Lý thuyết chung về nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại thực chất là việc xác định các nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là một bảng báo cáo tài chính tổng hợp, được trình bày dưới dạng cân đối, phản ánh tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của một ngân hàng thương mại tại một thời kỳ nhất định.
Bảng tổng kết tài sản gồm hai phần, tài sản nợ và tài sản có.
Tài sản nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại, bao gồm các khoản ngân hàng nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản vốn nợ thị trường biểu hiện thông qua các khoản vốn mà dân chúng gửi vào hoặc các khoản vốn ngân hàng đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các các nhân, hộ gia đình, tổ chức tài chính trung gian Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng thương mại hay các khoản thị trường nợ ngân hàng. Mỗi khoản ngân hàng cho vay ra hay đầu tư vào chứng khoán đều ghi vào bên có của bảng tổng kết tài sản, làm tăng tài sản có của ngân hàng.
Tính chất quan trọng của bảng cân đối tài sản là tổng số tiền bên tài sản nợ phải bằng tổng số tiền bên tài sản có, ngoài ra còn có các nghiệp vụ ngoại bảng.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC NGHIỆP VỤ NG HTM
Lý thuyết chung về nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại thực chất là việc xác định các nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là một bảng báo cáo tài chính tổng hợp, được trình bày dưới dạng cân đối, phản ánh tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của một ngân hàng thương mại tại một thời kỳ nhất định.
Bảng tổng kết tài sản gồm hai phần, tài sản nợ và tài sản có.
Tài sản nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại, bao gồm các khoản ngân hàng nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản vốn nợ thị trường biểu hiện thông qua các khoản vốn mà dân chúng gửi vào hoặc các khoản vốn ngân hàng đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các các nhân, hộ gia đình, tổ chức tài chính trung gian…Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng thương mại hay các khoản thị trường nợ ngân hàng. Mỗi khoản ngân hàng cho vay ra hay đầu tư vào chứng khoán đều ghi vào bên có của bảng tổng kết tài sản, làm tăng tài sản có của ngân hàng.
Tính chất quan trọng của bảng cân đối tài sản là tổng số tiền bên tài sản nợ phải bằng tổng số tiền bên tài sản có, ngoài ra còn có các nghiệp vụ ngoại bảng.
I. Nghiệp vụ tài sản có
1/ Nghiệp vụ ngân quỹ
a. Khái niệm:
Là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của NH để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn (bằng tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của NH, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi tiền mặt.
b. Phân loại
* Tiền mặt tại quỹ: gồm tiền giấy và tiền kim loại hiện có tại kho của ngân hàng: Các NHTM bao giờ cũng phải giữ một khoản dự trữ tiền mặt nhất định tại kho của mình vào mỗi ngày để đề phòng những chi trả bất ngờ cho dân vào đầu ngày hôm sau. Dự trữ tiền mặt tại kho của các NH ở các nước phát triển hiện nay xấp xi mức 1 – 2% tổng tài sản có. Trong những nước có thị trương tiền tệ tài chính hoàn hảo như Mỹ, Anh Đức, Nhật… các NHTM giữ tiền mặt taị kho rất ít, dưới 1%. Vào cuối mỗi ngày nó thường đầu tư vào chựng khoán hoặc trái phiêu qua đêm của TTTT và sáng hôm sau lại bán ra được ngay theo thoả thuận để thu tiền mặt nếu có nhu cầu. Với những nước mà TTTT chưa phát triển mạnh băng như Hàn Quốc, Singapo… các NHTM vẫn giữ từ 3 – 5% tiền mặt tại kho vì không có cách đầu tư qua đêm.
*Tiền mặt ký gửi ở NHTW: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTƯ và tiền gửi thanh toán tại NHTW, thông thường dự trữ ký gửi cũng chỉ chiếm từ 1 – 2% tổng tài sản có của các NHTM.
Công thức tính: R= RR + ER
rd = RR/D
re = ER/D
Trong đó: r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc
RR: Lượng tiền dự trữ bắt buộc
ER: Tiền dự trữ dư thừa ( gồm tồn quỹ tiền mặt ở NH và tiền gửi thanh toán của NHTM tại NHTW)
D: tổng tiền gửi không kỳ hạn
Ưu tiên hàng đầu trong quản trị tiền mặt ký gửi tại NHTW là việc chấp hành dự trữ bắt buộc do NHTW quy định.
Theo văn bản 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008, áp dụng từ 01/01/2009
A
Tiền gửi VND
Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12 tháng trở lên
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12 tháng trở lên
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính
5%
1%
7%
3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
2%
1%
6%
2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
1%
1%
6%
2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
*Tiền gửi ở các ngân hàng khác: ngân hàng nhỏ gửi tiền trong ngân hàng lớn để đổi lấy nhiều dịch vụ khác nhau như thanh toán giữa các ngân hàng, giao dịch ngoại tệ, giúp mua chứng khoán.Các ngân hàng cũng có thể mở tài khoản ở ngân hàng khác để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán.
*Tiền mặt trong quá trình thu: Là khoản phát sinh do các quan hệ vãng lai giữa các NH, khi NH đã ghi vào bên nợ nhưng thực chất vẫn chưa nhận được tiền.
Vd: Một tờ sec được phát ra từ một tài khoản ở NH A, gửi ở NH B và số tiền ở sec này vẫn chưa đến NH B, tở séc này được coi như là tiền mặt trong quá trình thu và là một tài sản có đối với NH B, vì NH B có quyền đòi nó sau này.
c.Ý nghĩa: Các bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của NHTM. Mặc dù dự trữ của ngân hàng không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng.Vì thế mà nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho ngân hàng, tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của ngân hàng.
2/ Nghiệp vụ tín dụng
a. Khái niệm : nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng có thể kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Đối với các ngân hàng truyền thống, cho vay là ngiệp vụ sinh lời chủ yếu.
Theo quy định NHNN VN lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Theo khoản 1,điêu 476 bộ lụât dân sự “lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại vay tương ứng”.
Loại Lãi suất
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản
7,0%
172/QĐ-NHNN ngày 23/1/2009
01/02/2009
Lãi suất tái cấp vốn
8,0%
173/QĐ-NHNN ngày 23/1/2009
01/02/2009
Lãi suất chiết khấu
6,0%
173/QĐ-NHNN ngày 23/1/2009
01/02/2009
b. Phân loại: gồm
* Chiết khấu thương phiếu : là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách hàng với giá trị bằng giá trị của thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí. Đến thời hạn thanh toán của thương phiếu, ngân hàng đòi người mắc nợ thương phiếu theo giá trị của thương phiếu.
Điều kiện chiết khấu:
- Chứng từ có giá phải do các đơn vị được phép phát hành hợp pháp.
- Chứng từ có giá còn thời hạn thanh toán phù hợp với thời hạn chiết khấu ngân hàng quy định.
- Chứng từ có giá phải được phép chuyển nhượng mua bán.
Quy trình chiết khấu
- Khách hàng lập và nộp hồ sơ xin chiết khấu.
- Ngân hàng thẩm định hồ sơ xin chiết khấu. Ngân hàng tiến hành kiểm tra các điều kiện chiết khấu. Ngân hàng trả lời ngay cho khách hàng biết những chứng từ được chấp nhận chiết khấu.
- Mức chiết khấu: Mức chiết khấu bằng 80% - 120% mức sinh lời của chứng từ chiết khấu, trong phạm vi thời hạn hiệu lực còn lại của chứng từ. Trường hợp chứng từ không ghi rõ lãi suất, thì ngân hàng lấy lãi suất của chứng từ tại thời điểm xin chiết khấu để xác định mức sinh lời của chứng từ.
+ Nếu chứng từ có lãi suất được trả lãi trước:
Lãi chiết khấu = Mệnh giá chứng từ x Thời hạn chiết khấu x Lãi suất chiết khấu
Lãi chiết khấu =(Mệnh giá X lãi chứng từ)x Thời hạn chiết khấu x Lãi suất chiết khấu
Trong một số trường hợp, ngân hàng thực thi nghiệp vụ này còn thu hoa hồng phí.
+ Hoa hồng phí là các chi phí cho nghiệp vụ chiết khấu mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Nó cũng được xác định khác nhau tùy theo chứng từ đó được trả lãi trước hay trả lãi sau hoặc được quy định cố định cho nghiệp vụ chiết khấu.
Nếu chứng từ được trả lãi trước:
Hoa hồng phí = Mệnh giá chứng từ x Thời hạn chiết khấu x Tỷ lệ hoa hồng phí
Nếu chứng từ được trả lãi sau:
Hoa hồng phí =(Mệnh giá X lãi chứng t ) x Thời hạn chiết khấu x Tỷ lệ hoa hồng phí
Thời hạn chiết khấu được tính riêng cho từng loại chứng từ trong phạm vi thời hạn hiệu lực còn lại, nhưng tối đa không quá 90 ngày.
Đối với những chứng từ có mệnh giá nhỏ, thời hạn chiết khấu ngắn, mức chiết khấu ngân hàng được xác định quá thấp không đủ bù đắp các chi phí chiết khấu của ngân hàng, thì khi chiết khấu ngân hàng có thể quy định thu theo mức tối thiểu.
- Ngân hàng xác định số tiền cho vay. Sau khi đã xác định được mức chiết khấu, ngân hàng sẽ xác định số tiền cho vay khi ngân hàng xin chiết khấu. Nói chung, số tiền ngân hàng cho khách hàng vay (hay trả cho khách hàng) là:
Số tiền phải trả cho khách hàng = Tổng số mệnh giá chứng từ - Tổng số mức chiết khấu.
Vd: Doanh nghiệp B mang thương phiếu có mệnh giá 100 trđ đến ngân hàng xin chiết khấu. Thời hạn hiệu lực còn lại của thương phiếu là 3 tháng. Doanh nghiệp xin chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của chứng từ. Hai bên thỏa thuận lãi suất chiết khấu (dựa vào lãi suất cho vay ngắn hạn hiện hành) là 1,2%/ tháng.
Hoa hồng phí chiết khấu là 0,1% cho khoản chiết khấu trên.
Tổng số tiền ngân hàng cho doanh nghiệp B vay được tính như sau:
- Lãi suất chiết khấu:
100 tr x 1,2% x 3T = 3,6 trđ
- Hoa hồng chiết khấu:
100 tr x 0,1% = 0,1 trđ
- Ngân hàng cho doanh nghiệp B vay:
100 tr – 3,6 tr – 0,1 tr = 96,3 tr đ
c. Ý nghĩa: Đây là một nghiệp vụ cấp tín dụng khá an toàn do:
- Tính thanh khoản của thương phiếu cao (ngắn hạn, dễ chuyển đổi), nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng khi nắm giữ thương phiếu, không bị ứ đọng vốn lâu.
- Theo luật thì ngân hàng có quyền truy đòi tất cả các đối tượng có mặt trên tấm thương phiếu (kể cả người đã chuyển nhượng thương phiếu đó)chứ không riêng gì người có trách nhiệm chi trả ghi trong thương phiếu (chiết khấu có truy đòi). Do đó rủi ro tín dụng sẽ thấp đi do có nhiếu người phải chịu trách nhiệm trả nợ hơn.
Về mặt quản trị ngân hàng thì đây là một dạng dự trữ thứ cấp khá tốt vừa đảm bảo thanh khoản lại vừa sinh lãi ở mức chấp nhận được.
* Cho vay ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử dụng một mức cho vay nhất định. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản cho vay, chuyển số tiền cho vay vào tài khoản đó để khách hàng sử dụng.
Ví dụ: Ở NH sacombank: Liên kết cho vay ứng trước T 3 là sản phẩm tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tiêu dùng cho khách hàng bằng việc ứng trước tiền “T 3” đối với khách hàng đã bán chứng khoán tại các công ty chứng khoán có liên kết với Sacombank.
Đối tượng khách hàng: cá nhân sở hữu chứng khoán đã khớp lệnh bán.
Loại tiền vay: VND.
- Điều kiện vay:
• Chứng khoán được vay ứng trước phải khớp lệnh bán.
• Khách hàng phải có tiền gửi thanh toán tại Sacombank.
• Khách hàng phải được bảo lãnh bởi công ty chứng khoán có liên kết với Sacombank bằng tài khoản tiền gửi của công ty chứng khoán mở tại Sacombank.
• Công ty chứng khoán phải chuyển số tiền bán chứng khoán vào tài khoản của khách hàng tại Sacombank.
• Mục đích sử dụng vốn vay phải đảm bảo phù hợp với pháp luật.
Lãi suất: thay đổi linh hoạt theo từng thời kỳ.
- Mức vay:
Số tiền vay ứng trước = số tiền bán (trừ) – phí giao dịch bán chứng khoán (trừ) – lãi phải trả của khoản vay ứng trước này (trừ) – số tiền gốc và lãi vay cầm cố chứng khoán đã bán (nếu có) (trừ) – phí bảo lãnh của công ty chứng khoán (nếu có).
Thời hạn cho vay: do Sacombank quy định trong từng thời kỳ.
Phương thức cho vay: từng lần.
Phương thức trả tiền vay: vốn lãi trả cuối kỳ.
- Hồ sơ vay vốn:
• Giấy đề nghị vay ứng trước có xác nhận của công ty chứng khoán theo mẫu của Sacombank.
• CMND, Hộ khẩu của người vay.Liên hệ.
Biểu đồ dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán và BĐS của NH
* Nghiệp vụ thấu chi.
Thấu chi là một nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động nhằm cân đối ngân quỹ hàng ngày trên tài khoản vãng lai của khách hàng.
Nghiệp vụ thấu chi được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được dư nợ tài khoản vãng lai một số lượng tiền nhất định và trong một thời gian nhất định.
Quy trình nghiệp vụ thấu chi:
+ Khách hàng và ngân hàng ký hợp đồng tín dụng, trên hợp đồng này phải thỏa thuận được hạn mức tín dụng, thời hạn vay, lãi suất vay, đảm bảo tiền vay (nếu có), hướng sử dụng tiền vay …
+ Tài khoản sử dụng là tài khoản vãng lai.
Tài khỏa vãng lai là tài khoản mà ngân hàng mở cho khách hàng để ghi chép nghiệp vụ gửi tiền và rút tiền của khách hàng. Khi rút tiền lớn hơn gửi tiền (tức là tài khoản vãng lai dư nợ) thể hiện nghiệp vụ thấu chi.
+ Ghi chép và hạch toán:
Ngày xuất, nhập là ngày ghi chép các nghiệp vụ phát sinh. Căn cứ vào ngày phát sinh nghiệp vụ để xác định “ngày giá trị” . Căn cứ vào “ngày giá trị” tổng dư nợ và tổng dư có được xác định, đó là cơ sở để tính lãi.
+ Lãi suất:
Hai loại số dư nợ và có được tính riêng sau đó bù trừ. Nếu dư nợ và dư có áp dụng cùng một lãi suất gọi là “lãi suất qua lại”.
Nếu lãi suất dư có nhỏ hơn lãi suất dư nợ gọi là “lãi suất chênh lệch”. Nếu áp dụng lãi suất cố định trong một thời gian dài gọi là “lãi suất bất biến”.
Ngoài phần lãi phải trả, khách hàng còn phải trả một số khoản phí như phí quản lý tài khoản, hoa hồng phí, phí tất toán …
+ Thu nợ: Mỗi lần khách hàng có thu, hạch toán vào bên có tài khoản vãng lai, coi như khách hàng trả nợ ngân hàng.
Ngân hàng luôn kiểm tra số dư nợ để không vượt quá hạn mức và thời gian sử dụng mà khách hàng đã ký trong Hợp đồng tín dụng. Trường hợp xuất hiện khả năng thanh toán yếu ở khách hàng, ngân hàng sẽ hạn chế và có thể đình chỉ cho vay.
Mọi trường hợp không thanh toán được nợ đúng hạn, khách hàng đều bị xử lý như các trường hợp nợ quá hạn khác.
* Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán : là các dịch vụ do các công ty con của Ngân cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày). Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ này gần giống chiết khấu thương phiếu, nhưng nó không được xếp chung với cho vay chiết khấu vì:
-Đối với chiết khấu thương phiếu có sự khống chế về hạn mực còn với bao thanh toán thì không
- NH sẽ quy định danh mục các giấy tờ có giá được chiết khấu nhưng với bao thanh toán thì không
Nghiệp vụ này giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh chóng. Ngân hàng thu được lãi do chênh lệch giá thanh toán và giá mua chứng từ nợ. Tuy nhiên nghiệp vụ này cũng gặp nhiều rủi ro.
* Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng để tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của mình mà người vay có nhu cầu vay khác nhau. Tín dụng tiêu dùng chủ yếu tài trợ cho việc mua sắm, sửa chữa, cải tạo , nâng cấp nhà ở, xe hơi, xe máy, đồ dùng sinh hoạt đắt tiền…
- Điều kiện cho vay: Để vay được tiền khách hàng phải chứng minh nguồn thu nhập ổn định , có tính thuyết phục và có đầy đủ căn cứ của mình. Căn cứ vào nhu cầu vay và thu nhập , chi dùng tối thiểu hàng tháng, ngân hàng thương mại cho vay định kỳ hạn trả góp hàng tháng hoặc hàng quý, hoặc 6 tháng 1 lần. Ngân hàng giữ giấy tờ bản chính tài sản đã qua đăng kí giao dịch đảm bảo và công chứng theo luật định.
Cho vay tiêu dùng kích thích tiêu dùng trong xã hội, thúc đẩy chu chuyển hàng hoá và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, phân tán rủi ro trong cho vay.
Biểu đồ tăng trưởng vốn và cho vay trên địa bàn tp HCM
3/ Nghiệp vụ đầu tư:
Đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản có của NHTM và các tổ chức tín dụng. Ngân hàng có thể đầu tư vào trái khoán Chính phủ hoặc trái khoán công ty để thu lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nghiệp vụ này cũng nâng cao khả năng thanh toán cho ngân hàng, bảo tồn ngân quỹ, đặc biệt khi đầu tư vào trái khoán chính phủ vì loại trái khoán này có tính lỏng cao. Đồng thời nó còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ở Việt Nam, theo luật các Tổ chức tín dụng, ngoài việc đầu tư vào trái khoán, các tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trự để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác.
4/ Nghiệp vụ kinh doanh khác: góp vốn liên doanh liên kết, đầu tư tài sản cố định…
II. Nghiệp vụ tài sản nợ:
Tài sản nợ diễn tả những khoản mà ngân hàng thưong mại mắc nợ thị trường hay nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại . Trong đó , nguồn vốn hoạt động bao gồm cả khoản vốn huy động được từ người người gửi , vốn tự có và cách khoản vốn cổ phần , lợi nhuận trước thuế hay tài sản ròng .
Nghiệp vụ tài sản nợ phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ tài sản nợ gồm có nghiệp vụ tạo vốn và nghiệp vụ huy động vốn khác.
1/ Nghiệp vụ tạo vốn :
Nghiệp vụ tiền gửi :
Theo điều 45 Luật các TCTD số 03/1997/QH10 : Ngân hàng thương mại được nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh tế , cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn , tiền gửi ko kỳ hạn và tiền gửi khác .
-Nghiệp vụ tiền gửi là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đ ó ngân hàng thương mại có thể huy động và sử dụng vào kinh doanh.
Các loại tiền gửi bao gồm :
a ) Tiền gửi không kỳ hạn : đây là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất kì lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn điều kiện đó của khách hàng Tiền gửi ko kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc ko phải trả lãi .Tiền gửi ko kỳ hạn còn gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi ko kỳ hạn thuần tuý .
- Tiền gửi thanh toán : Đó là khoản tiền gửi để tiến hành thanh toán . chi trả cho các hoạt động hàng hoá , dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách an toàn , tiện lợi .
+ Việc rút tiền , chi trả cho bên thứ 3 thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản .
+ Tiền gửi không kỳ hạn là 1 khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào .
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý : là khoản tiền được ký gửi với mục tiêu an toàn tài sản , không mang tính chất phục vụ thanh toán . Khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu . Giống trường hợp trên , ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép cho vay khoản tồn chi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả .
* Tiền gửi không kỳ hạn là một nguồn vốn quan trọng của NH. Tuy nhiên do người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nên nguồn vốn này thường xuyên có biến động, vì vậy NH chủ yêu dùng nó để cho vay ngắn hạn.
b ) Tiền gửi có kỳ hạn :
Đây là loại tiền gửi có thoả thuận trứơc giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền .
Ở Việt Nam , tiền gửi có kỳ hạn được thể hiện dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng có mục đích , thời hạn 3 tháng , 6 tháng … Lý do là các doanh nghiệp nước ta hầu hết là vừa và nhỏ với số vốn ko lớn và tốc độ quay vòng khá nhanh , do vậy họ có thể gửi với kỳ hạn dài . Hơn nữa khi có nhu cầu rút đột xuất mà gửi thời hạn dài thì sẽ phải chịu một khoản phí phạt từ ngân hàng cho việc rút tiền trước thời hạn .
Tỷ trọng huy động vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng so với các hình thức huy động vốn khác .
Có 2 loại tiền gửi có kỳ han : tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút ( khi muốn rút ra phải báo trước ) .
Thông thường tiền gửi có kỳ hạn là các loại tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao . Lý do là các ngân hàng muốn được yên tâm sử dụng khoản tiền gửi đê cho vay , vì thế nếu lãi suất cao và thời hạn dài sẽ khuyến khích được người gửi tiền . Đồng thời , việc sử dụng phương thức thu phí khi khách hàng rút tiền trước thời hạn cũng góp phần giúp cho nguồn vốn tiền gửi được ổn định hơn về thời hạn .
Tóm lại , đây là khoản tiền có sự thoả thuận giữa khách hàng về thời hạn rút tiền . Đại bộ phận loại tiền này có nguồn gốc tích luỹ và ký thác với mục đích hưởng lãi .
Ý nghĩa : đây là nguồn tiền ổn định mà ngân hàng sử dụng phần lớn khoản tiền này để kinh doanh .
c ) Tiền gửi tiết kiệm :
Về thực chất , đây là một khoản thu nhập của cá nhân chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi tiền ở ngân hàng nhằm mục đích bảo đảm an toàn và sinh lời .
Ở VN có 3 loại tiền gửi tiết kiệm :
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất của loại tiền gửi này thường rất thấp.
- Tiền gưỉ tiết kiệm có kỳ hạn : là khoản tiền có sự thoả thuận về thời hạn gửi và rút tiền , có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi ko kỳ hạn để khuyến khích người dân gửi tiền. Với loại tiền gửi này người gửi chỉ được gủi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : Là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xay dựng nhà ở. Ngoài hưởng lãi thì người gửi tiền còn được NH cho vay nhằm bổ sung thêm vốn nhằm mục đích xây nhà ở. Mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm
1.2) Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá :
Bản chất của nghiệp vụ này là ngân hàng chủ động phát hành trái phiếu nợ như chứng chỉ tiền gửi , kỳ phiếu , trái phiếu nhằm huy động vốn thực hiện các mục đích đã định . VD : phát hành kỳ phiếu để có tiền cho vay khắc phục hậu quả bão lụt hoặc để đầu tư cho một dự án … Trong phát hành giấy tờ có giá thì chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định , trái phiếu là giấy nợ trung và dài hạn . Hai loại giấy nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt , tuỳ theo mục đích .
Huy động vốn theo hình thức này ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn lãi suât huy động tiền gửi . Vì vậy khi huy động vốn theo cách này , ngân hàng phải căn cứ vào khả năng trả lãi để xác định khối lượng huy động , mức lãi suất , thời hạn và phương pháp huy động .
Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định . Khi đã huy động đủ sỗ vốn cần thiết thì ngân hàng sẽ dừng việc bán kỳ phiếu , trái phiếu 1.3 ) Nghiệp vụ đi vay :
Các ngân hàng thương mại sẽ đi vay vốn để bổ sung vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn ko đủ vốn hoạt động từ ngân hàng trung ương , giữa các ngân hàng thương mại với nhau hay các tổ chức tín dụng khác .
a ) Vay NHNN :
- Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu ( tái cấp vốn ) .
- Các thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu hoặc tái chiết khấu trở thành tài sản của họ . Khi cần tiền , các ngân hàng này mang thương phiếu đến tái chiết khấu tại NHNN .
- Về quy định đối với các thương phiếu được tái chiết khấu : thông thường , NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời han trả nợ ngắn , khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ . Trong trường hợp ko có thương phiếu , NHNN sẽ cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định
- Hiện nay, NHNN VN áp dụng 3 hình thức cấp tín dụng sau:
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ tín dụng theo yêu cầu của nền kinh tế: mua lương thực, nông sản, dự trữ nguyên vật liêu…
- Ý nghĩa : đây là một nguồn vốn có vai trò rất quan trọng đỗi với NHTM , giúp NHTM có thể vượt qua được nguy cơ phá sản do NHNN là đối tượng cuối cùng mà NHTM có thể vay được .
b ) Vay từ các TCTD khác :
Đây là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị trường ngân hàng hoặc thị trường tiền tệ .
Đây thực chất là việc hợp tác giữa các ngân hàng với mục tiêu đôi bên cùng có lợi . Các NH đang có dự trữ vượt yêu cầu cho các NH khác vay để tìm kiếm lãi suất cao , các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản.
c) Các hình thức vay khác: Ngoài các hình thức trên, NH còn có thể vay từ các công ty (thường chỉ có ở những nước phát triển), vay từ thị trường tài chính hay vay từ nước ngoài.
2/ Nghiệp vụ huy động vốn khác :
Các NH còn có thể tiến hành tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức , cá nhân . Ngoài ra , thông qua việc sử dụng các phương tiện trong thanh toán , đòi hỏi khách hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng và trên cơ sở đó các ngân hàng có thể sử dụng những vốn nhàn rỗi trên tài khoản để đưa vào hoạt động kinh doanh .
* Ý nghĩa : trong nhiểu trường hợp , khoản vay từ các TCTD sẽ đáp ứng được nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách sẽ thay thế được các khoản vay từ NHNN .
3/ Nghiệp vụ về vốn tự có: vốn tự có của NH bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và các quỹ khác.
a) Vốn điều lệ (hay còn gọi là vốn pháp định):
Vốn pháp đinh của mỗi NH được hình thành do tính chất sở hưu của NH quuyết định, nghiã là nguồn vốn này có thể do nhà nước cấp hoặc do huy động trong xã hội. Theo quy định của VN:
-Nếu là NHTm thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do NSNN cấp 100% vốn ban đầu
- Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp củac ác cổ đông dưới hình thức huy động vốn: phát hành cổ phiếu.
- Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các Nh tham gia liên doanh.
b) Các các quỹ sự trữ: được và được bồ sung hàng năm từ lợi nhuận ròng của NH.Theo quy định về việc trách lập các quỹ từ lợi nhuận (ở mỗi nước có quy định khác nhau), thông thường các NHTM phải tiến hành trích lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích lập hàng năm theo tỷ lệ % trên tổng lợi nhuận sau thuế hàng năm tới mức tối đa đo NHTW quy định
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Để dự phòng bù đắp thiệt hại có nguy ăn mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH, các NH được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm theo tỷ lệ % cho tới khi băng 100% vốn điều lệ.
Hai quỹ trên bắt buộc phải trích lập tại các NH, không được dùng câc quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
c) Các quỹ khác: Với tư cách là một đơn vị kinh doanh, NH còn tiến hành trích lập các quỹ từ lợi nhuận thu được: quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ NH, quỹ phúc lợi khen thưởng…
* Ý nghĩa: Mặc dù chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng số hoạt động kinh doanh của NH nhưng vốn tự có là một bộ phận không thể của NHTM, nó mang lại nhiêu chức năng như:
- Chức năng bảo vệ: vốn tự có bảo đảm thanh toán cho người ký thác khi võ nợ, góp phần duy trì chức năng trả nợ…
- Chức năng hoạt động: bao gồm việc cấp vốn để xây dựng trụ sỏ, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của NH.
- Chức năng điều chỉnh: vốn tự có của một NH góp phần làm thỏa mãn cơ quan quản lý NH, khi họ xem xét diều kiện của NH với các yêu cầu tối thiểu để cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm các tài sản của NH.
Biểu đồ tăng trưởng vốn điều lệ qua các thời kỳ
4. Nghiệp vụ tin thác: là nghiệp vụ mà NHTM nhận sự uỷ thác của khách hàng để đứng ra mua bán hộ khách hàng các loại chứng khoán, kim loại quý, ngoại hối hoặc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức cá nhân theo hợp đồng (ví dụ tài sản đang tranh châp, tài sản thanh lý trong quá trình phá sản, tài sản của cô nhi, quả phụ…).
III. Nghiệp vụ khác (nghiệp vụ ngoại bảng)
Gồm: Nghiệp vụ bảo lãnh
Nghiệp vụ phái sinh được trích lập hàng năm theo tỷ lệ ph
Ngiệp vụ chuyển nhượng các khoản cho vay
Các nghiệp vụ khác: thanh toán, cho thuê két sắt…
1. Nghiệp vụ bảo lãnh;
a/ Khái niệm:
Bảo lãnh ngân hàng (BLNH) có thể được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau:
Theo luật pháp VN thì BLNH là một trong những hình thức cấp tín dụng ngân hàng, “là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.”
b/ phân loại:
b1. Căn cứ vào phương thức phát hành: gồm có bảo lãnh trực tiếp và bảo lãnh gián tiếp
*BL trực tiếp là BL mà người phát hành thư BL cũng chính là người thanh toán. -> rủi ro: bên BL có thể viện lý do để từ chối thanh toán hoặc chậm thanh toán cho bên nhận BL.
*BL gián tiếp là BL mà người BL nhờ 1 bên thứ 3 đứng ra BL cho mình ( trong mua bán hhoá Qtế hay gặp). Khi đó bên BL thứ 1 fát hành thư BL đối ứng và bên nhận BL chỉ cần biết đến bên BL đối ứng ( người BL thứ 2). Rủi ro: cái loại này thì ít rủi ro hơn vì thông thường các bên BL đều là các NHTM có uy tín
b2. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh:
*Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của NH với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc trả không đủ nợ , đúng hạn vay cho bên nhận bảo lãnh.
*Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của NH với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩ vụ thanh toán với bên nhận bảo lãnh khi đến hạn.
Bảo lãnh thanh toán thường được áp dụng trong hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm.
*Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của NH với bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy địnhđấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì NH sẽ thực hiện nộp phạt thay.
Mức bảo lãnh này thông thường là từ 2% đến 5% giá trị hợp đồng.
*Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của NH với bên nhận bảolãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì NH sẽ thực hiện bồi thường thay
Mức bảo lãnh thực hiện hợp đông thường là từ 5% đến 10% giá trị hợp đồng
*Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là cam kết của NH với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì NH sẽ thực hiện bồi thường thay
*Một số loại bảo lãnh khác: bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành, xác nhận bảo lãnh, bảo lãnh đối ứng và đồng bảo lãnh…
c/ Các hình thức phát hành bảo lãnh:
Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh thông qua mạng truyền tin có ký hiệu mật;
Ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu;
Các hình thức khác theo quy định của pháp luật
d/ Quy trình bảo lãnh: gồm 6 bước chính sau:
- Bước 1: tiếp nhận hồ sơ: Hồ sơ bảo lãnh của khách hàng gồm có:
+ Đơn đề nghị bảo lãnh
+ Các tài liệu chứng minh năng lực của khách hàng
+ Tài liệu bảo đảm cho việc phát hành bảo lãnh: ký quỹ, thế chấp…
+ Tài liệu khác theo yêu cầu: giấy phép, phương án kinh doanh…
- Bước 2: thẩm định khách hàng: uy tín khách hàng, năng lực tài chính, năng lực thực hiện hợp đông…
- Bước 3: Soạn thảo văn bản bảo lãnh: Trước khi soạn thao văn bản bảo lãnh phải nghiên cứu hợp đồng cơ sở một cách nghiêm túc
- Bước 4: phát hành bảo lãnh
- Bứơc 5: giám sát bảo lãnh
- Bước 6: thanh lý bảo lãnh
e/Ý nghĩa của bảo lãnh:
*Đối với khách hàng
- Giảm thiểu rủi ro.
- Khách hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác vì đã có bảo lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc thanh toán và làm tăng tài sản lưu thông hiện có.
- Đảm bảo uy tín, sự tin cậy của đối tác trong việc thực hiện các cam kết trong kinh doanh, tăng cường khả năng tận dụng cơ hội của doanh nghiệp.
- Khách hàng có được mức phí bảo lãnh cạnh tranh
-Được tư vấn miễn phí về những vấn để có liên quan đến dịch vụ bảo lãnh, giúp khách hàng có được phương án bảo lãnh hợp lý nhất.
*Đối với ngân hàng
- Ngân hàng thu được 1 khoảnphí
- Việc đảm bảo thực hiện hợp đồng làm gia tăng thêm uy tín của NH vì những NH được lựa chọn là những NH lớn có uy tín. Tuy nhiên NH cũng là người gánh chịu rủi ro nhiều nhất
- Đa dạng hoá các sản phẩm của NH
f. Các quy định về BLNH:
*Điều kiện bảo lãnh: TCTD xem xét và quyết định cấp bảo lãnh khi khách hàng có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
- Có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
- Mục đích đề nghị TCTD bảo lãnh là hợp pháp.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được TCTD bảo lãnh trong thời hạn cam kết
- Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các điều kiện nêu trên còn phải tuân thủ cac quy định về quản lý ngoại hối ở VN
*Giới hạn bảo lãnh:
- Tổng số dư bảo lãnh đối với một TCTD đối với một khách hàng không đựoc vượt quá15% vốn tự có của một TCTD. Tổng số dư bảo lãnh của một chi nhánh NH nước ngoài đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của NH nước ngoài
(Xem thêm các quy chế BLNH tại Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngàuy 26/06/2006).
Ví dụ: Bằng những kinh nghiệm cùng với uy tín lâu năm trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, NHNT Hà Nội trong những năm qua đã trở thành bạn hàng đáng tin cậy nhất của tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, với các nghiệp vụ Bảo lãnh rất phong phú, thủ tục đơn giản, phí hấp dẫn cùng với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao.
Mức phí do 2 bên thoả thuận, mức tối đa không quá 2%/ năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh, mức phí tối thiểu là 300.000 đồng. Ngoài ra, có thể thanh toán một số chi phí hợp lý khác liên quan theo thoả thuận bằng văn bản của 2 bên
2/ Nghiệp vụ phái sinh.
a. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm). Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu.
b. phân loại: gồm có 3 loại chính:
*Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn: Là một công cụ tài chính phái sinh đơn giản. Đó là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản ( hàng hoá hoặc các tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã xácđịnh trước.
Đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn là:
- Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính (TCTC)với nhau, hoặc giữa TCTC với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký kết song phương).
- Trong hợp đồng này người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position), người bán được gọi là người giữ thế đoản vị (short position).
- Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người giữ vị thế đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ vị thề trường vị và nhận một khoản tiền từ người mua với mức giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (có giá trị dương), còn người giữ vị thế đoạn vị bị giá trị âm; và ngược lại.
*Nghiệp vụ hoán đổi: : là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung.
Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suát cố định , nhưng lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi.
*Nghiệp vụ tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh, tương tự như hợp đồng mua kỳ hạn, chỉ khác có một số điểm sau:
- Hợp đồng mua bán trong tương lai thường được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán; và người mua và người bán thường không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này. - Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác như hợp đồng mua- bán trước, mà được qui định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Văn phòng thị trường chứng khoán (người môi giới) xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao hàng, giá hợp đồng, và cũng có thể xác định luôn giá trị hợp đồng mua bán tương lai có thể thay đổi trong một ngày.
- Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bán được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán.
- Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư.
- Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bán trong tương lai, do người mua, hoặc người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính. Văn phòng chứng khoán phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán.
*Hợp đồng lựa chọn (quyền chọn mua hoặc bán): Là một sản phẩm tài chính phái sinh rất được ưa chuộng. Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1973, từ đó thị trường này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị trường tài chính thề giới. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá.
Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bán trước và hợp đồng mua bán tương lai hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền . Để có quyền nay, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí; giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay hày thực hiện.
Ví dụ: Một người đầu tư mua 100 cổ phiếu IBM dưới hình thức hợp đồng lựa chọn kiểu châu âu với giá định trước là 100 USD/1 cổ phiếu, ngày đáo hạn là 2 tháng và quyền phí là 5 USD. Giả sử đến ngày đáo hạn giá cổ phiếu cổ phiếu thấp hơn 100 USD, thì nhà đầu tư có thể sẽ từ chối không mua và chịu mất 500 USD quyền phí (5x100). Trong trường hợp giá cao hơn nhà đầu tư sẽ thực hiện hợp đồng
c.Ý nghĩa:
*Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyểngiao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn
*Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình.
*Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn.Thứ 3, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.*Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo.
Vì thế, các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó.
3/ Nghiệp vụ cho thuê tài sản
a. Khái niệm: là hình thức tín dụng trung và dài hạn, NH mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho NH phải thu gần đủ (hoặc đủ) giá trị tài sản và lãi ( thời hạn khoảng 80 – 90% đời sông kinh tế của tài sản), hết hạn thuê thì khách hàng có thể mua lại TSCĐ đó và các công ty cho thuê được phép chuyển nhượng (bán) các tài sản đó cho khách hàng.
b. Hình thức: có ba hình thức sau:
- 5 công ty cho thuê tài chính trực thuộc các NHTM đó là: công ty cho thuê tài chính của NHCT, NHNT, NH DT&PT, và hai công ty cho thuê tài chính của NHNN.
- Hai công ty cho thue tài chính 100% vốn vay nước ngoài là công ty cho thuê tài chinh Kexim (100% vốn vay Hàn Quốc) và công ty cho thuê tài chính ANZ – VTRAC ( 100% vốn vay của NH ANZ của Úc và tập đoàn VTRAC của Mỹ).
- Một công ty cho thuê tài chinh liên doanh giữa NHCT và bốn đối tác nước ngoài là công ty VILC
c. Quy trình thực hiện:
- Khách hàng làm đơn gửi NH nêu yêu cầu về tài sản cần thuê, sau khi phân tích tình hình tài chính của khách hàng NH ký hợp đồng cho thuê tài sản với khách hàng.
- Khách hàng sẽ gặp người sản xuất để nêu yêu cầu vể quy cách, chất lượng tài sản thuê, người sản xuất có thể phải cam kết bảo hành cho nguời thuê.
- NH ký hợp đồng mua tài sản với ngưòi sản xuất.
- Người bán giao tài sản cho người thuê.
- NH kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê hoặc thu hồi tài sản nếu thấy người thuê vi phạm hợp đồng đó.
d. Ý nghĩa:
- Hoạt động này đã phát huy được thế mạnh của riêng các công ty cho thuê tài chính.
- Các công ty cho thuê tài chính đã rất năng động trong việc thực hiện các chức năng của mình nhất là đã xây dựng được một số chiến lược khách hàng linh hoạt, hợp lý.
- Đây là kênh tài trợ mới hữu nghiệm cho nền kinh tế và góp phần phát triển các dịch vụ tài chính tín dụng bên cạnh các hoạt động truyền thông của NH.
- Làm giảm sức ép trong việc cung ứng vốn đối với các DN, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
- Phương thức này hạn chế được rủi ro, đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích an toàn cho các công ty tài chính.
4/ Một vài nghiệp vụ ngoại bảng khác:
Nghiệp vục chuyển nhượng các khoản cho vay.
Nghiệp vụ thanh toán
Dịch vụ cho thuê két sắt
Dịch vụ tư vấn…
KẾT LUẬN: Các nghiệp vụ của NHTM có quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau để hình thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ trên được xem kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
****the end****
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_nghiep_vu_co_ban_nhtm_848.doc