Ta biết rằng tổng VĐT xã hội = VĐT của Nhà nước + VĐT tư nhân
Khi tổng VĐT xã hội tăng thì kéo theo VĐT của tư nhân tăng. Mặt khác, khi VĐT nhà nước tăng cũng làm VĐT của tư nhân tăng lên và ngược lại.
Tình hình thâm hụt ngân sách dẫn tới việc chính phủ đi vay nợ nhiều hoặc chính phủ phải dùng các chính sách để huy động vốn và tích lũy vốn có thể bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời cắt giảm nguồn VĐT nhà nước. Điều này làm mức lãi suất cơ bản của nền kinh tế tăng, gây áp lực đối với các nhà đầu tư, vì khi đó chi phí vốn tăng lên, hiệu quả đầu tư giảm. Vì vậy các nhà đầu tư có xu hướng cắt giảm quy mô VĐT, chi tiêu đầu tư giảm.
Ngược lại, việc Nhà nước quyết định giành bao nhiêu % ngân sách chi cho đầu tư phát triển cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư. Bởi nó không chỉ trực tiếp tăng đầu tư ở các dự án Nhà nước mà còn gián tiếp làm tăng những nguồn đầu tư khác. Vậy khi VĐT Nhà nước tăng lên làm cho VĐT tư nhân cũng tăng theo. Nhà nước tăng chi tiêu đầu tư gián tiếp làm tăng chi tiêu đầu tư trong tư nhân có thể do yếu tố kỳ vọng vào môi trường đầu tư ổn định và tốt; nhà đầu tư lạc quan nền kinh tế tăng trưởng mạnh và được Nhà nước đầu tư một cách đáng kể.
59 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 2 Khu vườn ươm công nghệ tại 2 Khu công nghệ cao: Hoà Lạc và Tp Hồ Chí Minh phù hợp với quy hoạch đã phê duyệt để hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp.
=> Đối với chính sách huy động các nguồn vốn xã hội
- Nghiên cứu ban hành Quy chế hoạt động của Quỹ Đầu tư mạo hiểm trên cơ sở nghiên cứu các mô hình trên thế giới và đang hoạt động tại Việt Nam.
- Xây dựng danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi hỗ trợ ODA, trong đó cần đưa vào các dự án liên quan tới chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong việc nghiên cứu các công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư đổi mới công nghệ.
Chúng ta sẽ gia tăng vốn để đảm bảo đào tạo nghề như chương trình đào tạo 1 triệu lao động cho nông thôn, chương trình kích cầu tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên được vay ưu đãi, tài trợ để học nghề, cao đẳng, đại học, đào tạo rèn luyện nghề đi xuất khẩu lao động.
Cải thiện hệ thống chính trị- pháp luật và các chính sách khác
Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ yêu cầu các bộ xây dựng các chính sách nhằm tạo môi trường chính trị - pháp luật thông thoáng để thu hút đầu tư trong và ngoài nước cũng như kiểm tra rà soát các dự án đầu tư để gói kích cầu có hiệu quả :
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan ra soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, xây dựng để sửa đổi ngay những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư; khẩn trương xây dựng luật sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư, xây dựng để trình Quốc hội tại kỳ họp sắp tới.
- Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì ban hành các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân cách nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án giải quyết việc làm; phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các nguồn vốn trên không thấp hơn mức thực hiện trong năm 2008.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 12/2008 cho phép cấp quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng/dự án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
- Trong tháng 12/2008, Bộ Xây dựng trình Chính phủ Đề án xây dựng quỹ nhà ở xã hội giai đoạn 2009 – 2015; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ ban hành cơ chế phù hợp để đảm bảo khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp.
Chính sách thuế
- Thuế thu nhập cá nhân: trước tình hình kinh tế trong nước suy giảm, thị trường chứng khoán giảm sâu, việc triển khai thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân đòi hỏi biện pháp quản lí phức tạp hơn so vớI thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, nhất là đối tượng phải kê khai thuế lớn, một số đối tượng là người nước ngoài sẽ phải nộp thuế cao hơn so với mức phải nộp theo quy định thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có thể gây tâm lí bức xúc trong bộ phận dân cư nhất là các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Do đó, Chính phủ xin trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội 2 phương án xử lí như sau:
+ Phương án thứ nhất: Hoãn thời điểm áp dụng Luật 6 tháng (bắt đầu từ 1/7/2009) hoặc 1 năm (bắt đầu từ ngày 1/1/2010). Trong thời gian hoãn thi hành Luật, vẫn tiếp tục áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, đồng thời giảm 30% số thuế phảI nộp theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong năm 2009. Theo phương án này, việc hoãn thi hành Luật được áp dụng cho mọi đối tượng nên không gây xáo trộn và tạo tâm lý phấn khởi, ổn định trong xã hội.
+ Phương án thứ hai: Miễn thuế thu nhập cá nhân năm 2009 đối với thu nhập từ đầu tư vốn, gồm thu nhập từ cổ tức, thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, chuyển nhượng vốn góp và tiền lãi cho vay. Đồng thời giảm 30% thuế thu nhập cá nhân đối với hộ gia đình và cá nhân sản xuất kinh doanh trước đây thuộc diện phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng từ ngày 1/1/2009 chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân. Thời gian miễn, giảm thuế là 1 năm.
- Thuế VAT: sẽ hoàn trước kiểm sau. 19 ngành hàng sản xuất được giảm 50% thuế suất giá trị gia tăng. Thời gian giảm từ ngày 01.02 đến 31.12.2009. Hưởng lợi từ chính sách này là các mặt hàng sản phẩm cơ khí, ô tô, cọc bê tông, ống cống, cấu kiện bê-tông, sản phẩm luyện kim loại đen.
- Thuế nhập khẩu: giảm thời gian nộp thuế, ân hạn thuế cho các doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và là doanh nghiệp trẻ sẽ có bậc ưu tiên cao hơn, mức giảm cao hơn
Nhóm các chính sách khác
- Về tài chính tín dụng: sẽ tiến hành những chính sách quan trọng như giảm thuế, miễn thuế, lùi thời hạn nộp thuế. Đối với thuế VAT thì sẽ hoàn trước kiểm sau, đối với thuế nhập khẩu thì giảm thời gian nộp thuế, ân hạn thuế cho các doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và là doanh nghiệp trẻ sẽ có bậc ưu tiên cao hơn, mức giảm cao hơn.
Đối với ngân hàng thì sẽ tiếp tục điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý theo tín hiệu của thị trường, không tạo ra những biến động về đồng tiền, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh. Chính phủ sẽ tiếp tục hạ lãi suất để giảm chi phí, sẽ tạo điều kiện để giữ ổn định các ngân hàng. Chính sách tiền tệ sẽ có một bước nới lỏng cần thiết để vừa đủ kiểm soát vĩ mô, vừa đủ để doanh nghiệp phát triển trong giai đoạn khó khăn này. Như vậy, có thể nói lượng cung về vốn bảo đảm cho doanh nghiệp, miễn là doanh nghiệp có chiến lược làm ăn có tính hiệu quả, hợp tác với ngân hàng cùng cải cách thủ tục hành chính là có thể vay được.
- Về chính sách khuyến khích đầu tư: nếu doanh nghiệp làm ở những vùng khó khăn, đầu tư vào những sản phẩm đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao thì sẽ được ưu đãi tối đa bất kể doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Chúng ta không phân biệt tín dụng với doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, chúng ta không phân biệt chính sách thuế quan giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, chúng ta trước đây cho tới nay vẫn tiếp tục xóa cho được sự kỳ thị đối với doanh nghiệp tư nhân để phát huy thành phần kinh tế này.
III. Đánh giá ưu, nhược điểm của các chính sách kích cầu
1. Những tồn tại chung của các chính sách kích cầu
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới: thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đầu tư nhà nước và đầu tư tư nhân. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn) cũng chưa thực sự cho phép đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam hoặc phía Nhà nước..
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, không có tính dài hạn gây khó khăn trong việc tiên liệu chính sách cho nhà đầu tư. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Các hệ thống thông tin, quản lý còn thiếu tinh công khai, minh bạch.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
- Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường; các ngành công nghiệp phụ trợ như đào tạo, kế toán, tư vấn thuế và tài chính chưa phát triển, trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực; sự thất thoát vốn do các yếu tố quản lý còn nhiều.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình đầu tư nước ngoài vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tốc độ giải ngân vốn cho các dự án đầu tư còn rất chậm chạp, gây nhiều tác động tiêu cực cho nhà đầu tư.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư-kinh doanh.
2. Đánh giá hiệu quả của gói kích cầu 1 tỷ USD thông qua hỗ trợ lãi suất
- Gói kích thích mang tính ngắn hạn, khẩn cấp nên yếu tố thời gian rất quan trọng. Chính sách bù lãi suất theo Quyết định 131 thỏa mãn tiêu chí này ở mức vừa phải. Nó có thể được tiến hành tương đối nhanh và rộng (do tất cả các ngân hàng thương mại đều có thể tham gia) nên nhiều DN có thể vay. Thời hạn của gói chỉ là 8 tháng mang tính tạm thời chứ không phải lâu dài, như thế là tốt.
- Ưu tiên các ngành dùng nhiều lao động vì tác động xã hội ghê gớm của thất nghiệp gia tăng. Nếu người lao động tiếp tục có việc làm, có thu nhập thì sẽ có cơ sở để kích thích tiêu dùng. Những ngành dùng nhiều lao động thường có lương không cao, người lao động chi tiêu phần lớn thu nhập và làm cho việc kích tiêu dùng hiệu quả hơn. Theo tiêu chí này chính sách bù lãi suất chỉ dành cho các DN vừa và nhỏ, ưu tiên các DN tạo nhiều công ăn việc làm. Như vậy, theo tiêu chí này chính sách bù lãi suất có vẻ cũng khá song vẫn chỉ cho một lượng rất nhỏ người nghèo và có thu nhập thấp (số nhân viên của các công ty có thể vay). Các DN yếu kém sẽ không thể vay được (và cũng không đáng cho họ vay vì làm thế chỉ cản sự tái cơ cấu của nền kinh tế, nên tạo điều kiện cho họ phá sản một cách văn minh hơn là giúp họ lay lắt) và người lao động bị mất việc làm. Đối tượng người lao động này cần được kích cầu (đào tạo lại, giúp kiếm việc làm mới tạm thời hay lâu dài,) vì khoản kích cầu ấy có hiệu quả cao. Nếu người lao động tiếp tục có việc làm, có thu nhập thì sẽ có cơ sở để kích thích tiêu dùng. Các DN gặp khó khăn (có thể vượt qua nếu được trợ giúp) cũng khó có thể vay được. Theo tiêu chuẩn của các ngân hàng, các DN vay được là “khách hàng tốt” và giảm lãi suất cho họ chưa chắc đã có nhiều tác động làm tăng cầu (hệ số nhân của họ nhỏ).
- Thúc đẩy cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Khu vực DN nhà nước là khu vực tạo ra thâm hụt thương mại lớn nhất, khu vực nông nghiệp, ngư nghiệp, các DN vừa và nhỏ tạo ra nhiều xuất khẩu. Như vậy khu vực thỏa mãn tiêu chí này cũng là khu vực thỏa mãn tiêu chí sử dụng nhiều lao động. Gói bù lãi suất chỉ cho các DN vừa và nhỏ, và cho một số khoản vay nhất định, ưu tiên cho các DN xuất khẩu. Có thể nói chính sách cũng thỏa mãn tốt tiêu chí này.
- Ngoài ra, do chỉ bù lãi suất nên dùng được tác động đòn bẩy tài chính (với 1 tỷ USD bù lãi suất có thể cực đại tạo ra được tổng tín dụng 25 tỷ USD) và đấy là ưu điểm của chính sách này.
- Quy định này dẫn đến hệ quả rất mâu thuẫn là: người vay tìm cách trả nợ trước hạn để vay lại nhằm được hưởng hỗ trợ của Nhà nước, trong khi đó ngân hàng thương mại không mặn mà với việc hỗ trợ lãi suất vì những khoản vay trước đó có lãi suất cao (12% chẳng hạn). Nếu cho vay lại tại thời điểm này chỉ được áp dụng lãi suất cho vay tối đa 10,5% thì chỉ có người vay được lợi, ngân hàng bị thiệt đơn thiệt kép.
- Quy định như vậy sẽ rất khó cho ngân hàng thương mại vì họ không chủ động được khối lượng tín dụng sẽ được hỗ trợ lãi suất. Đăng ký ít thì lấy nguồn nào bù vào nếu số lãi phải giảm trừ ngay cho khách hàng trong thực tế lớn hơn số đăng ký và được Ngân hàng Nhà nước “phê duyệt”.
Chương III: Kiến nghị giải pháp kích cầu đầu tư
ở Việt Nam
Dựa trên những phân tích về lý thuyết và thực trạng của chi đầu tư và kích cầu đầu tư hiện nay ở Việt Nam, chúng ta có thể đưa ra môt số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kích cẩu đầu tư ở Việt Nam.
I. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
Hàng năm, Ngân hàng Thế giới (WB) đều công bố Báo cáo Môi trường kinh doanh năm, nhằm đánh giá mức độ cải cách về môi trường kinh doanh mà nhà đầu tư gặp phải khi làm ăn tại một nước theo 10 tiêu chí, từ lúc bắt đầu thành lập một doanh nghiệp cho đến khi giải thể doanh nghiệp. Theo các báo cáo được công bố, môi trường kinh doanh Việt Nam xếp hạng 99/155 quốc gia (năm 2006), 104/175 (năm 2007), 91/178 (năm 2008) và 92/181 (năm 2009).Trong những năm qua, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt, tuy nhiên vẫn còn tồn đọng nhiều vấn đề cần phải khắc phục.
Phát triển cơ sở hạ tầng
Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư do các nhà đầu tư thường phải tính toán tiến độ thi công dự án sao cho phù hợp với tiến độ thi công hạ tầng cơ sở để tránh tình trạng dự án hoàn thành mà không thể đưa vào sử dụng do thiếu các cơ sở hạ tầng cần thiết.
- Cần phải xây dựng, bổ sung, sửa đổi lại các quy hoạch về kết cấu hạ tầng, tranh thủ tối đa các nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này và dành sự ưu tiên cho các dự án: môi trường; hệ thống cấp, thoát nước; hệ thống giao thông đường cao tốc, đường sắt nối liền các khu công nghiệp, khu chế xuất với các cụm cảng biển, mỏ khoáng sản và các thành phố lớn; các dự án bưu chính viễn thông, năng lượng.
- Các quy hoạch tổng thể phải có sự đóng góp, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà đầu tư.
- Cần chú trọng đến quy hoạch cơ sở hạ tầng phát triển các vùng ven đô, vùng thu hút đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đặc biệt, nhằm ngăn suy thoái kinh tế như hiện nay, Chính phủ cũng cần đóng vai trò là người tiêu dùng nhằm kích cầu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sản xuất. Và đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một cách tiêu dùng hiệu quả.
Nguồn nhân lực
- Sửa đổi và hoàn chỉnh chương trình đào tạo; nâng cấp và xây dựng mới các trung tâm đào tạo nghề tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế.
- Người lao động phải được đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật và ngoại ngữ để có khả năng tiếp nhận các công nghệ sản xuất trình độ cao.
- Lành mạnh hóa quan hệ lao động, hạn chế tình trạng đình công đang có xu hướng gia tăng: Sửa đổi và hoàn thiện Luật Lao động, chính sách về lương, thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng lao động ở các doanh nghiệp; nâng cao vai trò của công đoàn trong việc điều hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động; nâng cao hiểu biết của người lao động, đặc biệt ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Môi trường chính trị, pháp lý, chính sách
- Tiếp tục giữ vững ổn định tình hình chính trị trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn.
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi các bộ Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài nhằm thống nhất, đồng bộ hóa hệ thống pháp luật phù hợp với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, đặc biệt là Cam kết WTO. Lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong xây dựng các bộ luật; ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật cụ thể.
- Ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi trường; tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư nhằm xử lý kịp thời các phát sinh, vướng mắc; ban hành các chế tài xử phạt rõ ràng. Rà soát lại các dự án, thu hồi giấy phép kinh doanh, quyền sử dụng đất của các dự án không hiệu quả để chuyển giao cho các nhà đầu tư có đủ khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
- Hạn chế tối đa những rủi ro chính sách cho nhà đầu tư: các chính sách phải nhất quán, đuợc hoạch định cho chiến lược dài hạn, minh bạch và công khai.
Báo cáo phát triển thế giới nhan đề "Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người" tiến hành điều tra 26000 doanh nghiệp ở 53 quốc gia đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư xếp sự bất định về chính sách là mối quan ngại hàng đầu của họ, nâng cao khả năng tiên liệu chính sách có thể làm tăng khả năng thu hút đầu tư mới lên 30%.
- Sửa đổi, đơn giản hóa, thống nhất các thủ tục hành chính từ cấp trung ương đến địa phương; hoàn thiện cơ chế liên thông, một cửa; hoàn thiện các chính sách về quyền sở hữu, quyền tài sản.
Môi trường kinh tế vĩ mô
- Ổn định giá trị tiền tệ: kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của giảm phát.
+ Điều chỉnh lượng cung tiền thông qua các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản; kiểm soát hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, hạn chế các khoản nợ xấu.
+ Khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, sử dụng hợp lý công cụ thuế và tài chính, cải cách hành chính nhằm giảm tương đối chi thường xuyên.
- Lãi suất và tỷ giá hối đoái:
+ Xác định mức lãi suất phù hợp: lãi suất quá cao làm giảm lợi nhuận đầu tư, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư; lãi suất quá thấp so với mức lãi suất quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa và mở cửa kinh tế, sẽ không hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, nguồn vốn trong nước chảy ra nước ngoài gây ra hiện tượng đào thoát vốn ra nước ngoài. Chính vì vậy, việc xác định mức lãi suất hợp lý, có tác động tích cực đến hiệu quả huy đồng vốn. Cần kiểm soát mức lãi suất huy động vốn của các Ngân hàng thương mại thông qua các công cụ tiền tệ, đặc biệt là lãi suất cơ bản.
+ Tỷ giá hối đoái: Theo Bài thảo luận chính sách số 4 của nhóm nghiên cứu đại học Harvard, do Việt Nam là một nước hướng vào xuất khẩu nên Việt Nam cẩn tiếp tục giảm giá đồng nội tệ, nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá nhằm kích thích xuất khẩu, hạn chế thâm hụt thương mại. Tuy nhiên cần xác định một tỷ giá thích hợp bởi giá đồng nội tệ quá thấp sẽ gây áp lực đến nhập khẩu, đến khả năng trả nợ của các hoạt động vay nợ tính trên đồng ngoại tệ, ảnh hưởng niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Vì vậy, một tỷ giá phù hợp với tình hình phát triển của đất nước sẽ có vai trò lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường:
+ Thị trường hàng hóa – dịch vụ: Hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp như đào tạo, tư vấn thuế, tài chính,chính sách, môi trường Cần taọ môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển loại dịch vụ này và nâng cao tính minh bạch, công khai về thông tin trên thị trường. Giảm bớt điều kiện tham gia thị trường đối với một số dịch vụ như đào tạo nghề, sở hữu trí tuệ; hướng dẫn đăng ký kinh doanh đối với một số nghề như tư vấn pháp lý, quảng cáo, tư vấn thuế và tài chính. Tự do hóa thương mai và đầu tư phù hợp với cam kết WTO và thông lệ quốc tế.
+ Thị trường bất động sản: Hình thành cơ chế bất động sản theo thị trường; điều tiết giá đất theo các chính sách vĩ mô thích hợp và theo quan hệ cung cầu; cần sớm ban hành Luật kinh doanh bất động sản và Luật đăng kí bất động sản.
+ Thị trường lao động: Phát triển các kênh thông tin về việc làm; nâng cao hiệu quả các trung tâm tư vấn tuyển dụng, giao dịch, giới thiệu việc làm.
+ Thị trường khoa học – công nghệ: thực hiện chính sách ưu đãi, công nhận và cấp bằng sáng chế đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo. Thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm khoa học công nghệ; gắn kết hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ, tư vấn, mua bán công nghệ, giám định, đánh giá, chuyển giao công nghệ.
+ Thị trường tài chính: giám sát chặt chẽ các trung gian tài chính, hạn chế các khoản nợ xấu; phát triển thị trường chứng khoán, từng bước làm cho thị trường nay trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển, cơ chế thông tin hoàn hảo, minh bạch. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đáp ứng đủ các điều kiện đều có thể niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán.
- Duy trì tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới:
+ Tăng cường hỗ trợ cho các ngành sản xuất, đặc biệt chú trọng vào các ngành trọng điểm: lương thực, năng lượng, vật liệu xây dựng
+ Chính phủ đóng vai trò là người tiêu dùng, chi tiêu có hiệu quả vào đầu tư cơ sở hạ tầng tạo việc làm và thúc đầy các ngành sản xuất khác. Đặc biệt cần thay đổi ưu tiên đầu tư công, thành lập các nhóm giám sát việc đầu tư công, lấu hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các hoạt động đầu tư.
+ Chú trọng đến hiệu quả của các dự án, các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc; kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt trong bối cảnh nền tài chính thế giới đang gặp khủng hoảng như hiện nay, việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Chính phủ cần có các quy định cụ thể cho hoạt động của các trung gian tài chính, hoạt động của thị trường chứng khoán.
+ Tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài; đầu tư Nhà nước và đầu tư của khu vực tư nhân. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh cho tất cả các thành phần kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư xã hội. Chống độc quyền, nâng cao tính cạnh tranh của các chủ thể trong nền kinh tế.
II.Nhóm giải pháp huy động và sử dụng các nguồn vốn cho kích cầu đầu tư
1. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn FDI
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển ở Việt Nam. Trong 3 năm qua, vốn FDI thực hiện đã đạt 23,6 tỷ USD và ngày càng gia tăng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội: năm 2006 chiếm tỷ lệ 16,2%, năm 2007 lên tới 24,8% và năm 2008, với mức giải ngân tăng 44% so với năm 2007, tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong những năm qua đã tăng đáng kể, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.
Các biện pháp nhằm tăng thu hút nguồn vốn FDI
- Tiếp tục cải cách, đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, chính sách, đặc biệt là Luật Đầu tư, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện các chế tài xử phạt hợp lý đối với các hoạt động sản xuất gây tác động tiêu cực đến môi trường, đời sống xã hội.
- Có những chính sách miễn giảm thuế phù hợp để tăng thêm tính hấp dẫn về lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư. Tuy nhiên những chính sách này vẫn phải thỏa mãn đáp ứng nguồn thu cho ngân sách, lại vừa khuyến khích được việc phát triển ở những lĩnh vực, những tỉnh, những khu vực mà điều kiện phát triển còn hạn chế.
- Có chính sách thuế nhập khẩu hợp lý đối với hàng hóa là công nghệ, để khuyến khích nhập khẩu những công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và góp phần cải thiện công nghệ của nước nhà.
- Khắc phục sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, nhất là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóá.
- Cần có một định hướng chiến lược cho sự phát triển của các ngành kinh tế cũng như định hướng đầu tư FDI vào các ngành, để cho nhà đầu tư xác định được phương hướng phát triển và có những quyết định hợp lý.
- Các địa phương cần dựa vào những ưu thế, thực tế đầu tư nước ngoài của vùng, miền để đưa ra các đề xuất chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư. Tuy nhiên, chính sách thu hút đầu tư của từng địa phương cần phải có sự thống nhất, kiểm soát của Chính phủ, tránh tình trạng chồng chéo, gây thiệt hại lợi ích quốc gia. Các địa phương, các chủ đầu tư cần tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp với các đối tác, cùng với việc xây dựng và truyền thông cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử quốc gia để cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu ích về địa phương mình, doanh nghiệp mình, về mục tiêu và yêu cầu đầu tư dự án, về các cơ chế chính sách ưu đãi, về thủ tục đầu tư...
- Mở rộng đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, các chủ đầu tư để tận dụng thế mạnh của từng loại hình, từng chủ đầu tư.
- Cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc trong thu hút đầu tư nước ngoài, làm sao tạo nên một phản ứng dây chuyền tốt cho các nhà đầu tư trước lôi kéo các nhà đầu tư sau.
- Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư. Phát triển các cơ quan xúc tiến đầu tư ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt, có thể hợp tác với các Bộ, ngành nhằm tăng thu hút đầu tư; thông qua du lịch để quảng bá hình ảnh đất nước và cơ hội đầu tư trong nước. Các cơ quan xúc tiến cần thường xuyên tổ chức các hội chợ, trung tâm giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại nước ngoài; tăng cường vai trò và nâng cao hiệu quả của các Tham tán Thương mại tại nước ngoài.
Tuy vậy, cũng cần có những hạn chế nhất định đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Đặc biệt không chấp nhận đầu tư đối với các dự án liên quan đến chính trị - an ninh quốc gia, dự án gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích cộng đồng; môi trường sinh thái; đến lối sống, văn hóa truyền thống của dân tộc, thuần phong mỹ tục.
Hiện nay, xu hướng đầu tư giữa các nước phát triển với nhau vẫn chiếm tỷ trọng lớn (xấp xỉ 70%) trong khi dòng chảy vốn đầu tư vào các nước đang phát chiển chỉ chiếm khoản 30%. Thực tế cho thấy, dòng chảy vào các nước đang phát triển đã ít về quy mô nhưng cũng có sự chọn lựa rõ ràng. Khoảng 90% chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Đặc biệt, trong điều kiện suy thoái kinh tế như hiện nay, nguồn vốn FDI trên toàn thế giới đang giảm bớt, sự cạnh tranh giữa các quốc gia để có nguồn vốn FDI lại ngày càng gay gắt hơn. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiến hành các biện pháp cải tổ một cách mạnh mẽ nhằm tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn, cải thiện không chỉ được đánh giá về trạng thái trước – sau của chính Việt Nam, mà còn phải đảm bảo tính hấp dẫn so với các đối thủ cạnh tranh là các nước đang phát triển khác.
Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
- Về thủ tục hành chính: cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa; rà soát các dự án để có ngay hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư... Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất... Nghiên cứu để sớm rút ngắn diện các dự án phải cấp phép đầu tư, chuyển sang hình thức chủ đầu tư đăng ký dự án, nghĩa là chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm Về quy hoạch, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
- Tập trung đẩy nhanh giải ngân vốn đầu cho các dự án sắp hoàn thành, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời rà soát, cắt giảm khoản vốn đầu tư vào những dự án kém hiệu quả để đầu tư vào những dự án có khả năng sinh lợi cao hoàn thành trong năm 2008-2009. ưu tiên đầu tư vào những ngành kinh doanh chính, mũi nhọn mà có thế mạnh, có lợi thế cạnh tranh.
2. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA
Nguồn vốn ODA đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, đặc biệt các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa. Nguồn vốn ODA cũng đóng góp một phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam và quốc tế (MDGs, VDGs),hỗ trợ cải cách hành chính và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến và trang bị các kiến thức về phát triển thể chế.
Các biện pháp nhằm tăng cương thu hút nguồn vốn này:
- Nâng cao tốc độ giải ngân vốn ODA: Tính hết tháng 10.2008, tổng vốn ODA giải ngân đạt 22, 065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết. Tốc độ giải ngân bình quân đạt khoảng 14-15%/năm, mỗi dự án kéo dài khoảng 6 năm. Giải ngân chậm cũng làm cho lợi thế về ưu đãi của ODA cũng mất dần vì nguồn vốn ODA chỉ được ưu đãi trong một số năm nhất định.
+ Cải cách hành chính và tinh giản quy trình, thủ tục trong việc tiếp nhận và thực hiện nguồn vốn ODA ở các cấp từ trung ương đến địa phương.
+ Thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA cấp quốc gia.
+ Thường xuyên kiểm tra, giám sát đồng thời phối hợp với các sở, ngành liên quan và nhà tài trợ xử lý kịp thời các vướng mắc nảy sinh trong quá trình xây dựng, chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA.
+ Đào tạo cán bộ quản lý dự án ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương.
- Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới pháp lý, chính sách; xây dựng danh mục các chương trình, dự án quan trọng đầu tư bằng nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực. Các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư theo định hướng: phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo; tránh đầu tư dàn trải, không đúng lúc, đúng chỗ. Đầu tư cần phải chú trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Cần ưu tiên đảm bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với các nhà tài trợ.
- Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý sử dụng vốn ODA, nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cho vay lại, định mức chi tiêu: tăng cường công tác đánh giá, thẩm định hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.
- Nâng cao chất lượng đối thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ thông qua việc thiết lập các cơ chế, chẳng hạn tăng cường các cuộc họp Tư vấn các nhà tài trợ (CG) và các nhóm quan hệ đối tác theo ngành.
- Hạn chế tối đa các hiệu tượng tham nhũng, tiêu cực trong sử dụng vốn gây mất lòng tin của các nhà tài trợ.
Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
- Chính phủ phối hợp cùng các địa phương giải quyết nhanh chóng các yếu tố làm chậm tiến độ giải ngân của dự án như thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng. Cần có các chính sách, quy định rõ rang, cụ thể về các hình thức đền bù, giải phóng mặt bằng.
- Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá và xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn ODA. Hoàn thiện kế hoạch hóa vốn ODA là tạo điều kiện để liên tục hóa các bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng: Kế
hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án và kế hoạch thực hiện dự án. Ngoài ra, phải xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn theo từng ngành và lĩnh vực cụ thể. Các ngành, các địa phương và các đơn vị sử dụng nguồn vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả để tránh sử dụng lãng phí các nguồn vốn và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
- Chuẩn bị vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA. Tất cả các chương trình, dự án ODA khi chuẩn bị phê duyệt ở các cấp phải chỉ rõ nguồn vốn trong nước và phải được bố trí trong các kế hoạch ở các cấp tương ứng.
- Các dự án phải tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương. Các chương trình, dự án ODA phải nghiên cứu để phát huy được những lợi thế sẵn có và phải xuất phát từ thực tế của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, phải tạo điều kiện để người dân của địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án.
- Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án nhằm khắc phục những yếu kém trong thực hiện dự án và quản lý vốn ODA.
- Tập trung nguồn vốn ODA để giải quyết những bất cập về cơ sở hạ tầng như cầu, đường, điện, nước, viễn thông, bến bãi, tạo điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án BOT, BT
- Cần mở rộng thêm đối tượng của các dự án ODA. Tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận nhiều hơn tới nguồn vốn này, không chỉ với tư cách nhà thầu (chủ yếu là xây lắp và mua sắm thiết bị, hàng hóa) như hiện nay.
- Giải quyết triệt để các hiện tượng tham nhũng, gây thất thoát vốn và gây mất lòng tin của các nhà tài trợ. Có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc các đối tượng gây thất thoát vốn, làm chậm tiến độ dự án.
- Bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý dự án từ cấp trung ương đến địa phương.
3. Các biện pháp huy động nguồn vốn khác
- Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Quỹ dự trữ Nhà nước của Chính phủ. Để tạo được nguồn vốn này, Chính phủ cần cân đối thu – chi ngân sách Nhà nước, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách hành chính nhằm giảm chi thường xuyên, cải cách, hoàn thiện và sử dụng hợp lý các công cụ thuế, tài chính nhằm tạo nguồn thu đồng thời phải có các biện pháp, cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm hạn chế tối đa việc trốn thuế gây thất thu ngân sách; Chính phủ cũng cần đưa ra các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hoạt động gây tác động tiêu cực tới môi trường, văn hóa-xã hội nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách.
- Nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ: Chính phủ có thể tiến hành phát hành trái phiếu trong và ngoài nước nhằm tạo nguồn vốn cho kích cầu. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần được kiểm soát bởi đây là một công cụ nợ.
- Nguồn vốn huy động trong dân cư: Cần hoàn thiện hoạt động của các trung gian tài chính như Ngân hàng Thương mại, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư; sử dụng các chính sách và công cụ tiền tệ nhằm điều chỉnh lãi suất của hoạt động tín dụng; phát triển thị trường chứng khoán nhằm huy động nguồn vốn nhãn rỗi trong dân và tạo thành kênh phân phối vốn có hiệu quả. Chính phủ cần có các chế tài, các quy định cụ thể nhằm giám sát các hoạt động tài chính, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới.
- Nguồn vốn đầu tư của các Doanh nghiệp: hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm cắt giảm các chi phí sản xuất, có chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất.
- Nguồn vốn từ kiều bào ở nước ngoài: Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện, cơ chế thông thoáng cho kiều bào về nước đầu tư.
4. Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước và chi đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế trong sử dụng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước:
- Chất lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa; quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan, các dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm... nên tính định hướng cho các doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong các quy hoạch (cả quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch sản phẩm) đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo, dư thừa công suất... hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở các thành phần kinh tế khác tham gia.
Quy hoạch chưa được thường xuyên cập nhật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời, do đó một số quy hoạch bị lạc hậu với tình hình thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu; không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
- Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dù đã có một số tiến bộ nêu trên, nhưng tình trạng dàn trải trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
Một số Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư. Chính phủ đã có quy định bố trí vốn cho các dự án nhóm B không được quá 4 năm, nhóm C không được quá 2 năm, nhưng nhiều Bộ, địa phương đã không thực hiện.
- Tình hình thất thoát, lãng phí còn lớn, dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Theo giáo sư David Dapice của Đại học Harvard đưa ra khi đánh giá hiệu quả đầu tư của VN tại Hội thảo 20 năm đổi mới của VN hồi giữa năm nay. Theo ông, với tốc độ đầu tư cao như báo cáo của VN, tỉ lệ tăng trưởng lẽ ra phải đạt mức 9-10%, và với tốc độ tăng trưởng thực tế đạt được, số vốn thất thoát, lãng phí trong đầu tư hằng năm lên đến 1 tỉ USDHiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra các dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát hiện chiếm 14-19% tổng số vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn được thanh tra.
Qua kết quả thanh tra cho thấy công tác quản lý đầu tư nói chung, đặc biệt các công trình, dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước còn nhiều yếu kém, thiếu sót đã dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm phát hiện cao hơn nhiều so với con số do các Bộ, địa phương tự thanh tra. Các sai phạm chủ yếu biểu hiện ở các mặt như: kê khai sai khối lượng; sai đơn giá; tính sai thuế, chi đền bù giải phóng mặt bằng sai chế độ, chi ban quản lý sai chế độ, thiếu thủ tục....
- Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý như đầu tư ngân sách cho một số ngành và sản phẩm được bảo hộ; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp... trong khi đó đầu tư vào các công trình thủy lợi chiếm hơn 70% vốn đầu tư của ngành, việc xây dựng các công trình thủy lợi tưới cho các loại cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thủy lợi cấp nước cho công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thủy sản.
Việc giải ngân các dự án chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm việc đưa các công trình vào sử dụng.
Các doanh nghiệp Nhà nước mới quan tâm đầu tư "đầu vào" nhằm phát triển năng lực sản xuất, chưa quan tâm đến đầu ra của sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hoá, đầu tư cho công tác bảo quản chế biến sau thu hoạch, đầu tư thông tin thị trường chưa tương xứng.
Một số lĩnh vực như công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp chế tạo, công nghiệp công nghệ cao chưa được đầu tư đúng mức, nên nhìn chung mặt bằng công nghệ của ta còn thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao.
- Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả:
Theo báo cáo của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, hiện nay có khoảng 1.500 dự án có nợ quá hạn với tổng số nợ quá hạn là 1.185 tỷ đồng; số lãi treo của các dự án này cũng lên tới 950 tỷ đồng; đặc biệt, là nợ kéo dài của các dự án thuộc Chương trình đánh bắt xa bờ và Chương trình mía đường. Nợ quá hạn và lãi treo của 2 chương trình này chiếm trên 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển. Chương trình đánh bắt cá xa bờ đến nay mới thu hồi được 15% vốn vay đến hạn phải trả. (số liệu năm 2005)
Việc mở rộng quá mức các đối tượng được vay ưu đãi của Nghị định 43/CP trước đây cùng với các chính sách bảo hộ, cơ chế phân cấp mạnh, quản lý không chặt chẽ đã dẫn đến tình trạng nợ nần, đầu tư dàn trải, kém hiệu quả của nhiều doanh nghiệp nhà nước.
- Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số Bộ và nhiều địa phương đang là vấn đề rất bức xúc. Các khoản nợ xây dựng cơ bản vượt quá khả năng cân đối ngân sách nhà nước đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà thầu, dẫn đến việc chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ quá hạn ngân hàng tăng...
Để nâng cao hiệu quả chi đầu tư của Nhà nuớc, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước nhằm tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh doanh của các DN. Hạn chế các rào cản đối với các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư, nâng cao tính minh bạch và công khai trong hoạt động đầu tư. Hạn chế tính khép kín, cục bộ, thiếu tính khách quan, khoa học trong đầu tư hiện nay thể hiện từ khâu quy hoạch cho đến công tác chuẩn bị, thẩm định dự án, ban hành các định mức trong đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi công, giám sát thi công. Cần gắn kết, đồng bộ quy hoạch của từng vùng, từng ngành; giữa các vùng, các ngành và quy hoạch chung của cả nước, tránh sự bất đồng, chồng chéo.
- Về vấn đề thất thoát, lãng phí vốn:
+ Cần thiết lập được môi trường cạnh tranh trong khu vực sản xuất, tiêu dùng có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư nhà nước.
+ Cần phải tiếp tục giảm thiểu qui mô khu vực thuộc Nhà nước, chỉ đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không được làm hoặc không muốn làm, còn những lĩnh vực nào tư nhân có thể làm tốt hơn thì cần phải khuyến khích.
+ Cần tiến tới nghiên cứu, ban hành qui định bắt buộc thực hiện chế độ thuê tổ chức tư vấn điều hành dự án để xóa bỏ tình trạng khép kín như hiện nay.
+ Tăng cường giám sát, kiểm tra các hoạt động sử dụng vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các cấp, các địa phuơng.
+ Đặc biệt, cần tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư của các Tổng công ty Nhà nước: cần hạn chế việc đầu tư ngoài ngành khiến nguồn lực bị phân tán ra nhiều lĩnh vực, và doanh nghiệp khó kiểm soát được hoạt động của mình và không tập trung nguồn lực thực hiện ngành nghề chính, khiến nhiều dự án lớn của các tổng công ty phải trả lại cho Chính phủ.
- Hạn chế đầu tư dàn trải và nợ đọng vốn đầu tư: cần rà soát lại danh mục đầu tư. Tiến hành thu hồi giấy phép đầu tư, kinh doanh; giấy phép sử dụng đất đối với các dự án không có khả năng thực hiện; cần có sự lựa chọn tập trung cho đầu tư phát triển, tập trung vào các ngành, các vùng trọng điểm; cần phối hợp giữa các cấp quản lý địa phương, các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong việc giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
III. Các giải pháp tăng hiệu quả của các gói kích cầu trong giai đoạn suy thoái kinh tế
Các gói kích cầu đầu tư của Chính phủ đưa ra phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, nguồn vốn phải đến đúng nơi, đúng lúc.
Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần quan tâm đến một vài vấn đề sau:
- Cần ưu tiên hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiêp (theo nghĩa rộng), nâng cao sức mua của nông dân bằng cách giảm giá, trợ giá, bán chịu trả dần... vì đây là đối tượng chịu tác động mạnh nhất của tình trạng lạm phát hồi đầu năm và giảm phát hồi cuối năm; đây cũng là lĩnh vực trực tiếp tác động đến đời sống và an sinh xã hội của cả nước, nếu khu vực này được hỗ trợ tiếp tục phát triển thì cầu tiêu dùng xã hội sẽ tăng lên đáng kể, sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến lĩnh vực sản xuất, do sản phẩm nông nghiệp vừa là tư liệu sinh hoạt vừa là tư liệu sản xuất; vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
- Ưu tiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì đây là nơi sản xuất với cộng nghệ ở cấp độ trung bình và công nghệ truyền thống là phổ biến nên còn sử dụng nhiều lao động; đây cũng là nơi có thể nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thích nghi nhanh với trạng thái mới của nền kinh tế trong nước và kinh tế toàn cầu, do đó sự tăng trưởng ở các loại hình doanh nghiệp này trực tiếp tác động đến đông đảo người lao động, bảo đảm công ăn việc làm, sớm thu hẹp quy mô thất nghiệp trong phạm vi xã hội.
- Đầu tư cao vào các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng mở rộng năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đồng thời ưu tiên xây dựng các công trình hạ tầng xã hội như: nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, trạm y tế, trường học, đường sá vì đây là lĩnh vực vừa tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, vừa đảm bảo đời sống và an sinh xã hội.
- Kích cầu đổi mới công nghệ, mua máy móc thiết bị công nghệ cao giá rẻ của các nước đang bị suy thoái, hỗ trợ liên kết các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước và đầu tư ra nước ngoài, biến thách thức thành cơ hội phát triển và cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá và vị thế của Việt Nam trên thương trường khu vực và quốc tế.
- Tăng cường tín dụng: khoanh nợ, giãn nợ, trợ cấp, bán chịu trả dần cho các đối tượng, nhất là các hộ nghèo, người thất nghiệp; giảm học phí, viện phí, tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp...; khuyến khích, tạo điều kiện cho các đối tượng trong xã hội có thu nhập cao tiêu dùng sản phẩm nội địa cao cấp với tinh thần “tiêu dùng là yêu nước” nhằm tạo thêm các kênh kích cầu cho nền kinh tế; thay đổi tư duy tiêu dùng, khuyến khích tiêu dùng hàng nội (bao gồm cả sản xuất và sinh hoạt) cùng với giảm nhập siêu hướng tới xuất siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
- Cần thực hiện việc rà soát nghiệm ngặt các dự án đầu tư, lấy yếu tố hiệu quả kinh tế quyết định đến việc cấp vốn từ gói kích cầu.
+ Các gói kích cầu đầu tư cần tập trung vào các ngành sản xuất nhằm tạo đầu ra cho thị trường, đảm bảo được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và tránh cho hàng ngoại xâm nhập thị trường.
+ Đầu tư vào các hạ tầng cơ sở, năng lượng và thủy lợi, nhằm tạo tiềm lực cho phát triển bền vững và lâu dài.
+ Phải nâng cao tốc độ giải ngân vốn, Chính phủ và các địa phương phối hợp cùng giải quyết nhanh chóng các vấn đề tồn đọng để nguồn vốn từ các gói kích cầu được sử dụng kịp thời. Tất cả các chính sách kinh tế đều có độ trễ, vì vậy nếu không thực hiện nhanh chóng các giải pháp kích cầu, nền kinh tế sẽ không thể thụ hưởng được lợi ích từ chủ trương kích cầu, đà suy giảm kinh tế sẽ không được ngăn chặn kịp thời.
- Cần rà soát lại tất cả các dự án. Đối với các dự án có vướng mắc về thủ tục hành chính, thiếu các nguồn lực để hoàn thành dự án, Chính phủ cần giúp đỡ giải quyết để các dự án được tiến hành nhanh chóng. Đối với các dự án không thể thực hiện tiếp, cần thu hồi, chuyển nhượng, bán lại, tránh thất thoát vốn thêm nữa.
- Cần tiến hành rà soát lại việc sử dụng đất đai: thu hồi nhà đất thuộc sở hữu nhà nước để đấu giá nộp ngân sách nhà nước; thu hồi mặt bằng do các bộ – ngành, đơn vị trung ương đang quản lý, nếu sử dụng không hiệu quả, lãng phí, để trống; trường hợp được chuyển mục đích sử dụng mà vẫn không triển khai dự án thì thu hồi đất để khai thác hiệu quả, tạo thêm nguồn thu ngân sách.
- Chính phủ đứng ra đóng vai trò làm người tiêu dùng, tiêu thụ các mặt hàng như sắt, thép, vật liệu xây dựng vào xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Cần tăng cường sức mạnh của các ngân hàng thương mại trong việc huy động nguồn vốn trong dân cư. Bởi nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Trong khi, nguồn vốn vay cho sản xuất cần là trung và dài hạn. Điều này làm cho chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ giảm ý nghĩa.
- Cần quản lý chặt chẽ việc vay vốn của các doanh nghiệp từ gói kích cầu nhằm hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Hạn chế tối đa việc các doanh nghiệp vay vốn không nhằm đầu tư cho sản xuất như: vay tiền từ gói hỗ trợ lãi suất đem gửi ngân hàng để hưởng khoản chênh lệch lãi suất, vay tiền được hỗ trợ lãi suất để trả các khoản vay nợ chịu mức lãi suất cao từ trước đó.
- Tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn từ gói kích cầu; công khai, minh bạch việc sử dụng vốn.
Lời kết
Qua việc thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay”, chúng tôi muốn nâng cao hiểu biết của mình cũng như đưa ra một cái nhìn tổng quát cho những ai quan tâm đến đề tài này. Từ những phân tích lý luận tạo cơ sở để giúp chúng ta hiểu hơn về hoạt động đầu tư. Đồng thời việc nghiên cứu các nhân tố tác động và thực trạng của chi đầu tư và kích cầu đầu tư cùng các hạn chế của chúng giúp chúng ta trong việc đưa ra các giải pháp kích cầu đạt hiệu quả hơn. Qua đó, chúng ta cũng thấy được vai trò và những tác động to lớn của hoạt động đầu tư tới nền kinh tế nói chung và Việt Nam nói riêng. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà hôi nhập và đã là một thành viên của tổ chức WTO, tăng trưởng phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế là mục tiêu hướng tới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới cho Việt nam. Vì vậy việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chúng ta cần có những chính sách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, do mới tiếp cận với lĩnh vực này và còn hạn chế về mặt kiến thức nên bài viết khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để chúng tôi có thể hoàn thiện được đề tài của mình.
Một lần nữa, chúng tôi xin được chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài của mình.
Nhóm thực hiện
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Lập dự án đầu tư, Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Tài chính tiền tệ, Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Thị trường chứng khoán, Đại học Kinh tế quốc dân.
Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất tiền tệ - John Maynard Keynes, NXB Giáo duc, 1994.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric S. Mishkin.
Bài thảo luận chính sách số 4 – Đại học Harvard.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và Tập đoàn Tài chính quốc tế ( (IFC) về môi trường kinh doanh năm 2006,2007,2008,2009.
Tạp chí cộng sản
Tin tức kinh doanh và tài chính: www.vneconomy.com.vn
Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org.vn
Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.org.vn
Bộ công thương: www.moi.gov.vn
Bộ tài chính: www.mof.gov.vn
Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
Tổng cục thuế: www.gdt.gov.vn
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
Diễn đàn phát triển Việt Nam: www.vdf.org.vn
Báo Đầu tư: www.vir.com.vn
Cục Đầu tư nước ngoài: www.fia.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6284.doc