Đề tài Các loại kỹ thuật phân tích trong kiểm toán

Trong giai đoạn lập kế hoạch, khi nhận được các tài liệu ban đầu từ phía khách hàng về báo cáo tài chính KTV đã thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ để kiểm tra tính hợp lý, phân tích xu hướng biến động, đánh giá xem liệu có những biến động xảy ra hay không. Trong phân tích sơ bộ Báo cáo tài chính KTV phải sử dụng phương pháp so sánh số liệu của năm trước và năm nay để tính ra mức biến động trên số tương đối và tuyệt đối trên Bảng cân đối kế toán. Việc phân tích này dễ dàng chỉ ra được biến động năm nay so với năm trước và KTV sẽ phân tích sâu hơn ở một số các chỉ tiêu có biến động lớn. Sau khi phân tích sơ bộ Báo cáo tài chính KTV tiến hành phân tích tổng quát trên báo cáo lỗ lãi. Báo các lỗ lãi tiến hàng so sánh các chỉ tiêu về lợi tức gộp, lợi tức hoạt động, lợi tức trước thuế, lợi tức ròng. Các chỉ tiêu này cũng được so sánh và tính toán mức độ chênh lệch trên số tương đối và tuyệt đối. KTV còn tiến hành phân tích tổng quát báo cáo tài chính về các tỷ suất thanh toán, tỷ suất lợi nhuận Tất cả những phân tích này được ghi chép trên giấy tờ làm việc để làm cơ sở cho kiểm toán viên đánh giá rủi ro trong Bảng cân đối kế toán và mức sai sót tiềm tàng.

doc29 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 732 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các loại kỹ thuật phân tích trong kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
báo cáo kiểm toán. Tỷ suất này càng lớn hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp càng có khả năng thanh toán. Ngược lại, tỷ suất này càng nhỏ hơn 1 thì nguy cơ phá sản của doanh nghiệp càng lớn. Khi tỷ suất này gần bằng không thì doing nghiệp bị phá sản, tức là không còn khả năng thanh toán. + Số vòng thu hồi nợ: thể hiện số vòng thu hồi nợ trong một liên độ, có nghĩa là số dư nợ khách hàng thu được vào quỹ mấy lần. Số vòng thu hồi nợ càng nhiều, thơi gian thu hồi nợ càng ngắn. Doanh thu ròng (thuần) Số vòng thu hồi nợ= Số dư các khoản bình quân phải thu Số dư các khoản phải thu (đầu năm + cuối năm) Số dư các khoản = phải thu bình quân 2 + Số vòng luân chuyển hàng tồn kho: Một vòng luân chuyển hàng hoá được tính từ lúc xuất tiền mua hàng cho đến khi bán hàng thu lại tiền. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cho biết mỗi năm hàng hoá luân chuyển được mấy lần. Số vòng luân chuyển càng nhiều, thời gian luân chuyển một vòng càng ngắn. Giá vốn hàng bán Số vòng luân chuyển = hàng tồn kho Số dư tồn kho bình quân Nếu lấy một năm là 365 ngày thì: 365 ngày Thời gian luân chuyển = 1 vòng hàng tồn kho Số vòng luân chuyển hàng tồn kho . Nhóm tỷ suất khả năng sinh lời: + Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản: dùng để đo lường tiền lãi do một đồng tài sản mang lại. Lãi kinh doanh trước thuế + Chi phí tiền lãi Tỷ suất khả năng = sinh lời của tài sản Tổng giá trị tài sản bình quân Do tổng tài sản được tài trợ từ cả nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nên chi phí tiền lãi phải được cộng vào lãi kinh doanh của donah nghiệp để tính tỷ suất này. +Tỷ suất hiệu quả kinh doanh:cho biết cứ một đòng doanh thu thuần mang lại bao nhiêu tiền lãi cho doanh nghiệp. Tổng lãi kinh doanh trước thuế Tỷ suất hiệu quả kinh doanh = Tổng doanh thu bán hàng năm Để đánh giá tỷ suất này, ngoaì việc so sánh giữa các năm hoặc tỷ suất dự kiến nhằm thấy rõ chất lượng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, kiểm toán viên còn phải xem xét tính chất ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động. . Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính: Thông qua nhóm tỷ suất này ngoài việc phân tích sự bất thường kiểm toán viên còn có thể nhìn nhận những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu và có thể dẫn dắt các nhà quản lý đến sai phạm. Đồng thời kiểm toán viên có thể xem xét thêm khả năng tiếp tục hoạt động của đơn vị. + Tỷ suất đầu tư: dùng để đánh giá năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá trình độ trang bị máy móc, thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tỷ suất đầu tư = Tổng tài sản Tỷ suất này luôn nhỏ hơn một và mức độ cao thấp của nó tuỳ thuộc theo doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào. Thông thường tỷ suất này được coi là hợp lý trong từng ngành nếu: Công nghiệp thăm dò và khai tác dầu khí: tỷ suất này khá cao vào khoảng 0.9 ( 90% tổng tài sản). Công nghiệp luyện kim: khoảng 0.7 ( 70% tổng tài sản) Công nghiệp chế biến thực phẩm: khoảng 0.1 đến 0.3 + Tỷ suất nợ: Tổng số nợ phải trả Tỷ suất nợ = Tổng nguồnvốn Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tài trợ = = 1- tỷ suất nợ Tổng nguồn vốn Tỷ suất tài trợ phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ hoặc những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu. Tỷ suất tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiêu vốn tự có và hoạt động chủ yếu dựa trên vốn chủ sở hữu, không phải lo lắng nhiều trong việc vay và trả nợ. +Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay: Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh Tỷ suất khả năng = thanh toán lãi vay Chi phí lãi vay Kiểm toán viên có thể so sánh tỷ suất này giữa các kỳ hoặc với tỷ suất trung bình của ngành. Trong ba loại hình phân tích trên, kiểm tra tính hợp lý kết hợp các dữ liệu hoạt động, dữ liệu tài chính và kiểm tra sự tương ứng giữa hai loại dữ liệu này. Do mức độ chính xác hay tính tin cậy của bằng chứng thu thập được nên kiểm tra tính hợp lý được xem là quan trong nhất. Phân tích tỷ suất được dựa trên mối quan hệ giưa các báo cáo khác nhau có mối liên hệ liên quan nên việc phân tích tỷ suất cũng cung cấp những bằng chứng có giá trị. Phân tích xu hướng được xem là kỹ thuật cung cấp dữ liêu có độ tin cậy thấp hơn 2 kỹ thuật trên, tuy nhiên nó lại hỗ trợ rất nhiêu trong việc xác định các vùng rủi ro. III. quy trình phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Công việc kiểm toán được thực hiện cho mọi loại hình doanh nghiệp dù là quy mô lớn hay nhỏ, loại hình kinh doanh giản đơn hay phức tạp. Đối với mỗi nội dung kiểm toán khác nhau thì trình tự kiểm toán cũng khác nhau, nhưng thông thường mọi cuộc kiểm toán đều được tiến hành qua 3 bước: Lập kế hoạch, thực hiện và kết thúc kiểm toán. Lập kế hoạch là giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán nó quyết định tính khả thi của cuộc kiểm toán, theo chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận rộng rãi thì khi thực hiện một cuộc kiểm toán kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để công việc kiểm toán tiến hành có hiệu quả, đúng thời gian. Như vậy lập kế hoạch kiểm toán là nguyên tắc đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo, việc lập kế hoạch kiểm toán có thể đem lại các ý nghĩa quan trọng sau đây : Giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán một cách đầy đủ và có giá trị, từ đó có thể đưa ra kết luận chính xác về báo cáo tài chính của doanh nghiệp, tiết kiệm được chi phí kiểm toán, nâng cao hiệu quả công việc kiểm toán. Tăng cường sự hợp tác giữa các kiểm toán viên, kiểm toán viên với các bộ phận liên quan như hệ thống kiểm soát nội bộ, các chuyên gia tư vấn... Theo đó công việc kiểm toán sẽ được tiến hành một cách khoa học tránh được sự trồng chéo, giảm thiểu chi phí và tăng tính cạnh tranh của công ty kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán là căn cứ để tránh bất đồng với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập công ty kiểm toán và khách hàng thống nhất về nội dung, chi phí, thời gian và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên. Tránh được bất đồng với khách hàng sẽ giữ được mối quan hệ tốt với khách hàng và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kiểm toán, nâng cao uy tín của công ty kiểm toán. Ngoài ra, việc lập kế hoạch kiểm toán sẽ là cơ sở để kiểm tra, giám sát tiến độ và chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán càng có ý nghĩa hơn đối với những khách hàng lần đầu được kiểm toán bởi công ty. Trong trường hợp này kiểm toán viên phải mở rộng quy trình lập kế hoạch kiểm toán để hiểu biết rõ hơn về đơn vị của khách hàng. Ngoài ra để việc lập kế hoạch có hiệu quả thì yêu cầu kế hoạch phải gắn liền với việc xây dựng các mục tiêu kiểm toán để tận dụng được những điều kiện thuận lợi và nguồn lực sẵn có nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực đó. Việc lập kế hoạch hpải triển khai các chiến lược hỗ trợ cho các chủ trương, biên pháp và chương trình bảo đảm tốt nhất cho các hoạt động tiến hành thương xuyên và thúc đẩy cho quá trình kiểm toán đạt được các mục tiêu tương lai. 1. Các bước lập kế hạch kiểm toán Khái quát các bước lập kế hoạch kiểm toán Liên hệ với khách hàng và đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán Lập thư hẹn kiểm toán trong trường hợp chấp nhận kiểm toán Lập kế hoạch tổng quát (kế hoạch chiến lược) Lập kế hoạch chi tiết Thiết kế chương trình kiểm toán Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán một trong những thủ tục được sử dụng và sử dụng có hiệu quả nhất là “thủ tục phân tích” hay “thể thức phân tích”. Các thủ tục phân tích trong giai đoạn này giúp cho công ty kiểm toán đánh giá tính khả thi của cuộc kiểm toán, nhất là đối với những khách hàng mới mà công ty chưa có nhiều thông tin về họ. 2. Thủ tục phân tích trong các bước của giai đoạn lập kế hoạch. Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu nhận một khách hàng, thu nhận khách hàng là một quá trình gồm hai bước : Có sự liên lạc giữa kiểm toán viên và khách hàng tiềm năng. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán đối với khách hàng này, còn đối với khách hàng hiện tại thì kiểm toán viên quyết định xem có tiếp tục kiểm toán hay không. Khi đánh giá khả năng chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét liệu việc chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán có làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán viên hay làm hại đến uy tín của công ty kiểm toán . Để làm được điều đó kiểm toán viên cần phải thu thập những thông tin có liên quan như chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp, tính liêm chính và phong cách làm việc của ban quan trị, các thông tin từ kiểm toán viên tiền nhiệm Kiểm toán viên phải biết đưa các thông tin đó vào hệ thống thông tin chung, phân tích mối tương quan giữa các thông tin đó để xác định quy mô, tính phức tạp của cuộc kiểm toán và khả năng chấp nhận kiểm toán với giá phí tương ứng. Việc chấp nhận kiểm toán có thể đưa đến một cuộc kiểm toán thành công hoặc thất bại vì vậy vệc phân tích thông tin một cách cẩn then sẽ giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán có những kết luận đúng đắn. Trong giai đoạn lập kế hoạch, quy trình phân tích đánh giá tổng quát giúp cho kiểm toán viên nhìn nhận doanh nghiệp một cách toàn diện và xác định tính bất thường một cách nhanh chóng để định hướng và xác định phạm vi kiểm tra, rút ngắn thời gian kiểm toán. Kỹ thuật phân tích còn giúp kiểm toán viên xác định nhanh chóng khu vực có thể có sai sót để làm trọng tâm cho cuộc kiểm toán. Các thông tin thu được do áp dụng quy trình phân tích còn giúp kiểm toán viên quyết định nội dung, thời gian và phạm vi sử dụng các phương pháp kiểm toán khác. ở giai đoạn lập kế hoạch, sau khi đã thu thập đầy đủ các thông tin cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hoõ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất thời gian và thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng trong giai đoạn sau. Các thủ tục phân tích sử dụng cho việc lập kế hoạch kiểm toán nhằm vào các mục tiêu sau đây : Thu thập hiểu biết về nội dung các báo cáo tài chính và những biến đổi quan trọng về kế toán và hoạt đọng kinh doanh của khách hàng vừa mới diễn ra kể từ lần kiểm toán trước. Tăng cường sự hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của khách hàng và giúp kiểm toán viên xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của công ty khách hàng. Hiểu được công việc kinh doanh của khách hàng Kiểm toán viên xem kiến thức và kinh nghiệm thu thập được về công ty khách hàng trong những năm trước như một điểm khởi đầu để lập kế hoạch cho cuộc kiểm tra năm hiện hành. Bằng cách tiến hành các thể thức phân tích mà qua đó các thông tin chưa được kiểm toán nổi rõ. Những biến động này có thể đại diện cho những xu hướng quan trọng hoặc các hiện tượng đặc biệt mà tất cả đều có ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch kiểm toán . Thí dụ: một sự sụt giảm về các tỷ lệ tổng số dư qua thời gian có thể chỉ rõ rằng cạnh tranh đang tăng lên trong khu vực thị trường của công ty, và nhu cầu cần phải xem xét kỹ lưỡng hơn cách định giá hàng tồn kho khi kiểm toán. Tương tự, một sự tăng lên về số dư của tài sản cố định có thể chỉ rõ rằng có một sự mua đáng kể cần phải được xem xét lại. Đánh giá khả năng công ty tiếp tục là một doanh nghiệp hoạt động phát đạt Các thể thức phân tích thường có tác dụng như một dấu hiệu của việc là công ty khách hàng đang đứng trước những khó khăn khắc nghiệt về mặt tài chính. Khả năng thiếu hụt mặt tài chính phải được kiểm toán viên xem xét trong quá trình đánh giá các rủi ro liên hệ với kiểm toán cũng như liên hệ với giả định doanh nghiệp hoạt động phát đạt của Ban quản trị khi soạn thảo các báo cáo tài chính. Một số thể thức phân tích nhất định có thể rất hữu ích cho việc xem xét sau này. Thí dụ: nếu tỷ lệ nợ dài hạn so với tổng giá trị tài sản ròng cao hơn bình thường được kết hợp với một tỷ lệ dưới mức trung bình của lợi nhuận so với tổng số tài sản, thì có thể chỉ ra mức rủi ro tương đối cao của sự thiếu hụt tài chính. Những điều kiện đó không chỉ có ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán, mà còn có thể chỉ rõ là có những nghi ngờ đáng kể về khả năng công ty tiếp tục là doanh nghiệp hoạt động làm ăn phát đạt, điều này sẽ yêu cầu một báo cáo có bổ sung. Đánh giá sự hiện diện các sai số có thể có trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Những chênh lệch đáng kể ngoài dự kiến giữa số liệu tài chính chưa được kiểm toán ở năm hiện hành với số liệu khác được dùng so sánh thường được xem như những dao động bất thường. Những dao động bất thường xảy ra khi những chênh lệch đáng kể không được dự kiến nhưng lại tồn tại, hoặc khi những chênh lệch đáng kể có được dự kiến nhưng lại không xảy ra. Trong cả hai trường hợp, một trong những lý do khả dĩ đối với một dao động bất thường là sự hiện diện của một sai số về kế toán hoặc sai quy tắc. Thí dụ: khi so sánh tỷ lệ của mức dự phòng khoản phải thu khó đòi với tổng các khoản phải thu, với tỷ lệ đó của năm trước, giả sử tỷ lệ này đã giảm đi trong khi cùng lúc đó, hệ số quay vòng các khoản phải thu cũng giảm đi. Tổng hợp hai mảng thông tin này sẽ chỉ rõ khả năng báo cáo dưới mức dự phòng. Khía cạnh này của các thể thức phân tích thường được gọi là sự quan tâm có định hướng vì nó dẫn đến các thể thức chi tiết hơn trong các lĩnh vực kiểm toán đặc thù mà ở đó có thể tìm thấy các sai số hoặc sai quy tắc. Giảm bớt các cuộc khảo sát chi tiết. Khi một thể thức phân tích không làm bật lên các dao động bất thường thì có nghĩa là khả năng của sai số hoặc sai quy tắc trọng yếu rất nhỏ. Trong trường hợp đó, thể thức phân tích cấu thành bằng chứng thật sự để chứng minh cho sự trình bày trung thực của các số dư các tài khoản liên quan, và việc tiến hành khảo sát chi tiết các tài khoản này có thể giảm bớt. Thí dụ: nếu các thể thức phân tích dẫn đến kết quả là số dư của một tài khoản nhỏ, thí dụ như phí bảo hiểm chưa được hưởng là thích hợp thì không cần khảo sát chi tiết nữa. Trong các trường hợp khác, một số thể thức kiểm toán nhất định có thể được loại trừ, quy mô mẫu có thể giảm bớt, hoặc thời hạn của các thể thức có thể được kéo dài hơn kể từ ngày lập bảng cân đối tài sản. Các thể thức phân tích thường không tốn kém như các cuộc khảo sát chi tiết. Do đó, hầu hết các kiểm toán viên thay thế các khảo sát chi tiết bằng các thể thức phân tích bất cứ khi nào có thể làm được. Để minh hoạ, sẽ rẻ hơn rất nhiều khi tính và xem xét lại doanh thu và các tỷ lệ các khoản phải thu thay vì xác minh từng khoản phải thu. Nếu có thể giảm bớt hoặc thay thế sự xác minh bằng các thể thức phân tích, thì chi phí sẽ tiết kiệm đáng kể. Mức độ mà các thể thức phân tích có thể cung cấp bằng chứng chính thức, hữu ích phụ thuộc vào tính đáng tin cậy của chúng trong các tình huống đó. Đối với một số mục đích kiểm toán và trong một số trường hợp, chúng có thể là những thể thức hiệu quả nhất để vận dụng. Những mục tiêu này có thể gồm sự xếp loại đúng đắn các nghiệp vụ kinh tế , tính đầy đủ của việc ghi sổ nghiệp vụ kinh tế, và tính chính xác của các phán xét và ước tính của Ban quản trị trong một số lĩnh vực nhất định, như dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Đối với các mục tiêu kiểm toán và ở những tình huống khác, tốt nhất là xem các thể thức phân tích như sự quan tâm có định hướng, và không nên dựa vào đó để thu thập bằng chứng chính thức. Thí dụ như trường hợp xác định khi nào các thể thức phân tích là hiệu quả. Như vậy qua việc thực hiện các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên có thể xác định nội dung cơ bản của cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Mức độ phạm vi và thời gian áp dụng các thủ tục phân tích thay đổi tuỳ thuộc vào quy mô và tính phức tạp trong hoạt động kinh daonh của khách hàng. Việc xây dung các thủ tục phân tích bao hàm một số bước đặc thùnhư xác định mục tiêu, thiết kế các cuộc khảo sát, tiến hành khảo sát, phân tích kết quả và đưa ra kết luận. Các thủ tục kiểm toán viên sử dụng bao gồm hai loại cơ bản: Phân tích ngang (phân tích xu hướng): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng một chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu phân tích được sử dụng ngang bao gồm: + So sánh số liệu kì này với số liệu kì trước hoặc giữa các kì với nhau và qua đó kiểm toán viên thấy được những biên động bất thường và xác định được các lĩnh vực quan tâm. Ví dụ: tỷ suất thanh toán hiện hành giảm đột ngột với quy mô lớn cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tình hình tài chính, khả năng thanh toán công nợ + So sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán hoặc số liệu ước tính của kiểm toán viên. + So sánh dữ kiện của công ty khách hàng với dữ kiên chung của ngành. Phân tích dọc (phân tích tỷ suất): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh tỷ lê tương quan của các chỉ tiêu và các khoản mục khác nhau trên báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài chính thương dung trong phân tích dọc có thể là các tỷ suất về khả năng thanh toán, tỷ suất về khả năng sinh lời Trong bước lập kế hoạch tổng quát, kiểm toán phải thực hiện rất nhiều công việc nhỏ như sau: + Tìm hiểu bản chất kinh doanh của khách hàng: gồm tìm hiểu công việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp( bản chất các sản phẩm và dịch vụ, cơ cấu vốn, môi trường kinh tế) cũng như tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến nghành nghề doanh nghiệp đang hoạt động( các điều kiện kinh tế và cạnh tranh, những thay đổi về công nghệ tác tới kinh doanh, chính sách tiếp thị và chiến lược cạnh tranh then chốt) + Bản chất của các bộ phận, khoản mục được kiểm toán ( các koản mục và loại nghiệp vụ kinh doanh, tính chủ quan của hệ thông kế toán đối với tong loại nghiệp vụ, khoản mục của báo cáo tài chính) + Bản chất của hệ thống kế toán trong đơn vị( mức đọ và phạm vi điện toán hoá, mức hiện quả và tính phức tạp của hệ thống điện toán, bản chất các phương pháp kế toán đang áp dụng) Kiểm toán viên trong của mình cũng cần tham khảo lại hồ sơ kiểm toán năm trước vì ở đây chứa đựng rất nhiều thông tin về khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểm khác. Thông qua kết quả kiểm toán năm trước đánh giá xu hướng hoạt động của công ty, khả năng hoạt động, khả năng thanh toán, tốc độ chu chuyển hàng hoá, chu chuyển vốn, tình hình tồn khoĐồng thời kiểm toán viên có thể thấy được nhưng điểm mạnh điểm yếu của khách hàng, từ đó chủ động nên chú trọng đén phần hành kiểm toán nào, và giảm bớt thủ tục kiểm toán nào. Trong giai đoạn lập kế hoặch, kiểm toán viên còn phải đánh giá mức độ trọng yếu rủi ro để ước tính mức độ sai sót có thể chấp nhận được của báo cáo tài chính, xác địng phạm vi của cuộc kiểm toán avf đánh gia mức dộ ảnh hưởng của chúng. Thể thức phân tích được thực hiên trong bước này là việc ước lượng ban đaùu về tính trọng yếu. Đó là mức tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó báo cáo tài chính có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng thông tin tài chính. Kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp có nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính càng cao nên số lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập càng nhiều và ngược lại. Việc ước lượng này chỉ mang tính tương đối, nó không cố định mà thay đổi trong suất cuộc kiểm toán. Việc ước lượng ban đầu giúp kiểm toán viên lâp kế hoạch để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Trong quá trình ước lượng tính trọng yếu, kiểm toán viên cần phải biết các yếu tố định lượng, định tính của trọng yếu cũng như các yếu tố liên quan đến bản chất của sai phạm. Trong khi quy mô của sai phạm quyết định đến yếu tố định lượng của trọng yếu thì thì bản chất của sai phạm ảnh hưởng đến yếu tố định tính của trọng yếu. Quy mô của sai phạm chỉ mang tính tương đối, cùng một quy mô nhưng trong tình huống này là sai phạm trọng yếu nhưng trong trường hợp khác lại có thể là không trọng yếu. Khi xét đến bản chất của sai phạm thì một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô lớn hay nhỏ. Chính vì vậy ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một công việc khó khăn đòi hỏi kiểm toán viên phải phân tích kỹ lưỡng để phân biệt được tong tình huống cụ thể khác nhau từ đó có được những ước lượng chính xác tương đối về mức độ trong yếu. Việc ước lượng mức độ trọng yếu và đánh giá các loại rủi ro liên quan trực tiếp đến việc thiết kế chương trình kiểm toán, cụ thể là thiết kế các trắc nghiện kiểm toán, qua đó xác định được các thủ tục kiểm toán, quy mô mẫu chọn khoản mục được chọn và thời gian thực hiện. Các trắc nghiệm phân tích có vai trò quan trọng vì nó giúp cho việc đánh giá tính hợp lí chung của các số dư tài khoản đang được kiểm toán. Trên cơ sở đó kiểm toán viên sẽ mở rộng hay thu hẹp các trắc nghiệm trực tiếp số dư. Như vậy, một cuộc kiểm toán sẽ đạt hiệu quả cao nếu như giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán được thực hiện tốt. Việc lập kế hoạch được thực hiện thông qua quá trình thu thập thông tin có liên quan và tiến hành phân tích các thông tin đó. Từ đó đưa ra các kết luận chung về đơn vị khách hàng. Bởi vậy các thủ tục phân tích là một trong những công cụ hữu ích để giúp kiểm toán viên lập kế hoạch tốt. Điều quan trọng là kiểm toán viên phải biết vận dụng thủ tục phân tích nào vào trong tình huống cụ thể nào cho hợp lý nhất. IV. quy trình phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Trong giai đoạn thực hiên kiểm toán các kiểm toán viên sử dụng các phương pháp kỹ thuất kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Xét về thực chất, kiểm toán chính là quá trình kiểm toán viên khai thác, phát hiên và đánh giá các bằng chứng kiểm toán bằng việc áp dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp. Các bằng chứng kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên rút ra những kết luận hợp lí, làm căn cứ vững chắc để đưa ra các ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập được càng nhiều càng tốt song kiểm toán viên cũng phải cân nhắc đến vấn đề chi phí bỏ ra để thu thập các bằng chứng đó. Do vậy việc kiểm toán viên áp dụng phương pháp kiểm toán nào để thu thập bằng chứng kiểm toán sao cho vừa bảo đảm tính hiệu quả kiểm toán vừa đảm bảo tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng là cần thiết. Có rất nhiều phương pháp kiểm toán mà kiểm toán viên có thể áp dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán như kỹ thuật rà soát sơ lược. Kiểm tra vật chất, lấy xác nhận, xác minh tài liệu, quan sat, phỏng vấn, tính toán lại và phân tích. Do tầm quan trọng và tính hữu hiệu của phương pháp phân tích mà phương pháp này được các kiểm toán viên sử dụng hầu hết trong các cuộc kiểm toán . Đối với một số mục tiêu kiểm toán nhất định hoặc các số dư tài khoản nhỏ, chỉ thể thức phân tích thôi cũng đủ để có được các bằng chứng. Tuy vậy, đối với hầu hết các trường hợp việc kết hợp các phương pháp là cần thiết để thoả mãn quy định bằng chứng có giá trị và đầy đủ. Phân tích là quá trình so sánh, đối chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác định tính hợp lí của các số dư trên tài khoản. Các mối quan hệ bao gồm quan hệ giữa thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính. Phân tích là kỹ năng bao trim nhất để khai thác bằng chứng kiểm toán, việc phân tích gồm: Dự đoán: là việc ước đoán về số dư tài khoản, giá trị tỷ suất hoặc xu hướng liên quan đến các dữ liệu về tài chính và dữ liệu hoạt động. So sánh: kiểm toán viên có thể so sánh dự đoán của mình với số dư trên báo cáo tài chính, với giá trị theo kế hoạch ngân sách, với giá trị tương ứng của một công ty khác dùng làm so sánh hoặc với mức trung bình của nghành kinh doanh. Đánh giá: là việc sử dụng các phương pháp chuyên môn và các kỹ thuật khác( phỏng vấn, quan sát) để phân tích và kết luận về các chênh lệch hi so sánh. Khi có những chênh loch này kiểm toán viên sẽ cân nhắc xem liệu chênh lệch đó có theo một loại hình nhất định nào hay không. Trong hầu hết các trường hợp, kiểm toán viên cần báo cáo những chênh loch cho người triong công ty trực tiếp có trách nhiệm quản lý đối tượng mà ta tin rằng có dính líu đến sai phạm. Song cũng có khi kiểm toán viên đã báo cáo nhưng những chênh lệch này không được sửa đổi thì kiểm toán viên cần đánh giá xem có sai sót trọng yếu ảnh hưởng đến báo cáo tài chính hay không. 1. Mục đích của thủ tục phân tích Hiểu biết thêm hoạt động kinh doanh của khách hàng và chính sách quản lý của khách hàng. Thu thập bằng chứng kiểm toán có chất lượng cao với chi phí thấp, giảm thiểu việc kiểm tra chi tiết. Kiểm tra đồng thời tính đầy đủ, tính hữu hiệu, tính đúng kì và sự đánh giá của các khoản mục trên báo cáo tài chính. 2. Sử dụng kỹ thuật phân tích để thu thập bằng chứng kiểm toán Thông thường quy trình phân tích bao gồm các giai đoạn sau: Lựa chọn loại hình phân tích Nhìn chung các loại hình phân tích áp dụng hiệu quả đối với các tài khoản trong Báo áo kết quả kinh doanh và các nghiệp vụ có liên quan hơn là đối với các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán. Các tài khoản trong Báo cáo kết quả kinh doanh dễ dự đoán hơn, trong khi đó các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán thường kết hợp nhiều loại hình nghiệp vụ phức tạp. Hướng dẫn chọn loại hình phân tích Đối tượng kiểm toán Loại hình phân tích Phân tích xu hướng Phân tích tỷ suất Kiểm tra tính hợp lý Khoản mục trong Bảng cân đối kế toán Hạn chế Hữu ích Hạn chế Khoản mục trong báo cáo kết quả kinh doanh Hữu ích Rất hữu ích Rất hữu ích b. Phát triển một mô hình kết hợp các biến tài chính và hoạt động Khi phát triển một mô hình, chúnh ta xác định các biến tài chính hoặc hoạt động và mối quan hệ giữa chúng. Ví dụ:Doanh thu phụ thuộc vào các biến số như số lượng sản phẩm bán ra và đơn giá mỗi sản phẩm hoặc chi phí về tiền lương phụ thuộc vào số lượng nhân viên và mức lương của từng nhân viên Việc lựa chọn những biến cụ thể để xây dựng mô hình cần căn cứ vào mục đích cụ thể của việc áp dụng các thủ tục phân tích và nguồn thông tin về các dữ liệu. Như vậy, với mỗi mô hình cần xác định rõ việc phát triển mô hình là để dự đoán số dư tài khoản hiện tại hay để dự đoán thay đổi so với số dư của năm trước. Thông thường, việc dự đoán thay đổi so với năm trước sẽ có hiệu lực khi số dư năm trước đã được kiểm toán. Khi đó có thê loại ra khỏi mô hình những biến độc lập không đổi so với năm trước. Ví dụ: có thể tính doanh thu năm nay của một khách sạn từ tỷ lệ thuê phòng trong năm, tổng số phòng và giá thuê phòng. Tuy nhiên, cũng có thể tính doanh thu hiên tại dựa trên doanh thu năm trước và những thay đổi về tỷ lệ thuê phòng trong suốt năm hiện tại so với năm trước nếu giá thuê phòng không đổi. Khi kết hợp được các biến độc lập có liên quan, mô hình sẽ cho ta nhiều thông tin hơn vì vậy dự đoán sẽ chính xác hơn. Ngược lại, nếu mô hình và dự đoán đơn giản hoá quá nhiều cũng đồng nghĩa với đơn giản hoá các phép so sánh và các mức hạn của bằng chứng kiểm toán. Để có thể tăng tính chính xác cho các dự đoán bằng cách phát triển mô hình theo hướng chi tiết hoá dữ liệu, thậm chí chi tiết hoá thành nhiều mô hình nhỏ hơn. c. Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính, dữ liệu hoạt động. Tính độc lập và tin cậy vủa dữ liệu tài chính, dữ liệu hoạt động sử dụng trong mô hình này có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chính xác của dự đoán và vì thế cũng có ảnh hưởng tới bằng chứng kiểm toán chúnh ta thu thập được từ thủ tục phân tích. Để đảm bảo tính độc lập của dữ liệu cần chi tiết hoá các dự tính. Các dự tính càng chi tiết thì độ tin cậy càng cao do tính độc lập với tài khoản được dự tính được tăng lên. Để đánh giá tính tin cậy của của dữ liệu cần xem xét: Nguồn dữ liệu: dữ liệu có nguồn độc lập từ bên ngoài có độ tin cậy cao hơn nếu chúng độc lập với người chịu trách hiệm cho giá trị được kiểm toán. Nhữngdữ liệu đã được kiểm toán có đọ tin cậy cao hơn dữ liệu chưa được kiểm toán Tính kế thừa và phát triển thủ tục kiểm toán dữ liệu từ năm trước. Phát triển những dự tính sử dụng dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau. d. Tính toán ra một giá trị ước tính và so sánh với giá trị ghi sổ Dựa theo mô hình đã xây dung và trên cơ sở dữ liệu độc lập và tin cậy, kiểm toán viên có thể so sánh ước tính này với các giá trị ghi sổ. Phép so sánh này cần chú ý tới 2 xu hướng sau: + Tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được nghiên cứu: mối quan hệ cụ thể này càng được đánh giá thường xuyên thì tính nhất quán cũng độ tin cậy của nó trong phân tích càng cao. Ví dụ: Phân tích xu hướng doanh thu hàng thnág theo loại sản phẩm cung cấp bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn so với việc xem xét hàng năm so sánh với kỳ trước. + Tính biến động tất yếu và biến động bất thường: khi so sánh giá trị hàng tháng với nhau, chênh lệch phát sinh có thể là biến động tất yếu theo mùa và theo đó không thể có giá trị bất biến hàng tháng. Để có được chênh lệch, cần so sánh với tháng cùng kì năm trước hoặc số tổng cộng cả năm. Có thể giưa giá trị ước tính và thực tế không có chênh lệch đáng kể. Thông thường đó là kết quả của quá trình chi tíêt hoá ước tính và cả quá trình tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng trong bước lập kế hoạch kiểm toán. Nếu khi so sánh thấy có chênh lệch thì kiểm toán viên có thể cho rằng do các nguyên nhân: có những sai sót trong mô hình đã xây dung để phân tích hoặc có những sai sót đáng kể trong số dư tài khoản. e. Phân tích nguyên nhân chênh lệch Chênh lệch phát sinh có thể do số dư tài khoản hay loại nghiệp vụ được kiểm toán chứa đựng sai sót nhưng cũng có thể chênh lệch được hình thành từ chính ước tính trong phân tích. Để tìm nguyên nhân của chênh lệch, kiểm toán viên có thể phỏng vấn nhà quản lý hiểu biết về những vấn đề tài chính và hoạt động của công ty Đồng thời, kiểm toán viên cần phải theo dõi và kiểm tra những thông tin này. Tất cả những điều giải thích cần được chứng thực bằng một bằng chứng độc lập. Có thể phỏng vấn nhiều nhân viên trong doanh ngiệp được kiểm toán và kiểm tra xem những lời giải thích của họ có thống nhất hay không hoặc có thể kiểm tra chứng từ có liên quan. Nếu qua tiếp xúc vẫn không có được lời giải thích hợp lý thì cần xem xét lại giả định và dữ liệu đã sử dụng để ước tính. Nếu vẫn còn chênh lệch qua xem xét các thủ tục kiểm tra chi tiết số liệu. f. Xem xét những phát hiện qua kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán thu thập được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá do phát hiên qua kiểm toán không chỉ báo gồm những sai sót trong tài khoản mà cả những quan sát hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và các vấn đề khác. Do vậy, mọi chênh lệch được phát hiện trong kiểm toán cần được diều tra về tính chất, nguyên nhân, về cơ sở dữ liệu, về mục tiêu kiểm toán và cả về tình hình kinh doanh của khách hàng. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 quy định:’’ Trường hợp quy trình phân tích phát hiện được những chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa cá thông tin tương ứng hoặc có chênh lệch lớn so với dự tính, kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục điều tra để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp”. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 quy định : Trong quá trình kiểm toán, nhằm giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thực hiện quy trình phân tích hoặc kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp cả hai. Nhằm xác định thủ tục kiểm toán thích hợp cho một mục tiêu kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xét đoán hiệu quả của từng thủ tục kiểm toán. Kiểm toán viên phải thảo luận với Giám đốc, kế toán trưởng hoặc người đại diện của đơn vị được kiểm toán về khả năng cung cấp thông tin và độ tin cậy của các thông tin cần thiết cho việc áp dụng quy trình phân tích, kể cả kết quả phân tích mà đơn vị đã thực hiện. Kiểm toán viên được phép sử dụng các dữ liệu phân tích của đơn vị nếu tin tưởng vào các dữ liệu này. Khi áp dụng quy trình phân tích, kiểm toán viên phải xem xét các yếu tố sau: - Mục tiêu của phân tích và độ tin cậy của kết quả thu được; - Đặc điểm của đơn vị và mức độ chi tiết hoá thông tin (Ví dụ: Quy trình phân tích áp dụng đối với thông tin tài chính của từng đơn vị thành viên sẽ hiệu quả hơn là chỉ áp dụng đối với thông tin tổng hợp của các đơn vị...); - Khả năng sẵn có của các thông tin tài chính và phi tài chính; - Độ tin cậy của các thông tin (Ví dụ: Sự đúng đắn của các kế hoạch hoặc dự toán ...); - Tính thích đáng của các thông tin (Ví dụ: Kế hoạch được thiết lập có tính khả thi hơn là kế hoạch chỉ là các mục đích phải đạt được); - Nguồn gốc thông tin (Ví dụ: Thông tin từ bên ngoài thường có độ tin cậy cao hơn thông tin do đơn vị cung cấp...); - Khả năng so sánh của thông tin (Ví dụ: Thông tin do đơn vị cung cấp có thể so sánh với thông tin của đơn vị khác trong cùng ngành...); - Những hiểu biết có được từ cuộc kiểm toán các kỳ trước cùng với hiểu biết về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ và các vấn đề nảy sinh đã dẫn đến các bút toán điều chỉnh trong những kỳ trước. V. quy trình phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Không chỉ thể hiện là một phương tiện tối ưu trong hai giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán, kỹ thuật phân tích còn đóng một vài trò quan trọng trong số các công cụ kiểm toán được kiểm toán viên sử dụng ở giai đoạn kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên tiến hành việc soát xét lại lần cuối để tìm ra các sai phạm trọng yếu đồng thời nó còn giúp cho kiểm toán viên có một cái nhìn tổng quan về báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phải tổng hợp các kết quả, các tài liệu đã thu thập được và tiến hành phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố này. Đây là một công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi người thực hiện là người có trình độ và sự am hiểu sâu sắc về các thông tin thu thập được. Chính vì thế, việc tổng hợp này thương được thực hiện bởi các kiểm toán viên chính, những người có trình độ chuyên môn và sự am hiểu sâu sắc về khách hàng kiểm toán . 1. Mục đích của thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Trước khi lập Báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cần phải đánh giá tổng quát về kết qủa thu thập được. Công việc nhằm soát xét lại toàn bộ kết quả thu thập được trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính , để đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của khách hàng . Để đạt được mục tiêu này, kiểm toán viên thường tiến hành thủ tục phân tích để soát xét, đánh giá tính đồng bộ và tính xác thực của các khoản mục trên báo cáo tài chính . Mọi biến động bất thường của các thông tin này so với số liệu của khách hàng, số liệu kế hoạch, số liệu năm trước, số liệu bình quân ngành, các thông tin tài chính và phi tài chính khác có liên quan. Thủ tục phân tích trong giai đoạn này giúp cho kiểm toán viên có thể xác định những bộ phận cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán để làm vững chắc thêm ý kiến của kiểm toán viên, đồng thời hạn chế cho những thiếu sót, tính phiến diện của các thủ tục áp dụng riêng lẻ cho từng khoản mục. 2. Các bước thực hiện thủ tục phân tích Thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán được thực hiện qua 2 bước. Bước 1: So sánh thông tin. Về bản chất, thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và kết thúc kiểm toán là giống nhau nhưng mục tiêu của chúng lại hoàn toàn khác nhau. Thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán là để khẳng định những thay đổi trên báo cáo tài chính là hoàn toàn phù hợp với những hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng, phù hợp với bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán và đảm bảo rằng tất cả những thay đổi đều có thể giải thích thoả đáng hơn là việc xác định những thay đổi bất thường để tiến hàng thêm các thủ tục kiểm toán cần thiết. Nếu như cơ sở để tiến hành so sánh ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là số của năm nay và năm trước vủa khách hàng thì số so sánh ở giai đoạn này kết quả được kiểm toán ( đã được điều chỉnh) của năm nay so với năm trước hoặc với số liệu so sánh khác. Từ đó, kiểm tra xem tất cả những thay đổi đã được giải thích thoả đáng chưa, nếu chưa thì cần tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung để làm rõ. Bước2: Phân tích kết quả Về hình thức, bước phân tích kết quả trong phân tích ở giai đoạn kết thúc kiểm toán cũng tương tự như trong thủ tục phân tích ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, nhưng căn cứ để tiến hành phân tích thì hoàn toàn khác nhau. Nếu như trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán căn cứ để phân tích là những hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng thì trong giai đoạn kết thuc kiểm toán căn cứ phân tich lại là những bằng chứng mà kiểm toán viên đã thu thập được trong quá trình kiểm toán cho công ty của khách hàng . Đối với những thay đổi đã được giải thích thoả đáng và kiểm toán viên cho rằng không có sai sót trọng yếu thì có thể bỏ qua. Còn đối với những thay đổi mà không tìm được lý do giải tích cho thoả đáng thì kiểm toán viên cần phải thực hiện thủ tục kiểm toán bổ xung để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán làm sáng tỏ vấn đề. 3. Mức độ tin cậy của các thủ tục phân tích Quy trình phân tích được áp dụng cho các thông tin có thực và có mối quan hệ lẫn nhau. Kết quả phân tích các mối liên hệ cung cấp cho kiểm toán viên các bằng chứng kiểm toán về sự đầy đủ, tính chính xác, tính hợp lý về các dữ liệu do hệ thống kế toán lập ra. Độ tin cậy của quy trình phân tích phụ thuộc vào sự đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro mà quy trình phân tích không phát hiện được (Ví dụ: Kết quả phân tích không thể hiện sự biến động hay chênh lệch lớn nhưng trong thực tế vẫn có sai sót trọng yếu...). Mức độ tin cậy vào kết quả của quy trình phân tích phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Tính trọng yếu của các tài khoản hoặc loại nghiệp vụ (Ví dụ: Hàng tồn kho là trọng yếu thì không chỉ dừng lại ở quy trình phân tích mà còn thực hiện một số thủ tục kiểm tra chi tiết khác trước khi kết luận. Ngược lại khoản mục nợ phải thu được coi là không trọng yếu thì có thể chỉ căn cứ vào kết quả phân tích để kết luận...); - Các thủ tục kiểm toán khác có cùng một mục tiêu kiểm toán (Ví dụ: Thủ tục kiểm tra nghiệp vụ thu tiền sau ngày khoá sổ của các khoản phải thu sẽ khẳng định hoặc phủ nhận kết quả của quy trình phân tích nợ phải thu theo thời hạn, ...); - Độ chính xác có thể dự kiến của quy trình phân tích (Ví dụ: Kiểm toán viên thường so sánh, phân tích tỷ lệ lãi gộp giữa năm nay với năm trước hơn là so sánh các chi phí bất thường giữa năm trước với năm nay...); - Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát (Ví dụ: Nếu việc kiểm soát nội bộ của bộ phận bán hàng là yếu kém thì nên dựa vào kiểm tra chi tiết hơn là dựa vào quy trình phân tích...). Kiểm toán viên phải kiểm tra lại các thủ tục kiểm soát để tạo ra các thông tin sử dụng trong quy trình phân tích. Trường hợp thủ tục kiểm soát có hiệu quả thì kiểm toán viên sẽ tin tưởng hơn vào độ tin cậy của các thông tin và kết quả phân tích cũng tin cậy hơn. Kiểm toán viên phải kiểm tra đồng thời các thủ tục kiểm soát của kế toán với thủ tục kiểm soát thông tin phi tài chính (Ví dụ: Trường hợp đơn vị kiểm soát việc lập hoá đơn bán hàng đồng thời với kiểm soát số lượng bán hàng thì kiểm toán viên cũng kiểm tra đồng thời thủ tục kiểm soát hoá đơn bán hàng và kiểm soát số lượng hàng bán). VI. thực hiên thủ tục phân tích sơ bộ đối với công ty adc. Sau đây là các thủ tục phân tích mà công ty kiểm toán Việt Nam vaco đã thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán khi kiểm toán cho công ty ADC. 1.Thu thập thông tin tài chính và phi tài chính Trong bước này kiểm toán viên tiến hành thu thập thông tin cơ sơ về khách hàng trên 3 mặt: a.Nguyên tắc hoạt động. b.Cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo. c.Tóm tắt các chính sách kế toán. Sau khi thu thập các thông tin trên kiểm toán viên đã có được những hiểu biết khái quát chung về hoạt động kinh doanh của khách hàng: như loại hình hoạt động là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh máy bơm, nồi cơm điện và các linh kiện của 2 loại hình hàng hoá trên. Bên cạnh đó, kiểm toán viên còn có sự hiểu biết về cơ cấu tổ chức bộ máy, chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp khách hàng như: Sự thay đổi trong tỷ lệ trích khấu hao, lỗ luỹ kế qua các năm, công nợ ngắn hạn của công ty vượt quá tài sản lưu động từ đó ảnh hưởng tới khả năng hoạt động của liên tục của công ty ADC, các chính sách thuế áp dụng đối với công ty 2.So sánh thông tin Trong bước này, sau khi có số liệu về tình hình tài chính của công ty thông qua báo cáo tài chính, kiểm toán viên áp dụng thủ tục phân tích sơ bộ dưới các phương pháp như: phân tích xu hướng, phân tích tỷ suất để tìm ra sự biến động bất thường cũng như sự thiếu vắng của biến động bất thường mà theo hiểu biết của kiểm toán viên lẽ ra phải có vì chúng có liên quan tới chỉ tiêu then chốt trên báo cáo tài chính. Thủ tục phân tích sơ bộ: Bảng cân đối kế toán (Tại ngày 31 tháng 12 năm 2000) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 1999 Chênh lệch(%) Chênh lệch(VNĐ) 1.Tiền 2.Đầu tư t/c ng/h 3.Khoản phải thu 4.Phải thu khác 5.Hàng tồn kho 6.TS lưu động khác Tổng TSLĐ 898.512.150 0 345.720.855 2.590.746.871 4.902.541.454 1.815.601.502 10.553.122.832 869.599.903 0 151.046.764 2.683.785.252 1.956.324.641 1.135.916.134 6.796.672.694 3.32% 128.88% -3.47% 150.60% 59.84% 55.27% 28.912.247 0 194.674.091 -93.038.381 2.946.216.813 679.685.386 3.756.450.138 1.TSCĐ hữu hình 2.TSCĐ vô hình Tổng TSCĐ 19.577.055.513 4.580.909.767 24.157.965.280 20.905.792.120 4.896.900.427 25.775.692.547 -6.36% -5.93% -6.28% -1.328.736.607 -288.990.660 -1.617.727.267 Tổng tài sản 34.711.088.112 32.572.365.241 6.57% 2.138.722.817 1.Nợ ngắn hạn 2.Nợ dh đến hạn. Tổng công nợ 19.758.609.910 4.900.000.000 24.658.609.910 21.729.133.455 0 21.729.133.455 - - 13.48% 1.970.523.545 -4.900.000.000 -2.929.476.455 1.Vốn pháp định 2.Chênh lệch tỷ giá 3.Lợi nhuận giữ lại Tổng vốn CSH 19.350.513.916 4.520.169.839 4.777.865.875 10.052.478.202 19.350.513.916 3.702.841.687 4.804.440.443 10.843.231.786 0.00% 22.07% -0.55% -7.29% 0 817.328.152 -26.574.568 790.753.584 Tổng công nợ+NV 34.711.088.112 32.572.365.241 6.57% 2.138.722.817 Báo cáo kết quả kinh doanh (Tại ngày 31 tháng 12 năm 2000) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 1999 Chênh lệch(%) Chênh lệch(VNĐ) 1.Doanh thu thuần Giá vốn hàng bán 2.Lợi tức gộp Chi phí bán hàng Chi phí QLDN Chi phí khác Thu nhập khác Lợi nhuận hđ sxkd Chi phí tiền vay 3.Lãi trước thuế 4.Thuế lợi tức 5.Lãi sau thuế -13.734.862.660 10.579.941.270 -3.154.891.390 706.220.608 2.437.715.290 4.300.000 -19.919.076. -26.574.568 0 -26.574.568 0 -26.574.568 -9.854.699.272 8,423,125,467 -1,431,573,805 553,792,523 2,170,680,309 0 16,821,938 1,276,077,089 595,630,867 1,971,707,95 6 0 1,871,707,956 39,37 25,61 120,38 27,5 - 100,00 18,41 -102,08 -100,00 -101,42 -101,42 -3,880,133,388(7) 2,156,815,803(8) -1,723,317,585 152,428,085(10) 267,034,981(9) 4,300,000 -3,097,138 -1,302,651,657 -595,630,867(9) -1,898,282,524 0 -1,898,282,524 Thủ tục phân tích sơ bộ. Bảng phân tích Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 1999 Khả năng thanh toán Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời 0,50 0,30 Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh 0,20 0,20 Khả năng thanh toán của lưu động Khả năng thu hồi nợ một vòng 68,80 99,40 Số vòng quay của vốn 1,50 0,70 Khả năng sinh lời Tỷ lệ lãi gộp 23% 15% Tỷ lệ lãi thuần 0% 13% Tỷ lệ lợi nhuận biên dòng 0% 19% 3. Nhận xét giai đoạn phân tích sơ bộ. Khoản phải thu thương mại giảm 93 tỷ VNĐ và thời gian thu hồi nợ giảm từ 99 ngày (trong năm1999) xuống còn 69 ngày (trong năm 2000). Hàng hoá tồn kho 2,9 tỷ (150,6%) được giải thích: Trong tháng 12 năm 2000 công ty có sản xuất thêm sản phẩm mới là nồi cơm điện đa năng. Do đó, một số nguyên liệu và thành phẩm mới xuất hiện. Hàng tồn kho có thể bị ghi thừa, KTV cần kiểm tra sự ghi thừa bằng cách xem xét số liệu kiểm kê kho, kiểm tra lại giá hàng tồn kho, xem lại thời điểm mua nghuyên vật liệu Đối với tài sản lưu động khác có tăng 680 tỷ VNĐ (60%) có thể thay đổi trong chính sách kế toán đối với chi phí và khả năng ghi thiếu chi phí hao mòn. Chúng ta cần chú ý vào kiểm tra những tài khoản này. Tài sản cố định giảm do chi phí khấu hao của năm 2000 có thay đổi. Nợ dài hạn tăng có thể do phân loại sai trong nợ dài hạn đến hạn trả. Bên cạnh đó nếu thực hiện bút toán phân loại lại được thực hiện thì nợ phải trả lại tăng lên do sự tăng lên của hàng tồn kho. Chênh lệch tỷ giá có thể là do hạch toán sai. Vì chênh lệch giá phát sinh lại phản ánh trên Bảng cân đối tài sản. Doanh thu thuần tăng lên 3,9 tỷ (30%) bởi vì hoạt động kinh doanh lên trong năm nay. Tuy nhiên, thời gian thu hồi nợ một vòng giảm đi từ 99 ngày (năm 1999) xuống 69 ngày (năm 2000) có thể là từ khai khống doanh thu. Cần phải kiểm tra có sự khai khống trong doanh thu không. Giá vốn hàng bán tăng lên theo sự tăng lên của doanh thu. Tuy nhiên, sự tăng lên từ lợi tức biên gộp từ 15% (năm 1999) đến 23% (năm 2000) kết quả có thể từ việc ghi thừa doanh thu, ghi thiếu giá vốn hàng bán. KTV nên xem xét doanh thu trọng yếu tại thời điểm cuối năm để xác định giá vốn hàng bán được thực hiện hay không. Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng và không ghi chi phí lãi vay có thể là do sự phân loại sai. Nếu như bút toán phân loại lại được thực hiên, chi phí quản lý doanh nghiệp sẽ bị giảm, kết quả là do nghuyên nhân các khoản chi phí phải trả và các khoản phải trả không được ghi nhận. KTV cần phải kiểm tra thêm đối với các nghiệp vụ về chi phí và các khoản phải trả. Chi phí bán hàng tăng là do doanh thu tăng. Từ đó KTV đưa ra rủi ro xác định trong giai đoạn lập kế hoạch: Phạm vi Chi tiết rủi ro Xử lý rủi ro ảnh hưởng trọng yếu đến toàn bộ Báo cáo tài chính. Theo phân tích sơ bộ, vấn đề hoạt động của công ty bị xem xét. Ghi chú trên cơ sở lập Báo cáo tài chính và ghi chú trên Báo cáo KTV VII. nhận xét về vấn đề thực hiên thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. 1.Phạm vi áp dụng thủ tục phân tích. Trong giai đoạn lập kế hoạch, khi áp dụng thủ tục phân tích sơ bộ, kiểm toán viên đã: Đạt được sự hiểu biết về nội dung của các báo cáo tài chính. Thấy được các biến động trọng yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các thay đổi về chính sách kế toán so với kỳ kế toán trước. Đánh giá khả năng thanh toán và khả năng sinh lợi của khách hàng, từ đó giúp cho kế toán viên xác định cơ sở để tính mức độ trọng yếu kế hoạch. Đánh giá đượckhả năng hoạt động liên tục của khách hàng. Nhìn chung, trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV đã đạt được những yêu cầu của thủ tục phân tích sơ bộ. Tuy nhiên, để xác định những biến động bất thường hoặc biến động lẽ ra phải xuất hiện như mục tiêu của thủ tục phân tích sơ bộ đã nêu, KTV không những phải am hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng mà còn có kiến thức hoạt động kinh doanh về nghành và so sánh với các chỉ tiêu của nghành thì KTV mới xác định một cách chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp phản ánh trong báo cáo tài chính tốt hay xấu để từ đó xác định được các vùng có rủi ro. Trong giai đoạn lập kế hoạch, thủ tục phân tích sơ bộ được thực hiện chủ yếu đối với bản cân đối kế toán báo cáo kết quả kinh doanh. KTV đã sử dụng các tỷ suất để phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tại giai đoạn này, thủ tục phân tích sơ bộ được KTV thực hiện trọng tâm vào số dư tài khoản có mức độ tổng hợp (được trình bày trong báo cáo tài chính) và mối quan hệ với các số dư đó. Tuy nhiên, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại không được áp dụng thủ tục phân tích (mặc dù đơn vị khách hàng có lập báo cáo này) 2.Về phương pháp phân tích. Trong giai đoạn lập kế hoạch, công ty kiểm toán Việt Nam thường thực hiện phân tích xu hướng và tỷ suất để xác định các biến động đối với các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính qua các kỳ kế toán, giải thích các biến động này bằng thông tin tài chính và phi tài chính thu thập được rồi so sánh chúng với kỳ kế toán trước. Tuy nhiên, trong giai đoạn lập kế hoạch, công ty chỉ sử dụng phân tích xu hướng mang tính chất đơn giản, qua so sánh con số hiện tại với số liệu đã được kiểm toán năm trước để xác định xu hướng biến động của chúng qua các thời kỳ. đối với phân tích tỷ suất, công ty thường áp dụng phân tích theo chuỗi thời gian, ít phân tích thông qua các đơn vị trong cùng một ngành do thông tin thống kê đối với các tỷ suất ngành ở Việt Nam còn hạn chế. Bên cạnh đó, đối với một số khách hàng đặc biệt là các khách hàng nhỏ, thông thường công ty chỉ tiến hành phân tích xu hướng biến động của các khoản mục trên bản cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà không thực hiện phân tích tỷ suất tài chính. Điều này sẽ gây hạn chế trong thủ tục phân tích sơ bộ . Bởi vì kết quả của phân tích xu hướng chỉ cho thấy sự biến động cũng như nguyên nhân biến động của từng khoản mục riêng lẻ mà không chỉ ra được mối quan hệ giữa các khoản mục đó. Hơn nưa, nó không giúp cho KTV thấy được thực trạng tài chính của khách hàng để từ đó có thể phán đoán ra các sai sót tiềm tàng có thể xảy ra đối với khoản mục trên báo cáo tài chính. Ngoài ra, KTV chủ yếu sử dụng kỹ thuật phân tích đối với các thông tin tài chính, chưa có sự kết hợp giữa thông tin tài chính và phi tài chính để thấy được sự hợp lý của số liệu được trình bày trên Báo cáo tài chính. 3.Về phương pháp trình bày hồ sơ kiểm toán khi áp dụng các thủ tục phân tích. Trong giai đoạn lập kế hoạch, khi nhận được các tài liệu ban đầu từ phía khách hàng về báo cáo tài chính KTV đã thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ để kiểm tra tính hợp lý, phân tích xu hướng biến động, đánh giá xem liệu có những biến động xảy ra hay không. Trong phân tích sơ bộ Báo cáo tài chính KTV phải sử dụng phương pháp so sánh số liệu của năm trước và năm nay để tính ra mức biến động trên số tương đối và tuyệt đối trên Bảng cân đối kế toán. Việc phân tích này dễ dàng chỉ ra được biến động năm nay so với năm trước và KTV sẽ phân tích sâu hơn ở một số các chỉ tiêu có biến động lớn. Sau khi phân tích sơ bộ Báo cáo tài chính KTV tiến hành phân tích tổng quát trên báo cáo lỗ lãi. Báo các lỗ lãi tiến hàng so sánh các chỉ tiêu về lợi tức gộp, lợi tức hoạt động, lợi tức trước thuế, lợi tức ròng. Các chỉ tiêu này cũng được so sánh và tính toán mức độ chênh lệch trên số tương đối và tuyệt đối. KTV còn tiến hành phân tích tổng quát báo cáo tài chính về các tỷ suất thanh toán, tỷ suất lợi nhuậnTất cả những phân tích này được ghi chép trên giấy tờ làm việc để làm cơ sở cho kiểm toán viên đánh giá rủi ro trong Bảng cân đối kế toán và mức sai sót tiềm tàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV045.doc
Tài liệu liên quan