Lãi suất là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất một cách hợp lý nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại một cơ chế lãi suất không hợp lý sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế , gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã có những thành công nhất định cải cách về chính sách lãi suất trong thời gian qua. Song phải chăng lãi suất ở Việt nam đã thực sự linh họa, mềm dẻo và biến động phù hợp với nền kinh tế. Trên thực tế lãi suất ở Việt nam vẫn chỉ là lãi suất ngân hàng, do ngân hàng trung ương xác định và áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chúng ta vẫn chưa thực sự có lãi suất thị trường, chưa cho phép lãi suất được xác định trên cơ sở thị trường. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta phải cho phép tự do hóa lãi suất. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng như trong khu vực cho thấy đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải lựa chọn bước đi đúng đắn của mỗi quốc gia.
Chính tính chất quan trọng của lãi suất mà ngân hàng Nhà nước Việt nam đã nhiều lần điều chỉnh chính sách lãi suất của mình cho phù hợp với nhu cầu phát triển nền kinh tế. Vượt qua những khó khăn ban đầu trong việc điều chỉnh lãi suất đến nay Việt nam đã lựa chọn cho mình một chính sách lãi suất dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản. Có thể nói chính sách lãi suất cơ bản là một bước đi dài trong công cuộc đổi mới ở nước ta và đây chính là một chính sách hết sức linh hoạt từ trước tới nay.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4638 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường và liên hệ với lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sau năm 2008 biến động và leo thang chưa từng có trong lịch sử, năm 2009, lãi suất huy động và cho vay VND cùng ổn định, theo sự ổn định của lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt đầu bộc lộ từ giữa năm. Từ tháng 7 đến tháng 11, các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất huy động VND, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn. Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến 10,5%/năm. Khái niệm “đường cong lãi suất” bị xóa nhòa khi nhiều thành viên áp thống nhất một mức cao cho hầu hết các kỳ hạn. Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ 1/12, các ngân hàng thương mại đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành viên có tới 10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián tiếp). Với diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các thành viên đồng loạt áp tối đa ở mức 10,49%/năm.
Diễn biến lãi suất căng thẳng trong nửa cuối năm 2009 một phần phản ánh khó khăn thanh khoản của hệ thống. Điều này dẫn đến một hệ quả ít thấy là tỷ lệ lãi biên của các ngân hàng giảm rất mạnh; nếu trong năm 2008 chênh lệch lãi suất động và cho vay đạt khoảng 3,7%, thì năm 2009 chỉ xoay quanh 1% (đối với cho vay sản xuất kinh doanh).
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động.
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.
Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
b/ Lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước
Lãi suất cơ bản prime rate, còn gọi là prime được các ngân hàng thương mại tầm cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế công bố và áp dụng đối với các khoản nợ dành cho các doanh nghiệp là khách hàng lớn. Tuy nhiên ở Việt nam thì lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà nước quy định. Dù các ngân hàng không nhất thiết thu lãi đúng như mức công bố, thường thì thu cao hơn và đôi khi thấp hơn, lãi suất cơ bản được xem là cơ sở để các mức lãi khác tham khảo áp dụng hoặc dựa vào đó để điều chỉnh. Vì nhiều lý do ảnh hưởng khác nhau, khi một lãi suất cơ bản tăng lên nhìn chung giá cả chứng khoán được xem là bất lợi. Có thể nhiều người nghĩ rằng lãi suất cơ bản chỉ quan trọng đối với các doanh nghiệp lớn, bởi khi các "đại gia" đi vay họ luôn quan tâm đặc biệt tới mức lãi "ưu đãi số một" này, thật ra, sự chuyển biến của lãi suất cơ bản còn có ảnh hưởng trực tiếp đối với từng nhà đầu tư.
Trước tiên, lãi suất này là yếu tố quyết định mức lãi mà nhà đầu tư phải trả nếu giả định họ phải mua chứng khoán bằng tiền đi vay, theo hình thức tài khoản bảo chứng margin. Khi lãi suất cơ bản tăng, lãi suất áp dụng trên tiền huy động sẽ tăng theo, do vậy chi phí mua giữ chứng khoán hoặc duy trì một vị thế đầu tư trong thị trường chứng khoán cost of carry hay carrying charges sẽ cao, người đầu tư dễ rơi vào tình huống rủi ro. Ngược lại, một sự cắt giảm lãi suất cơ bản sẽ làm giảm chi phí mua giữ chứng khoán đối với các khoản tiền huy động, điều này lại khuyến khích người đầu tư mua nhiều chứng khoán hơn, làm lượng cầu tăng, và hẳn là giá chứng khoán cũng tăng. Ta thấy đó, cả hai đằng có thể đều là bất lợi!
Kế đó là, các sự thay đổi về lãi suất cơ bản là dấu hiệu quan yếu cho những thay đổi đang hoặc có thể xảy ra đối với các loại lãi suất khác. Chẳng hạn các tổ chức cho vay thường nâng lãi suất cơ bản lên để bù đắp sự gia tăng của chính chi phí tạo lập các nguồn vốn của họ, hoặc cũng có nghĩa là để đáp ứng sự cạnh tranh trong nhu cầu vay nợ của khách hàng. Như vậy, một sự gia tăng lãi suất cơ bản có thể là dấu hiệu của một trào lưu đói vốn. Ngoài ra, các khoản cho vay khi bị thu hẹp có thể gây áp lực làm tăng mặt bằng các lãi suất nói chung.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2009. Thông tư được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính
Lãi suất cơ bản được xem là một loại lãi suất tham khảo quan trọng trong thị trường. Nhìn chung nó thay đổi chậm hơn hầu hết các lãi suất khác, do nó nằm trong tầm kiểm soát của các tổ chức cho vay. Nếu lãi suất huy động nóng federal funds rate có thể biến động lớn trong thời gian rất ngắn, thì lãi suất cơ bản được duy trì ở mức tương đối ổn định lâu hơn và nếu có biến động, nó sẽ diễn biến theo những nấc nhỏ 1/4%. Cũng cần xác định rằng lãi suất cơ bản là loại lãi suất ngắn hạn, nó có thể so sánh với loại lãi suất của các trái khoản kho bạc ngắn hạn của nhà nước T- bills. Và như một tất yếu, lãi suất cơ bản thường thường thấp hơn các lãi suất được trả cho trái phiếu công ty. Tuy nhiên, ta nên lưu ý thêm rằng, một sự gia tăng của loại lãi suất này sẽ luôn luôn còn là tin đáng buồn cho thị trường trái phiếu.
LÃI SUẤT CƠ BẢN
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
7%
626/QĐ-NHNN ngày 24/3/2009
01/04/2009
7%
1250/QĐ-NHNN ngày 22/5/2009
01/06/2009
7%
1539/QĐ-NHNN ngày 30/6/2009
01/07/2009
7%
1811/QĐ-NHNN ngày 30/7/2009
01/08/2009
7%
2024/QĐ-NHNN ngày 26/8/2009
01/09/2009
7%
2459/QĐ-NHNN ngày 28/10/2009
01/11/2009
8%/năm
2665/QĐ-NHNN 25/11/2009
01/12/2009
7%
2459/QĐ-NHNN 28/10/2009
01/11/2009
7,0%/năm
2232/QĐ-NHNN
01/10/2009
7%
2024/QĐ-NHNN 26/8/2009
01/09/2009
7%
1811/QĐ-NHNN 30/7/2009
01/08/2009
7%
1539/QĐ-NHNN 30/6/2009
01/07/2009
7%
1250/QĐ-NHNN 22/5/2009
01/06/2009
7%
1015/QĐ-NHNN 29/4/2009
01/05/2009
7%
626/QĐ-NHNN 24/03/2009
01/04/2009
7,0%
172/QĐ-NHNN 23/1/2009
01/02/2009
8.5%/năm
3161/QĐ-NHNN 19/12/2008
22/12/2008
10,0%/năm
2948/QĐ-NHNN 03/12/2008
05/12/2008
11%
2809/QĐ-NHNN
21/11/2008
11%/năm
2808/QĐ-NHNN 20/11/2008
21/11/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN 3/11/2008
05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN 20/10/2008
21/10/2008
14.00%/năm
2131/QĐ-NHNN 25/09/2008
01/10/2008
14%/năm
1906/QĐ-NHNN 29/8/2008
01/09/2008
14%/năm
1434/QĐ-NHNN 26/6/2008
01/07/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN 10/6/2008
11/06/2008
12,00%
1257/QĐ-NHNN 30/5/2008
01/06/2008
12%
1099/QĐ-NHNN 16/5/2008
19/05/2008
8.75
978/QĐ-NHNN 29/4/2008
01/05/2008
8.75%
689/QĐ-NHNN 31/03/2008
01/04/2008
8.75%
479/QĐ-NHNN 29/2/2008
01/03/2008
8.75%
305/QĐ-NHNN 30/1/2008
01/02/2008
8.25%/năm
3096/QĐ-NHNN
01/01/2008
Năm 2008, việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử. Đó là 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi Năm 2008, việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử. Đó là 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc; 3 lần nới biên độ tỷ giá, 2 lần tăng mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Xét về tần suất điều chỉnh đó, năm 2009 chính sách tiền tệ có sự ổn định hơn.Cụ thể, trong năm Ngân hàng Nhà nước chỉ một lần giảm lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7%/năm và duy trì đến hết tháng 11 để rồi tăng trở lại 8% từ 1/12 đến nay. Riêng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu có 3 lần điều chỉnh, 2 lần giảm trong tháng 1 và 4, 1 lần tăng đầu tháng 12. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần điều chỉnh giảm từ tháng 3. Biên độ tỷ giá có 2 lần điều chỉnh, lần nới rộng từ +/-3% lên +/-5% từ 24/3 và thu hẹp lại từ +/-5% xuống +/-3% từ ngày 26/11. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ghi nhận một lần điều chỉnh trực tiếp, tăng mạnh 5% trong ngày 26/11, lên +/-5% từ 24/3 và thu hẹp lại từ +/-5% xuống +/-3% từ ngày 26/11. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ghi nhận một lần điều chỉnh trực tiếp, tăng mạnh 5% trong ngày 26/11.`
c/ Lãi suất trái phiếu chính phủ
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Và đặc điểm của trái phiếu thông thường có ba đặc điểm chính:
- Mệnh giá
- Lãi suất định kỳ
- Kỳ hạn
Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tưPhát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Những phân tích ở trên có thể cũng khá đủ để giúp cho chúng ta biết lãi suất được điều hành và có những nội dung như thế nào trong quá trình chúng giữ vai trò đo lường, tính toán chi phí đầu tư giao dịch, giải quyết những tình huống cung cầu của thị trường, làm căn cứ tham khảo, xem xét hiệu quả, .... Như vậy nếu có một thông tin về quyết định tăng hay giảm lãi suất của một nước, để làm nguội bớt hay khuyến khích tăng trưởng một không gian kinh tế. ta có thể xác định được ngay đó là loại lãi suất nào ? Và chúng ta thử ghi nhận để tham khảo thêm một ý sau: nếu không có một thị trường tiền tệ thì sẽ không có các lãi suất thị trường. Mà lãi suất thị trường chính là năng lượng, hay có thể nói là chất men, kích hoạt thị trường trái phiếu. Không có các lãi suất nhạy cảm đó thì khó có một thị trường mua bán trái phiếu hữu hiệu.
Nguyên nhân chính gây diễn biến lãi suất phức tạp trên thị trường tiền tệ trong 3 tháng đầu năm 2008 được chỉ ra là do nhiều ngân ngân hàng chấp hành đúng các tỉ lệ an toàn trong hoạt động, sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng với kỳ hạn ngắn để cho vay khách hàng, gặp rủi ro kỳ hạn khi thiếu hụt vốn khả dụng không thu hồi được nợ để bù đắp. Trong dư nợ tín dụng của một số ngân hàng có trên 50% là sử dụng vốn vay từ liên ngân hàng . Khi thiếu vốn khả dụng, các ngân hàng này phải chấp nhận vay với mức lãi suất cực cao để có vốn, hành động này "châm ngòi" cho cuộc đua tăng lãi suất lan rộng toàn hệ thống.
Một nguyên nhân nữa là các ngân hàng thương mại không chú ý đúng mức đến việc chuyển dịch cơ cấu tài sản theo hướng lành mạnh hóa bảng tổng kết tài sản bằng cách tăng tỉ trọng đầu tư vào các giấy tờ có giá do ngân hàng nhà nước, Chính phủ phát hành-là những tài sản có độ rủi ro thấp và khi cần thiết có thể giao dịch trên thị trường mở để tìm nguồn vốn hỗ trợ thanh khoản.
Diễn biến lãi suất trái chiều, nhiều khi không thuận chiều cả với cung-cầu vốn cũng thể hiện thái độ và khả năng liên kết hệ thống của các ngân hàng thương mại Việt nam để hỗ trợ nhau đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu.
Xu hướng biến động của lãi suất trái phiếu Chính phủ trên thị trường Việt Nam. Từ đầu năm 2009 đến nay, Kho bạc Nhà nước đã gặp nhiều khó khăn trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam. Nguyên nhân là do thiện chí và khả năng tham gia vào thị trường sơ cấp của các nhà đầu tư đã giảm đáng kể bởi tính thanh khoản thị trường bị thắt chặt (kết quả từ việc phục hồi hoạt động cho vay mạnh mẽ của các ngân hàng) và lãi suất chung cuộc tại các phiên đấu giá đã xuống thấp dưới mức thị trường thứ cấp.
Ngoài việc giảm lượng phát hành tại thị trường sơ cấp, một số đợt phát hành đã đến kỳ đáo hạn trong năm vừa qua. Thực tế, quy mô của các đợt phát hành trái phiếu và tín phiếu Chính phủ bằng đồng việt Nam đã giảm từ 123,7 nghìn tỷ xuống 100,4 nghìn tỷ kể từ đầu năm 2009.
Do đó nhân tố cung là nguyên nhân gây nên quan ngại về nhu cầu vốn của Chính phủ nhằm tài trợ cho chương trình kích cầu trị giá 8 tỷ USD, đã chuyển biến ngược lại, gây nên xu hướng tăng trên thị trường lãi suất trong nước.
Do thiếu sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài (xuất phát bởi những quan ngại xung quanh vấn đề đồng nội tệ và thiếu dòng tiền hai chiều trên thị trường), thị trường lãi suất trong nước sẽ tiếp tục bị chi phối bởi các nhân tố nội tại. Những động lực trong nước vẫn chỉ ra xu hướng đi lên của lãi suất trái phiếu Chính phủ.
Trong khi đó, thị trường sơ cấp vẫn có sức hút đối với các ngân hàng, đồng thời lãi suất sẽ vẫn giữ nguyên nếu như kho bạc Nhà nước tiếp tục đưa ra lãi suất chung cuộc (SOR) thấp hơn mức thị trường thứ cấp, bất chấp sự tăng lên gần đây của lãi suất tín phiếu kho bạc Nhà nước kỳ hạn 364 ngày từ 8,4% lên 9%.
Thực tế, Chính phủ vẫn tập trung vào tăng trưởng kinh tế bằng việc giữ lãi suất chung cuộc ở mức thấp nhằm tránh việc rót thêm vốn cho phục hồi trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, các đợt phát hành trên thị trường sơ cấp giảm đi sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới tính thanh khoản của thị trường sơ cấp và khiến nhà đầu tư phải ngần ngại tham gia đầu tư dài hạn.
Đồng thời, với sự hỗ trợ tài chính từ các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế (như khoản vay 1 tỷ USD mới đây từ Ngân hàng Thế giới và Nhật Bản), nhu cầu Chính phủ về khai thác thị trường vốn trong nước sẽ bị giảm đi. Do đó, nhu cầu điều chỉnh thị trường để đạt mức lãi suất chung cuộc cao hơn sẽ bị hạn chế, ít nhất là trong trung và ngắn hạn.
Thêm vào đó, giá cả dường như đang tăng trở lại với lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 10 công bố ở mức 3,0% so với cùng kỳ năm trước (và so với mức 2,4% trong tháng 9). Điều này sẽ làm giảm hơn nữa sự hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh thiếu những biện pháp bảo hộ chống lại lạm phát bởi các sản phẩm trái phiếu.
Chương II
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT
2.1.Ảnh hưởng cung cầu của quỹ cho vay
Trước hết chúng ta tìm hiểu qua về khái niệm cung tiền tệ là gì và cầu tiền tệ là gì để từ đó phân tích ảnh hưởng của chúng tới lãi suất.
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng công với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn M2. M2 bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài kim khí , tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc. Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ là do Chính phủ quyết định, bởi vì hạn chế mức cung tiền tệ là điểu cần thiết để tiền có giá trị .
Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân , đơn vị , tổ chức để làm phương tiện giao dịch , trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ….
Đường thẳng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền tệ ở một lượng nhất định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất. Khi dân chúng ( các hộ gia đình và các hàng kinh doanh ) muốn giữ lượng tiền M1 khác nhau ở những mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn. Điểm giao giữa cung và cầu tiền tệ trên đồ thị xác định mức lãi suất cân bằng. Đây là mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do ngân hàng trung ương đề ra làm mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng muốn nắm giữ. Từ điều này cho thấy ngân hàng trung ương có thể tác động cung và cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ.
Và vì lãi suất là giá cả của tín dụng nên bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường.
Khi chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ: ngân hàng trung ương muốn kiềm chế lạm phát sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ của nó.Thay đổi mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiết khấu, giảm hạn mức tín dụng, cung tiền tệ sẽ giảm đi đường S sẽ dịch chuyển sang trái thành S’ lãi suất tăng. Khi lãi suất tăng mức đầu tư sẽ giảm, cầu tiền tệ giảm , các nhà doanh nghiệp và các hộ gia đình cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ, đường D dịch chuyển sang trái tạo thành D’. Giao điểm giữa D’ và S’ tạo thành một điểm cân bằng lãi suất mới.
Khi chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ: ngân hàng trung ương lo sợ sắp có suy thoái sẽ tăng mức cung tiền tệ bằng cách bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn lãi suất giảm xuống. Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư dự án mới có lợi hơn, số tiền chi tiêu về nhà máy , thiết bị, kho hàng tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng mua nhiều hàng hơn….Vốn đầu tư tăng, tổng mức cầu tiền tệ tăng lên , dịch chuyển đường D sang phải tao ra thăng bằng mới cho lãi suất trên thị trường.
Ngoài ra những thay đổi dự định trong cầu tiền tệ (không phải do sự thay đổi trong mức giá cả , tổng sản phẩm, hoặc lãi suất gây ra) cũng ảnh hưởng đến lãi suất cân bằng. Nghiên cứu nhân tố cung cầu tiền tệ tác động qua lại đến lãi suất có một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ . Khi nào thì ngân hàng trung ương bơm tiển ra lưu thông, khi nào thì rút tiền về để điều chỉnh lãi suất thị trường một cách hợp lý, trên cơ sở đó ổn định thị trường , thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, giảm lạm phát. Và muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
2.2.Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất có xu hướng tăng. Giải thích điều này như sau: nếu nhìn từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất không thay đổi, tỷ lệ lạm phát tăng khi đó lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Nếu lạm phát tăng công chúng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hóa hoặc những dạng thức phi tài chính khác . Tất cả những điều này làm giảm cung tiền tệ và gây áp lực tăng lãi suất của các ngân hàng cũng như trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất. Tóm lại khi lạm phát dự tính tăng , lãi suất tăng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng. Trên cơ sở đó có một chính sách lãi suất hợp lý, khi lạm phát cao nhà nước cần phải nâng lãi suất danh nghĩa đảm bảo cho lãi suất thực dương.
Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Khi trung ương và địa phương bội chi ngân sách nhà nước sẽ trực tiếp làm cho cầu tiền tệ tăng lên làm cho tăng lãi suất. Sau nữa, việc bội chi ngân sách nhà nước sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng lạm phát và do đó mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Nhìn ở góc độ khác khi bội chi ngân sách nhà nước tăng lên thì thường Chính phủ gia tăng việc phát hành trái phiếu. Lượng trái phiếu tăng lên sẽ có xu hướng làm giảm giá trái phiếu. Lãi suất thị trường theo đó mà tăng lên.
2.3.Tác động của sự thay đổi về thuế
Mục tiêu của nền kinh tế phát triển là:
Tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân
Đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp
Đảm bảo giá cả ổn định trong điều kiện thị trường tự do hoạt động.
Để đạt được mục tiêu trên nhà nước phải sử dụng các công cụ bằng các chính sách khác nhau. Một trong những chính sách tài chính là tác động của thuế. Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn tác động đến lãi suất. Nếu các hình thức thuế này tăng lên có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của cá nhân hay tổ chức cung cấp dịch vụ. Do vậy để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Điều quan trọng được rút ra từ mối quan hệ này là xác lập và điểu chỉnh đối với chính sách thuế nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn của mỗi thay đổi nói trên của thuế.
Khi nhà nước thực hiện chính sách tăng chi tiêu, giảm thuế sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất. Ngoài ra thuế còn tác động trực tiếp mức sản lượng tiềm năng. Chẳng hạn như việc giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu tư vào máy móc, nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển sang bên phải, lãi suất tăng lên.
2.4.Những thay đổi trong đời sống xã hội
Đời sống xã hội thay đổi cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất. Điển hình là sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng và phong phú. Các công cụ này không chỉ khác nhau ỏ thời gian , phương pháp tính, giá cả mà cả về sự co giãn của giá cả theo lượng cầu của chúng. Khi cơ cấu chứng khoán thay đổi hay sự xuất hiện của các chứng khoán mới và sự phát triển cả về chiều rộng hay chiều sâu cũng đều tác động đến lãi suất. Ngoài ra chính trị, tình hình kinh tế cũng ít nhiều tác động đến lãi suất . Như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới hay các luồng vốn đầu tư ra, vào các nước. Tất cả những vấn đề trên đều phải đưa ra phân tích nghiên cứu một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất.
Chương III
XU HƯỚNG VÀ YÊU CẦU CẢI CÁCH
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
1. Khái quát các vấn đề về lãi suất ở Việt nam.
a/ Giai đoạn trước năm 1988-1989
Đặc trưng của lãi suất ở Việt nam giai đoạn trước khi thực hiện cải cách nền kinh tế, hệ thống ngân hàng như sau:
- Lãi suất được quy định bởi nhà nước một cách cứng nhắc, với mục đích phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh là chính.
- Lãi suất trần thấp (có khi âm) và cố định
- Lãi suất cho vay ngân hàng lại nhỏ hơn lãi suất tiền gửi ( lãi suất đầu ra nhỏ hơn lãi suất đầu vào)
- Lãi suất dài hạn nhỏ hơn lãi suất ngắn hạn.
Lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ cung và cầu tiền tệ trên thị trường quyết định. Trong các nước như vậy lãi suất trở thành một trong những chỉ tiêu quan trọng được quan tâm, theo dõi một cách chặt chẽ. Trái lại giai đoạn này, nước ta lại theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế, nền kinh tế được tổ chức theo cơ chế hóa tập trung. Khi đó vai trò của lãi suất không được nhìn nhận một cách đúng đắn, lãi suất mang nặng tính chất bao cấp về tài chính trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh. Hậu quả đối nước ta là những mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu vốn đầu tư. Thị trường tài chính bị chia cắt manh mún không thể kiểm soát nổi, rủi ro nhiều nên không thể góp phần phát triển kinh tế. Thêm nữa không thể kiểm soát được lạm phát và sự biến động của thị trường hối đoái, thiếu vốn một cách trầm trọng. Lạm phát đã không được thừa nhận đến khi phải thừa nhận thì lạm phát đã ở mức phi mã. Doanh nghiệp rơi vào tình trạng trì trệ, trang thiết bị lạc hậu nhưng lại thiếu vốn đầu tư trầm trọng. Lãi suất không đáp ứng được vai trò của mình là công cụ, là đòn bẩy thúc đẩ kinh tế phát triển. Lãi suất không những không thu hút được vốn đầu tư, tiết kiệm mà thậm chí nó còn tạo cơ hội cho việc đổ xô vay vốn ngân hàng đểm đầu cơ hàng hóa. Tiềm lực tài chính nhàn rỗi trong dân chúng lại được nắm giữ ở dạng tài sản vàng, dollar và các đồ dùng có giá trị khác (những dạng tài sản không sinh lời).
b/ Giai đoạn sau cải cách
Sau khi thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng cuối năm 1988 đầu năm 1989, chính sách lãi suất ở Việt nam có những thay đổi đáng kể. Trước hết phải nhắc đến Quyết định 29NH/QĐ ngày 16/03/1989 quy định mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn 8%/tháng hay 96%/năm, lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 12%/tháng hay 144%/năm. Quyết định này cho thấy lần đầu tiên ở nước ta lãi suất cho vay các loại cũng được điều chỉnh cùng hướng với lãi suất tiền gửi. Điều này đã góp phần quan trọng vào việc chặn đứng lạm phát phi mã vào quý II/1989. Việc điều chỉnh lãi suất đồng bộ với những cải cách khác và điều chỉnh khác đã tạo ra những động thái mới đưa nền kinh tế dần ổn định và phát triển.
Sau đợt điều chỉnh mức lãi suất theo Quyết định 29NH/QĐ ngày 16/03/1989 là những đợt điều chỉnh tiếp theo. Và cho đến nay khi ngân hàng nhà nước được phép ấn định mức lãi suất tiền gửi và cho vay trong toàn hệ thống ngân hàng thì lãi suất liên tục được điều chỉnh cho phù hợp vói tình hình kinh tế nói chung.
Qua đó mới thấy được vai trò quan trọng của lãi suất. Khi chúng ta xác định lãi suất và điều chỉnh một cách hợp lý, linh hoạt và nhạy bén sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả các huy động và sử dụng vốn. Việc cải cách trong chính sách lãi suất ở nước ta đã giúp cho các doanh nghiệp nhận thức đầy đủ cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn. Vì thế mà các doanh nghiệp luôn phải tìm cách kinh doanh, sử dụng vốn sao cho có lợi nhuận để trang trải.
Thêm nữa việc cải cách lãi suất này làm cho lãi suất thực dương. Lãi suất thực dương là động lực cho công chúng gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng thay vì cất giữ như trước đây Tâm lý dự trữ hầu như đã bị loại bỏ, góp phần làm tăng thêm nguồn vốn, làm cho đồng vốn được quay vòng tạo ra lợi ích cho xã hội.
2. Chính sách lãi suất của Việt nam trong thời gian qua
Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tùy thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ mà ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp. Đưa ra mức lãi suất nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế.
Với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương có thể điều tiết hoạt động của nền kinh tế vĩ mô thông qua công cụ lãi suất.
Ngân hàng có thể quy định lãi suất thị trường: Chủ động điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng tín dụng nhằm thực hiện được mục tiêu giảm lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: ngân hàng trung ương tái chiết khấu các chứng từ do ngân hàng thương mại xuất trình với điều kiện ngân hàng phải trả một lãi suất nhất định do ngân hàng trung ương quy định. Khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi có xu hướng tăng hay giảm chi phí cho vay của ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng do đó khuyến khích hay cản trở nhu cầu vay vốn. Vì vậy mà thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể khuyến khích mở rộng hay giảm khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế. Do thay đổi lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết khấu cao hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức là lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.
Ở nước ta, tháng 5/2008 đánh dấu mốc quan trọng đối với điều hành lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước Việt nam. Theo Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN, lãi suất cơ bản đã được sử dụng một cách hiệu quả và linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước. Trước sư biến động của thị trường trong nước và thế giới, ngân hàng nhà nước đã phải điều chỉnh lãi suất cơ bản theo một biên độ và tần suất kỷ lục.
Sau 10 lần thay đổi lãi suất cơ bản, từ 8,25%/năm lên đến 14%/năm và hạ xuống như hiện nay là 7%/năm. Nhờ vào sự điều chỉnh lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước đã làm ổn định thị trường tiền tệ. Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại trở về mức hợp lý hơn trong mối tương quan giữa tỷ lệ lãi suất và cơ cấu kỳ hạn, phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn của thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người gửi, ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vay vốn.
Đó là những biện pháp linh hoạt vào từng thời điểm như hạn chế tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng lãi suất tiền vay và tăng lãi suất tiền gửi. Biện pháp tăng lãi suất tiền vay nhằm khống chế tình trạng đồng vốn vay được sử dụng tự do trên thị trường. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút một lượng tiền nhàn rỗi đang lưu thông trên thị trường. Hai biện pháp này đã bổ trợ cho nhau giúp ngân hàng nhà nước chủ động ''cầm nắm'' được thị trường tiền tệ. Biện pháp này đã phát huy hiệu quả ngay ở trên thị trường hàng hóa khi cung lớn hơn cầu. Nhờ vậy đã góp phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mô được điều tiết hợp lý, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó có các ngân hàng thương mại được đảm bảo.
Mặt khác sự điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước không chỉ tạo ra hiệu quả trong việc ''cắt cơn sốt'' lãi suất ; đồng Việt Nam bị đẩy lên cao mà từ đó các ngân hàng thương mại đã biết chủ động lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở, định hướng trong việc xác định lãi suất kinh doanh, tùy theo đó mà nới lỏng hay thắt chặt cơ chế vay vốn. Tuy nhiên qua hơn một năm triển khai chính sách thị trường ở nước ta lại nảy sinh ra một thực tế đó là: Do thiếu khả năng thanh khoản nên các ngân hàng nhỏ chủ động đưa lãi suất lên cao với kỳ hạn ngắn nhằm đảm bảo thanh khoản đã khiến các ngân hàng lớn phải điều chỉnh lãi suất huy động tăng theo. Do đó lãi suất huy động ngắn hạn cao hơn dài hạn (3 tháng cao hơn 12 tháng) là ngược với quy luật thông thường...
Vì vậy trong bối cảnh hiện tại nhiều chuyên gia kinh tế tham kiến về chính sách điều hành lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước. Có ý kiến cho rằng nên bỏ quy định về lãi suất cho vay tối đa để thị trường tự điều tiết. Nhưng có ý kiến lại cho rằng vẫn giữ nguyên mức lãi suất cơ bản như hiện nay để tạo sự ổn định cho thị trường. Bởi trên thực tế lãi suất không phải là nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp không phát triển được sản xuất, kinh doanh.
Vì rằng hiện nay khi Chính phủ đang đồng loạt triển khai các nhóm kích cầu trong sản xuất, kinh doanh theo quyết định 131 của Chính phủ và cơ chế bảo lãnh tín dụng đã tạo ra một thị trường vốn dồi dào cho doanh nghiệp. Nhưng vấn đề cốt lõi là tự thân doanh nghiệp có mặn mà với đồng vốn đó hay không còn tùy thuộc vào việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm của mình. Vì vậy, việc điều tiết lãi suất cơ bản chỉ góp phần bình ổn thị trường tài chính, còn việc hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là thứ yếu.
Tóm lại, lãi suất là một vấn đề nhạy cảm chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Nó không chỉ tác động trực tiếp lợi nhuận của ngân hàng mà còn là công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô. Mặt khác lãi suất còn tác động trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư và người lao động. Vì vậy để lãi suất cơ bản khẳng định được vai trò điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô thì ngân hàng nhà nước phải trực tiếp điều hành lãi suất một cách linh hoạt, kịp thời, duy trì mặt bằng lãi suất ổn định trên cơ sở dung hòa được lợi ích của các bên.
3. Xu hướng và yêu cầu cải cách chính sách lãi suất
Vì lãi suất là giá cả của việc sử dụng vốn nên những nguyên tắc khi đổi mới chính sách lãi suất như sau:
- Điều chỉnh lãi suất phải xuất phát từ quan hệ cung, cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Vì vậy lãi suất sẽ được xác định tại điểm cân bằng cung cầu trên thị trường tiền tệ.
- Đối với ngân hàng, lãi suất phải đảm bảo lợi ích giữa cả 3 bên : người đi vay, người cho vay và ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc tài sản. Và lãi suất ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất dài hạn.
- Điều chỉnh lãi suất phải phù hợp với toàn nền kinh tế nói chung. Lãi suất là công cụ của ngân hàng nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó dù thay đổi theo hướng nào cũng phải đảm bảo từng mục tiêu của từng thời kỳ đó. Mục tiêu đề ra là phải ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.
Nền kinh tế thế giới đang vận đông theo hướng toàn cầu hóa và nền kinh tế Việt nam từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng nằm trong vòng quay đó. Đây là con đường đường duy nhất thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển và như vậy việc điều chỉnh lãi suất không thể tách rời sự vận động của lãi suất trên thị trường thế giới. Chúng ta phải xem xét xu hướng biến động lãi suất trên thị trường quốc tế từ đó xác định xu hướng điều hành lãi suất ở Việt nam. Rút ra những bài học, kinh nghiệm của một số nước có điều kiện gần giống với Việt nam để từ đó vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Xu hướng điều hành lãi suất của Việt nam là theo hướng tự do hóa. Đây thực sự là xu hướng đúng đắn vì tự do hóa lãi suất nó phản ánh đúng nhất quan hệ cung – cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Có thể thấy điều này qua một số phân tích sau:
- Lãi suất được tự do hóa sẽ linh hoạt hơn so với lãi suất bị kiểm soát và có khả năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, nguồn vốn được phân bổ hiệu quả hơn sẽ tạo được sự kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Việc tự do hóa lãi suất, do thị trường quyết định sẽ giảm thiểu những tranh luận về vốn trong giới tài chính
Kiến nghị hoàn thiện chính sách lãi suất hiện nay
Xuất phát từ các phân tích và khung lý luận chung về cơ chế lãi suất nêu trên, thiết nghĩ cần sớm hòan thiện một cách toàn diện cơ chế lãi suất cho vay , trong đó nhấn mạnh:
Một là, cần tăng lãi suất cho vay và xây dựng khung lãi suất phù hợp. Như đã phân tích , lãi suất cho vay hiện nay là không phù hợp và cần điều chỉnh tăng phù hợp với tình hình thị trường và chủ trương thắt chặt tín dụng của Nhà nước, bao gồm cả việc bãi bỏ quy định tiếp tục cho vay với lãi suất 0%/năm và bãi bỏ quy định cứng nhắc lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn cho các mức lãi suất rất thấp trước đây, kể cả đối với dư nợ hiện tại. Đối với Dự thảo sửa đổi Nghị định 151 hiện nay đang trình Chính phủ, nguyên tắc lãi suất mới (lãi suất cho vay = lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm +1%) cũng vẫn khá thấp so với thị trường. Khung lãi suất có thể căn cứ vào lãi suất trái phiếu chính phủ để xác định vì nó phù hợp với đặc thù nguồn vốn (chủ yếu là từ huy động trái phiếu chính phủ) và kỳ hạn cho vay tập trung vào đầu tư dài hạn, quy mô vốn lớn. Lãi suất sàn cho TDĐT bằng lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm cộng 1%. Lãi suất trần bằng lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm cộng 3%. Lý do: Trung bình thu nhập lãi tín dụng cận biên (NIM) của các NHTM quốc doanh trong năm 2007 là 3%, bằng năm 2006; còn NIM của các NHTM cổ phần tương ứng các năm 2007 và 2006 là 3,1% và 3%. Với tín dụng ưu đãi có thể chọn lãi suất với NIM ≤ 3%. Thực tế là kể cả khi chọn lãi suất để NIM =3% thì lãi suất cho vay vẫn thấp hơn lãi suất của các NHTM quốc doanh rất nhiều do lãi suất huy động (đầu vào) tính trên cơ sở lãi suất TPCP, được coi là lãi suất thấp nhất trên thị trường so với các khoản huy động khác cùng kỳ hạn. Như vậy, khung lãi suất cho vay TDĐT tại thời điểm hiện nay sẽ vào khoảng: 15,5%-17,5%; mức lãi suất này vẫn còn thấp hơn lãi suất huy động của các NHTM quốc doanh rất nhiều chứ chưa nói đến lãi suất cho vay của các NHTM nói chung.
Xét một cách thông thường, mức lãi suất này là cao và số dự án chịu được lãi suất này mà vẫn có hiệu quả là không nhiều; nhưng nó phù hợp với chủ trương thắt chặt tín dụng và phù hợp với tình hình thị trường lạm phát cao hiện nay. Điều quan trọng là nó phản ánh sự vận động theo tín hiệu thị trường, một nguyên tắc tối cao phải đáp ứng mà cả nền kinh tế đang hướng tới theo cơ chế thị trường. Cùng với điều đó, việc áp dụng cơ chế lãi suất này sẽ phát huy tác dụng tích cực nếu đồng thời có sự hài hòa và kịp thời về chính sách như các nội dung được khuyến nghị dưới đây.
Hai là, cần tăng tính chủ động của cơ quan cho vay (NHPTVN), cho phép cơ quan này được quyền quyết định lãi suất cho vay trong khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định. Việc quyết định cho vay và các điều kiện tín dụng (trong đó có lãi suất) sẽ phải thực hiện theo thông lệ, được dựa trên sự đánh giá về mức rủi ro của dự án đầu tư, độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn và khả năng vốn của ngân hàng.
Việc thực hiện các giải pháp này có ý nghĩa quan trọng là:
(i) Tạo động lực để cơ quan cho vay nâng cao năng lực của mình trong việc thẩm định dự án và xếp hạng tín dụng khách hàng để đưa ra mức lãi suất phù hợp, đảm bảo sự minh bạch cần thiết trong chính sách tín dụng. Theo đó, những khách hàng có xếp hạng tín dụng tốt và dự án khả thi hơn sẽ có thể được hưởng các mức lãi suất thấp hơn hoặc số vốn vay lớn hơn hoặc điều kiện tín dụng ít ràng buộc hơn.
(ii) Giảm gánh nặng cấp bù CLLS từ NSNN. Tạo thuận lợi cho việc cân đối kế hoạch NSNN hàng năm cho cấp bù CLLS. Với khung lãi suất trần-sàn được xác định, có thể dự tính được mức lãi suất phải cấp bù xác thực hơn, từ đó khắc phục được hạn chế hiện nay là kế hoạch vốn Ngân sách nhà nước(NSNN) không đáp ứng đủ nhu cầu thực tế và Ngân sách nhà nước luôn phải nợ cơ quan cho vay kéo dài qua nhiều năm. Trường hợp cần đảm bảo sự chặt chẽ và khống chế hơn về kế hoạch vốn NSNN, trong phạm vi có thể cân đối,
(iii) Tránh được sự “soi xét” không cần thiết từ bên ngoài đối với việc thực thi các cam kết gia nhập WTO về chống trợ cấp, đặc biệt với TDXK và một số ngành hàng nông nghiệp nhạy cảm. Việc xác định khung lãi suất rất mở và lãi suất cho vay cụ thể do cơ quan cho vay quyết định dựa theo các thông lệ tín dụng (quyết định dựa trên độ tín nhiệm, tính khả thi... của dự án) là phù hợp với quy định của WTO và theo nguyên tắc thị trường; là một minh chứng tốt cho việc thực thi đúng các cam kết gia nhập WTO.
Đối với một số nhóm ngành /vùng đặc biệt cần đẩy mạnh hỗ trợ, Chính phủ có thể quy định một khung lãi suất (sàn/trần) riêng để đảm bảo một sự ưu đãi đặc biệt hoặc đối xử riêng; khi đó cơ quan cho vay sẽ không được áp lãi suất quá cao (hoặc quá thấp) so với những nhóm ngành/vùng khác. Như vậy, chính sách và mục tiêu ưu tiên của nhà nước vẫn được đảm bảo và vẫn tạo được sự chủ động cho cơ quan cho vay.
Ba là, cần áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, không áp đặt cố định lãi suất cho vay từ khi ký hợp đồng tín dụng cho mọi khoản rút vốn. Theo đó, lãi suất có thể được xác định theo phương pháp thả nổi hoặc cố định tùy theo từng dự án và sự thỏa thuận với khách hàng. Như vậy, khách hàng và ngân hàng có thể cùng thỏa thuận lựa chọn 1 trong các phương thức:
(i) Lãi suất cố định cho mọi khoản rút vốn;
(ii) Lãi suất đối với mỗi khoản rút vốn xác định bằng lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm cộng với một biên độ % hợp lý (trong khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định) tại thời điểm rút vốn;
(iii) Lãi suất cố định trong 5 năm vay vốn đầu tiên và được xem xét điều chỉnh 2 năm 1 lần (có thể cân nhắc khoảng thời gian hợp lý hơn phù hợp với đặc điểm của mỗi dự án), điều chỉnh đối với toàn bộ dư nợ tại thời điểm xem xét theo nguyên tắc bằng lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm cộng với một biên độ % hợp lý (trong khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định).
Thực hiện điều này sẽ góp phần khắc phục được các vấn đề phát sinh trình bày ở nêu trên, đồng thời tạo sự chủ động tối đa cho cả khách hàng và ngân hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Một số ý kiến cho rằng như vậy sẽ tồn tại quá nhiều mức lãi suất và việc điều chỉnh lãi suất có thể ảnh hưởng tới hiệu quả tài chính của dự án và khả năng hoàn trả nợ vay, tức là ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Tôi cho rằng ý kiến này là không xác đáng vì thực tế hoạt động ngân hàng là phải chấp nhận quản lý nhiều mức lãi suất, miễn là phù hợp với đặc điểm của từng khoản vay cụ thể. Vấn đề ảnh hưởng của lãi suất tới chất lượng tín dụng có thể hạn chế được nếu như quá trình thẩm định dự án có các phân tích độ nhạy hợp lý theo lãi suất, để từ đó đánh giá đúng hơn và lựa chọn được các dự án có hiệu quả cao hơn. Điều đó phụ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng chứ không phải chỉ vì việc có điều chỉnh lãi suất hay không. Mặt khác, việc xác định điều chỉnh lãi suất có nghĩa là có thể điều chỉnh tăng hoặc giảm chứ không phải chỉ điều chỉnh theo một chiều tăng. Trong những trường hợp lãi suất thị trường xuống rất thấp (ví dụ: nền kinh tế bị thiểu phát, giảm lãi suất để kích cầu) thì việc điều chỉnh giảm lãi suất ưu đãi theo nguyên tắc hợp đồng tín dụng đã ký cũng có thể được thực hiện, khi đó ngân hàng vẫn đảm bảo được an toàn tín dụng, giúp doanh nghiệp vượt khó và giữ được khách hàng; vấn đề là chấp nhận lợi nhuận ít đi một chút mà thôi. Đây cũng chính là động lực để ngân hàng nâng cao chất lượng thẩm định và khả năng ứng phó linh hoạt của mình trước diễn biến của thị trường.
Bốn là, cần bãi bỏ quy định “số lần tối đa công bố lãi suất là 2 lần/năm”. Vì quy định này phản ánh sự cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong điều hành lãi suất, nó không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Mặc dù nó có ý nghĩa là tạo sự an tâm cho nhà đầu tư về sự không thay đổi nhanh chóng nhiều lần (tính ổn định) của lãi suất tín dụng ưu đãi, song thực tế nó không phù hợp với diễn biến của thị trường và tự nó đem lại những tác động ngược khi lãi suất thị trường có nhiều biến động (đặc biệt như năm 2008) và dẫn đến những vấn đề phát sinh như nêu trên.
Năm là, cùng với việc điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng ưu đãi phù hợp, cần đảm bảo các sự ưu đãi khác thông qua các điều kiện tín dụng như mức vốn cho vay, thời gian vay vốn, đảm bảo tiền vay, thời gian ân hạn... Việc ưu đãi thông qua các biện pháp khác này là rất quan trọng và hoàn toàn phù hợp với các quy định của WTO. Có như vậy, việc thực hiện chính sách lãi suất mới sẽ càng thuận lợi hơn và các nhà đầu tư yên tâm hơn, góp phần quan trọng thực hiện được mục tiêu của chính sách TDĐT&TDXK của Nhà nước.
Có thể nói, lãi suất một nội dung đặc biệt quan trọng trong chính sách tín dụng của nhà nước. Chính sách lãi suất hiện hành đã bộc lộ nhiều vấn đề tồn tại đang tác động đến mọi chủ thể tham gia trong chính sách TDĐT&TDXK của Nhà nước. Cũng cần nhấn mạnh rằng việc sửa đổi chính sách lãi suất hiện nay là cần thiết không chỉ nhằm phù hợp hơn với thông lệ tín dụng, mà còn có ý nghĩa quan trọng giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước cho cấp bù CLLS, góp phần giảm bội chi NSNN và hơn thế nữa, nó tạo sự đồng bộ hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa của quốc gia. Năm 2008 chứng kiến nhiều đổi thay quan trọng trong chính sách của Nhà nước về điều hành tỷ giá, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Những biện pháp gần đây đã được cho là đúng hướng, nhưng cũng chính vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện nó để thực hiện được tốt hơn các mục tiêu nhằm kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và xuất khẩu trong phát triển kinh tế đất nước; trong đó có sự khuyến khích đầu tư vào những ngành/lĩnh vực trọng điểm, những vùng/miền có điều kiện kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần phát triển kinh tế đất nước theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nhập.
KẾT LUẬN
Lãi suất là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất một cách hợp lý nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại một cơ chế lãi suất không hợp lý sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế , gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã có những thành công nhất định cải cách về chính sách lãi suất trong thời gian qua. Song phải chăng lãi suất ở Việt nam đã thực sự linh họa, mềm dẻo và biến động phù hợp với nền kinh tế. Trên thực tế lãi suất ở Việt nam vẫn chỉ là lãi suất ngân hàng, do ngân hàng trung ương xác định và áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chúng ta vẫn chưa thực sự có lãi suất thị trường, chưa cho phép lãi suất được xác định trên cơ sở thị trường. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta phải cho phép tự do hóa lãi suất. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng như trong khu vực cho thấy đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải lựa chọn bước đi đúng đắn của mỗi quốc gia.
Chính tính chất quan trọng của lãi suất mà ngân hàng Nhà nước Việt nam đã nhiều lần điều chỉnh chính sách lãi suất của mình cho phù hợp với nhu cầu phát triển nền kinh tế. Vượt qua những khó khăn ban đầu trong việc điều chỉnh lãi suất đến nay Việt nam đã lựa chọn cho mình một chính sách lãi suất dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản. Có thể nói chính sách lãi suất cơ bản là một bước đi dài trong công cuộc đổi mới ở nước ta và đây chính là một chính sách hết sức linh hoạt từ trước tới nay.
Việc nghiên cứu và thực hiện đề án giúp em nhận ra rằng đây là một đề tài hết sức phức tạp nếu xem xét thực tế một cách tỷ mỷ. Và trong một khoảng thòi gian nhất định, trình độ kiến thức còn hạn chế, đề án chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót cả về lý luận và thực tiễn. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô.
Cuối cùng em rất chân thành cảm ơn thầy giáo Đặng AnhTuấn đã hết lòng hướng dân giúp em hoàn thành đề án này.
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về lãi suất
1.1Lãi suất cơ bản và các phương pháp đo lường lãi suất
1.2Một số phân biệt về lãi suất
1.3Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro trong lãi suất
1.4 Các loại lãi suất chính
Chương II: Các yếu tố ảnh hưởng tới lãi suất
2.1Ảnh hưởng cung cầu của quỹ cho vay
2.2Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
2.3Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
2.4Tác động của sự thay đổi về thuế
2.5Những thay đổi trong đời sống xã hội
Chương III: Một số xu hướng và yêu cầu cải cách chính sách lãi suất ở Việt Nam.
Kết luận và kiến nghị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26694.doc