Đề tài Các kỳ thi Đình thế kỷ XVII - XVIII

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu 5.2. Phương pháp nghiên cứu 6. Đóng góp của luận văn 7. Bố cục luận văn CHƯƠNG I: THI ĐÌNH TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI THẾ KỶ XVII - XVIII 1.1. Vài nét về thi Đình trước thời Lê - Trịnh 1.1.1. Thi Đình dưới thời Lý, Trần, Hồ 1.1.2. Thi Đình dưới thời Lê sơ 1.1.2.1. Thời gian thi, địa điểm thi và đối tượng dự thi 1.1.2.2. Các quan chức phụ trách thi Đình 1.1.2.3. Phép thi và nội dung thi 1.1.2.4. Ân điển đối với người đỗ kì thi Đình 1.2. Thi Đình trong trường kinh tế - xã hội thế kỷ XVII - XVIII 1.2.1. Thể chế vua Lê - chúa Trịnh 1.2.2. Nhu cầu tăng cường đội ngũ quan lại 1.2.3. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa 1.2.4. Những dạng tiêu cực của thi cử CHƯƠNG II :THI ĐÌNH THẾ KỶ XVII - XVIII 2.1. Thời gian thi và địa điểm thi 2.1.1. Thời gian thi Đình 2.1.2. Địa điểm thi Đình 2.2. Đối tượng dự thi Đình 2.3. Thể lệ thi Đình và các quan chức phụ trách thi Đình 2.3.1. Thể lệ thi Đình 2.3.2. Các quan chức phụ trách thi Đình 2.4. Phép thi, nội dung thi, cách chấm thi 2.4.2. Nội dung thi Đình 2.4.3. Cách chấm thi Đình 2.5. Thực trạng thi Đình và sử dụng của triều đình đối với người thi đỗ 2.5.1. Thực trạng thi Đình 2.5.2. Sử dụng của triều đình đối với người thi đỗ CHƯƠNG III: THI ĐÌNH VỚI CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI THẾ KỶ XVII - XVIII 3.1. Đội ngũ tiến sĩ với việc gia nhập hàng ngũ quan lại 3.2. Đội ngũ tiến sĩ với tư tưởng trung quân 3.3. Đội ngũ tiến sĩ với tư tưởng "kinh bang tế thế" 3.3.1. Những kiến nghị, đề xuất 3.3.2. Hành động thực tiễn 3.4. Đội ngũ tiến sĩ với phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính KẾT LUẬN

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1950 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các kỳ thi Đình thế kỷ XVII - XVIII, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(đề điệu, tri cống cử, giám thí, tuần xước, di phong, đằng lục, thu quyển, đối độc) và chấm thi (vua Lê, quan độc quyển) riêng. + Phép thi chỉ thi một bài văn sách. Nội dung thi tập trung vào những vấn đề trị nước, an dân, minh quân, lương thần, hưng đạo, giáo hóa, phong tục, dụng người, lý tài, binh bị… + Ân điển giành cho người đỗ thi Đình đầy đủ và trọng hậu. 2. Sang thế kỷ XVII - XVIII, bối cảnh kinh tế - xã hội mới trong hai thế kỷ này đã đặt ra nhiều thử thách cho thi cử nói chung và thi Đình nói riêng. Dựa trên cơ cấu tổ chức chính quyền nhà nước Lê sơ, để thực hiện sự chuyên quyền, tập trung quyền hành về phủ chúa, họ Trịnh đã xây dựng một chính quyền với cơ cấu hết sức phức tạp, cồng kềnh, nhiều chức quan và chức tước mới được đặt ra. Triều đình của vua Lê chỉ là những con rối mặc cho chúa Trịnh giật dây thao túng. Dưới sự trị vì của vua Lê - chúa Trịnh, kinh tế - xã hội của Việt Nam không những không có bước phục hồi, chuyển biến, trái lại ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ dù chúa Trịnh đã đề ra một số giải pháp để cứu vãn tình thế. Cuộc sống cùng cực không lối thoát đã xô đẩy người nông dân phải rời bỏ quê hương làng xóm, tha phương cầu thực khắp nơi. Một cao trào khởi nghĩa nông dân giữa thế kỷ XVIII làm quân Trịnh bao phen kinh hồn bạt vía và góp phần lay chuyển nền tảng cơ nghiệp hơn 200 năm của nhà Trịnh. Sự phồn vinh của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam trong hai thế kỷ XVII và XVIII kéo theo sự phát triển của quan hệ tiền tệ đã ảnh hưởng to lớn đến sinh hoạt xã hội, đặc biệt là các quan niệm đạo đức cũ. Ý thức hệ Nho giáo ngày càng suy đồi, tôn ti trật tự, lễ giáo nho gia bị nhân dân biến thành đối tượng đấu tranh, đả kích. Tiền tài trở thành một vị thần mới làm mê muội và hư hỏng con người, giữa thế lực và của cải lại hình thành mối liên minh. Có năm mất mùa, đói kém, chúa Trịnh còn ra lệnh cho cả nước quyên thóc để được ban quan chức. Như thế, quan tước cũng trở thành một thứ hàng hóa và bộ máy quan lại đã bị tiền làm cho thoái hóa, biến chất. Chúa Trịnh vẫn duy trì và mở rộng giáo dục và thi cử làm phương tiện đào tạo quan liêu. Nhưng nội dung giáo dục và thi cử chỉ còn bề rộng, không còn chiều sâu. Việc học tập cũng trở nên sơ sài, nông cạn, lối học từ chương sáo rỗng phát triển mạnh mẽ. Đồng tiền cũng chui vào giáo dục, khoa cử làm nảy sinh nhiều tệ nạn gian lận, mua bán ngày càng lũng đoạn trường thi - nhất là ở các cấp thấp thi khảo hạch, thi Hương và cả thi Hội. Nhà chúa biết rõ những điều này và tìm mọi cách để ngăn chặn, sửa đổi như: thay đổi phép thi, phép khảo hạch, cách ra đề thi, định quy chế thi, nghiêm cấm, trừng trị các hành vi vi phạm. Trong các chính sách giáo dục, thi cử đó không phải là không có những chính sách tiến bộ, hợp lý song thói tệ lâu ngày và sức ì của hệ thống thực thi những chính sách đó (tức bộ máy quan lại phong kiến) quá lớn, do đó kết cục vẫn không thể vực dậy nổi. Thi Đình thế kỷ XVII - XVIII, vì diễn ra trong bối cảnh rối ren, có phần hỗn loạn như thế nên hiển nhiên sẽ có nhiều nét khác biệt so với các thế kỷ trước. 3. Trường kinh tế - xã hội thế kỷ XVII - XVIII như đã đề cập một mặt tác động rất lớn đối với chế độ giáo dục, thi cử nói chung và thi Đình nói riêng; mặt khác tạo ra những thách thức mới buộc thi Đình phải giải quyết. Thể chế chính trị “lưỡng đầu chế”, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa với những ảnh hưởng của nó đến xã hội, giáo dục, thi cử, nhu cầu về quan lại và những tiêu cực trong thi cử thời Lê - Trịnh đã đặt ra cho thi Đình nhiều vấn đề: Phải tổ chức thi đều đặn để có đủ số lượng bổ sung cho hệ thống quan lại ngày một phình to; phải tiến hành thi nghiêm minh, chặt chẽ để ngăn chặn các hành vi gian trá; phải chọn đúng người thực học, thực tài, có đủ phẩm chất đạo đức và bản lĩnh thoát khỏi sự cám dỗ của đồng tiền để trở thành vị quan thanh liêm, chính trực, có ích cho dân. Quan trọng hơn cả là thi Đình phải đào tạo được một đội ngũ quan lại làm lực lượng nòng cốt trong triều đình, có lòng trung thành với vua Lê, phò tá vua diệt trừ chúa. Tư tưởng trung quân là trụ cột của thuyết tam cương - hạt nhân của Nho giáo. Trụ cột có vững thì thuyết mới vững và hệ tư tưởng Nho giáo mới tiếp tục giữ vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội. CHƯƠNG II THI ĐÌNH THẾ KỶ XVII - XVIII 2.1. Thời gian thi và địa điểm thi 2.1.1. Thời gian thi Đình Từ bảng thống kê 2.1.1, chúng tôi thấy: - Thời gian thi Đình: Thời gian thi Đình phổ biến là tháng 4, tháng 5 và tháng 12. Nếu như thi Hội chủ yếu vào mùa xuân (tháng 1,2,3 - chiếm 52,2%) thì ngược lại các tháng mùa hè (tháng 4,5,6) chiếm phần lớn thời gian tiến hành các kì thi Đình, sau đó là mùa đông (28,3%) rồi mới đến mùa xuân (15,2%). - Thời gian giữa hai kì thi Hội và Đình: Có thể một tháng, hai tháng hoặc 3 tháng, có khi đến 5 tháng. So với thời Lê sơ, giữa thi Hội và thi Đình thời Lê - Trịnh có sự giãn ra về mặt thời gian. Ở thời Lê sơ, khoảng cách từ thi Hội đến thi Đình đa phần chỉ khoảng 1 tháng, thậm chí trong cùng một tháng và cả thi Đình lẫn thi Hội đều được tổ chức trong một năm. Còn thi Đình thời Lê - Trịnh sau thi Hội một hoặc hai tháng là thông dụng bởi yêu cầu phân loại ngay những người đỗ thi Hội. Thời Lê - Trịnh, thi Hội và thi Đình phần nhiều cũng được tổ chức ngay trong một năm nhưng xuất hiện vài trường hợp không cùng năm do thi Hội đã vào cuối năm nên thi Đình phải chuyển sang năm sau. 2.1.2. Địa điểm thi Đình Các nguồn sử liệu cũ cho biết những người đỗ thi Hội sẽ được vào trong sân điện Kính Thiên để dự kì thi Đình đối và làm bài ở lều thi. Ngoài ra, cũng có khoa, thi Đình được Chúa tổ chức ngay tại phủ của mình, đó là hai khoa năm Vĩnh Hựu 2 (1736) và Cảnh Hưng 40 (1779). 2.2. Đối tượng dự thi Đình Điều kiện tất yếu để được dự thi Đình đương nhiên là phải đỗ kì thi Hội nhưng để đỗ được kì thi Hội không phải là một điều dễ dàng. Bảng thống kê 2.2.a cho thấy số người vào dự thi Hội thời Lê - Trịnh rất đông, đông hơn nhiều so với thời Lê sơ. Khoa thi năm Bảo Đại thứ 3 (1442) có số người dự thi thấp nhất thời Lê sơ là 450 người, trong khi đó thời Lê - Trịnh, khoa thi thấp nhất theo số liệu có được là khoa thi năm Vĩnh Tộ thứ 3 (1613) là 1000 người, còn trung bình số người dự thi của các khoa là 2000 - 3000. Khoa thi năm Dương Hòa thứ 6 (1640) là khoa thi có số người dự thi Hội đông nhất thời Lê - Trịnh nói riêng cũng như chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam nói chung với số người dự thi lên đến 6000 người. Số người thi Hội thì đông nhưng số lấy đỗ lại không nhiều, do đó, “tỷ lệ chọi” để được dự thi Đình là rất lớn, một người phải chọi với mấy trăm người. Thời Lê sơ có những khoa lấy đỗ đến hơn 60 người còn ở thời Lê - Trịnh, khoa lấy đỗ nhiều nhất cũng chỉ có 31 người. Vì vậy, tỷ lệ chọi để vào thi Đình ở sân điện của nhà vua càng cao, cao nhất là khoa thi năm Hoằng Định thứ 5 (1604): Tỷ lệ 1 chọi 714. Bảng 2.2.b cho biết 19 tuổi - 29 tuổi (219 người, chiếm 30%) và 30 tuổi - 39 tuổi (284 người, chiếm 39%) là hai lứa tuổi phổ biến nhất trong những người dự thi Đình. Không riêng gì những người trẻ tuổi, có khá nhiều người đã cao tuổi cũng dự thi, thậm chí có những người nếu ở làng quê đã được xếp vào hàng “lão” vui thú điền viên, an hưởng tuổi già. Có 9 người thi Đình khi tuổi quá 60 tuổi. Bảng 2.2.c cho thấy Hà Nội là địa phương có số người dự thi Đình qua các khoa dưới thời Lê - Trịnh đông nhất (144 người - chiếm 19,8%), kế đó là các tỉnh khác thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Tây, Thanh Hóa, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Nghệ An. Ít nhất là Thái Nguyên và Huế, mỗi tỉnh chỉ có một người dự thi Đình. Ngoài ra, hầu hết các tỉnh miền núi Bắc Bộ (Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang…) và một số tỉnh duyên hải miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam) trong suốt 65 khoa thi dưới thời vua Lê chúa Trịnh không hề có một người nào lọt vào kì thi Đình. Trong các đối tượng tham gia kì thi Đình, xảy ra một “hiện tượng” là có không ít người đã đỗ các kì thi khác do triều đình tổ chức như Sĩ vọng, Hoành từ nhưng những người đỗ lại vẫn muốn tham gia khoa thi tiến sĩ vì ân điển giành cho những người đỗ hai kì thi này so với ân điển trong thi Đình thì không thể nào sánh bằng. Điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn của thi Đình là rất lớn. 2.3. Thể lệ thi Đình và các quan chức phụ trách thi Đình 2.3.1. Thể lệ thi Đình Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là cuốn sách duy nhất chính thức ghi chép về thể lệ thi Đình ở thời Lê - Trịnh. Qua ghi chép của Phan Huy Chú về nghi thức thi Đình đã thể hiện tầm quan trọng cũng như không khí trang nghiêm của kì thi Đình với sự có mặt của cả vua Lê, chúa Trịnh cùng đại thần các ban, các quan văn võ. Trong thể lệ thi Đình, Phan Huy Chú không để cập gì đến quy tắc trường thi hay luật lệ làm văn bài… song chắc chắn thi Đình phải được giám sát, kiểm soát chặt chẽ hơn thi Hương, thi Hội. Cũng như thi Hương, thi Hội, văn bài thi Đình của sĩ tử phải tuân theo những luật lệ nhất định như kỵ huý, khiếm tị, khiếm trang, khiếm đài, khiếm cung, bất túc, đồ, di, câu, cải… Dù không bị đánh trượt nhưng nếu phạm luật thì bài viết có hay đến mấy cũng bị giáng xuống hạng thấp và không bao giờ lọt vào hàng tam khôi như trường hợp của Nguyễn Huy Cẩn và Nguyễn Tông Quai. 2.3.2. Các quan chức phụ trách thi Đình Đại khái có thể chia các quan chức phụ trách thi Đình ra làm 3 bộ phận và mỗi chức quan trong mỗi bộ phận giữ một nhiệm vụ riêng. - Thứ nhất, bộ phận trông coi, tổ chức thi Đình, gồm: Quan đề điệu, tri cống cử, giám thí. Bộ phận trên được sự trợ giúp của các viên lại làm các công việc thu quyển, di phong, đằng lục, đối độc. Từ bảng thống kê 2.2.2 có thể thấy những người giữ chức đề điệu trong thi Đình đều là đại thần ban võ với các chức thái uý, thái bảo, thiếu bảo, thái phó, thiếu phó mang tước hàm quận công, thuộc hàng quan nhất, nhì phẩm và đã giảm bớt một người so với thời Lê sơ. Tất cả các quan đề điệu hoặc là anh em họ hàng chúa Trịnh (Trịnh Đỗ, Trịnh Ninh, Trịnh Đệ, Trịnh Khuê, Trịnh Quân, Trịnh Tương, Trịnh Lãng) hoặc có quan hệ thông gia với nhà chúa (Nguyễn Hoàng), không cũng là những vị thân tín, thủ túc của chúa Trịnh (Lê Lựu, Hoàng Nghĩa Phì). Còn các quan tri cống cử và giám thí phải là những người đã đỗ tiến sĩ. Tri cống cử thì hầu hết do thượng thư các bộ đảm nhiệm, giám thí thì phần lớn là các quan tả hữu thị lang. Việc đề cử quan lại có phẩm cấp và học vị cao, có quan hệ mật thiết với nhà chúa một mặt chứng tỏ sự quan tâm, coi trọng có ý đề cao của triều đình đối với kì thi Đình; mặt khác thể hiện uy quyền của dòng họ chúa đã vươn đến tận cấp cao nhất của khoa thi tiến sĩ mà đáng lẽ phải thuộc về vua Lê. Trong một khoa thi tiến sĩ, người nào giữ chức đề điệu, tri cống cử, giám thí ở kì thi Hội sẽ kiêm luôn các chức đó trong kì thi Đình. - Thứ hai, bộ phận chấm thi: Ở thi Đình, bộ phận chấm thi gồm vua Lê và có thêm chức độc quyển phụ tá cho vua. Về hình thức, quan độc quyển sẽ tiến dâng các quyển thi làm từ hôm trước để vua đọc và chấm điểm định cao thấp, song thực chất việc đọc và chấm bài thi được khoán luôn cho quan độc quyển. Điểm chấm các quyển thi có thể thay đổi hay giữ nguyên tuỳ theo quyết định của nhà vua. Thời Lê - Trịnh, sử sách ghi lại hai trường hợp ngoại lệ: Khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) và khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779), người chấm quyển thi Đình và cho đỗ không phải là vua Lê mà là chúa Trịnh. - Thứ ba, bộ phận giữ gìn an ninh trật tự. Để đảm bảo cho kì thi diễn ra nghiêm túc, an toàn, 2 viên tuần xước và nhân viên hai vệ Cẩm y Kim ngô sẽ lo việc an ninh, trật tự tại khu vực thi. Ngoài ra, vì thi ở điện đình nên có quân lính thiên triều canh giữ xung quanh. Như vậy, cấp thi càng cao thì bộ phận trông coi, tổ chức thi sẽ do các quan lại có phẩm trật càng cao nắm giữ, đồng thời số lượng người phụ trách, phục vụ trường thi cũng giảm đi do số lượng thí sinh dự thi mỗi lúc một ít. 2.4. Phép thi, nội dung thi, cách chấm thi 2.4.1. Phép thi Thi Đình thì không nhiều trường như thi Hương, thi Hội mà chỉ làm một bài văn sách do vua ra đề. Một bài văn sách được chia làm hai phần: - Phần câu hỏi trong đề bài (gọi là sách vấn). - Phần trả lời (gọi là đối sách). Chia ra hai phần: Phần lấy kinh điển trả lời câu hỏi và phần đưa ra kiến giải của mình do đề bài nêu ra và phải liên hệ với tình hình thực tế. 2.4.2. Nội dung thi Đình Nội dung của thi Đình thời Lê - Trịnh được thể hiện qua các đề thi. Đề văn sách thi Đình thời Lê - Trịnh, cả thi Hương và thi Hội, chủ yếu thuộc về văn sách mục. Khác với thời Lê sơ, câu hỏi trong văn sách bao quát rộng rãi, thời Lê trung hưng từ niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599) trở về sau, người ra câu hỏi chuyên lấy những câu hiểm hóc để làm đề. Qua các đề thi ở bảng bảng 2.3.2, chúng ta thấy vấn đề quan tâm hàng đầu của triều đình là đường lối trị nước xưa và nay, chiếm 13/15 khoa, 2 khoa còn lại thì một khoa hỏi về đạo lý trời đất muôn vật, một khoa hỏi về môn học tâm tính của con người. 2.4.3. Cách chấm thi Đình Việc chấm thi Đình trong đời Lê sơ hay Lê trung hưng hoàn toàn theo cách chấm điểm theo thang điểm bốn bậc, tức ưu - bình - thứ - liệt, như thi Hương, thi Hội và việc lấy đỗ cao thấp thì tính từ trên xuống. Lệ quy định là vậy nhưng quyết định cuối cùng vẫn phải phụ thuộc vào ý muốn của vua và vua có thể cho đỗ cao thấp, ban hoặc không ban chức tước không dựa vào chất lượng văn bài mà do nhiều yếu tố khách quan như xét tuổi, xét tướng mạo… Trước thời Lê - Trịnh, giai thoại Việt Nam cho biết có ba trường hợp của Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Giản Thanh. Dưới thời Lê - Trịnh, Đại Việt sử ký tục biên và Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi lại một trường hợp của Trịnh Tuệ - trạng nguyên khoa thi năm 1736 vì quen biết mà đỗ trạng nguyên. Mặc khác, dù đã có lệ “Đình thí bất truất” song vua là người định ra lệ mà không cần theo lệ nên trong lịch sử khoa cử vẫn có trường hợp đánh trượt sĩ tử đã vào thi Đình, đó là: Khoa thi Bính thìn năm Hồng Đức thứ 27 (1496) và khoa thi Đinh Sửu năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757). 2.5. Thực trạng thi Đình và sử dụng của triều đình đối với người thi đỗ 2.5.1. Thực trạng thi Đình Trong 65 khoa thi thời Lê - Trịnh, sử cũ chỉ ghi lại 2 trường hợp tiêu cực khi thi Đình, một vào thời Vĩnh Tộ và một rơi vào thời Lê Cảnh Hưng - Trịnh Sâm: - Khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757): Nguyễn Khiêm Hanh can tội mang sách vào trường thi nên bị đánh hỏng. - Khoa thi năm Vĩnh Tộ 5 (1623): Nguyễn Trật ngầm mượn người làm hộ bài, việc bị phát giác, vua không bằng lòng nên không ban cho bảng vàng. So với thi Hương và thi Hội thì tiêu cực trong thi Đình không đáng kể. Càng lên cấp thi cao hơn thì các hiện tượng gian dối, các tệ nạn trong trường thi càng giảm. 2.5.2. Sử dụng của triều đình đối với người thi đỗ Xét về chế độ đãi ngộ đối với người đỗ tiến sĩ thì thời Lê trung hưng lại hậu hơn và bổ dụng cao hơn thời Lê sơ, thể hiện sự coi trọng nhân tài của nhà nước và góp phần nâng cao vị thế, danh dự của các tiến sĩ trong xã hội: + Ban mũ áo và cân đai triều phục, cho vinh quy về quê hương, có đủ hạng cờ quạt, nghi trượng, phường trống và phường nhạc đón rước. + Viên quan có trách nhiệm bắt dân làng trước hết phải lập phủ đệ cho tiến sĩ. + Không những người đỗ tam khôi hoặc ứng thí chế khoa trúng cách bổ vào Hàn lâm, mà cả người đỗ đồng tiến sĩ cũng được bổ giữ các chức trọng trong các khoa các đạo, không phải bổ làm quan ở các phủ huyện. + Trong mỗi khoa thi, một người đỗ trẻ tuổi được bổ chức Hàn lâm viện hiệu thảo. + Người nào được bổ làm quan ở ngoài các Trấn thì được bổ vào hai Ti Thừa chính và Hiến sát, đều trao chức chưởng ấn chính thức, không phải giữ chức tá nhị. Năm 1674, Trịnh Tạc định lại thể lệ bổ nhiệm các tiến sĩ và đồng tiến sĩ xuất thân: Chánh tiến sĩ trao chức Hàn lâm viện hiệu lý, chánh thất phẩm; đồng tiến sĩ trao chức Hàn lâm viện hiệu thảo, tòng thất phẩm. Quy định của Trịnh Tạc so với thời Lê Thánh Tông đã cao hơn một bậc. Những người đỗ tiến sĩ bên cạnh quyền lợi về chính trị là các quyền lợi về kinh tế, đơn cử như về ruộng đất. Theo chính sách quân điền năm 1711, quan viên có chức phẩm chưa được cấp dân lộc thì căn cứ vào phẩm mà cấp ruộng cho. Năm 1741, phủ chúa bỏ lệ cấp dân tuỳ hành và thay vào đó là lệ cấp ruộng công. Những viên quan đỗ đạt cao được cấp thêm: Trạng nguyên thêm 20 mẫu, bảng nhãn và thám hoa thêm 15 mẫu, hoàng giáp thêm 5 mẫu. * Tiểu kết 1. Thi Đình thường tổ chức vào mùa hè, tháng 4,5 hoặc tháng 12 sau khi thi Hội 1,2 tháng. Ngoài một vài khoa thi mà thi Hội và thi Đình tổ chức vào hai năm khác nhau còn lại tất cả đều tổ chức cùng năm để đáp ứng yêu cầu phân loại ngay những người đỗ thi Hội. Địa điểm diễn ra kì thi này là ở hiên điện, sân điện của nhà vua - điện Kính Thiên. Đặc biệt có hai khoa diễn ra ở phủ chúa Trịnh do đích thân chúa tổ chức và lấy đỗ - một điều trước nay chưa từng có trong lịch sử thi cử của chế độ phong kiến Việt Nam. Đối tượng dự thi Đình đa dạng về lứa tuổi, quê quán cũng như thành phần xã hội. Họ đến từ khắp các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thuộc Đàng Ngoài. Họ bị lôi cuốn bởi nhiều thứ: quyền lợi sau khi đỗ, để “vua biết mặt chúa biết tên”, hoặc vì sự vinh vang cho cả dòng họ… Giống thời Lê sơ, vấn đề trị nước an dân là nội dung thi trọng tâm trong thi Đình dưới thời Lê - Trịnh. Vì số lượng sĩ tử vào thi Đình rất ít, có năm chỉ có vài người, do đó hệ thống quan lại và bộ phận phục vụ cho thi Đình tuy giống thời Lê sơ nhưng đã tinh giảm nhiều về số lượng so với thi Hương, thi Hội nhưng lại nâng cấp về chức vụ. Nhờ được tổ chức chu đáo, canh gác nghiêm ngặt, các hiện tượng tiêu cực ít xuất hiện trong thi Đình, chỉ có một, hai trường hợp gian dối trong khi thi song đều bị phát giác. Tóm lại, thi Đình là một kì thi vô cùng quan trọng, bởi lẽ: - Có nhiều người đã đỗ các khoa thi khác cũng do triều đình tổ chức nhưng họ vẫn tiếp tục tham dự kì thi tiến sĩ, mong muốn lọt vào kì thi Đình, thậm chí một số người trước đó đã ra làm quan với các chức vụ khác nhau. - Dù thi Đình không đánh trượt số người đã đỗ thi Hội song không vì thế mà giảm tầm quan trọng. Nó sắp xếp lại vị thứ cao thấp của những người đã đỗ thi Hội và theo đó sẽ làm thay đổi ân điển mà họ được hưởng. - Các sĩ tử trúng cách kì thi Hội thì vẫn được chưa được ban tặng học vị gì (trừ người đứng đầu gọi là Hội nguyên). Phải đến khi đỗ kì thi Đình, họ mới chính thức được triều đình công nhận, được ghi tên vào bảng vàng và nhận các danh hiệu khác nhau. Nếu không thi Đình thì dù đã đỗ thi Hội cũng không được công nhận là tiến sĩ và không được hưởng các quyền lợi tương ứng. 2. So với thời kỳ trước (chủ yếu là thời Lê sơ), thi Đình thế kỷ XVII - XVIII (thời Lê - Trịnh) đã bộc lộ những điểm khác biệt. Thi Đình thời Lê sơ tập trung vào tháng 2, 4, thi Đình thời Lê - Trịnh tập trung vào tháng 3, 4, 12. Địa điểm thi vẫn tại kinh đô song ngoài sân điện của nhà vua, thi Đình có khi còn tổ chức ở phủ chúa Trịnh. Số lượng người dự thi Hội thời Lê - Trịnh đông hơn nhiều so với thời Lê sơ, phổ biến là 2000 đến 3000 người trong khi đó số người lấy đỗ để vào thi Đình thì ít hơn rất nhiều. Vẫn là kì thi cao cấp nhất trong khoa thi tiến sĩ nhưng thi Đình thời Lê - Trịnh không mang tính chất tuyệt đối là kì thi do Vua trực tiếp tổ chức nữa, lúc này cả Vua và Chúa đồng tổ chức, có kì thi do đích thân Chúa tổ chức và lấy đỗ. Hệ thống tổ chức, coi thi, chấm thi về hình thức không khác gì thời Lê sơ ngoài việc chúa tham gia vào bộ phận chấm thi thay vua trong các kì thi Đình tổ chức tại phủ Chúa. Số lượng quan đề điệu giảm một người so với thời Lê sơ và chỉ giao phó cho họ hàng, “tay chân” của Chúa chứ không phải của Vua. Số người dự thi Đình không đông nên có lẽ số lượng quan độc quyển cũng giảm theo. Đối với những người đỗ thi Đình, chính quyền Lê - Trịnh giành rất nhiều ưu đãi, không những giữ nguyên các ân điển thời Lê sơ mà còn đặt thêm một số đãi ngộ khác. 3. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội thế kỷ XVII - XVIII, thi Đình chịu ảnh hưởng của yếu tố chính trị nhiều hơn cả. Sự áp chế của chúa Trịnh đối với vua Lê thể hiện qua kì thi Đình như: Tự tiện tổ chức khoa thi (ân/hưng khoa), tự ý cho thi Đình trong phủ chúa, tự chấm thi và lấy đỗ (bỏ qua các bài thi làm ở điện của nhà vua), hầu hết các quan phụ trách thi Đình đều thuộc đội ngũ bên phủ liêu, có nghĩa là họ hàng, tay chân thân tín của chúa Trịnh…Quyền lực của chúa đã chi phối đến tận cấp thi cao nhất của khoa thi tiến sĩ - cấp thi mà theo như nguyên thuỷ của nó được tổ chức ra để đề cao vai trò của nhà vua trong thi cử. Mặt khác, thi Đình đã phản ánh một cách gián tiếp tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thế kỷ XVII - XVIII. Những tiêu cực thường chỉ thấy trong thi Hương, thi Hội nay đã xuất hiện trong thi Đình - một hiện tượng mà thời Lê sơ chưa từng xảy ra. Dù sao đi nữa, trên thực tế, thi Đình thế kỷ XVII - XVIII đã trực tiếp tạo ra một đội ngũ tiến sĩ đông đảo và bộ phận trí thức phong kiến này ít nhiều cũng có tác động đến tình hình kinh tế - xã hội Đàng Ngoài lúc bấy giờ. CHƯƠNG III: THI ĐÌNH VỚI CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI THẾ KỶ XVII - XVIII 3.1. Đội ngũ tiến sĩ với việc gia nhập hàng ngũ quan lại Trong gần 200 năm (1595 - 1789) trị vì, chính quyền Lê - Trịnh đã tổ chức tổng cộng 65 khoa thi, tuyển chọn được 727 tiến sĩ, chia ra ba giáp: Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: 33 người; đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân: 85 người; đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân: 611 người. Cụ thể xem bảng 3.1.a. Làm quan là mục đích cuối cùng trong xâu chuỗi học hành - thi cử của kẻ sĩ. Ra làm quan là cách thức hữu hiệu nhất để thực hành những lý tưởng của nhà Nho. Vì vậy, trong 727 người đỗ tiến sĩ thời Lê - Trịnh có 712 người làm quan, hoặc bổ giữ các chức vụ trong triều, hoặc đi nhậm chức ở các địa phương. Có thể thấy ở bảng 3.1.b, những người đỗ tiến sĩ khi ra làm quan đã chiếm giữ nhiều chức vụ quan trọng ở trong triều ngoài trấn, đông nhất là các chức thượng thư, tả thị lang, hữu thị lang, hiến sát sứ, giám sát ngự sử, cấp sự trung, tham chính, tự khanh… Phần lớn đều là các chức quan của triều đình vua Lê. Sự tồn tại song song hai thiết chế vua Lê - chúa Trịnh tạo nên một cơ chế chính trị chồng chéo, nghĩa là nhiều người vừa giữ chức quan bên triều đình của vua Lê, đồng thời lại kiêm nhiệm luôn chức vụ bên Vương phủ của chúa Trịnh (xem bảng 3.1.c). Thường là giữ chức tham tụng, bồi tụng, nhập thị tham tụng, hành tham tụng, nhập thị bồi tụng, thiêm sai, đô đốc, chưởng phủ sự, thự phủ sự. Việc để người kiêm nhiệm cả hai bên Vua - Chúa như thế, một mặt nhằm đảm bảo nhân lực cho bộ máy triều đình về hình thức; mặt khác tạo ra nhiều “tai mắt” giúp chúa Trịnh theo dõi nhất cử nhất động của vua Lê. 3.2. Đội ngũ tiến sĩ với tư tưởng trung quân Chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc, Nho học Việt Nam nói chung và thời Lê - Trịnh nói riêng cũng giáo dục kẻ sĩ khuôn mình theo tinh thần tuyệt đối trung thành với vua và trong một bối cảnh đặc biệt như xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII thì các nhà Nho còn phải trung thành với một nhân vật nữa, đó là chúa Trịnh mà đối với chúa xem ra có phần trọng hơn. Điển hình là Lý Trần Quán - tiến sĩ năm 1766. Đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan là để phò vua hành đạo nhưng rốt cuộc chẳng mấy ai chịu ở bên cạnh vua Lê, hầu hết đều chạy qua phủ Chúa, chịu sự sai khiến của chúa để hưởng nhiều quyền lợi, bổng lộc. Ở thời bình sử cũ chỉ ghi chép có vài ba trường hợp quan lại xuất thân từ tiến sĩ dám dâng lời can gián sự lộng quyền của chúa Trịnh như Tự khanh Bùi Sĩ Tiêm, và Bồi tụng Bùi Huy Bích. Đến thời loạn, các “quan - tiến sĩ” thực hiện chữ “trung” với vua Lê bằng nhiều cách khác nhau: - Có người nguyện vào doanh trại “giặc” để đòi lại đất đai cho nhà Lê dù biết khó thoát khỏi cái chết như Trần Công Xán, Ngô Nho. - Có người tỏ thái độ bất hợp tác với “giặc” (quân Tây Sơn) như Lại bộ hữu thị lang Phạm Đình Dư, Phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, Tham tri chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, Đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hợp, Phạm Trọng Huyến, Thiêm sai tri Công phiên Phạm Quý Thích, Đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tư, Nguyễn Huy Trạc. - Có người về quê hoặc đi các nơi chiêu mộ lực lượng giúp vua Lê Chiêu Thống đánh lại loạn quân Chỉnh và quân Tây Sơn như Nguyễn Khản, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Đình Giản. - Lại có người theo chân vua Lê lưu lạc muôn phương, chiêu binh mãi mã, xin cầu viện để “phục quốc” như Trần Danh Án, Nguyễn Duy Hợp, Nguyễn Đình Giản, Trương Đăng Quỹ, Chu Doãn Lệ. Ở đây có một nhân vật đáng chú ý là Trần Danh Án. Sự xơ cứng, cứng nhắc trong học thuyết trung quân của Nho giáo đã đẩy nhiều nhà Nho đến chỗ “ngu trung” mà Trần Danh Án là một tấm gương tiêu biểu. Ông theo ngự giá vua Lê qua Kinh Bắc lên Bắc Giang, rồi dời xa giá đi Chí Linh (Hải Dương), Thuỷ Đường (Hải Phòng), Vị Hoàng (Nam Định), sau lại quay về Kinh Bắc ở nhà viên Tham tri là Phạm Đình Dư. Cũng chính ông cùng với Lê Duy Đản nhận mệnh vua Lê sang nhà Thanh cầu viện, tự rước giặc vào giày xéo đất nước. Khi Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, Danh Án ở lại quê nhà cùng với Trần Quang Châu, Dương Đình Tuấn dấy binh chống lại triều Tây Sơn. Những tấm gương trung hiếu trên đây là quá ít so với con số 727 tiến sĩ thời Lê - Trịnh và càng ít hơn so với hàng ngàn vị quan lại trong triều, trong phủ. Trước cảnh binh đao khói lửa loạn lạc, họ chỉ lo lánh nạn, trốn tránh để giữ mạng sống. Trước cảnh cương thường đảo lộn, Chúa đè nén vua, loạn kiêu binh, loạn Hữu Chỉnh… đa số quan lại chỉ biết im lặng, tuân phục sống yên phận hoặc phản kháng (nếu có) rất yếu ớt. Lúc quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”, những người có tước vị ở triều đình, bao hàm cả các “quan- tiến sĩ”* Từ đây trở đi, chúng tôi sẽ dùng từ “quan - tiến sĩ” để chỉ những viên quan xuất thân từ tiến sĩ. lại rơi vào trạng thái ngả nghiêng, dùng dằng, vội vàng lo ngại không biết nên tận trung với ai: Chết vì họ Trịnh là phản bội nhà Lê, trung với nhà Lê là bỏ họ Trịnh, vì thế phân vân hai ngả, không đường tiến lui. Thậm chí ngay cả khi chúa Trịnh đã thất thế, con cháu lưu lạc, mầm mống loạn chính nhân cơ hội này có thể tiêu diệt tận gốc song không ai nghĩ đến chuyện cầm quân đánh dẹp. Ngày thường là vậy còn đến lúc có binh biến thì phận ai nấy lo, vua hay chúa cũng mặc. Tướng các thành chỉ chống cự cho có lệ rồi vã tìm đường thoát thân như viên quan Ninh Tốn (tiến sĩ năm 1778) làm hiệp trấn đóng ở Động Hải (thuộc Lệ Thuỷ, Thái Bình), Đương trung hầu Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An, Thuỳ trung hầu Tạ Danh Thuỳ trấn thủ Thanh Hoa đều bỏ thành mà chạy khi quân Tây Sơn thừa thắng tấn công ra Bắc. Nghe thư báo tin quân triều đình thua trận tới tấp đưa về Kinh, các quan văn võ trong triều ai nấy chỉ cuống lên lo thu xếp chỗ nương náu cho vợ con, lo cất của cải, không một ai đứng ra nhận đánh nhau với quân Sơn Tây. Rồi Nguyễn Huệ rút quân vào Nam, ở Bắc Hà lại xảy ra loạn Hữu Chỉnh, các quan văn võ vẫn giữ thái độ thụ động, chỉ biết “chán nản”, “kiêng nói”, ngay cả nhà Nho “chính quy” Bùi Huy Bích khi được vua Lê vời vào cung để hỏi việc thiên hạ cũng sợ không dám nói, xin cho về quê nhà. Dễ dàng thấy không ai khác mà chính các quan xuất thân từ tiến sĩ, chính những người tưởng chừng thấm nhuần tư tưởng trung quân nhất đã phản bội lại lý thuyết họ đã học. Không những không thực hành được, trái lại có người còn có những hành động phản chúa hại vua. Lý do là vì phần nhiều Nho sĩ Việt Nam đã bỏ chữ “trung” theo chữ “thời” (thời thế). 3.3. Đội ngũ tiến sĩ với tư tưởng "kinh bang tế thế" 3.3.1. Những kiến nghị, đề xuất 3.3.1.1. Về chính trị - xã hội 3.3.1.1.1. Khôi phục thực quyền cho vua Lê Ở thời Lê - Trịnh, mối quan hệ giữa Vua - Chúa là vấn đề tế nhị không ai dám đả động, ngay cả các quan nhất phẩm hay nhị phẩm, đứng đầu triều vua hay phủ chúa. Mãi đến năm 1731 mới có được một quan ngũ phẩm trong số 729 tiến sĩ là Tự khanh Bùi Sĩ Tiêm dám dâng khải chất vấn chúa Trịnh về sự kiện nhường ngôi năm Kỷ Dậu (1729) và ông đề nghị nhà Chúa “gắng tôn phò (nhà vua) để tiêu tan biến dị”. Lời khải thẳng thắn của Bùi Sĩ Tiêm đã động chạm trực tiếp đến chúa Trịnh làm Trịnh Giang nổi giận, cách chức ông đuổi về quê. Năm 1782, nhân khi Trịnh Sâm hạ lệnh cho phủ liêu nói thẳng những điều thiếu sót lầm lỗi, một tờ khải khác của Bồi tụng Bùi Huy Bích được dâng lên xin chúa hãy giữ đạo làm tôi nhưng lời lẽ và ý tứ kín đáo hơn. Ngoài ra, cũng có những tờ khải khuyên can nhà chúa dẹp bớt những việc làm xa xỉ để khoan sức cho dân, phải cảnh tỉnh bọn xu nịnh và mở rộng đường ngôn luận mới thu hút được hiền tài và ngõ hầu giải quyết được tình trạng suy thoái trầm trọng của đất nước…, như các tờ khải của Lê Phú Thứ. 3.3.1.1.2. Bộ máy quan lại Là người trực tiếp tham gia vận hành guồng máy chính quyền đồng thời có học thức, các “quan - tiến sĩ” hơn ai hết là những người nhận thức rõ rệt nhất quan lại là một trong những nguyên nhân làm dân khổ cực, điêu đứng. Từ đó, họ đề xuất một số giải pháp nhằm triệt bỏ hoàn toàn tình trạng trên: - Giảm bớt quan lại, viên chức thừa để giảm bớt sự phiền nhiễu cho dân. - Thanh trừ, trừng trị những viên qian tham ô, đục khoét dân. - Phải điều tra kỹ các quan lại để biết người ngay, kẻ gian. 3.3.1.1.3. Pháp luật Đến thế kỷ XVII - XVIII, pháp luật do giai cấp thống trị đặt ra lại bị chính những người trong giai cấp ấy vi phạm nghiêm trọng và trắng trợn. Ở điều thứ 8 trong tờ khải dâng chúa Trịnh, Bùi Sĩ Tiêm kiến nghị một vài giải pháp để pháp luật lấy lại được sự nghiêm minh vốn có của nó: Dựa vào sự công bằng, trong sạch trong xử kiện để chia quan lại làm ba bậc định thưởng, phạt; quy định thể lệ xử kiện phải theo thứ tự không được vượt bậc; nghiêm phạt những kẻ gửi gắm, đi kiện thay người khác, kẻ vu cáo, thêu dệt đơn kiện và người liên tục khiếu nại… Đề nghị của Sĩ Tiêm không được chấp thuận và pháp luật vẫn mất dần hiệu lực để rồi đến năm 1764, một viên quan khác là Lê Quý Đôn đã dâng sớ lên chúa Trịnh “xin thiết định pháp chế”, chủ trương kết hợp đức trị và nặng về pháp trị để “nắm vững quốc gia”, “thúc ước nhân tâm và chế ngự thế biến”. Cũng giống như tờ khải của Bùi Sĩ Tiêm, tờ sớ của Lê Quý Đôn không được phê chuẩn để thi hành. 3.3.1.1.4. Quân đội, an ninh - quốc phòng Để chấn chỉnh lại quân đội, xây dựng binh lực phú cường, rất nhiều kế sách được trình lên cho vua Lê chúa Trịnh xem xét. Tuy nhiên, đề cập cụ thể đến tình hình quân đội và đề xuất nhiều biện pháp chi tiết hơn cả phải nói đến tờ khải của Bùi Sĩ Tiêm. Ông cho rằng cần cẩn thận về chính lệnh để tướng tá nghiêm túc; giảm số người hầu hạ trong dinh quan, cấm gây phiền nhiễu tư gia về phú dịch; chấm dứt ngay tệ quân lính uống rượu, đánh bạc; cấm các nha ăn của đút lót, hoặc phạt tiền, đánh đập lính; … Vào cuối thời Lê - Trịnh, vấn đề an ninh - quốc phòng ngày càng nổi cộm, trộm cướp hoành hành khắp các thôn xóm, quân triều đình nhiều lần đi tiễu trừ mà vẫn không dẹp yên. Trong Bài sách ngăn chặn trộm cướp, Ngô Thì Sĩ yêu cầu: “Nên xét nguồn gốc tại sao chúng đã đi đến chỗ làm càn và mở cho chúng một con đường sống”, “làm thế nào để cho dân được phong túc, vui việc nông tang, làm thế nào để cho tài hóa lưu thông, không đến nỗi dân phải cùng quẫn” nhưng cụ thể làm thế nào không thấy ông trình bày rõ. Đối với người nước ngoài sinh sống ở Đàng Ngoài, nhất là người Trung Quốc, Bùi Sĩ Tiêm đề nghị: Quy định khu vực cư trú, buôn bán cho người nước ngoài; người ngoại quốc không có hộ tịch 3 đời ở địa phương thì không được không được lưu trú, địa phương nào dung túng thì xã trưởng bị xử trảm; các quan ở ba trấn Tuyên, Lạng, Cao cần phải tuần phòng nghiêm ngặt ở khu vực giáp giới với Thái Nguyên… Ngô Thì Nhậm, trong Khải khu xử việc mỏ bạc Tống Tinh cho rằng không nhất thiết phải đuổi người Khách về chỉ sử dụng độc nhất người bản địa khai thác mỏ mà cần có sự phân biệt đám người Khách. Muốn khống chế bọn Khách ác ôn có thể dùng kế dùng người Khách đánh người Khách, gây chia rẽ làm cho trong nội bộ chúng sát hại lẫn nhau, sau đó quan bản trấn đưa quân đến phô trương thanh thế, chiêu tập những người đã quy thuận. 3.3.1.2. Về kinh tế Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, vì vậy những đề nghị sửa đổi trong kinh tế chủ yếu và trước hết là về kinh tế nông nghiệp, bao gồm hai vấn đề: dân đinh và ruộng đất. Để giải quyết thực trạng phiêu tán, lưu vong, chính sách chiêu dụ lưu dân khẩn hoang mở đồn điền được các nhà trí thức phong kiến chọn lựa như một giải pháp mang tính khả thi nhất. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm đều có sớ xin chúa Trịnh cho thi hành giải pháp này. Sau khi trình bày 5 điều lợi của việc tổ chức đồn điền, Lê Quý Đôn chỉ rõ các bước tiến hành lập đồn điền như sau: 1. Sai quan; 2. Khám thực; 3. Chia đồn; 4. Phát ruộng; 5. Cấp vốn; 6. Phát nông cụ; 7. Định ngạch thuế. Ngô Thì Sĩ thì xin chúa Trịnh gấp rút thực hiện 5 việc: Việc thứ nhất: Uỷ cho viên quan coi việc chiêu tập điều tra sự thực xem khế ước mua bán ruộng là thật hay giả, tiền tô có nộp hay không. Việc thứ hai: Tra lại sổ “trai đường” cũ xem xã nào có ruộng cấp cho công thần sức cho họ người công thần đưa giấy má ra trình xem cấp lâu hay mới. Việc thứ ba: Khám đạc lại đất núi đồi, thung lũng gần đây bị bán, chiếm làm của tư để đánh thuế như lệ châu thổ. Việc thứ tư: Đối với dân nghèo lưu tán, nên theo phép chiêu tập trong năm Bảo Thái thứ 10. Việc thứ năm: Giao việc chiêu tập dân lưu tán hai trấn Thanh- Nghệ cho viên đầu trấn, ba năm một lần xét công, tuỳ số dân phục hồi sớm hay muộn mà định sự thăng giáng. Ngô Thì Nhậm cũng có một số bản điều trần nhằm chấm dứt nạn dân lưu vong, trong đó có những ý kiến rất đáng lưu ý: Xứ nào có ruộng hoang thông báo cho những dân giàu có bỏ các dụng cụ và giúp tiền vốn sẽ được trao chức tước phẩm hàm; triệu tập dân đói, cấp lương ăn khiến họ cày cấy, được bao nhiêu một nửa quy về ngạch ruộng công còn một nửa quy về ngạch ruộng tư, sau ba năm thành điền mới thu thuế ... Còn Tự khanh Bùi Sĩ Tiêm lại đưa ra những biện pháp khác nhằm đem lại ruộng đất cho mọi người dân. Theo ông, triều đình cần cho thi hành chính sách “trợ canh công điền” đối với ruộng công và “trợ canh tư điền” đối với ruộng tư, cấm ngặt việc mua bán công điền để trừ các tệ kiêm tinh; chọn xã trưởng tốt nói rõ điều lệ nghiêm cấm, định lệ thưởng phạt để tắt quấy nhiễu; giảm thuế tô, thuế điệu... 3.3.1.3. Về giáo dục Chủ trương chung của các bậc trí thức đương thời là phải thay đổi chương trình khoa cử để đào tạo nhân tài, khôi phục văn thể đời Hồng Đức, học và thi phải nhằm vào những vấn đề thiết thực của xã hội, tránh tuyển chọn nhân tài bằng lối thi khuôn sáo câu nệ vào sách vở. Cụ thể: Theo Bùi Sĩ Tiêm, cần “tôn sùng cái học chính thống, chấn hưng phong thái nhà nho, khôi phục lối văn hồn hậu đời Hồng Đức, thay đổi thói viết chi ly thời trung cổ”. Cấm học các sách của hậu nho như Ngốc trai, Đề cương, Tứ đạo. Đề văn sách nên giảm bớt điều mục, ra những đề thi có tính thiết thực. Ngô Thì Sĩ thì đề nghị chọn viên quan có sức học rộng làm học quan; xét siêng lười nhanh chậm mà định cách thưởng phạt học quan, xét văn chương tinh hay tạp mà phân biệt sĩ tử. Còn theo Ngô Thì Nhậm thì: Dạy học trò phải dạy cả văn chương lẫn đức hạnh, trong quá trình học nên biểu dương những người có đức hạnh tốt, truất bỏ kẻ kiêu bạc; nghiêm phép thi cử; chỉnh đốn trường học, cải chính về văn bài và phân biệt mũ áo… Những đề xuất, kiến nghị của một số vị quan- tiến sĩ như đã trình bày, dù tiến bộ song chưa thể coi là những đề nghị mang tính cải cách. Đọc các tờ khải, tờ sớ, các bản điều trần, chúng ta dễ dàng nhận ra hầu hết biện pháp đưa ra nhằm sửa đổi các mối tệ đương thời đều không có gì mới mẻ mà thực ra là sự “phục cổ”, noi theo việc làm của những thời vua thịnh trị trước đây ở Việt Nam và Trung Quốc, chỉ có tác dụng cứu vãn phần nào tình trạng nhiễu nhương bấy giờ. 3.3.2. Hành động thực tiễn 3.3.2.1. Làm quan cai trị Sau khi ra làm quan, với trách nhiệm và quyền hạn cụ thể, các vị “quan - tiến sĩ” có thể cho thi hành nhiều chính sách tác động trực tiếp đến con dân nơi địa phương mình cai quản. Những chính sách đó phần lớn gói gọn trong các việc: Miễn, giảm tô thuế ; lưu thông sự vận chuyển thóc gạo, tha cho người trốn tránh và thiếu thuế; bớt tạp dịch, giảm nhẹ việc trưng thu; định thể lệ tố tụng, quy định thời hạn cầm ruộng và chuộc ruộng; chiêu tập dân xiêu tán về khai khẩn ruộng hoang, cho phép xuất kho và quyên góp thêm của cải của các nhà giàu để chẩn cấp cho dân nghèo… Nhưng những giải pháp nhất thời, trước mắt ấy chỉ đem lại sự yên ổn cho dân chúng trong một thời gian chứ không đảm bảo cuộc sống ấm no về lâu dài. Dần dần các tệ nạn cũ trở lại hoành hành cùng với các tệ nạn mới phát sinh khiến dân rơi lại vào vòng nghèo khó, túng quẫn, trở thành đầu trộm đuôi cướp và tham gia các cuộc nổi dậy khởi nghĩa đánh đổ bọn quan gian tham. 3.3.2.2. Trị "loạn" Qua bảng thống kê 3.3.2.2, chúng tôi thấy nếu ở thế kỷ XVII, các cuộc đánh dẹp chủ yếu là nhắm vào tàn dư của họ Mạc ở Cao Bằng và quân chúa Nguyễn ở phía Nam thì sang thế kỷ XVIII, lại tập trung vào việc tiễu trừ các đám “giặc cỏ”, “giặc núi”. Các cuộc tiến quân đánh nhà Mạc, nhà Nguyễn gây ra bao cảnh chết chóc, loạn lạc, hao tổn tài lực và những cuộc hành quân diệt trừ “giặc cỏ” thực chất là đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Các tiến sĩ khi ra làm quan đã đi ngược với những điều họ đã được học: Yêu dân như con, lấy dân làm gốc. Không phải các bậc trí thức không nhận thức được đầu mối dẫn đến loạn nhưng các cuộc khởi nghĩa ngày một lan rộng, lớn mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại của chính quyền Lê - Trịnh. Tình cảnh ấy đặt các nhà Nho giữa hai chọn lựa: Một bên thương dân và một bên phải trị loạn để nước được yên. Yêu dân, thương dân nhưng đã là mệnh quan của triều đình thì ơn vua lộc chúa cần phải trả, lệnh bề trên không thể không theo. Đây chính là nỗi khổ tâm của các nhà Nho trước lý tưởng “trị loạn”, “bình thiên hạ”. 3.3.2.3. "Thoái vi sư" Lui về làm thầy là một trong những cách hành xử thường thấy của các tiến sĩ sau một thời gian xông pha nơi chốn quan trường. Càng về cuối thời Lê - Trịnh, hiện tượng này càng trở nên phổ biến. Tiêu biểu như: Nguyễn Đình Trụ (tiến sĩ năm 1656), Vũ Công Đạo (tiến sĩ năm 1659), Vũ Thạnh (tiến sĩ năm1685), Bùi Sĩ Tiêm (tiến sĩ năm 1715), Nguyễn Tông Quai (tiến sĩ năm 1721), Trần Hiền (tiến sĩ năm 1733), Trần Văn Trứ (tiến sĩ năm 1743), Lê Quý Đôn (tiến sĩ năm 1752), Nguyễn Huy Cẩn (tiến sĩ 1760), Bùi Huy Bích (tiến sĩ năm năm 1769)… Đa số các vị quan - tiến sĩ lui về dạy học đều đã từng đỗ thứ hạng rất cao trong khoa thi tiến sĩ như Hội nguyên, Đình nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Nguyên nhân đưa họ đến con đường làm thầy xuất phát từ nhiều điểm khác nhau: Có người đỗ tiến sĩ mà không ra làm quan hoặc cáo quan về quê mở trường; có người vì nói, làm trái ý chúa nên bị bãi chức, biếm chức cũng mở trường, lớp dạy học; có người do về trí sĩ (về hưu)… Nhưng dù bắt nguồn từ lý do nào thì với việc dạy học, các vị quan - tiến sĩ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền giáo dục địa phương, đào tạo không ít tài năng cho đất nước. 3.4. Đội ngũ tiến sĩ với phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính Trong khi đa phần các tiến sĩ ra làm quan nhanh chóng bị cuốn theo những thói hư tật xấu của cuộc sống vật chất hằng ngày thì vẫn có một số người luôn giữ mình ngay thẳng, trong sạch, sống kiệm ước, giản dị, không luồn cúi, không cầu cạnh để trở thành con người hoàn thiện, bậc chính nhân quân tử như quan niệm của Nho giáo. Đó là: Nguyễn Thực (tiến sĩ năm 1595), Dương Trí Trạch (tiến sĩ năm 1619), Nguyễn Đăng Cảo, Đồng Tồn Trạch (tiến sĩ năm 1646), Vũ Công Đạo (tiến sĩ năm 1659), Nguyễn Viết Thứ (tiến sĩ năm 1664), Nguyễn Công Vọng (tiến sĩ năm 1673), Nguyễn Quý Đức (tiến sĩ năm 1676), Nguyễn Hiệu (tiến sĩ năm 1700), Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn Công Thái (tiến sĩ năm 1715), Lê Hữu Kiều (tiến sĩ năm 1718), Vũ Công Trấn (tiến sĩ năm 1724), Nguyễn Đức Vĩ (tiến sĩ năm 1727), Nguyễn Bá Lân (tiến sĩ năm 1731)… Tất cả các quan - tiến sĩ nổi tiếng liêm chính đều có chung một điểm là nắm giữ chức vụ đầu triều, đầu phủ (thượng thư, tham tụng). Ở địa vị tột đỉnh danh vọng, kẻ dưới trông lên bề trên nhìn xuống, họ phải sống mẫu mực để làm gương cho kẻ khác và không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện tiết tháo của nhà Nho như những gì họ đã được giáo dục. Tuy nhiên, một khi đã chen chân vào hàng ngũ quan lại, giữa cảnh rối ren sa đọa của chế độ phong kiến và với bao nhiêu đặc quyền đặc lợi có trong tay, đa số kẻ làm quan chỉ còn thấy lợi chứ không nhận ra nghĩa vụ “vị nước”, “vị dân” nữa. Bảng 3.4 đã phản ánh phần nào chân dung của các vị tiến sĩ sau khi gia nhập chốn quan trường: Người thì nhận hối lộ, ăn của đút, khảo xét, cất nhắc người không đúng sự thực, tuyển bổ quan chức bừa bãi; người thì làm bậy trong khảo hạch học trò; có kẻ lại kết bè kết đảng, a dua bênh vực cho nhau, tiêu lạm tiền công quỹ, xử án oan khiến người ta phải mổ bụng; kẻ làm quan ở ngoài trấn thì cai trị hà khắc, đòi hỏi sách nhiễu dân. * Tiểu kết 1. Từ trong 65 khoa thi đại tỷ, vượt qua kì thi cấp cao nhất - thi Đình - kết quả là triều đình Lê - Trịnh đã tuyển chọn được 727 tiến sỹ, bổ sung 712 người (98% số tiến sĩ ) vào bộ máy quan lại lúc bấy giờ. 712 tiến sĩ ấy có mặt trên mọi lĩnh vực và giữ nhiều trọng chức trong chính quyền Lê - Trịnh, các tiến sĩ đã có nhiều tác động, ảnh hưởng đến sự chuyển biến của cục diện chính trị - xã hội thế kỷ XVII - XVIII, đó đồng thời cũng là tác động gián tiếp của thi Đình đối với bối cảnh kinh tế - xã hội đương thời vì thi Đình chính là “lò” trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm trí thức phong kiến - tiến sĩ và chốn quan trường chính là “thị trường” để kiểm nghiệm chất lượng của các sản phẩm ấy đạt hay không đạt. 2. Mục tiêu của Nho giáo là đào tạo ra kẻ sĩ có đầy đủ các phẩm chất đạo đức: trung quân ái quốc, nhân, lễ, tín, dũng, cần, kiệm, liêm, chính và có tài “kinh bang tế thế”, giúp dân no ấm, giúp nước giàu mạnh. Trên thực tế, một số ít các tiến sĩ đã mang những lý thuyết Nho giáo thực hành trong cuộc đời làm quan của mình dù đổi lại họ phải đón nhận nhiều thua thiệt, ấm ức. Những Trần Danh Án, Trần Công Xán, Ngô Nho, Huy Trạc tận trung với vua Lê, một Lý Trận Quán nguyện chết vì chúa; những Bùi Sĩ Tiêm, Bùi Huy Bích, Nguyễn Bá Lân khuyên chúa phải giữ lấy đạo làm tôi trước vua. Có người làm quan đến chức thượng thư, tham tụng như Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Viết Thứ, Nguyễn Quốc Trinh, Nguyễn Công Thái… vẫn giữ lòng mình ngay thẳng, thanh bạch, trong triều dám nói thẳng, không kiêng nể, sợ hãi. Có người như Bùi Sĩ Tiêm, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ, Lê Trọng Thứ, Lê Quý Đôn… thông cảm với nỗi khổ của nhân dân, bất bình với sự nhiễu nhương của thời cuộc mỗi ngày một nghiêm trọng ở thế kỷ XVIII đã liên tiếp dâng khải phản ánh tình tệ ở các bộ, các xứ và đề xuất những suy nghĩ, những chính sách nhằm giảm nhẹ đến một mức nào đó sự bóc lột, áp bức đối với nhân dân nhưng hầu hết không được thi hành. Học giỏi, đỗ cao, bước lên bậc thang danh vọng, số đông các tiến sĩ - những người trí thức trong xã hội phong kiến, đã tiếp thu sâu sắc giáo lý của Tứ thư, Ngũ kinh dần dần đi vào cuộc sống vị kỷ. Đối với vua chúa, đạo đức của họ là trung thành mù quáng. Song chữ “trung” cho đến lúc này đã không còn mang đầy đủ ý nghĩa như trước. Họ trung thành vì quyền lợi của họ gắn bó chặt chẽ với tập đoàn thống trị Lê - Trịnh và chỉ trung khi có quyền lợi. Vì vậy ở thế kỷ XVII - XVIII, thay vì trung với vua, kẻ sĩ lại trung với chúa bởi chúa mới là người có thực quyền, bổng lộc từ chúa mà ra. Rồi đến lúc chúa gặp nạn thì xung quanh không còn được mấy người tận trung theo phò tá. Đứng vào hàng ngũ quan lại, các tiến sĩ bắt đầu đi vào con đường cậy cục, cầu cạnh, xu nịnh bề trên, tham ô, hoạch họe, vơ vét dân lành. Phẩm chất, cốt cách kẻ sĩ của họ dần bị biến chất, mục ruỗng. Tính chất hình thức của học tập và thi cử thời Lê - Trịnh đã đẻ ra nhiều quan lại bất tài vô tướng, cai trị yếu kém khiến cho cuộc sống dân nghèo lao đao, khốn khó và đàn áp trừng phạt nếu ai có ý định phản kháng, chống đối. Đối với việc quốc gia, họ thường tỏ ra bất lực, cứ bám lấy câu chữ thánh hiền mà ít có suy nghĩ sáng tạo. Trước bao nhiêu tệ nạn trong xã hội, đa số các quan - tiến sĩ cũng giống đám quan lại đương thời đều thực hiện phương châm “mũ ni che tai”, phận ai nấy lo, mạnh ai nấy làm. 3. So với các thời trước và sau Lê - Trịnh, con số 727 tiến sĩ là một con số khá lớn, vậy mà triều Lê - Trịnh vẫn không thể hưng thịnh, trái lại ngày càng tụt dốc. Đó là do “hiền tài” ở thời kỳ này mạnh về số lượng những yếu về chất lượng. Hầu hết các sản phẩm của Đình thí nói riêng và cả nền giáo dục thi cử phong kiến nói chung đều bị “lỗi” không phát huy được tác dụng. Các tiến sĩ khi ra làm quan đa số hành xử theo thời thế mà không theo học thuyết Nho giáo. Vậy cũng có nghĩa kì thi Đình đã không đem lại hiệu quả, không thực hiện được vai trò là kì thi cấp nhất chọn lọc ra những nhân tài cho đất nước. KẾT LUẬN 1. Ngay từ thời Lý, năm 1052, đã xuất hiện kì Điện thí do nhà nước tổ chức và nhà vua trực tiếp ngự ra hiên đặt câu hỏi thi cho các sĩ tử trong cả nước về tụ tập ở sân điện. Dần dần trải qua các triều Trần, Hồ, Lê sơ, thi Đình không còn tồn tại như một khoa thi riêng rẽ mà trở thành cấp thi tối cao trong hệ thống ba cấp thi: Hương - Hội - Đình thuộc khoa thi tiến sĩ. Đặc biệt dưới thời Lê sơ, thi Đình đã hoàn chỉnh về quy chế, phép thi, bộ phận coi thi, chấm thi và đầy đủ, long trọng về mặt ân điển. Nhờ vậy, thi Đình đã làm tròn chức năng là cấp thi cuối cùng và cao nhất kiểm định lần cuối chất lượng của sĩ tử trước khi đưa họ gia nhập vào bộ máy quan trường. Đến thế kỷ XVII - XVIII, những thay đổi của thời cuộc đã đặt thi Đình vào một trường thử thách mới. 2. Sự thắng thế của chúa Trịnh đã mở ra một cục diện chưa từng có trong lịch sử Việt Nam: Chúa nắm thực quyền, Vua giữ hư vị. Thể chế vua Lê - chúa Trịnh với sự yếu thế của vua Lê và sự áp chế, lộng hành của chúa Trịnh chi phối mọi hoạt động, cách cư xử, động thái của các quan lại. Mặt khác, tương ứng với thể chế đó là hai hệ thống quan lại tồn tại song song tạo nên một cơ cấu chính quyền cồng kềnh, đồ sộ. Sự hưng khởi của nền kinh tế hàng hóa ở thế kỷ XVII - XVIII làm phát triển tính tư hữu cá nhân, hình thành tính tự tư tự lợi. Hệ thống tư tưởng, đạo đức xã hội theo tinh thần Nho giáo chịu sự tác động của kinh tế hàng hóa làm thay đổi một số chuẩn mực, quy tắc mà có thời tưởng chừng như bền chặt không gì lay chuyển được. Những nhân tố mới xuất hiện trong trường chính trị, kinh tế - xã hội thế kỷ XVII - XVIII đã tác động liên tục đến kì thi Đình làm nảy sinh một số vấn đề đòi hỏi thi Đình phải đáp ứng để có thể tiếp tục giữ vai trò một kì thi ở cấp cao nhất trong khoa thi tiến sĩ. Đó là: - Thi Đình phải được tiến hành nghiêm túc, cẩn mật, kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhằm ngăn chặn mọi mưu gian để những người đỗ kì thi Đình đều là người có thực lực. - Thi Đình phải được tổ chức thường xuyên nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời cho bộ máy quan liêu ngày càng phình to. - Thi Đình phải chọn ra được những kẻ sĩ có lòng trung thành với vua Lê, tận tâm tận lực phò tá nhà vua phục dựng lại quyền lực thực sự, đưa chúa về đúng cương vị của kẻ bề tôi. - Thi Đình phải chọn ra được những người tài giỏi, có đạo đức để thanh lọc đội ngũ quan lại, là chỗ dựa vững chắc cho triều đình, bảo vệ cuộc sống ấm no cho dân, phát triển đất nước. 3. Trong bối cảnh của thế kỷ XVII - XVIII, các vua Lê, chúa Trịnh đã tổ chức thường xuyên, liên tục các kì thi Đình nói riêng và các khoa thi tiến sĩ nói chung. Thông thường thi Đình sau thi Hội khoảng 1, 2 tháng, ai đỗ thi Hội thì vào tham dự thi Đình. So với thời Lê sơ, số lượng người lấy đỗ thời Lê - Trịnh ít hơn, do vậy các sĩ tử phải tranh đua quyết liệt với nhau. Thi Đình là một kì thi độc lập và hoàn toàn tách khỏi thi Hội, có thời gian thi, địa điểm thi riêng, có đầy đủ các bộ phận coi thi, chấm thi, bảo vệ. Học tập các thời trước, nhất là thời Lê sơ, thi Đình thời Lê - Trịnh vẫn giữ nguyên phép thi (thi một bài văn sách), bộ phận quan coi thi, chấm thi (gồm vua, đề điệu, giám thí, tri cống cử, độc quyển) nhưng đại để, trên hầu hết các mặt ít nhiều đều có sự thay đổi khác trước do tác động của trường kinh tế - xã hội mà nó đang hiện tồn. Ảnh hưởng của chế độ chính trị - xã hội đến cách ứng xử của con người, đến giáo dục làm nảy sinh nhiều dạng tiêu cực trong thi Hương, thi Hội đã lây lan đến tận kì thi Đình. So với các triều đại trước, ân điển của triều đình Lê - Trịnh giành cho những người đỗ tiến sĩ có phần cao hơn, trọng hậu hơn, thậm chí hơn cả thời Lê sơ - vốn được coi là đã đủ đầy về mặt ân điển. Mục đích của vua Lê - chúa Trịnh cũng là nhằm thể hiện ân đức của triều đình, sự coi trọng của nhà nước đối với nhân tài của đất nước, mặt khác có ý dùng chính sách đãi ngộ hậu hĩnh để thu hút người tài khắp nơi trên đất nước về phục vụ cho triều đình, cho đất nước. Tổng cộng chính quyền Lê - Trịnh đã tổ chức 65 kì thi Đình nói riêng và 65 khoa thi tiến sĩ nói chung, “tinh tuyển” được 727 tiến sĩ, trong đó có 712 người gia nhập vào bộ máy quan trường. 4. Thực tế, toàn bộ trường chính trị, kinh tế - xã hội thế kỷ XVII - XVIII đã mâu thuẫn với hệ tư tưởng Nho giáo: Vận mệnh của ngôi Vua do Chúa nắm giữ, nông dân nổi dậy như ong, đạo thống không được tôn trọng, kỷ cương phép tắc luân thường đảo lộn… Để ổn định trật tự xã hội thì con đường hiệu quả nhất đối với nhà Nho là ra làm quan. Trong những tiến sĩ ra làm quan thời Lê - Trịnh thỉnh thoảng vẫn xuất hiện các bậc trung thần, tiết nghĩa; các bậc hiền lương, liêm khiết, chính trực; các bậc hiền tài luôn ôm ấp hoài bão trị nước an dân, ổn định xã hội, chấn hưng đất nước. Song chính tình trạng vua giữ hư vị, chúa giữ thực quyền đã làm cho các quan - tiến sĩ lúng túng, thụ động không biết nên hành xử ra sao. Quyền cao chức trọng nhưng chẳng mấy ai thực hành được đạo “trung quân”. Dường như tất cả đều quan niệm thông qua việc thờ chúa để thờ vua và xem điều bất thường có một không hai trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam ấy là điều bình thường, hiển nhiên. Chẳng lo lắng đến sự đổi thay của thế đạo chỉ lo sống theo thời thế, đa phần các tiến sĩ một khi đã bước chân vào hàng ngũ quan lại đã không còn biết rèn giũa, trau dồi phẩm hạnh, tư cách của kẻ sĩ làm quan. Quan lại là trụ cột của triều đình, một khi hệ thống cột đỡ bị hư hỏng, mục nát thì chính quyền đó sẽ nhanh chóng bị sụp đổ và thực tế là chính quyền Lê - Trịnh đã bị chôn vùi trong cơn bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclsu11t.doc
Tài liệu liên quan