Đề tài Các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trên từng thị trường

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 I. Tình hình chung về thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam 1. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam 4 2. Thị trường nhập khẩu cảu Việt Nam 6 II. Tình hình xuất nhập khẩu trên từng thị trường chủ lực của Việt Nam. Thuận lợi – Khó khăn & Các giải pháp xuất khẩu cho từng thị trường . 1. Hoa Kỳ 8 2. EU 23 3. Nhật Bản 36 4. Trung Quốc 53 5. ASEAN 68 6. Singapore 83 7. Úc 93 8. Nga 104 III. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu. KẾT LUẬN 121 TÀI LIỆU THAM KHẢO 122 LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh thế giới có nhiều sự thay đổi theo xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, Việt Nam chúng ta cũng đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, đặc biệt là trên phương diện kinh tế với những thành tựu to lớn đạt được trong những năm vừa qua. Những thành tựu đó không chỉ đem lại sự phát triển phồn vinh cho nền kinh tế, cuộc sống ấm no cho nhân dân mà còn góp phần quan trọng mang lại sự ổn định về các mặt chính trị và xã hội. Với phương châm "đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế" Việt Nam đang bằng con đường xuất nhập khẩu hàng hoá, tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, trong tiến trình tiếp cận, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào thương mại thế giới và xuất nhập khẩu giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong ngân sách quốc gia. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu, mở rộng ngày càng nhiều hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được đa dạng, hàng hóa Việt Nam đã dần dần khẳng định chỗ đứng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam luôn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Việt Nam vẫn chưa tận dụng, khai thác được tiềm năng tăng kim ngạch xuất khẩu ở các thị trường chủ lực. Do đó, các doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan chức năng cần đưa ra những giải pháp phù hợp để khắc phục khó khăn đã và đang gặp phải.

doc123 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1783 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trên từng thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à than đá... - Tăng cường cơ chế hợp tác thay cho sự cạnh tranh trên thị trường, nhất là việc cùng giao dịch chào bán và tham gia đấu thầu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su... mà Việt Nam và một số nước trong khu vực đều là nước có thế mạnh xuất khẩu, tránh được sự ép giá của các nhà nhập khẩu. Điển hình là mặt hàng gạo trong nhiều năm qua, Việt Nam và Thái Lan đã hợp tác xuất khẩu nên đã nâng được giá cả trên thị trường thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nông dân. Việc hợp tác tham gia đấu thầu và xuất khẩu gạo tại thị trường Philippin, Inđônêxia cũng cần được hai nước chú ý phối hợp tốt trong thời gian tới. - Công tác xúc tiến thương mại luôn là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với xuất khẩu. Cần xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu riêng cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam để đảm bảo chất lượng, ổn định thị trường tiêu thụ và thu hút sự quan tâm của khách hàng ngày càng nhiều. 6. SINGAPORE 6.1 Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore. NĂM Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại (1000USD) Tổng kim ngạch (1000USD) Giá trị (1000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1000USD) Tỷ trọng (%) 2008 2,659,728 33.16 9,392,533 44.66 -6,732,805 12,052,261 2009 2,076,253 25.88 4,248,355 20.20 -2,172,103 6,324,609 2010 2,121,313 26.45 4,101,144 19.50 -1,979,831 6,222,457 6 tháng đầu năm 2011 1,163,286 14.50 3,290,443 15.64 -2,127,157 4,453,730 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Đồ thị biểu diễn tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Singapore Đồ thị biểu diễn cán cân thương mại giữa Việt Nam – Singapore 6.2 Những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chủ yếu sang thị trường Singapore. Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2009 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Tổng xuất khẩu 2,659,728 100 2,076,253 100 2,121,313 100 1,163,286 100 Dầu thô 1,645,820 61.88 992,709 47.81 583,765 27.52 318,563 27.38 Máy vi tính và linh kiện 163,091 6.13 199,975 9.63 224,925 10.60 115,865 9.96 Gạo 40,276 1.51 133,594 6.43 227,791 10.74 104,823 9.01 Thủy sản 60,618 2.28 58,222 2.80 74,086 3.49 40,506 3.48 Hàng dệt may 27,768 1.04 45,464 2.19 29,951 1.41 13,676 1.18 Cà phê 46,603 1.75 19,769 0.95 23,488 1.11 21,003 1.81 Dây điện và dây cáp điện 14,304 0.54 13,863 0.67 20,863 0.98 9,203 0.79 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Singapore đạt 2,659,728 ngàn USD, tăng 19.02 % so với năm 2007 Dầu thô: xuất khẩu đạt 1645820 ngàn USD tăng 0.91%. Đứng thứ hai về nhập khẩu dầu Việt Nam là Singapore với 27%. Thủy sản xuất khẩu đạt 60618 ngàn USD, giảm 11.83% so với 2008. Nguyên nhân cơ bản được xác định là do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái toàn cầu. Máy vi tính và linh kiện: 199975 ngàn USD, tăng 22.62% so với 2008. Mặt hàng gạo xuất khẩu đạt 40276 ngàn USD, tăng 55.43% so với 2007. Năm 2009: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Singapore đạt 2076253 ngàn USD, giảm 21.94% so với năm 2008 do sự suy giảm một số mặt hàng, mặt khác còn do sự giảm mạnh về kim ngạch của mặt hàng dầu thô, chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore, tuy tăng về lượng (+9,5%) nhưng giá dầu thô trong năm qua giảm mạnh ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu dầu thô Mặt hàng dầu thô: xuất khẩu dầu thô chủ yếu của Việt Nam năm 2009 sang Singapore đạt 2.253 nghìn tấn với kim ngạch 992,7 triệu USD, tăng 9,5% về lượng nhưng giảm 39,7% về trị giá, chiếm 16%. Mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore năm 2009 có độ suy giảm mạnh là: cà phê đạt 19,8 triệu USD, giảm 57,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 0,95% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore; dầu thô giảm 39,7% so với cùng kỳ; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,6 triệu USD, giảm 30,7% so với cùng kỳ, chiếm 2,2%; túi xách, ví, va li mũ và ô dù đạt 3 triệu USD, giảm 25,3% so với cùng kỳ, chiếm 0,14%... Một số mặt hàng có mức tăng trưởng cao là: gạo đạt 133,6 triệu USD, tăng 231,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 6,4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore năm 2009; hàng dệt may đạt 45,5 triệu USD, tăng 63,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 2,2%; hạt điều đạt 4,5 triệu USD, tăng 40,4% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 0,2%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 200 triệu USD, tăng 22,6% so với cùng kỳ, chiếm 9,6% ... Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Singapore đạt 2,2 tỷ USD. Những mặt hàng chủ yếu xuất sang Singapore gồm: dầu thô, dây điện và dây cáp điện, gạo, máy vi tính và linh kiện, thủy sản, tổng xuất khẩu sang thị trường này chiếm 4,95% cả nước…. Đứng đầu về kim ngạch trong những mặt hàng này là dầu thô, với kim ngạch đạt 583,7 ngàn USD chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất sang thị trường Singapore. Đứng thứ hai trong bảng xếp hạng về kim ngạch là mặt hàng gạo, đạt 227 ngàn USD, chiếm 10,7% tổng kim ngạch. ngạch Đứng thứ ba là mặt hàng máy vi tính và linh kiện đạt 224 ngàn USD, chiếm 10,6% tổng kim ngạch. 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,6 tỷ USD chiếm 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong giai đoạn này. Xuất khẩu mạnh nhất vẫn là dầu thô chiếm 27,3% tổng lượng xuất khẩu các mặt hàng đạt mức kim ngạch 318 triệu USD. 6.3 Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa chủ yếu từ thị trường Singapore Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Tổng nhập khẩu 9,392,533 100 4,248,355 100 4,101,144 100 3,290,443 100 Xăng dầu 4,895,201 52.12 2335,628 54.98 2,058,625 50.20 2,293,082 69.68 LK điện tử và ti vi, máy tính và LK máy tính 815,045 8.68 237,972 5.60 228,375 5.57 89,683 2.72 Giấy các loại 122,679 1.31 87,695 2.06 115,305 2.81 67,330 2.05 Hoá chất 173,944 1.85 57,243 1.35 67,888 1.66 38,683 1.18 Dược phẩm 54,358 0.58 8,954 0.21 9,154 0.22 6,116 0.18 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Singapore 9392533 ngàn USD, tăng 23.36% so với năm 2007. Singapore là thị trường nhập khẩu xăng dầu lớn nhất trong năm 2008 với trên 6 triệu tấn, đạt kim ngạch 4,857 tỉ USD, giảm 5,5% về lượng nhưng tăng 38,47% về trị giá so cùng kỳ năm ngoái. Mặt hàng LK điện tử và ti vi, máy tính và LK máy tính đạt 815045 ngàn USD, tăng 5.35% so với 2007, chiếm 8.68% tổng nhập khẩu. Mặt hàng hóa chất: 173944 ngàn USD, giảm 5.3% so với 2007, chiếm 1.85% tổng nhập khẩu. Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Singapore 4248356 ngàn USD, giảm 54.77% so với năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu thuốc từ Singapore đạt trên 40 triệu USD, tăng 28% so cùng kỳ năm trước, do có nhiều loại thuốc mới được nhập và do giá nhập một số mặt hàng trong năm nay đang giảm so giá nhập trong năm 2008. Nhập khẩu thuốc thành phẩm của nước ta từ thị trường Singapore trong thời gian gần đây đạt mức tăng trưởng tốt. Singapore và Thái Lan, 2 thị trường cùng thuộc khối ASEAN với Việt Nam, giữ vị trí thứ 3 và 4 trong số các thị trường cung cấp nhiều nhựa nguyên liệu cho Việt Nam. Khối lượng nhựa nhập khẩu từ 2 thị trường này trong quý 1 đều giảm. Nhập khẩu từ thị trường Singapore giảm 7.1% xuống còn 65.8 nghìn tấn, trị giá 98.7 triệu USD. Mặt hàng dược phẩm đạt kim ngạch 8954 ngàn USD, giảm 83.53% so với 2008, chiếm 0.21% tổng nhập khẩu. Mặt hàng hóa chất: 57243 ngàn USD, giảm 67.09% so với 2008, chiếm 1.35% tổng nhập khẩu. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Singapore 4,1 tỷ USD. Xăng dầu là mặt hàng nhập khẩu với kim ngạch lớn nhất, chiếm 50.20% tổng kim ngạch nhập khẩu, đạt 2,05 tỷ USD. Đứng thứ hai là LK điện tử và ti vi, máy tính và LK máy tính, đạt 228 triệu USD, chiếm 5,57% tổng nhập khẩu. Cán cân thương mại năm 2010 giữa xuất và nhập từ thị trường Singapore, Việt Nam bị thâm hụt trên 1 tỷ USD. tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu giai đoạn này đạt 3,2 tỷ USD. Cán cân thương mại Việt Nam thâm hụt trong 6 tháng đầu năm 2011 trên 2 tỷ USD, Thuận lợi Thuế xuất nhập khẩu Singapore cho tự do xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, hầu hết (99%) hàng hoá xuất nhập khẩu không phải nộp thuế. Duy có xe máy, rượu, xăng dầu và thuốc lá là bị đánh thuế nặng Với vị trí địa lý thuận lợi, hệ thống pháp luật đủ và nghiêm, chính sách phát triển kinh tế ổn định, Singapore đã thu hút hầu hết các tập đoàn công ty lớn trên thế giới mở các văn phòng đại diện, chi nhánh các công ty tại Singapore và thông qua các công ty này để buôn bán trực tiếp với Việt Nam và các nước trong khu vực. Chính phủ Singapore cũng rất khuyến khích các công ty Singapore buôn bán với Việt Nam và coi Việt Nam là thị trường quan trọng trong khu vực. Singapore là một trong những thị trường quen thuộc nhất của Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua. Điều này cũng dễ hiểu vì cả hai quốc gia cùng nằm trong vùng Đông Nam Á; mặt khác, do sự hiện diện đông đảo của đồng bào gốc Hoa sinh sống trên cả hai đất nước, tập quán thương mại có nhiều nét tương đồng với nhau. Sau ngày giải phóng, vào đầu thập niên 1980, quan hệ giao thương giữa Việt Nam và Singapore được nối lại qua những thương vụ giản đơn, chủ yếu là trao đổi hàng hoá. Đến nay, sau gần 20 năm củng cố và không ngừng cải thiện quan hệ thương mại giữa hai nước, Singapore đã trở thành một trong những khách hàng chủ lực của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam. Để tăng cường thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước, đã thành lập các Nhóm công tác chung như: Nhóm công tác Thương mại và Phân phối Việt Nam - Singapore, Nhóm công tác về chuyển đổi ngoại hối Việt Nam - Singapore (thành lập năm 1998), Nhóm công tác về nông, lâm, ngư nghiệp Việt Nam - Singapore (thành lập năm 1999). Khó khăn Qui định về bao gói nhãn mác Qui định về kiểm dịch động thực vật Ngay từ năm 1985 Singapore đã ban hành Luật kinh doanh thực phẩm (Sale of food Act), quy định rõ thực phẩm tiêu thụ trên thị trường phải là hàng thật; nghiêm cấm mọi hình thức hàng giả, hàng nhái, hàng không có nhãn mác rõ ràng. Cơ quan Nông sản thực phẩm và Thú y Singapore (The Agri-Food and Veterinary Authority - AVA) có trách nhiệm điều chỉnh và đảm bảo sự ổn định và cung cấp đầy đủ an toàn, không độc hại và chất lượng sản phẩm tươi. Đối với mặt hàng thực phẩm đóng gói phải có nhãn mác đúng theo qui định của Singapore mới được NK và tiêu thụ tại Singapore Qui định về tiêu chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ Đối với mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện điện tử, trong quy định về bảo vệ người tiêu dùng "Singapore Consumer Protection", Cơ quan An toàn Singapore đã đưa ra danh mục 47 mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện điện tử bị quản lý, và 35 yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các mặt hàng này. Từng mặt hàng bị quản lý đều có qui định rõ số hiệu, loại tiêu chuẩn cụ thể của Singapore, hoặc của nước ngoài cùng với các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể. Giải pháp Để đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước SINGAPORE, tham gia vào việc hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập khu vực nói riêng, doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm một số vấn đề sau đây: Nắm bắt kịp thời những biến động trên thị trường thế giới cũng như ở các nước SINGAPORE có ảnh hưởng nhiều tới giao dịch và giá cả; tiếp đó là tình hình chính trị thiếu ổn định ở một số nước cũng tác động mạnh đến quan hệ thương mại và khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. - Chính sách mở của thị trường Singapore được giới thiệu đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong Hội thảo Xuất khẩu thực phẩm sang Singapore, nên cần có biện pháp quản lý hệ thống chất lượng sản phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cụ thể: Hàng thực phẩm, rau quả (tươi sống, chế biến) đều phải được Cơ quan AVA kiểm soát về chất lượng bằng các hình thức quản lý chặt chẽ như cấp giấy phép từ nguồn (từ nước sản xuất, cơ sở sản xuất, chế biến) Biện pháp quản lý an toàn sản phẩm là dán "safety mark" đối với danh mục hàng hoá bắt buộc phải quản lý về an toàn sản phẩm.  Spring cấp chứng nhận "safety mark" theo trình tự thủ tục: Doanh nhiệp sản xuất, nhập khẩu đưa sản phẩm tới các trung tâm thử nghiệm để đánh giá xác định các chỉ tiêu an toàn theo quy định. 7. ÚC 7.1 Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Úc NĂM Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại (1000 USD) Tổng kim ngạch (1000 USD) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng (%) 2008 4,225,188 42.48 1,360,514 24.40 2,864,674 5,585,702 2009 2,276,716 22.89 1,050,035 18.83 1,226,681 3,326,751 2010 2,107,343 21.19 2,007,662 36.01 99,681 4,115,005 6 tháng đầu năm 2011 1,336,420 13.43 1,157,238 20.76 179,182 2,493,658 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Đồ thị biểu diễn tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Úc Đồ thị biểu diễn cán cân thương mại giữa Việt Nam – Úc 7.2 Những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chủ yếu sang thị trường Úc. Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Tổng xuất khẩu 4,225,188 100 2,276,716 100 2,107,343 100 1,336,420 100 Dầu thô 3,353,991 79.38 1,581,041 69.44 1,836,318 87.14 770,888 57.68 Thuỷ sản 133,626 3.16 128,949 5.66 150,726 7.15 79,517 5.95 Giày dép 44,988 1.06 43,230 1.90 47,865 2.27 32,313 2.42 Hàng dệt, may 31,903 0.76 30,848 1.35 43,977 2.09 26,921 2.01 Cà phê 17,721 0.42 16,424 0.72 22,512 1.07 17,289 1.29 Dây điện và dây cáp điện 11,374 0.27 11,224 0.49 9,904 0.47 6,458 0.48 Than đá 12,053 0.29 6,293 0.28 19,577 0.93 11,917 0.82 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Australia là dầu thô, hoa quả, đồ gỗ, nguyên liệu thô, cá, hàng dệt may, giày dép Kim ngạch xuất khẩu hai chiều Việt Nam – Australia vẫn tiếp tăng trưởng đều và khá cao trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 12%/năm. Hiện Australia là đối tác thương mại thứ 7 của Việt Nam về xuất khẩu, lớn thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 4225188 ngàn USD, tăng 11.12% so với cùng kỳ năm 2007 Dẫn đầu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Úc là dầu thô, đạt trị giá 3353991 ngàn USD, tăng 7.3% so với 2007 và chiếm 32.38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường này. Tiếp theo sau mặt hàng dầu thô là các mặt hàng đá quý và kim loại quý đạt 181,75 triệu USD, tăng 91,8%. Đứng vị trí thứ 3 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam sang Úc là hạt điều, đạt 67,47 triệu USD, tăng 30%. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của Việt Nam tại thị trường Úc như than đá đạt 12,05 triệu USD; sản phẩm chất dẻo đạt 17,69 triệu USD; đồ chơi trẻ em đạt 1,06 triệu USD. Tuy nhiên, cũng có một số mặt hàng như dây điện và dây cáp điện, cà phê xuất khẩu giảm so với năm 2007. Kinh ngạch xuất khẩu mặt hàng dây điện và dây cáp điện chỉ đạt 11,37 triệu USD, giảm hơn 42% so với năm 2007. Cà phê giảm xuống gần 6% và chỉ đạt được 17,72 triệu USD so với năm 2007. Năm 2009 kim ngạch xuất khẩu đạt 2276716 ngàn USD, giảm 46.12% so với cùng kỳ năm 2008 Ôxtrâylia là thị trường xuất khẩu dầu thô chủ yếu của Việt Nam năm 2009 với 3.329 nghìn tấn, đạt trị giá 1581041 ngàn USD, giảm 20% về lượng và giảm 40,2% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 25,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dầu thô của cả nước năm 2009. Mặt hàng thủy sản có trị giá xuất khẩu đạt 128949 ngàn USD, giảm 3.5% so với 2008, chiếm 5.66% tổng xuất khẩu. Giày dép xuất khẩu đạt 43230 ngàn USD, giảm 3.91% so với 2008. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD, chiếm 21,19% lượng xuất khẩu cả nước nam 2010. Dầu thô là mặt hàng sẽ tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định do nhu cầu cũng như giá quốc tế sẽ còn ở mức cao. Hầu hết thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam năm 2010 đều có độ suy giảm mạnh cả về lượng và trị giá chỉ duy nhất 2 thị trường có kim ngạch tăng trưởng: thứ nhất, Ôxtrâylia với kim ngạch hơn 1,8 tỷ chiếm 87,14% tăng hơn 20% so với năm 2009. Mặt khác, việc khai thác dầu thô theo hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai nước còn cho phép Australia tiếp tục nhập khẩu dầu thô của ta. Hiện tại, dầu thô của ta chiếm 25% lượng dầu thô nhập khẩu của Australia. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm từ  80- 81% xuống còn 78% năm 2005 và 70% năm 2010. Các mặt hàng dệt may và giày dép sẽ khôi phục tốc độ tăng tại Australia do các thị trường Mỹ và EU dỡ bỏ hạn ngạch, các doanh nghiệp Việt Nam chuyển hướng sang các thị trường truyền thống do khó cạnh tranh hơn tại các thị trường nêu trên. Cán cân thương mại đạt 99,7 triệu USD. 6 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 10,48% tống kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường khác. Riêng lượng dầu thô xuất khẩu chiếm 57,6% đạt 770,8 triệu USD, các mặt hàng còn lại co xuất khẩu nhưng với số lượng ít kim ngạch đạt dưới 100 triêu USD trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2011. 7.3 Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Tổng nhập khẩu 1,360,514 100 1,050,035 100 2,007,662 100 1,157,238 100 Kim loại thường khác 248,002 18.23 313,107 29.82 369,173 18.39 236,764 20.46 Lúa mỳ 189,710 13.94 274,612 26.15 358,387 17.85 435,448 37.63 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 65,357 4.80 53,205 5.07 49,006 2.44 28,419 2.46 Sắt thép các loại 102,083 7.50 36,255 3.45 62,735 3.12 34,661 2.96 Dược phẩm 27,367 2.01 22,728 2.16 29,414 1.47 19,430 1.68 Sản phẩm hoá chất 18,218 1.34 20,507 1.95 22,807 1.14 147,452 12.74 Sữa và sản phẩm sữa 32,317 2.38 19,521 1.86 26,256 1.31 24,046 2.08 Gỗ và sản phẩm gỗ 16,989 1.25 14,112 1.34 11,016 0.56 1,685 0.15 Kim ngạch nhập hàng hóa chủ yếu từ thị trường Úc Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu đạt 1360514 ngàn USD, tăng 28.43% so với năm 2007, chiếm 1.69% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Nhập khẩu lúa mì đạt 189710 ngàn USD, tăng 90.25% so với 2007, chiếm 90.25% tổng nhập khẩu Mặt hàng dược phẩm có trị giá nhập khẩu đạt 27367 ngàn USD, tăng 7.82% so với năm 2007, chiếm 2.01% tổng nhập khẩu. Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu đạt 1050035 ngàn USD, giảm 22.82 % so với năm 2008, chiếm 1.50% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Việt Nam nhập khẩu kim loại thường chủ yếu có xuất xứ từ Australia: 102,6 nghìn tấn. Mặt hàng dược phẩm có trị giá nhập khẩu đạt 22728 ngàn USD, giảm 16.95 % so với năm 2008, chiếm 2.16% tổng nhập khẩu. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,007 tỷ USD. Đứng đầu về lượng hàng nhập khẩu từ thị trường UC là các kim loại thường chiếm 18,3% đạt 369 triệu USD. Lúa mì là mặt hàng đứng thứ 2 về kim ngạch nhập khẩu từ Australia vào Việt Nam trong năm 2010, đạt kim ngạch 358,4 triệu USD, chiếm 17,8% tổng kim ngạch nhập từ Australia, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng nhập khẩu tăng chậm như: máy móc, sắt thép, dược phẩm, sản phẩm hóa chất, sữa và sản phẩm sữa. 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,157 tỷ USD, chiếm 20,76% lượng hàng nhập khẩu của cả nước từ thị trường này. Chiếm 3,6% trong các thi trường nhập khẩu của Việt Nam. Đặt biệt lúa mì là mặt hàng nhập khẩu của giai đoạn này còn cao hơn so với cả năm 2010 tăng hơn 21%. Kim ngạch nhập khẩu đạt 435,4 triệu USD 7.4 Thuận lơi Việt Nam và Ô-xtrây-li-a  cùng nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đầy tiềm năng; đều mong muốn tăng cường mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài trên nhiều lĩnh vực. Quan hệ hai nước đã có bước phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Biểu hiện sinh động của chiều hướng tốt đẹp đó là sự hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển văn hoá, giáo dục đào tạo. Không chỉ trong khuôn khổ song phương, sư hợp tác giữa hai nước còn phát triển mạnh mẽ trong khuôn khổ đa phương. Là nước điều phối quan hệ giữa ASEAN – Australia, Việt Nam luôn ủng hộ Ô-xtrây-li-a  - nước có vị trí địa lý gần gũi, quan hệ hợp tác phát triển lâu đời với ASEAN và là nước có vị trí quan trọng trong khu vực và thế giới, được tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình hội nhập khu vực Đông Á. Cho đến nay, người tiêu dùng Ô-xtrây-li-a  đã quen thuộc với nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam và với việc Ô-xtrây-li-a  tiếp tục thực hiện cam kết mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại, trong thời gian tới, các nhà xuất khẩu Việt nam sẽ có thêm nhiều cơ hội gia tăng giá trị xuất khẩu sang thị trường này. Tuy nhiên, theo các chuyên gia xúc tiến thương mại sang Australia, bên cạnh những mặt thuận lợi, có nhiều điều mà các nhà xuất khẩu của nước ta cần nắm bắt kỹ để thâm nhập hơn và có hiệu quả hơn vào thị trường Australia. Đối với các sản phẩm sữa, Việt Nam sẽ cắt giảm dần thuế nhập khẩu cho các mặt hàng sữa, sữa bột, bơ, phomát, bột sữa gầy và sữa chua trong năm 2017- 2018 sẽ bãi bỏ thuế, đến 2020 các mặt hàng sữa của Australia sẽ có mức thuế nhập khẩu là 0%. Các sản phẩm lúa mì, mạch nha, lúa mạch và yến mạnh của Australia nhập vào Việt Nam sẽ có mức thuế giảm dần cho đến 2016 sẽ xuống còn 0%. Những sản phẩm đang chịu mức thuế 5-50% sẽ được Việt Nam cắt giảm xuống mức 0% vào năm 2018 và 2019. Đến 2022, rượu vang và rượu mạnh của Australia nhập vào Việt Nam được cam kết sẽ giảm 1 lần 9 dòng thuế xuống còn 20% và 2 dòng thuế rượu mạnh là 40%, và rượu vodka sẽ cắt giảm còn 5% vào năm 2020. Australia sẽ loại bỏ thuế quan đối với tất cả các dòng thuế các mặt hàng dược phẩm, giày dép, giấy và bột giấy từ năm 2010. Còn thời gian Việt Nam áp dụng trong khoảng từ 2018 - 2020. Tuy nhiên, riêng sản phẩm dệt may và các sản phẩm từ dệt may đến 2020 Australia mới loại bỏ thuế quan. 7.5 Khó khăn Thị trường hai nước xa cách về địa lý và khác biệt về thị hiếu tiêu dùng. Doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường và gặp khó khăn trong các hoạt động tìm hiểu thị trường và XTTM. Thị trường Ô-xtrây-li-a  không áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Tuy nhiên, thuế suất đối với hàng dệt may và giày dép rất cao. Trong khi đó, sự cạnh tranh với các đối tác như Trung Quốc và một số nước ASEAN ngày càng gia tăng bởi lợi thế lớn của các nước hiện tại đối với mặt hàng dệt may và đặc biệt Trung Quốc, Ấn Độ. Hàng thực phẩm, hoa quả và nông sản nhập khẩu vào Ô-xtrây-li-a  đều phải yêu cầu trải qua quá trình Phân tích rủi ro nhập khẩu (IRA) của cơ quan An toàn sinh học (Biosecurity Ô-xtrây-li-a  – BA). Phần này do Cơ quan chức năng của hai bên thực hiện và việc triển khai phụ thuộc vào quan hệ và tiến độ giải quyết giữa Ô-xtrây-li-a  với từng đối tác, trong khi đó sự hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Ô-xtrây-li-a  khá chậm chạp. Chính sách thương mại và thuế của Ô-xtrây-li-a  khá minh bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan (các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, …) khá chặt chẽ. Qui định kiểm dịch: - Là một quốc gia có ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, các qui định kiểm dịch của Australia rất chặt chẽ. Để cạnh tranh được, Australia là một thị trường nhập khẩu đòi hỏi khắt khe về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và mẫu mã sản phẩm, bao bì và thời gian giao hàng. Các thông số ghi trên bao bì như xuất xứ, thành phần dinh dưỡng, ngày đóng gói hạn sử dụng phải được in rõ và dễ nhận biết. - Tất cả các loại thực vật nhập khẩu, - Tham gia hội chợ triển lãm thương mại chuyên ngành - Triển lãm giới thiệu đất nước, Việc tổ chức một cuộc triển lãm giới thiệu đất nước có thể là một phương pháp hữu ích cho các nhà xuất khẩu nước ngoài không quen thuộc với Australia để thử nghiệm sản phẩm của họ ở thị trường này. Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, các nhà nhập khẩu Australia không muốn lãng phí thời gian đến thăm một cuộc triển lãm sản phẩm có giá đắt và không thích hợp với thị trường Australia. Khi lên kế hoạch tổ chức một cuộc triển lãm giới thiệu đất nước, vấn đề quan trọng là phải thực hiện nghiên cứu thị trường trước khi chọn lựa các đơn vị và sản phẩm tham dự triển lãm - Phái đoàn mua hàng, Cách tiếp cận này thường chứng tỏ sẽ thành công bởi người mua sẽ xác nhận đặt hàng cho tới khi họ trực tiếp xem xét kiểm tra các hoạt động của nhà cung cấp và họ có thể sẽ bị cuốn hút vào việc tham quan đất nước nếu họ biết được rằng có một chương trình được chuẩn bị trước cho các cuộc hẹn. Cách tiếp cận này sẽ thành công hơn cả khi được tổ chức tiếp sau một hoạt động xúc tiến thương mại ở Australia - Xây dựng hình ảnh trên thị trường, Ở một thị trường qui mô nhỏ như Australia, công cụ xúc tiến thương mại hữu dụng nhất đối với các nhà xuất khẩu từ một quốc gia cụ thể là thực hiện giao dịch thành công với các nhà nhập khẩu Australia. Ngay khi sản phẩm từ một nước cung cấp mới bắt đầu hiện diện trên thị trường, các nhà nhập khẩu khác sẽ bắt đầu quan tâm hơn đến việc xem xem có cơ hội nào cho họ không. NGA 8.1 Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga NĂM Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại (1000USD) Tổng kim ngạch (1000USD) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng (%) 2008 671,955 26,42 969,571 25,94 -297,616 1,641,526 2009 414,892 16,31 1,414,733 37,83 -999,841 1,829,625 2010 829,355 32,59 999,354 26,71 -169,999 1,828,709 6 tháng đầu năm 2011 628,351 24,68 355,964 9,52 272,387 984,315 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Đồ thị biểu diễn tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nga Đồ thị biểu diễn cán cân thương mại giữa Việt Nam – Nga 8.2 Những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chủ yếu sang thị trường Nga Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Tổng xuất khẩu 671,955 100 414,892 100 829,355 100 628,351 100 Thủy sản 216,391 32.20 87,883 21.18 89,483 10.79 56,935 9.06 Hàng dệt may 95,236 14.17 56,046 13.51 76,155 9.18 45,180 7.19 Gạo 32,142 4.78 37,089 8.94 36,059 4.35 11,775 1.87 Hàng rau quả 38,798 5.77 34,228 8.25 28,812 3.47 16,784 2.67 Giày dép các loại 44,694 6.65 29,432 7.09 48,110 5.80 26,163 4.16 Chè 16,342 2.43 27,356 6.59 27,386 3.30 10,533 1.68 Cà phê 39,706 5.91 22,004 5.30 40,228 4.85 28,519 4.54 Cao su 36,265 5.40 20,830 5.02 51,435 6.20 27,314 4.35 Hạt điều 35,988 5.36 19,788 4.77 38,011 4.58 18,578 2.96 Hạt tiêu 13,362 1.99 12,208 2.94 11,918 1.44 13,083 2.08 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Năm 2008 kim ngạch 2 nước đã đạt 1,641 tỷ USD và xuất khẩu của Việt Nam sang Nga đạt 671,9 triệu USD, tăng 46,57% so với năm 2007. Xuất khẩu thủy sản vào Nga đạt 216,391 triệu USD đứng thứ 4 trong các thị trường xuất khẩu chỉ sau Nhật, Mỹ và Hàn Quốc. Xét về sản phẩm cá basa và cá tra, thị trường Nga chiếm đến 14.4% kim ngạch xuất khẩu chỉ sau EU là 39.2%. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Nga bị dừng lại vào cuối năm 2008 khi Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nga có quyết định tạm ngừng nhập cá tra, basa của các doanh nghiệp Việt Nam kể từ ngày 20/12/2008. Lý do mà phía Nga đưa ra là do các sản phẩm cá tra và basa của Việt Nam không bảo đảm an toàn vệ sinh và bao bì sản phẩm không đảm bảo một số tiêu chuẩn kỹ thuật. Tình hình xuất khẩu gạo trở nên khả quan hơn nhiều. Kim ngạch xuất khẩu từ chỗ tăng trưởng âm thì bây giờ đã thực sự khởi sắc với mức tăng vượt bậc 139,76% so với 2007 đạt 32.142 triệu USD. Bên cạnh đó, so với năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả của nước ta trong năm 2008 đặc biệt tăng mạnh sang một số thị trường trong đó có Nga, tăng 109.58% đạt kim ngạch 38.798 triệu USD. Năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, một số ngành thì vướng phải những rào cản kĩ thuật chưa được tháo gỡ nên kim ngạch xuất khẩu sang Nga bị sụt giảm tương đối lớn đến 38.26% chỉ đạt 414.892 triệu USD về giá trị. Hầu hết các mặt hàng đều giảm giá trị xuất khẩu chỉ có mặt hàng chè và gạo là tăng giá trị xuất khẩu. Đối với ngành gạo, sang năm 2009 KNXK tăng 15,39% so với 2008 đạt 37,089 triệu USD. do sự khan hiếm gạo ở thị trường Nga. Nguyên nhân chính của sự khan hiếm này là do hạn hán trầm trọng xảy ra ở Nga. Đồng thời do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh gây hại nên năm 2009, 2010 sản lượng lúa của các nước Philippines, Brazil, Ấn Độ bị sụt giảm đáng kể. Năm 2010 thì phần lớn hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Nga đều tăng trưởng dương, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những mặt hàng giảm cả về lượng và trị giá như: gạo giảm 3% so với cung kỳ năm 2009, rau quả giảm 18% so với cung kỳ năm 2009 Chiếm kim ngạch cao trong các mặt hàng xuất khẩu sang Nga là thủy sản với kim ngạch đạt 89,48 triệu USD, chiếm 10,79% trong tổng kim ngạch, tăng 2% so với năm 2009. Mặt hàng dệt may năm 2010 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 76,155 triệu USD chiếm 9,18% trong tổng kim ngạch. Cán cân thương mại năm 2010 Việt Nam thâm hụt 169 triệu USD 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu giai đoạn này đạt 628,315 triệu USD, chiếm 24,68% lượng kim ngạch xuất khẩu cả nước sang thi trường này và chiếm 1,49% sang các thi trường khác. Thủy sản vẫn là mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch đạt 56,935 triệu USD, chiếm 9,06%. Riêng mặt hàng gạo xuât khẩu chậm đạt 11,775 triệu USD chiếm 1,87%, đặt biệt hạt tiêu tăng mạnh trong giai đoạn này kim ngạch đạt 13,083 triệu chiếm 2,08%. 8.3 Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa chủ yếu từ thị trường Nga Sản phẩm Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng năm 2011 Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000USD) Tỷ trọng (%) Tổng nhập khẩu 969,571 100 1,414,733 100 999,354 100 355,964 100 Sắt thép các loại 429,774 44.33 778,366 55.02 479,267 47.96 1,896 0.53 Xăng dầu các loại 111,975 11.55 311,094 21.99 172,016 17.21 111,445 31.30 Phân bón các loại 156,197 16.11 110,201 7.79 108,135 10.82 27,962 7.86 Cao su 33,924 3.50 20,879 1.48 24,288 2.43 1,637 0.46 Giấy các loại 3,972 0.41 17,483 1.24 11,700 1.17 726 0.27 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ Công thương Năm 2008 tốc độ giá trị nhập khẩu tăng cao chủ yếu là do tốc độ tăng giá trị sắt thép, phân bón, cao su…cao. Giá trị nhập tăng với tốc độ 75.59% đạt kim ngạch 969.571 triệu USD. Nhập khẩu sắt thép tăng đáng kể với giá trị nhập đạt 429,774 triệu USD tăng 139,68% so với năm 2007. Lượng phân bón nhập về chỉ tăng trong tháng 3 và tháng 4, các tháng còn lại đều giảm mạnh so với cùng kì năm 2007, đặc biệt là trong các tháng cuối năm lượng nhu cầu phân bón giảm. Tuy nhiên giá một số loại phân bón nhập về tăng khá mạnh nên mặc dù lượng có giảm nhưng tốc độ tăng về giá trị vẫn tăng 180.41%. Giá nhập khẩu SA về trong năm nay tăng khá mạnh so với năm 2007, tăng 87,14% đạt 262 USD/tấn. Giá nhập SA nhập khẩu đạt cao nhất là từ tháng 8 đến tháng 10 đạt trên 300 USD/tấn. Cũng trong năm này tốc độ của xăng dầu giảm 31.45% so với cùng kì năm 2007 do giá xăng dầu trên thế giới giảm xuống thấp đạt kim ngạch 111.975 triệu USD. Năm 2009 nguồn nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh với tốc độ 45.91%. Trong cả năm 2009, lượng nhập khẩu sắt thép từ Nga đạt mức kỷ lục 778,366 triệu USD chiếm 55,02% trong tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu từ Nga tăng 81,11% so với năm 2008.. Tổng khối lượng nhập khẩu sắt thép từ thị trường này đạt 1,7 triệu tấn, tăng mạnh 179% so khối lượng nhập mặt hàng này trong năm 2008. Trong số mặt hàng sắt thép nói chung nhập khẩu từ Nga thì phôi thép là mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất (chiếm hơn 35%) trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Việt Nam từ tất cả các thị trường. Tính đến hết năm thì nhập khẩu phôi thép là 807 nghìn tấn, tăng 62% và sắt thép loại khác là 935 nghìn tấn, cao gần gấp 7 lần năm 2008. Thị trường Nga đã vượt qua các thị trường cung cấp phân bón truyền thống của Việt Nam trở thành thị trường cung cấp phân bón lớn thứ 2 của Việt Nam, trong năm qua nhập khẩu phân bón từ thị trường này cũng tăng khá ấn tượng, tăng 14,10% về lượng lên 394,8 ngàn tấn. Tuy nhiên, do giá nhập khẩu đứng ở mức thấp nên mặc dù về lượng tăng mạnh, nhưng do giá phân bón giảm mạnh nên kim ngạch nhập khẩu giảm 29,45%. Năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Nga đạt 999,345 triệu USD, chiếm 1,21 % tổng trị giá nhập khẩu hàng hoá từ các thị trường. Sắt thép các loại là mặt hàng đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu từ Nga đạt 479,267 triệu USD, chiếm 47,96% tổng trị giá nhập khẩu từ Nga, giảm hơn 37 % so với năm 2009. Mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu đứng thứ hai là xăng dầu các loại đạt 172,016 triệu USD, chiếm 17,21% tổng trị giá nhập khẩu, giảm gần 45% so với 2009. Đứng thứ ba về kim ngạch là phân bón các loại đạt 108,135 triệu USD, chiếm 10,82% tổng trị giá nhập khẩu từ Nga, giảm 2% so với năm 2009. tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu đạt 355,964 triệu USD, chiếm 0,72% tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa từ các thị trường. Lượng nhập sắt thép các loại có xu hướng giảm mạnh kim ngạch đạt 1,896 triệu USD, chiếm 0,53% trong tổng các mặt hàng nhập từ Nga. Cán cân thương mại đạt con số dương 272,387 triệu USD. Thuận lợi Liên bang Nga là một thị trường rộng lớn và được đánh giá là thị trường quan trọng của Việt Nam ở khu vực Đông Âu. Có rất nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường này, trước hết là việc hai nước đã có quan hệ truyền thống, am hiểu thị trường cũng như hàng hoá của nhau. Mặt khác, theo đánh giá của các chuyên gia thì khi đã xây dựng được uy tín với thị trường Nga, sẽ mở toang cánh cửa để các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng tiếp cận với các nước Đông Âu, nhất là với vùng Viễn Đông và Siberi. Nhu cầu thị trường Nga luôn ổn định cho dù nhu cầu trên thế giới giảm vì Nga là một thị trường rộng lớn về nhu cầu. Các nhà nhập khẩu Nga trong tháng 9/2010 sẽ sang Việt Nam để khảo sát tình hình các nhà máy chế biến thủy sản sau lần sang gần đây nhất là vào hội chợ Vietfish 2010 tháng 6 năm nay. Đây là cơ hội để các nhà máy chế biến thủy sản, nhất là cá tra, có thêm cơ hội tiếp cận các nhà nhập khẩu Nga. Ngoài ra, hiện có nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam đăng ký tham gia Hội chợ thực phẩm thế giới Moscow 2010 tổ chức tại Nga, diễn ra từ ngày 14 đến 17-9. Đây cũng là cơ hội tốt để giới thiệu sản phẩm thủy sản Việt Nam đến với người tiêu dùng Nga. Trong tương lai, hai nước sẽ thiết lập một khu thương mại tự do tương tự như đối với các nước thành viên thuộc Liên minh Hải quan (gồm Nga, Belarus và Kazakhstan). quy định về an toàn thực phẩm của Liên minh châu Âu. Cục Y dược và thực phẩm Nhật Bản đánh giá cao công tác quản Trong khuôn khổ thỏa thuận thương mại tự do, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận các nguồn nguyên liệu, thiết bị và công nghệ hiện đại của Nga. Đổi lại, Nga có được những hợp đồng ưu đãi khi mua một số mặt hàng chiến lược của Việt Nam. Hiệp định này sẽ đảm bảo quyền lợi cho cả đôi bên. Bộ Công Thương đang thực hiện kế hoạch trung hạn phát triển thương mại - đầu tư sang Nga nhằm xúc tiến xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nga, đồng thời nghiên cứu, phân tích thị trường và định hướng cho các doanh nghiệp trong nước. Riêng đối với hàng dệt may, Nga gần như sử dụng hàng nhập khẩu hoàn toàn, là thị trường tiềm năng cho dệt may Việt Nam Đối với ngành thủy sản: Việt Nam được tự nhiên phú cho nguồn thủy sản rất phong phú đặc biệt là nguồn cá tra, cá basa ở đồng bằng sông Cửu Long. Tính đến nay ở đồng bằng sông Cửu Long đã có trên 6.000 hécta nuôi cá tra, ba sa tập trung với sản lượng đạt gần 1 triệu tấn. Theo đánh giá của các DN trong ngành thủy sản, thị trường Nga là một thị trường tiêu thụ tương đối dễ chịu, không yêu cầu cao về thành phần, không quá cầu kỳ về quy cách, mẫu mã... nên các doanh nghiệp Việt Nam dễ chế biến. Thuỷ sản Việt Nam vừa qua đã được một số nước công nhận, đánh giá cao về chất lượng. Cuối năm 2009, bộ Y tế và tiêu dùng Tây Ban Nha đã ra thông báo công nhận cá tra, cá basa xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng các lý và kiểm soát về an toàn vệ sinh thủy sản của Việt Nam. Dự kiến Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam tại Nga sẽ chính thức đi vào hoạt động vào năm 2011. Trung tâm này sẽ cách thủ đô Moscow khoảng 70-80 km,Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam tại Nga sẽ tạo những lợi thế đáng kể giúp đưa hàng hóa Việt Nam vào Nga. Trước đây Nga sử dụng rất nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên sau này Nga cũng đã nới lỏng các hạn chế và cho phép 9 công ty kinh doanh thịt và 30 doanh nghiệp thủy hải sản của VN được xuất khẩu vào Nga Xuất khẩu thủy sản ( cá tra ) thuận lợi nhờ thời tiết, mùa đông ở châu Âu năm nay khắc nghiệt cùng với quy định về truy xuất nguồn gốc thủy sản đánh bắt của thị trường này, khiến nguồn cung giảm mạnh. Đây là cơ hội thuận lợi để ta xuất khẩu hàng đi Khó khăn Do tập quán kinh doanh, thói quen cũng như độ tin cậy lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hai bên nên khâu thanh toán với doanh nghiệp Nga rất khó. Cơ chế thanh toán bằng tín dụng thư ít phổ biến, tỷ lệ thanh toán qua L/C còn thấp. Nga lại sử dụng nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan để điều tiết xuất nhập khẩu. Trong khi đó khó dự báo trước tình hình thay đổi về chính sách của Nga như các lệnh hạn chế và cấm nhập khẩu hàng hóa, nhất là đối nông sản, thủy hải sản và thịt đông lạnh, trong khi các văn bản thi hành luật quy định rất chặt và kỹ. Mặc dù Nga được đánh giá là thị trường mở, thông thoáng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi vậy hàng hóa thâm nhập vào thị trường này phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Hơn nữa, hầu hết hàng hóa tại Nga đều đã có kênh lưu chuyển ổn định, do vậy doanh nghiệp VN sẽ rất khó chen chân nếu không thật sự quyết tâm. Đối với thủy sản: Nga vẫn chỉ cho nhập khẩu theo hạn ngạch và cũng được theo dõi rất gắt gao. Kể từ ngày 1-10-2010, sẽ xuất hiện rào cản mới với ngành chủ lực Việt nam nghĩa là tất cả các mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Nga sẽ bị áp dụng Quy định vệ sinh dịch tễ và các tiêu chuẩn khác. Ở thị trường Nga, nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với những khó khăn mới. Các nhà nhập khẩu ở Nga đang áp dụng chính sách giảm tỷ lệ mạ băng (lớp đá lạnh dùng để ướp cá) trong thủy sản nhập khẩu từ 20% xuống còn 10%. Do trọng lượng giảm, doanh nghiệp buộc phải tăng giá bán sản phẩm nhưng không được những nhà nhập khẩu chấp nhận. Chỉ có các công ty và tàu cá được VPSS công nhận mới được phép xuất khẩu thuỷ sản vào nước này.Từ năm 2006, Nga đã áp dụng các quy định nghiêm ngặt, theo đó VPSS kiểm tra trực tiếp đối với sản phẩm thuỷ sản và các doanh nghiệp (DN) chỉ được phép xuất khẩu vào thị trường này dựa trên công suất thực tế của nhà máy, tức là không được phép đưa sản phẩm làm gia công ở các cơ sở chế biến bên ngoài. Chặt chẽ hơn, trước khi hàng xuất vào thị trường Nga phải được cơ quan chuyên ngành Việt Nam cấp chứng thư điều kiện xuất khẩu, chứng thư này sau đó được VPSS kiểm định lại. Giải pháp Để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa Việt Nam ở thị trường Nga, các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm và tìm cách tiếp cận mới. Doanh nghiệp giữ cách tiếp cận theo kiểu cũ sẽ không hiệu quả vì nhu cầu của thị trường Nga bây giờ đã khác trước. Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khóa của Chính phủ. Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng Giữ vững và củng cố các thị trường trọng điểm. Theo các chuyên gia kinh tế, các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản về lâu về dài vẫn là những thị trường tiềm năng nhất mà các DN VN nên duy trì và phát triển, đặc biệt là thị trường Mỹ, một trong những thị trường được xem là "rốn" XK hàng hóa của VN. Do đó, DN cần tăng cường công tác tìm kiếm thị trường, nắm bắt và tổ chức tốt các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với các bạn hàng NK, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để có hiểu biết kịp thời về bạn hàng và thị trường XK của mình. Tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ sản xuất nông lâm thủy sản, trước hết là việc tiêu thụ nông sản cho một số ngành có lượng hàng hóa lớn và sản xuất tập trung như như lúa gạo, thủy sản và một số nông sản khác nhằm duy trì sản xuất ổn định thu nhập và việc làm cho nông dân. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu Chính sách tỷ giá: Trong thời gian qua, Chính phủ đã điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tích cực: mở rộng biên độ dao động lên ± 5% và cho phép tỷ giá VND/USD biến động theo hướng phù hợp với thực trạng cung, cầu ngoại hối trên thị trường. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục điều chỉnh phá giá dần dần tiền đồng, tránh gây sốc, nhưng bảo đảm theo khuynh hướng tăng/giảm giá trị của đồng USD trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ giá cần cân nhắc theo một giỏ tiền tệ các ngoại tệ mạnh, tự do chuyển đổi (USD, EUR, JPY, GBP) theo tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước/khối nước liên quan. Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Nguồn kinh phí của gói kích cầu 1 tỉ USD cần được sử dụng đúng nơi, đúng chỗ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ví dụ, chỉ tài trợ cho các khoản tín dụng liên quan trực tiếp tới xuất khẩu: Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu chiết khấu các loại hối phiếu thanh toán trả chậm, hoặc cấp tín dụng ngay cho các doanh nghiệp có thể chứng minh đã hoàn thành việc giao hàng và đang làm thủ tục thanh toán trên cơ sở bảo đảm thanh toán bằng chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hóa cho ngân hàng. Chính phủ có thể bảo lãnh các khoản thanh toán này. Chính sách hỗ trợ chi phí xuất khẩu: Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giảm các loại chi phí liên quan tới xuất khẩu như chi phí tại cảng biển, sân bay và chi phí vận tải; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu (có thể tài trợ chi phí cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu để thực hiện các thủ tục này được thuận tiện, thông qua bộ máy hành chính nhà nước phục vụ xuất khẩu như thuế, hải quan). Đa dạng hóa cơ cấu thị trường xuất - nhập khẩu: Cơ cấu thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta cho thấy, thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam tập trung cao độ vào một số thị trường trọng điểm đang chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới. Do vậy, cần huy ñộng các cơ quan ngoại giao và mạng lưới doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới để phát triển, mở rộng thị trường mới như Trung Đông, châu Phi, châu Đại Dương và Mỹ La-tinh, đồng thời khôi phục lại những thị trường cũ như Đông Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập... Cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu: Việc cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu mới. Hàng hóa nhập khẩu cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng giảm tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu thành phẩm, tăng tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu thô. Khai thác thị trường trong nước: Cần khai thác tối đa thị trường trong nước để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào các thị trường nguyên, nhiên, vật liệu đối với các nước trong khu vực. Nghiên cứu, điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất trong nước thông qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là dệt may, giày dép, thiết bị điện tử đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, cần nỗ lực khai thác thị trường nội địa để duy trì quy mô hoạt động trong thời kỳ khó khăn, đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp phần cân bằng cán cân thương mại, nhất là hỗ trợ cho các nhà sản xuất lúc thị trường xuất khẩu có biến động xấu. Chính sách thưởng xuất khẩu và giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Có cơ chế thưởng xuất khẩu xứng đáng, đồng thời giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các chính sách tài khóa khác: Để giảm tác động tiêu cực của suy giảm sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề công ăn việc làm và thu nhập cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ cần nghiên cứu chế độ trợ cấp thất nghiệp cho công nhân của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu bị mất việc làm, song song với các biện pháp hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho công nhân mất việc trên cả nước nhằm tránh vòng xoáy suy thoái kinh tế - thất nghiệp, không có thu nhập, giảm tiêu dùng, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân dẫn tới thất nghiệp trầm trọng hơn. Chính sách tiền tệ: Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khóa của Chính phủ. Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng Các giải pháp khác: Ở thời điểm hiện nay, các DN nên tiếp tục thúc đẩy hoạt động XK các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao tại các thị trường truyền thống gắn liền với việc mở rộng, đa dạng hóa thị trường XK. Không nên phụ thuộc vào một thị trường Hàng hóa của các DN đã XK đến hơn 200 nước trên thế giới nhưng trên 80% giá trị hàng hóa tập trung tại Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản... nên trước mắt, DN vẫn nên chú trọng và duy trì kim ngạch XK đối với các thị trường này. Nhưng để tránh phụ thuộc về lâu dài, các DN cần chủ động nghiên cứu, mở rộng đến các thị trường mới như: Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ.. Giữ vững và củng cố các thị trường trọng điểm. Theo các chuyên gia kinh tế, các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản về lâu về dài vẫn là những thị trường tiềm năng nhất mà các DN VN nên duy trì và phát triển, đặc biệt là thị trường Mỹ, một trong những thị trường được xem là "rốn" XK hàng hóa của VN. Do đó, DN cần tăng cường công tác tìm kiếm thị trường, nắm bắt và tổ chức tốt các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với các bạn hàng NK, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để có hiểu biết kịp thời về bạn hàng và thị trường XK của mình. Hiện Mỹ đã và đang chuẩn bị ban hành một số điều luật như: Đạo luật Farm Bill, Luật Lacey sẽ ảnh hưởng đến một số mặt hàng XK của VN như hàng thuỷ sản, đồ gỗ... Do đó, DN cần tiếp xúc nhiều hơn nữa với cơ quan tham vấn để hiểu rõ về những quy định mới. Tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ sản xuất nông lâm thủy sản, trước hết là việc tiêu thụ nông sản cho một số ngành có lượng hàng hóa lớn và sản xuất tập trung như như lúa gạo, thủy sản và một số nông sản khác nhằm duy trì sản xuất ổn định thu nhập và việc làm cho nông dân. Khẩn trương tiêu thụ một số ngành hàng có lượng hàng hoá lớn và sản xuất tập trung như lúa, gạo, thuỷ sản Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường XK sang các khu vực ít bị tác động của khủng hoảng Thúc đẩy sớm việc ký kết các hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN với Ấn Độ Khai thác tối đa thị trường Nhật Bản Điều hành linh hoạt hoạt động buôn bán biên mậu. Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn cho doanh nghiệp. Linh hoạt trong điều hành thuế suất thuế XK và thuế NK theo hướng hỗ trợ cho sản xuất trong nước và triển khai đề án thí điểm “ Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu”, trình Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt KẾT LUẬN Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2008 – 6 tháng đầu năm 2011 có bước phát triển mạnh mẽ, đặt biệt sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009, Việt Nam đã vượt qua các khó khăn do nền kinh tế thị trường mang lại từ đó đã đề ra giải pháp và định hướng làm tăng mức kim ngạch vào năm 2010 kéo dài đến năm 2011 và trong tương lai sẽ phát triển vượt bật, kim ngạch đạt được trong thời gian qua chủ yếu từ các thị trường truyền thống chủ chốt, nhà nước cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu một mặt để giảm bớt sức cạnh tranh hàng hóa ở các thị trường cũ, mặt khác để da dạng hóa thi trường tạo sức hấp dẫn đưa “ hàng Việt Nam có mặt ở khắp mọi lãnh thổ trên thế giới ”. Nhà nước luôn khuyến khích hỗ trợ cho xuất khẩu song nguồn lực của nhà nước không phải là vô hạn do đó các doanh nghiệp cần phải nỗ lực, cố gắng trong hoạt động xuất khẩu của công ty mình bằng cách tận dụng những lợi thế mình có và liên kết với các doanh nghiệp khác để khắc phục những hạn chế, những điểm yếu của bản thân doanh nghiệp. Với những thành tựu mà VN đã đạt được như việc trở thành thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập WTO, Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU), ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương với nhiều thị trường lớn đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những cơ hội to lớn cũng như những thách thức khó khăn. Các doanh nghiệp cần phải biết “sáng suốt” tận dụng triệt để những cơ hội để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO & GS.TS Võ Thanh Thu _Ths Ngô Thị Hải Xuân, 2006, Kinh tế và phân tích hoạt động kinh doanh thương mại, NXB Lao động – Xã hội www.gso.gov.vn _ Tổng cục thống kê Việt Nam www.moit.gov.vn _Bộ Công thương Việt Nam www.customs.gov.vn _ Tổng cục Hải quan Việt Nam www.ttnn.com.vn _ Cổng thông tin thị trường nước ngoài www.ngoaithuong.vn _ Cổng thông tin xuất khẩu Việt Nam www.vcci.com.vn _ Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam www.vinanet.com.vn _ Trang thông tin thị trường hàng hóa www.vietrade.gov.vn _ Cục xúc tiến thương mại www.khuyennongvn.gov.vn www.chinhphu.vn www.xttm.agroviet.gov.vn www.thuongmai.vn www.thongtinthuongmaivietnam.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphan_tich_cac_thi_truong_xuat_khau_chu_luc_cua_viet_nam_71.doc
Tài liệu liên quan