2.1.2 Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Hiện nay chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam như hiện nay, mục tiêu đặt ra cho hoạt động của TTCK Việt Nam là huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước vào công việc phát triển nền kinh tế. Để đạt được điều đó đòi hỏi phải có hệ thống chính sách đồng bộ cho việc phát triển thị trường vốn và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho các khu vực tài chính liên quan. Đây là một vấn đề khó khăn trong bối cảnh những điều kiện căn bản để làm tiền đề cho việc hình thành và phát triển thị trường vốn ở nước ta còn trong trạng thái sơ khai. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho việc hoạch định một chiến lược phát triển thị trường vốn hiệu quả trước tiên là phải có hệ thống chính sách hoàn chỉnh để thúc đẩy kinh tế phát triển. Các giải pháp cần đạt tới là củng cố, phát triển các thành phần kinh tế trên cơ sở qui hoạch lại khu vực DNNN, thông qua việc sử dụng các công cụ của thị trường vốn để huy động mọi nguồn vốn nhằm khuyến khích phát triển khu vực tài chính liên quan nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn vốn khan hiếm đến những nơi có nhu cầu về vốn. Thông qua việc thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân tạo ra hệ thống tài chính lành mạnh cho phép các lực lượng tham gia thị trường có sự cạnh tranh tích cực, tạo động lực thúc đẩy phát triển của thị trường, qua đó huy động tối đa các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Nhà nước cần phải tiến hành đồng bộ các bước sau:
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế: Ban hành một số luật mới và sửa đổi bổ sung một số luật pháp hiện hành để tiếp tục thể chế hoá cương lĩnh, chiến lược và các chủ trương, chính sách của Đảng, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cần thiết cho các hoạt động kinh tế.
Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ, giá cả: Chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng những nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia; giảm bội chi ngân sách, khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý đúng đắn các mối liên hệ: tích luỹ, tiêu dùng; tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư, ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển, huy động vốn trong nước và vốn bên ngoài. Đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn giản, ổn định, công bằng, khuyến khích làm ăn hợp pháp; thực hiện chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế đối với đầu tư phát triển và đối với những khu vực còn khó khăn.
Có chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại hối thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được nhập khẩu, từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ và là phương tiện lưu thông duy nhất trong nước. Đẩy mạnh sự phát triển ổn định của Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước: Nhà nước thực hiện tốt các chức năng như: định hướng sự phát triển của nền kinh tế; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho giới kinh doanh; khắc phục hạn chế và kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các Bộ và các cấp chính quyền không nên can thiệp sâu vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
2.1.2. Tạo lập thị trường tiền tệ hoạt động lành mạnh, ổn định tỷ giá hối đoái và kiểm soát được lạm phát
Các tổ chức kinh doanh có thể thoả mãn nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn thông qua việc tham gia vào hai thị trường, họ là những tác nhân làm cho thị trường hoạt động sôi động hơn và kết gắn giữa hai thị trường. Thị trường chứng khoán không thể phát triển nếu thị trường tiền tệ không ổn định và lành mạnh, ngược lại sự ổn định của thị trường tiền tệ là cơ sở và tiền đề cho việc xây dựng một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh. Do vậy việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ cũng là một trong những chính sách quan trọng hỗ trợ để phát triển thị trường chứng khoán Việt nam.
Hoàn chỉnh các văn bản pháp luật liên quan tới thị trường tiền tệ, trong đó ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan để có những biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các thành viên tham gia cũng như có những hướng dẫn cụ thể về các giấy tờ thương mại giao dịch trên thị trường để giúp các tổ chức kinh doanh có thể huy động vốn ngắn hạn trên thị trường với chi phí thấp nhất. Việc ra đời Pháp lệnh về thương phiếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức muốn tham gia thị trường và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường. Ngoài ra các văn bản xử lý đối với các hoạt động vi phạm pháp của thành viên là các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư... cũng cần sớm được ban hành không những tạo khuôn khổ cho thị trường mà còn điều chỉnh các hành vi của các tổ chức này.
Việc ổn định và lành mạnh hoá thị trường tiền tệ không chỉ ở việc quản lý pháp luật và tự do hoá lãi suất mà còn do chính nội lực của nền kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng tăng lên do đó sẽ tạo được cầu về vốn. Hơn nữa, mức thu nhập của công chúng cũng được cải thiện nên tiết kiệm trong dân cư cũng sẽ tăng lên làm tăng cung về vốn.
Trên phương diện quản lý, ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chương trình tăng cường năng lực và tính cạnh tranh cho các thành viên của thị trường cũng như những khuyến khích về tài chính cho các thành viên trong thời gian tới. Hiện nay, ở nước ta ngân hàng thương mại đóng vai là thành viên chính của thị trường tiền tệ, mọi giao dịch trên thị trường tiền tệ hầu như đều diễn ra giữa các ngân hàng với nhau. Vậy nên thúc đẩy phát triển và lành mạnh hoá thị trường tiền tệ cũng đồng nghĩa với việc hiện đại hoá và cải tổ hệ thống ngân hàng như các khâu thanh toán, mở rộng các loại hình dịch vụ, đưa các thành tựu của khoa học kỹ thuật đến với khách hàng, tự do cạnh tranh theo lãi suất thị trường, tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ ngân hàng nâng cao năng lực quản lý, thẩm định và đánh giá dự án
2.1.3. Khuyến khích phát triển thị trường thông qua các công cụ tài chính, thuế, phí và lệ phí ưu đãi đối với tổ chức tham gia thị trường chứng khoán .
Để khuyến khích thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển trong giai đoạn đầu, cần có các biện pháp thu hút ngày càng nhiều sự tham gia của các tổ chức niêm yết, các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư cá nhân cũng như các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Các biện pháp hiện thời có thể tập trung vào các ưu đãi về tài chính và thuế.
Đối với công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ ngoài việc được hưởng các ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của Luật thuế TNDN hiện hành còn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thêm 1 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 02 năm tiếp theo. Đối với tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, ngoài việc được hưởng các ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của Luật thuế TNDN hiện hành còn được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 2 năm tiếp theo kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu tại TTGDCK.
Trong thời gian tới, ngoài việc thực hiện các ưu đãi về thuế, phí và lệ phí đối với các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán như hiện nay, cần phải tính đến những ưu đãi mang tính dài hơi hơn nhằm tăng cung và khuyến cầu cho thị trường. Giai đoạn đầu như hiện nay ta đang áp dụng hình thức tạm thời miễn thu các loại phí đối với các công ty chứng khoán. Hiển nhiên, khi thị trường đi vào hoạt động ổn định, tình trạng này không thể kéo dài để tuân thủ theo nguyên tắc thị trường song việc tiếp tục các quy định ưu đãi về thuế và phí cho các tổ chức tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán một cách lành mạnh là cần thiết và cần phù hợp với diễn biến cụ thể của thị trường.
2.1.4. Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán
Theo như qui định tại các văn bản pháp qui liên quan đến hoạt động chứng khoán thì không phải bất cứ doanh nghiệp nào muốn huy động vốn để đầu tư cũng có thể phát hành chứng khoán và giao dịch trongTTCK. Các doanh nghiệp muốn phát hành các loại CK ra công chúng và các chứng khoán đó muốn đưa vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán phải hội đủ những tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định và phải được các cấp chuyên môn có thẩm quyền của Nhà nước cho phép. Cụ thể, để đảm bảo cho các hoạt động của TTCK được an toàn lành mạnh và ổn định, căn cứ vào các đối tượng và chủ thể tham gia TTCK chúng ta phải ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, áp dụng đối với các đối tượng là người phát hành, người đầu tư, người kinh doanh và môi giới chứng khoán.
Về phía các chủ thể là người phát hành chứng khoán: Đây là các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần, Kho bạc Nhà nước, Chính phủ, Chính quyền địa phương. Như vậy để điều chỉnh các đối tượng này đòi hỏi phải có sự đồng bộ giữa các văn bản luật liên quan đến Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, pháp luật về quản lý phát hành, kinh doanh, giao dịch trên TTCK, cũng như các qui chế về quản lý và lưu giữ chứng khoán, các qui định về môi giới chứng khoán....vv.
Về phía các đối tượng mua bán, kinh doanh chứng khoán: hành vi đầu tư của các nhà đầu tư, quan hệ mua bán chứng khoán là quan hệ vật chất, quan hệ tài sản giữa chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Để điều chỉnh đối tượng này cần có Luật đầu tư (cả đầu tư trong nước và ngoài nước), Luật thương mại, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật tín thác đầu tư..v.v.
Đối với hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán: đây là hành vi của các tổ chức tài chính trung gian, điều chỉnh đối tượng này cần có sự tham gia của các văn bản Luật chứng khoán và TTCK, Luật ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm.v.v. Hiện nay, lĩnh vực về TTCK là một lĩnh vực hoạt động phức tạp và mang tính chuyên ngành cao, nhưng lại chưa có văn bản Luật mà chỉ có các văn bản dưới luật (cụ thể là Nghị định) do vậy hiệu lực pháp lý không cao, nên trong quá trình triển khai thực hiện còn lúng túng khi có sự chồng chéo giữa các văn bản luật chung và luật chuyên ngành.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay vẫn còn đang ở tình trạng chắp vá, chồng chéo, sơ hở, tính pháp lý thấp, thiếu sự đồng bộ, thậm chí có những văn bản pháp qui còn chưa chặt chẽ, hiệu lực pháp lý chưa cao, có những trường hợp còn mâu thuẫn nhau giữa các luật. Do đó yêu cấu bức thiết phải có hệ thống lụât hoàn hoàn chỉnh và thống nhất
2.2 Các giải pháp cụ thể
2.2.1 Đẩy mạnh việc thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ thông qua việc thành lập công ty trực thuộc (công ty con)
Hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng cũng như Nghị định 144/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán không cho phép các ngân hàng được thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, mà đòi hỏi phải tách biệt nghiệp vụ này dưới hình thức thành lập công ty con chuyên kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước có những quy định khá chặt chẽ trong việc các ngân hàng thương mại thành lập công ty chứng khoán, yêu cầu khắt khe nhất đó là dư nợ quá hạn không được quá 5% tổng dư nợ. Chính điều này đã làm cho các ngân hàng cổ phần khó khăn trong việc triển khai thành lập công ty chứng khoán, vì hiện nay phần lớn các ngân hàng thương mại (kể cả quốc doanh) đều có dư nợ quá hạn rất lớn.
Để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán dưới hình thức thành lập công ty chứng khoán, hoặc các định chế chứng khoán khác, Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp:
- Giải toả được các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng thương mại, trong đó có biện pháp rất quan trọng là hoàn chỉnh các quy định về thủ tục phát mại các tài sản thế chấp (bất động sản và động sản) thông qua việc thành lập và đi vào hoạt động của các công ty mua bán nợ tài sản để xử lý các tài sản thế chấp các khoản vay trước đây. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho các ngân hàng giảm được dư nợ quá hạn và tài chính lành mạnh để có thể tham gia vào TTCK.
- Kiến nghị Chính phủ ưu đãi hơn nữa đối với các công ty chứng khoán có nguồn gốc từ các ngân hàng, trong đó phải kể đến việc miễn đóng thuế vốn đối với các tổ chức này.
-Ngân hàng Nhà nước và UBCKNN nghiên cứu sớm cho phép các ngân hàng thương mại lựa chọn một số đối tác nước ngoài để thành lập công ty chứng khoán liên doanh theo quy định tại Quyết định 139/1999/TTg của Chính phủ về tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.2.2. Tăng khả năng tham gia của các định chế quỹ đầu tư hiện có (quỹ đầu tư phát triển) thông qua tái cấu trúc các mô hình quỹ đầu tư hiện có.
Để quỹ đầu tư phát triển có thể tham gia vào thị trường chứng khoán, dưới hình thức là tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, cần thiết phải sắp xếp lại mô hình quỹ đầu tư phát triển theo các xu hướng sau:
- Tổ chức lại mô hình quỹ đầu tư phát triển theo tinh thần Nghị định 144/NĐ-CP; giữ nguyên mô hình hiện có, tiến hành sửa đổi, bổ sung điều lệ quỹ theo hướng thành lập các công ty con trực thuộc: (i) thành lập công ty chứng khoán dưới hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần hoạt động kinh doanh độc lập với Quỹ và do UBCKNN cấp giấy phép hoạt động; (ii) Thành lập công ty quản lý quỹ trực thuộc quỹ đầu tư phát triển do UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Tổ chức này chịu trách nhiệm về việc xin phép thành lập và phát hành các chứng chỉ quỹ đầu tư để huy động vốn, sử dụng các tài sản huy động để đầu tư vào chứng khoán theo quy định của pháp luật; (iii) Quỹ đầu tư phát triển có thể phát hành trái phiếu để tham gia niêm yết và giao dịch trên TTCK theo giấy phép phát hành và tiêu chuẩn niêm yết của UBCKNN; (iv) Quỹ sử dụng các tài sản của mình để đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần hoá như một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.
- Trên cơ sở tổng kết đánh giá mô hình hoạt động của quỹ đầu tư phát triển, Chính phủ cần ban hành văn bản Nghị định về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư phát triển cho phù hợp với pháp luật về chứng khoán và TTCK và thực tiễn mô hình quỹ đầu tư phát triển hiện nay.
2.2.3. Đẩy mạnh việc tham gia bảo lãnh và đấu thầu phát hành trái phiếu Chính phủ trên TTCK
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tham gia của các trung gian tài chính vào hoạt động đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, cần có những giải pháp tích cực và đồng bộ nhằm đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian tới, trong đó trọng tâm là:
- Trong bối cảnh hiện nay cho thấy chưa thể xóa bỏ cơ chế lãi suất trần (với tác dụng định hướng lãi suất đặt thầu tập trung hơn), song cũng cần phải xem xét đưa ra lãi suất cơ bản cho hợp lý và mềm dẻo hơn bằng cách căn cứ vào nhu cầu và khả năng tham gia thực tế của thành viên đấu thầu. Cần cải tiến cơ chế công bố lãi suất theo các nguyên tắc: lãi suất dài hạn cao hơn ngắn hạn, lãi suất bán buôn cao hơn bán lẻ.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa Kho bạc Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán trong việc tuyên truyền, vận động, tập huấn để tăng thêm số lượng thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán, tạo điều kiện cho các tổng công ty 90,91, các quỹ đầu tư và các doanh nghiệp nước ngoài có chi nhánh hoạt động tại Việt Nam tham gia thị trường này. Bên cạnh đó có thể xem xét cho các nhà đầu tư cá nhân lớn tham gia thị trường thông qua các tổ chức đại lý, môi giới chứng khoán.
- Cần có sự hợp lý hoá kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ để niêm yết trên TTCK, thông báo sớm cho các thành viên thị trường để họ chủ động tính toán cân đối nguồn vốn tham gia cho phù hợp, đồng thời các cơ quan quản lý, Trung tâm giao dịch chứng khoán có biện pháp phối hợp.
2.2.4. Đẩy mạnh tham gia vào dịch vụ ngân hàng lưu ký, giám sát
Để thị trường chứng khoán Việt nam phát triển và hội nhập với quốc tế thì vai trò của các thành viên lưu ký nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam được UBCKNN cấp phép hoạt động lưu ký phải là những tổ chức có kinh nghiệm trong hoạt động lưu ký, có uy tín trong kinh doanh và điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo cho việc lưu giữ an toàn cũng như có các phương tiện thanh toán hoàn hảo. Là thị trường mới nổi nhưng nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam và mong muốn có những cơ hội đầu tư ốn định. Tuy nhiên, thực tế trên thị trường hiện nay, lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua bán rất ít, điều này ảnh hưởng nhiều tới hoạt động của các thành viên lưu ký nước ngoài nói riêng cũng như việc phát triển thị trường nói chung. Chính vì vậy, để thị trường phát triển không thể không tính đến vai trò của các tổ chức trung gian tài chính như các công ty chứng khoán, ngân hàng chỉ định thanh toán, các tổ chức lưu ký đặc biệt là tổ chức lưu ký nước ngoài.
Để khuyến khích tổ chức, các nhân nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam nên:
Cung cấp thông tin đầy đủ cho các nhà đầu tư nước ngoài: Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thu thập thông tin đầu tư tại Việt Nam. Thứ nhất, do các thông tin thu thập chưa có độ chính xác cao và không cập nhật. Thứ hai, nguồn thông tin được dịch ra tiếng nước ngoài có số lượng không nhiều và không tập trung.
Nâng cao tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài: theo quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài nắm giữ tối đa 30% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành.Các cá nhân,tổ chức nước ngoài mua bán chứng khoán đang được niêm yết trên TTCK Việt Nam không quy định tỷ lệ nắm giữ.Việc khống chế tỷ lệ nắm giữ chứng khoán trong tình trạng mức vốn điều lệ của các doanh nghiệp VN còn thấp khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thành lập tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm là tổ chức chuyên đánh gía chất lượng chứng khoán nợ dựa vào tình hình tài chính của doanh nghiệp và chỉ tiêu về định tính như trình độ lãnh đậo của công ty uy tín, xu hướng phát triển trong tương lai...Tuy nhiên, ở VN hiện nay chưa có một công ty định mức tín nhiệm nào ra đời. Vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài không có cơ sở tin cậy để lựa chọn CK
Cuối cung là vấn đề ưu đãi thuế đối với các tổ chức, các nhân nước ngoài khi tham gia giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhà đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, cơ hội đầu tư, bảo vệ và thiết lập những vị thế cân bằng giữa họ với nhà đầu tư trong nước là việc làm rất cần thiết.
Tuy nhiên, Để đáp ứng mong muốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, và để nâng cao hơn nữa khả năng quản lý tập trung tỷ lệ tham gia thị trường của những đối tượng này, tránh những ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi các hoạt động đầu tư trên thị trường như đầu cơ thao túng thị trường, qui định hiện nay của UBCKNN trong việc phân tách phạm vi cung cấp dịch vụ lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán giữa các thành viên lưu ký trong nước và nước ngoài là hợp lý. Sau này, khi thị trường đã phá triển, các thành viên lưu ký trong nước đã tích luỹ đủ kinh nghiệm thị trường điều chỉnh phù hợp về mặt pháp lý, để tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho các tổ chức phụ trợ tham gia vào việc cung cấp dịch vụ lưu ký cho các tổ chức cho các tổ chức và cá nhân đầu tư trong và ngoài nước là cần thiết.
2.2.5. Tham gia của các định chế ngân hàng-tài chính vào việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt nam.
Một trở ngại khi thành lập công ty định mức tín nhiệm ở thị trường chứng khoán mới nổi là khung pháp lý và quản lý đối với các công ty đó thường không rõ ràng hoặc chưa có. Hơn nữa mô hình tổ chức và hoạt động của công ty định mức tín nhiệm phải được đề cập đến trong các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc các khuôn khổ pháp lý khác. Muốn cho công ty định mức tín nhiệm tồn tại được trong giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán một quốc gia thì cần phải có một số lượng đầy đủ các công cụ nợ phát hành huy động vốn cần được định mức tín nhiệm. Cơ sở hạ tầng của một thị trường trái phiếu là rất cần thiết để đặt nền móng cho công ty định mức tín nhiệm và thị trường trái phiếu Chính phủ là nơi thí điểm đầu tiên. Thành quả của thị trường trái phiếu Chính phủ và tín phiếu kho bạc là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của TTCK nợ qua việc cung cấp lãi suất chuẩn mực và cơ sở hạ tầng(như hệ thống giao dịch, thanh toán bù trừ và lưu ký...) qua đó có thể mở rộng ra các công cụ nợ tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập một số lượng đủ lớn công cụ thị trường nợ khả mại với yêu cầu phải được định mức tín nhiệm.
Căn cứ vào kinh nghiệm của các quốc gia đã thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới cũng như dựa vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nước ta hiện nay, ở Việt Nam trong thời gian tới cần thiết phải thành lập 1 tổ chức định mức tín nhiệm trực thuộc sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về mô hình thành lập tổ chức định mức tín nhiệm đầu tiên tại Việt nam: mô hình tổ chức định mức tín nhiệm là một doanh nghiệp nhà nước trong đó nguồn vốn đầu tư ban đầu lấy từ ngân sách 100%; mô hình tổ chức định mức tín nhiệm là một doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức định mức tín dụng quốc tế có uy tín và kinh nghiệm trên thế giới hoặc mô hình thành lập tổ chức tín nhiệm dưới dạng một công ty cổ phần trong đó các cổ đông chính sẽ là Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, các trung gian tài chính lớn và có uy tín như Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, tổng công ty bảo hiểm, các công ty tài chính và công ty chứng khoán.
Mỗi một mô hình có những ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng của chúng ta hiện nay, việc thành lập một công ty cổ phần định mức tín nhiệm trong đó các cổ đông chính là những định chế ngân hàng-tài chính trong nước có uy tín là một mô hình có tính khả thi cao, dựa trên những cơ sở sau: Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của một công ty định mức tín nhiệm là khách quan, độc lập, không bị ảnh hưởng và chi phối bởi bất kỳ một thế lực hoặc một yếu tố hành chính mệnh lệnh nào. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó có khả năng được đảm bảo triệt để trong trường hợp nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối và có tiếng nói quyết định trong doanh nghiệp. Mô hình công ty cổ phần là mô hình có khả năng tối ưu trong việc khắc phục nhược điểm này. Thông qua việc đa dạng hoá các thành phần sở hữu, mức độ xung đột về lợi ích giữa các chủ sở hữu được dung hoà.
Việc kết hợp với đối tác nước ngoài có kinh nghiệm trong lĩnh vực này để thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm liên doanh cũng là một phương án có nhiều ưu điểm, giúp chúng ta có cơ hội tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm và kiến thức cũng như tranh thủ được sự tài trợ về kỹ thuật và tài chính từ phía đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, trong bối cảnh quy mô thị trường của chúng ta còn quá nhỏ bé, số lượng các công cụ của thị trường nợ là đối tượng cho việc xếp hạng còn rất ít ỏi, tính thanh khoản thấp thì việc tìm kiếm một đối tác lớn lớn chấp nhận liên doanh với chúng ta là điều hoàn toàn không dễ dàng. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu thành lập, khi kinh nghiệm và trình độ của chúng ta còn chưa tương xứng với kinh nghiệm và trình độ của bên đối tác thì việc đánh giá xếp hạng cũng dễ bị phụ thuộc và có nhiều mâu thuẫn vì nhiều chuẩn mực của hệ thống tài chính của Việt nam còn chưa tương xứng với các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này.
Với thực tế thị trường hiện nay khả năng tham gia của các trung gian tài chính Việt nam vào việc thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm theo mô hình công ty cổ phần là rất khả thi. Dự kiến các cổ đông chính của công ty có thể là: Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Tổng công ty bảo hiểm Việt nam, Công ty kiểm toán Việt Nam, một số ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần lớn, một số công ty chứng khoán và công ty tài chính có uy tín... Cũng có thể tính đến khả năng tham gia của một số ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính cũng như các tổ chức định mức tín nhiệm nước ngoài vào thành phần sở hữu của công ty tuỳ thuộc vào tình hình thị trường cũng như chủ trương và quan điểm chung về sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn đầu khi tổ chức định mức tín nhiệm mới được thành lập, chúng ta có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm về cách thức tổ chức và kinh nghiệm chuyên môn từ các tổ chức tài chính nước ngoài.
Sau một thời gian hoạt động, tuỳ thuộc vào quy mô phát triển của TTCK và nhu cầu thực tế của chính bản thân tổ chức, có thể cho phép tổ chức định mức tín nhiệm này phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết giao dịch trên thị trường để trở thành một công ty cổ phần đại chúng.
Phạm vi hoạt động và đối tượng xếp hạng của công ty định mức tín nhiệm đầu tiên của Việt nam này là những vấn đề đặc biệt quan trọng cần phải được xác định rõ phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế của thị trường hiện nay. Theo thông lệ quốc tế, hầu hết các công cụ tài chính đều có thể là mục tiêu xếp hạng, bao gồm các thương phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu Chính phủ, các công cụ tài chính khác, kể cả cổ phiếu ưu đãi, ngoài ra, bản thân các doanh nghiệp cũng là đối tượng xếp hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt nam mới ở trong giai đoạn đầu hoạt động thử nghiệm, do vậy để tạo điều kiện cho việc hoạt động hiệu quả và gây dựng lòng tin của công chúng, phạm vi hoạt động và đối tượng xếp hạng của công ty nên hạn chế ở một số công cụ tài chính nhất định như trái phiếu công ty và bản thân các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Việc xếp hạng phải căn cứ trên những tiêu chí cụ thể do pháp luật quy định về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng thanh toán vốn và lãi của doanh nghiệp đối với các đợt phát hành trái phiếu.
Hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm Việt nam cũng cần phải đáp ứng được các tiêu chí xếp hạng và nguyên tắc hoạt động cơ bản, tương đồng với các tiêu chí của tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế. Ngoài ra, tổ chức định mức tín nhiệm cũng cần phải chịu sự quản lý Nhà nước trực tiếp của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, thể hiện qua việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc thẩm định và cấp phép hoạt động cũng như thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm phát sinh trong quá trình hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm
2.2.6. Đẩy mạnh việc tham gia của các tổ chức kiểm toán vào cung ứng dịch vụ kế toán-kiểm toán và tư vấn tài chính đối với các công ty niêm yết và công ty chứng khoán.
Trên thế giới, để đảm bảo chất lượng thông tin đầy đủ và chính xác về cá tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán, Chính phủ các nước thắt chặt các yêu cầu về kế toán và kiểm toán theo một số biện pháp khác nhau. ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển Uỷ ban Chứng khoán Quốc gia cùng với hiệp hội các nhà kế toán chuyên nghiệp xây dựng nên các chuẩn mực kế toán được chấp thuận chung. Các chuẩn mực này đã trở thành nguyên tắc được tuân thủ rộng rãi đối với tất cả tất cả các công ty phát hành chứng khoán. Đồng thời, việc kiểm toán cũng phải được thực hiện trên các nguyên tắc đó. Đối với Việt nam, khó khăn lớn nhất là hiện nay chúng ta chưa có Hệ thống chuẩn mực kế toán thống nhất phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; các chuẩn mực kiểm toán thì chưa đầy đủ ; việc áp dụng chế độ kế toán lại không thống nhất giữa các công ty trong nước và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong xu thế thị trường mở cửa hiện nay, sự ra đời của các công ty kiểm toán độc lập ngày càng gia tăng. Hiện tại trên các TTCK lớn trên thế giới, công tác kiểm toán được đặt lên hàng đầu. Thậm chí, có những thị trường còn thiết lập một trung tâm kiểm toán riêng nhằm khẳng định một cách thật chính xác những thông tin của các công ty niêm yết trước khi những thông tin này đến với nhà đầu tư. ở Việt Nam, để hệ thống kiểm toán phát triển và đóng góp tích cực hơn nữa vào hoạt động của tổng thể nền kinh tế nói chung và trên TTCK nói riêng, thì:
Trước tiên phải hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi về hành lang pháp lý cho hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn. Hệ thống khung pháp lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và sự phát triển của thị trường dịch vụ kiểm toán, kế toán. Đây là cơ sở quan trọng nhất quyết định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của các công ty kiểm toán nhằm:
+ Nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật về kiểm toán, kế toán. Điều này có nghĩa cần nhanh chóng nâng lên thành luật đối với các loại hình kiểm toán, kế toán.
+ Hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với toàn bộ thị trường kế toán, kiểm toán, xây dựng hoàn thiện các chuẩn mực kiểm toán, kế toán, tiêu chuẩn công khai thông tin trên thị trường chứng khoán.
+ Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật để đảm bảo tính thống nhất của các văn bản pháp quy trong hệ thống pháp luật.
Ngoài ra, để đảm bảo sự bình đẳng và tạo cơ hội cạnh tranh trong chất lượng, phí dịch vụ của các tổ chức kiểm toán, nhà nước cần sớm nghiên cứu mở rộng giấy phép kiểm toán cho các tổ chức nước ngoài được phép tham gia kiểm toán các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các tổ chức tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán nói riêng. Việc cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài được tham gia vào TTCK là cần thiết vì hiện hầu hết các công ty kiểm toán nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam là những công ty có tên tuổi và có nhiều kinh nghiệm kiểm toán trên TTCK cho nên sẽ có lợi cho sự phát triển ổn định của thị trường, đồng thời sẽ tạo ra nhiều sự lựa chọn
Phần kết luận
Mục tiêu cơ bản của thị trường chứng khoán là tạo dựng một cơ chế thu hút các nguồn vốn đầu tư dài hạn từ công chúng trong và ngoài nước cũng như tạo dựng một cơ chế san sẻ rủi ro trong hoạt động kinh doanh giữa các nhà kinh doanh và công chúng đầu tư. Nhờ vậy, thị trường chứng khoán sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, để xây dựng và từng bước phát triển thị trường chứng khoán thì yếu tố không thể thiếu là phải xây dựng được một hệ thống các trung gian tài chính hoạt động lành mạnh, có hiệu quả và gây dựng được lòng tin cho công chúng đầu tư cũng như toàn xã hội.trên cơ sở đó tạo điều kiện cho các trung gian tài chính tham gia váo TTCKTTCK Việt nam đã đi vào hoạt động được 5 năm bước đầu đã đạt được những kết quả rất đáng mừng,thị trường đã được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và bắt đầu thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư.Để cho TTCK Việt Nam có bước phát triển ổn định và bền vững không thể không nhắc tới các trung gian tài chính trên thị trường,sự tham gia của các trung gian tài chính như là một tất yếuTuy vậy đối với TTCK ở nước ta sự thúc đẩy các tổ chức trung gian tham gia TTCK đòi hỏi phải có chính sách và kế koạch lâu dài,thực hiện từng bước cụ thể và đồng bộ
Từ việc phân tích tình hình thực tế và nghiên cứu các mô hình các trung gian tài chình tham gia TTCK ở Việt Nam và trên thế giới.Đề án đã nghiên cứu xem xét và tập trung giải quyết những vấn đề sau
Đề án đã tổng hợp và xem xét những vai trò quan trọng của các trung gian tài chính,các hoạt đông chính của các trung gian tài chính trên TTCK từ đó đanh giá được tầm quan trọng việc tham gia của các trung gian tái chính trên TTCK.
Đề án cũng nghiên cứu các mô hình tham gia của các trung gian tài chính TTCK thế giới từ đó xem xét đề xuất các mô hình phù hợp cho TTCK Việt nam.Việc áp dung mô hình phù hợp sẽ quyết định đến sự phát triển của TTCK
Đề án cũng phân tích thực trang của hệ thống các trung gian tài chính của Việt nam trên cơ sở đó đánh giá mức độ tham gia và kết quả đạt được.cùng với những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại,việc khắc phục nhứng nguyên nhân đó cho phép các trung gian tài chính co thể tham gia TTCK một các dễ dàng hơn
Xuất phát từ chủ trương đường lối của Chính phủ và thực trạng phát triển của TTCK Việt nam cơ sở đó đề án cũng đưa ra các giả pháp cả về vĩ mô và vi mô để thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chúnh trên TTCK
mục lục
danh mục tài liệu tham khảo
1.Cẩm nang nhà kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam - Bùi Viết Thuyên - NXB Khoa hoc kỹ thụât năm 2000
2.Cẩm nang dành cho nhà đầu tư chứng khoán - Phan Lan - NXB Tài chính 2004
3.Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Ts Nguyễn Hữu Tài - NXB Thống kê 2002
4.Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính ,2002
5.Tiền tệ, ngân hàng và Thị trường tài chính - prederic s.Mishkin - NXB Khoa học kỹ thuật, 2001
6.Tạp chí Chứng khoán Việt nam, UBCK nhà nước
7.Tạp chí Ngân hàng
8.Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, hiệp hội ngân hàng
9.Tạp chí đầu tư chứng khoán, Bộ kế hoạch đầu tư
10.Thời báo kinh tế Việt Nam
11.Thời báo kinh tế Sài Gòn
12.Các trang web
-
-
-
-
-
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0947.doc