Rủi ro tín dụng có thể xảy ra khi xuất hiện những biến cố không lường trước được do chủ quan hay khách quan khiến cho người đi vay không thực hiện đúng cam kết nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội như lạm phát, suy thoái kinh tế, chính sách nhà nước hoặc môi trường pháp lí không ổn định, chiến tranh hoặc thiên tai Dù rủi ro tín dụng có xuất hiện từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng. Điều đó khẳng định lại rằng rủi ro tín dụng là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết trong hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện nay.
Và để hệ thông ngân hàng hoạt động tốt hơn động thời hạn chế được những rủi ro tín dụng kể trên thì tiền đề vẫn là môi trường luật pháp, môi trường kinh tế được cải thiện tốt hơn. Như vậy cần có sự góp sức của các Bộ ngành liên quan nhất là Bộ tài chính, kinh tế, nội ngoại thương cùng cố gắng của bản thân ngân hàng và sau hết là sự góp sức của mỗi người tuỳ vị trí của mình trong xã hội.
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cách thức quản lí tài chính và hoạch toán kế toán dự phòng rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi.
Rủi ro tỉ giá xảy ra do sự thay đổi tỉ giá giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài. Rủi ro này xuất hiện trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt trong các khâu “đi vay” và “cho vay”. Khi tỉ giá tăng sẽ tạo ra “lãi” về hối đoái, tỉ giá giảm sẽ tạo ra “lỗ” về hối đoái. Những điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng cũng như đối với khách hàng của ngân hàng là những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đối với rủi ro này ngân hàng có thể ngăn ngừa bằng cách thường xuyên nghiên cứu sự biến động tỉ giá trên thị trường thế giới, qua đó dự đoán được hoạt động ngoại hối để dự trữ ngoại tệ thích hợp và chủ động đo lường, giới hạn mức tình thế ngoại hối của mỗi loại ngoại tệ vào cuối ngày giao dịch
2.2.6 Rủi ro tín dụng
Như chúng ta đã biết ở trên rủi ro tín dụng là rủi ro trong hoạt động cho vay, xảy ra khi không thu được đủ nợ theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (hay khế ước nhận nợ). Như vậy, rủi ro xuất hiện khi xảy ra một hoặc đồng thời cả hai điều kiện: không thu đủ nợ (bao gồm cả gốc và lãi) và không thu được theo đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng.
Tuỳ vào giai đoạn hưng thịnh hay suy thoái của một chu ky kinh tế; tuỳ vào từng thời điểm nhất định, trong môi trường kinh tế xã hội nhất định với những chính sách cự thể của chính phủ mà mức rủi ro chịu ảnh hưởng khác nhau của các yếu tố:
- Quy mô tương đối của hoạt động trong toàn bộ kinh doanh của ngân hàng thương mại
- Lĩnh vực đầu tư của ngân hàng (cơ cấu tín dụng theo ngành nghề kinh tế…)
- Đối tượng khách hàng (thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp…)
Các dấu hiệu khi có rủi ro tín dụng xuất hiện bao gồm:
a. Nợ quá hạn, lãi phát sinh. Nợ quá hạn và lãi treo phát sinh sẽ làm gia tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, tăng chi phí hoạt động kinh doanh nên sẽ ảnh hưởng sấu đến hiệu quả. Nợ quá hạn và lãi treo phát sinh cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài chính, ảnh hưởng xấu đến tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn cảu ngân hàng. Ơ đây cần hiểu rằng các biên pháp xử lí nợ quá hạn như phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu nợ cũng là đã xảy ra rủi ro, cho dù cuối cùng, ngân hàng có thể đủ nợ cả gốc và lãi. Việc phát mại tài sản thế chấp, cầm cố là biện pháp cuối cùng để thu nợ nhằm bảo toàn vốn khi không còn khả năng nào khác. Vì khi đó sẽ ảnh hường không tốt tới tâm lí khách hàng và mối quan hệ khách hàng lâu dài, hạn chế tới chính sách mở rộng khách hàng.
Phải khẳng định rằng: trong các chi phí cho hoạt động kinh doanh thì việc để mất khách hàng là một chi phí lớn nhất. Việc phát mại tài sản thế chấp, cầm cố còn nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và chịu sự ràng buộc bởi nhiều yếu tố pháp lí. Đặc biệt là trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khi mà hệ thống pháp luật thiếu trặt trẽ, đồng bộ, tính pháp lí của các tài sản dùng để thế chấp, cầm cố chưa dược chuẩn hoá thì việc tiến hàng phát mại tài sản là việc không đơn giản.
b. Không thu được một phần hay toàn bộ nợ mà khách hàng phải trả theo như cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Thiết lập một cơ cấu tài sản có, tài sản nợ hợp lí, linh hoạt trong môi trường kinh doanh kinh tế cụ thể, ở nhưng thời điểm cụ thể để giảm thiểu rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thương mại luôn là một vấn đề cốt lõi trong quản lí tài sản có – tài sản nợ của các nhà quản trị ngân hàng.
Chương 3: Phân loại rủi ro tín dụng
3.1 Cho vay các doanh nghiệp
Cho vay các doanh nghiệp được thực hiện thông qua các khoản tín dụng thương mại và công nghiệp với những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, thời hạn của tín dụng này thường biến động từ một vài tuần đến khoản 8 năm hoặc dài hơn. Nó có thể được thực hiện dưới dạng đảm bảo hoặc không đảm bảo. Một khoản tín dụng có đảm bảo nghĩa là nó có tài sản thế chấp cho khoản nợ của mình nếu khách hàng không có khả năng trả nợ. Một khoản vay không có bảo đảm nghĩa là ngân hàng không có quyền ưu tiên đặc biệt nào đối với tài sản của người vay trong trường hợp họ có những khó khăn về vấn đền trả nợ. Như chúng ta sẽ giải thích sau này, giữa yêu cầu thế chấp cho một khoản vay và mức lãi suất hoặc phần rủi ro tín dụng (credit risk premium) theo yêu cầu của người cho vay có mối quan hệ với nhau.
Thứ hai, lãi suất của các khoản tín dụng có thể là mức lãi suất cố định hoặc là lãi suất thả nổi. Lãi suất cố định được xác định ngay từ thời điểm kí hợp đồng tín dụng và được duy trì trong suốt giai đoạn của hợp đồng mà không bị anh hưởng bởi sự biến động lãi suất thị trường. Giả sử ngân hàng cho một công ty lớn vay 10 triệu AUD với lãi suất 10%, thời hạn một năm. Nếu lãi suất huy động vốn của ngân hàng tăng lên, ngân hàng sẽ phải chịu hoàn toàn rủi ro lãi suất vì nó không có khả năng điều chỉnh mức lãi suất cho vay đã kí. Đó chính là lí do nhiều khoản vay được thực hiện với lãi suất thả nổi, mức lãi suất có thể được điều chỉnh định kỳ căn cứ vào một công thức để sao cho phần rủi ro lãi suất được chia sẻ giữa ngân hàng và khách hàng. Nhìn chung, các khoản tín dụng dài hạn thường gắn với lãi suất thả nổi, và các khoản tín dụng ngắn hạn thường được thực hiện với lãi suất cố định.
Thứ ba, hình thức tín dụng có thể là tín dụng giao ngay (spot loans) hoặc tín dụng cam kết (loan commitment). Tín dụng giao ngay có nghĩa là toàn bộ khối lượng tín dụng được người vay sử dụng ngay lập tức. Tín dụng cam kết là một phương tiện tín dụng mà trong đó, ngân hàng cam kết cung cấp một mức tín dụng nhất định trong một khoản thời gian nhất định và người vay có thể sử dụng tín dụng trong phạm vi đó. Thí dụ, ngan hàng cho vay 10 triệu AUD theo hình thức tín dụng cam kết, thờihạn một năm. Theo cam kết này người vay có quyền lựa chọn để sử dụng với bất kỳ số lượng nào trọng phạm vi 10 triệu AUD và tại bất kỳ thời điểm trọng phạm vi một năm. Đối với các cam kết tín dụng có lãi suất cố định, lãi suất được hình thành ngay từ khi kí kết hợp đồng và nó được trả khi khoản vay được sử dụng. Đối với các cam kết với lãi suất thả nổi, người vay sẽ trả theo mức lãi suất hiện hành tại thời điểm rút vốn vay. Theo ví dụ trên, giải sử khoản tin dụng cam kết 10 triệu AUD được kí vào 1/1995 với lãi suất thả nổi. Cho đến tháng 6/1995 người vay không sử dụng vố và cũng không trả lãi, đến tháng 7/1995 10 triệu AUD mới thực sự được sử dụng và lãi suất được trả theo lãi suất hiện hành tại thời điểm đó cho khoản vay cùng thời hạn. Bảng 4.1 cho thấy khối lượng tín dụng các ngân hàng Australia cấp cho các doanh nghiệp được phân loại theo quy mô tín dụng vào 12/1994. Quy mô tín dụng lớn nhất là khoản vay trên dưới 2 triệu AUD, tuy nhên một sự tính toán đơn giản cho thấy rằng, phần lớn các khoản tín dụng được thực hiện với quy mô chỉ chỉ hơn hoặc bằng 500.000 AUD. Các khoản vay quy mô nhỏ này chiếm 39,9% trong tông dư lợ của các ngân hàng và là tỉ lệ quan trọng trong tổng danh mục tín dụng của ngân hàng Australia.
Tín dụng cho các doanh nghiệp của các ngân hàng Australia, 9/1994 (triệu USD)
Tổng dư nợ tín dụng
Các ngành kinh doanh
<$100.000
>$100.000
<$500.000
>$500.000
<$2 triệu
≥$2 triệu
Tổng số
Nông nghiệp, đánh cá
3.171
5429
2383
2232
13215
Khai thác
83
137
211
1549
1981
Chế tạo
1493
2430
2362
11203
17487
Xây dựng
1367
1763
1340
3467
7938
Thương mại
4590
6149
3889
7950
22578
Tài chính và bảo hiểm
1007
3442
5362
20308
30118
Các ngành khác
5055
10827
9558
19383
45279
Tổng số
16766
30167
25105
66548
138595
Tỉ trọng
12,1%
21,8%
18,1%
48,0%
100%
3.2 Cho vay xây dụng nhà ở (cho vay địa ốc)
Cho vay xây dựng nhà ở thực chất là khoản vay có đảm bảo bằng giá trị ngôi nhà được xây dựng của chủ sở hữu. Trong thực tế, thị trường tín dụng thị trường tín dụng được chia sẻ giữa các ngân hàng, các hiệp hội xây dựng (building society), các hiệp hội tín dụng (credit union) và các công ty bảo hiểm nhân thọ, mặc dù ngân hàng vẫn chiếm tỉ trọng chi phối trong thị trường này. Tín dụng nhà ở chiếm tỉ trọng lớn nhất trong danh mục tín dụng của các ngân hàng với các ly do sau:
Thứ nhất, chất lượng tín dụng thấp của các khoản vay đối với các doanh nghiệp vào những năm 1980 và vào đầu những năm 1990 là động lực đẩy các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận ở loại tín dụng nhà ở. Mặc dù vậy tỷ lệ sinh lời của loại tín dụng này không cao bằng loại tín dụng kinh doanh nhưng tỷ lệ rủi ro của nó thấp hơn nhiều (đặc biệt so với kinh nghiệm của một số nước), có lẽ bởi nó không bị hoặc ít bị ảnh hưởng chu kì suy thoái của thị trường bất động sản 1989-1990.
Thứ hai, theo quy định, các khoản tín dụng ngân hàngà ở chỉ phải điều chỉnh tỷ lệ rủi ro là 50% để tính yêu cầu vốn tự có tối thiểu, trong khi tỷ lệ này cho các khoản vay kinh doanh là 100%. Có nghĩa là lượng vốn tự có tối thiểu để đảm bảo rủi ro cho loại tín dụng nhà ở thấp hơn các loại tín dụng kinh doanh và kết quả là: Mặc dù tỷ lệ sinh lời của loại vay này thấp hơn nhưng tính chung lại tỷ lệ thu nhập trên vốn tự có của hai loại vay có thể so sánh được với nhau.
Tuy nhiên, đặc điểm của tín dụng nhà ở khác căn bản với loại tín dụng kinh doanh thông thường. Sự khác nhau thể hiện quy mô của từng khoản tín dụng, năng lực vay của tài sản thế chấp và thời hạn cho vay. Một đặc điểm khác biệt nữa liên quan đến yêu cầu phí và hoa hồng của khonả vay. Hơn nữa các hợp đồng tín dụng này còn được phân biệt căn cứ vào hình thức lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi mà dạng đặc biệt của nó là lãi suất được điều chỉnh theo định kỳ căn cứ vào mức lãi suất chủ đạo. Tỷ trọng của các loại hợp đồng này trong tông doanh mục đầu tư của các tổ chức tín dụng sẽ thay đổi tuỳ theo chu kỳ biến đổi của lãi suất thị trường. Chẳng hạn trong giai đoạn lãi suất thấp, những người vay ưa thích được kí hợp đồng vay với lãi suất cố định hơn, và ngược lại.
Các vay trên cơ sở thế chấp nhà ở này thường là dài hạn tới khoảng 20 - 25 năm. Trong trương hợp giá nhà ở thấp hơn giá trị dư nợ tín dụng, thì các khoản mục đầu tư này cũng bĩ đặt trong tình trạng rủi ro tín dụng tiềm năng.
3.3 Tín dụng tiêu dùng
Một nhóm tín dụng khác của các tổ chức tín dụng là cho vay đối với người tiêu dùng dưới hình thức cho vay cá nhân, cho vay mua ô tô, hoặc là cho vay để sư dụng thẻ tín dụng như Visa, Master card. Cũng giống như loại vay nhà ở, thị trường tín dụng tiêu dùng được tham gia bởi nhiều người khác nhau, nhưng trong đó ngân hàng giữ vị trí chi phối. Trong số các loại vay tiêu dùng kể trên, thẻ tín dụng đang tăng lên một cách đáng kể. Như một loại tín dụng tuần hoàn (Credit revolving) người vay để sử dụng thẻ tín dụng được cấp một hạn mức tín dụng và trong phạm vi đó họ có thể rut ra hoặc chi trả theo nhu cầu trong thời gian của hợp đồng. Một hình thức cho vay tiêu dùng khác là thấu chi và cuối cùng là cho vay mua ô tô trả góp. Mức lãi suất của các loại vay tiêu dùng cũng khác nhau phụ thuộc vào các đặc điểm của khoản vay: Chất lượng và hình thức thế chấp, thời hạn, mức độ rủi ro và các yếu tố phi lãi suất kèm theo như khoản phí hoặc hoa hồng.
3.4 Các khoản vay khác
Bao gồm các khoản vay đối với chính phủ và các khoản vay đối với các tổ chức tài chính khác. Các đối tượng vay cụ thể là ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, chính phủ bang và chính phủ liên bang, các ngân hàng nước ngoài và các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Rủi ro tín dụng thương không nghiêm trọng đối với các khoản vay của đối tượng này trừ loại cho vay trực tiếp ra nươc ngoài. Đối với khoản đẩu tư trực tiếp ra nước ngoài, việc phân tích rủi ro cá biệt và hệ thống liên quan đến nước được đầu tư cần phải được nghiên cứu cụ thể.
Chương 4: Nguyên nhân dẫn đên rủi ro tín dụng hiện nay
4.1 Môi trường pháp ly
4.1.1 Sự thay đổi luật pháp
Sự thay đổi luật pháp luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho các pháp nhân kinh tế, do vậy sự thay đổi này ảnh hưởng mạnh mẽ đến haọt động của ngân hàng. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng có thời hạn và được kí kết trước hoặc sau khi có văn bản pháp luật ban hành và có hiệu lực, do vậy nếu nội dung một hợp đồng tín dụng kí kết trước khi văn bản pháp luật ban hành mà trái với nội dung của văn bản pháp luật đó thì rất dễ dàng nhận thấy rủi ro. Đối với doanh nghiệp nếu một văn bản pháp luật chi phối các hành vi hợp đồng mà họ kí kết thì nhất định việc kinh doanh của họ sẽ gặp nhiều khó khăn và những khó khăn này sẽ dẫn đến việc họ không trả được nợ cho ngan hàng.
Ví dụ: Trong thông tư số 25/TC/TCDN ngày 15/05/1997 của Bộ Tài Chính hướng dẫn trình tự, thủ tục, nguyên tắc xử lí tài chính khi giải thể daonh nghiệp Nhà Nước quy định:
Các bi xem xét tuyên bố giải thể doanh nghiệp:
1.1_ Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết theo quy định sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp của các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty…….
1.2_ Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính mà vốn điều lệ của doanh nghiệp vẫn thấp hơn mức vốn pháp định cho ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp…..
Trong hai trường hợp trên ngân hàng khó có thể xác định được doanh nghiệp nào là “không cần thiết” và doanh nghiệp nào se không được cấp đủ vốn điều lệ. Do vậy khi doanh nghiệp bị xem xét giải thể mà ngân hàng đã cho vay rồi thì ngân hàng dễ dàng gặp rủi ro. Thông tư nói trên được kí vào ngày 25/05/1997 mà hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh hiện nay đang thiếu vốn điều lệ, nếu họ có khó khăn về kinh doanh mà họ xin giải thể thic chắc chắn ngân hàng cho vay sẽ gặp rủi ro. Trong thông tư này còn có quy định: “Kể từ ngày tuyên bố giải thể doanh nghiệp, mọi khoản nợ chưa đến hạn của doanh nghiệp được coi là đến hạn, các khoản nợ được ngừng tính lãi ….” Như vậy ngân hàng gặp phải hai rủi ro:
Khoản nợ chưa thu được tồn đọng, nếu thu được chưa chắc đã cho vay ngay được.
Lãi không được tính mặc dù khoản nợ đó đã đưa vào kế hoạch, đã được tính lãi kinh doanh
4.1.2 Thủ tục tố tục dân sự kéo dài
Môi trường pháp lí còn gây rủi ro cho ngân hàng khi môi trường pháp lí đó chưa hoàn thiện hoặc cách thức thi hành còn chưa đảm bảo tính thời gian, tính nghiêm minh, phát sinh nhiều chi phí do thủ tục tố tụng kéo dài. Ví dụ như việc phát mãi một tài sản thế chấp đòi hỏi khá nhiều thủ tục, thời gian, chi phí mà ngân hàng phải nhận chịu rủi ro rất nhiều. Hoặc luật không giải thích một cách đầy đủ gây khó khăn trong việc thực hiện gây rủi ro cho ngân hàng. Ví dụ một hợp đồng có tài sản thế chấp để trừ nợ (gán nợ) hoặc phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ, thiếu hay đủ ngân hang cũng phải chịu? Nên chăng, một chủ nợ có quyền đòi hỏi con nợ phải trả hết nợ khi con nợ đó còn tài sản trách nhiệm (tài sản kinh doanh) chỉ khi nào con nợ đó hết tài sản trách nhiệm thì chủ nợ mới chấm dứt quyền đòi nợ, vì vậy nếu tài sản thế chấp khi phát mãi không còn đủ giá trị để trả nợ thì con nợ phải dùng tài sản khác để trả nợ nếu con nợ còn tài sản trách nhiệm.
Ngoài pháp lệnh ngân hàng và các văn bản liên quan, việc thực hiện và giải quyết các hợp đồng tín dụng khi đáo hạn còn chịu sự chi phối của Bộ Luật Dân Sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết cac bụ án kinh tế (26/03/94), Pháp lệnh thi hành án (17/04/93), Luật phá sản doanh nghiệp.v.v…. Do đó khi nợ đáo hạn, nếu con nợ mất khả năng chi trả hoặc cố tình trốn tránh thanh toán nợ thì ngân hàng chỉ con đường hợp pháp duy nhất là khởi kiện trước toà án có thẩm quyền. Vấn đề tố tụng trước toà án hiện nay quá nhiêu khê và thường kéo dài qua nhiều giai doạn làm mất nhiều thời gian, dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho con nợ có y đồ, đồng thời gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Thời gian tố tụng kể từ khi khởi kiện cho đến khi có quyết định của toà án có hiệu lực thi hành rồi đến khi phát mãi được tài sản thu hồi được nợ thường kéo dài ngần một năm, chưa kể trường hợp toà có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo điều 38 pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế. Tinh trạng này thường làm cho ngân hàng phải chịu đọng vốn trong núc ngân hàng phải chịu lãi suất cho người gủi. Đây là một thiệt thòi lớn cho ngân hàng chưa kể các chi phí phát sinh trong thủ tục tố tụng
4.2 Rủi ro do môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế của Việt Nam hiện nay còn chưa ổn định, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh còn dựa vào các dự án trên cơ sở “ước định thị trường” hay “phó thác cho may rủi” mà chưa có một cách thức dự doán khoa học, có cơ sở thực tế. Cho nên việc sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều rủi do trong khâu tiêu thụ sản phảm hàng hoá. Thị trường tiêu thụ hàng hoá còn rất bấp bênh, hoặc không được bảo hộ hoặc không được trợ giá…Do vậy mà nhiêu khi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải chịu rủi ro lớn như các hợp đồng xuất khẩu không được kí kết kịp thời, khả năng thu mua, bảo quản, chế biến bị giới hạn…v…v. Nếu khâu tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn có thể dẫn đến sự lỗ vốn và tất nhiên doanh nghiệp sẽ trì hoãn trả nợ ngân hàng. Hàng nhập khẩu không được cân đối với hàng cùng loại được sản xuất trong nước làm cho sản xuất trong nước khó tiêu thụ như dường, sản phẩm gia dụng, sắt thép, xi măng…cũng gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp trong nước và tất nhiên ảnh hưởng đến việc trả nợ vay ngân hàng.
Nhà nước cần tăng cường khâu quản lí vĩ mô về quy hoach thị trường và thông báo những thông tin thị trường dến các nhà sản xuất, các ngân hàng để hạn chế sự rủi ro về thị trường, tạo ra sự ổn định. Bên cạnh đó cần có sự bảo hộ hàng sản xuất trong nước, cần nhập loại hàng nào, sản xuất loại hàng nào để tránh sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng nước ngoài và hàng sản xuất trong nước.
Nhà nước cần lập quỹ bình ổn giá, trợ giá cho những mặt hàng chiến lược như lúa gạo, các nông sản phẩm vào vụ thu hoạch để chống lại sự giảm giá gây thiệt hại cho người sản xuất. Mặt khác ngân hàng cần có bộ phận nghiên cứu thị trường để có những dự đoán khoa học cho các sản phảm khi cấp tín dụng.
4.3 Rủi do tỉ giá
Tỷ giá vừa liên quan đến nhà kinh doanh vừa liên quan đến ngân hàng, khi có sự biến động về tỉ giá, ngan hàng có thể gặp rủi ro. Nếu ti giá tăng (giá ngoại tệ tăng) các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất phải tăng chi phí và có thể bị lỗ. Ngân hàng vay ngoại tệ mà phải trả vào thời điểm tỷ giá tăng sẽ bị thiệt hại, doang nghiệp trả nợ nước ngoài vào thời điểm đó cũng sẽ gặp rủi ro và những rủi ro của doanh nghiệp sẽ dẫn đến rủi ro của ngân hàng.
Để giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực ngoại tệ cần thiết pahỉ áp dụng các phương thức mua bán kì hạn.
4.4 Rủi ro chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của ngân hàng dặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách tín dụng đều có liên quan và ảnh hưởng mạnh đến hoạt động ngân hàng. Khi ngân hàng nhà nước hạ lãi suất có thể dẫn đến các ngân hàng thương mại không thu hút được vốn tiền mặt và có thể mất khả năng thanh toán. Ví dụ: Một ngân hàng hoach định hàng tháng thu hút được 1 tỉ đồng tiền gửi và như vậy đã đẩy mạnh việc cho vay trước đó như thế khi không thu hút được vốn tiền gửi như dự định khi hạ lãi suất ãe làm cho ngân hàng gặp khó khăn về thanh toán.
Vấn đề định lượng một lãi suất thích hợp cho hoạt động ngân hàng và thời gian tồn tại của nó bao lâu để đảm bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng đồng thời phù hợp với những biến động và tăng trưởng của hoạt động kinh tế vẫn là vấn đề đang được tranh luận, quan điểm chưa được nhất quán. Đây là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của chính sách tiền tệ mà trong khuân khổ của một bài tranh luận không thể đi sâu. Cho nên hướng đề suất giải pháp cho vấn đề này xin dành cho một chuyên đề sâu hơn nếu có dịp.
4.5 Rủi ro do tình trạng yếu kém về tài chính của các doanh nghiệp
Nếu phân chia theo quy mô về vốn thì các công ty được xếp ở cấp 1,2 có số vốn bình quân khoản 5 hoặc 6 tỷ đồng, các công ty cấp 3 khoản 500 đến 600 triệu đồng.
Nếu phân chia theo ngành nghề:
Vốn bình quân
Vốn lưu động
Nông nghiệp
3
1,2
Thuỷ sản
4,4
2,2
Xây dựng
6,1
1,7
Thương nghiệp
17,7
8,6
Khách sạn – Nhà hàng
6,5
0,6
Vận tải – Bưu điện
30
2,8
Kinh doanh bất động sản
13,3
1,5
Như vậy vốn tự có của doanh nghiệp quá ít so với hoạt động sản xuất khinh doanh hiện nay.
Theo ngân hàng nhà nước 80% đến 90% vốn hoạt động của đơn vị là vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp nào khá, dư nợ trên vốn tự có là 2 dến 3 lần, trung bình 4 đến 5 lần, có những doanh nghiệp vốn vay 10 dến 15 lần vốn tự có. Đây là một thực trạng tồn tại từ nhiêu năm do từ ngày mới thành lập nhà nước không giao đủ vốn cho các đơn vị và với tình hình phát triển nóng trong những năm qua và sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường càng ngày càng cao, để tồn tại doanh nghiệp buộc lòng phải đi vay thêm.
Ngân hàng nếu căn cứ trên những chỉ số tài chính cơ bản để dảm bảo rủi ro tín dụng như:
5.1 Chỉ số về độ loãng: (tài sản lưu động / nợ phải trả) bình quân ổn định: 2,5 lần
5.2 Chỉ số tối hoạt:
Tài sản lưu động – Trị giá hàng tồn kho / Nợ ngắn hạn
Bình quân ổn định là 1 lần
5.3 Tỷ số:
Tổng số nợ / Tổng tài sản có
Nên dưới 50%
Thì khi so sánh với thực trạng tài chính của các doanh nghiệp hiện nay với các khoản tín dụng đã được ngân hàng cung cấp thì rõ ràng ngân hàng đâng đối đầu với những rủi ro quá cao, thêm vào đó nghị định 59/CP quy định: “doanh chịu trách nhiem hữu hạn về dân sự đố với hoạt động kinh doanh trước pháp luật trong phạm vi vốn doanh nghiệp trong đó có phần vốn nhà nước giao” thì với thực trạng vốn của các doanh nghiệp nhà nước như đẫ nêu, ngân hàng có nên cho vay hay không? Bởi lẽ các doanh nghiệp phá sản rủi ro đến với các ngân hàng quá cao khi khả năng thu lại tài sản sau thanh lí quá thấp. Nếu cho rằng dựa trên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với ngân hàngững phương án khả thi để ngân hàng cho vay thì trong điều kiện tình hình tài chính còn yếu kém có nhiều bất trắc có thể xẩy ra cho doanh nghiệp, các phương án kinh doanh khả thi ấy liệu có thể thực hiên hoàn tất mà không mạng lại một rủi ro nào cho ngân hàng? Trong những điều kiện bấp bênh của tình hình tài chính, hiệu quả của một phương án khả thi hoàn toàn không dảm bảo cho món vay, bởi lẽ trong tình hình bấp bênh đó rủi ro cho doanh nghiệp có thể xảy ra bất kỉ lúc nào cho dù phương án ấy đang đem lại hiệu quả. Do vậy ngân hàng chỉ nên xem xét các phương án khả thi trong điều kiện tình hình tài chính lành mạnh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tình hình càng phức tạp hơn. Đã có một số trường hợp đơn vị đã hình thành nguồn vốn sở hữu của mình là vốn ảo (vay ngân hàng hoặc vay tư nhân, ky quỹ để thành lập công ty, khi đã có giấy phép xong thì tháo khoán để trả nợ thực chất công ty không có vốn) sổ sách kế toán không rõ ràng, kinh doanh không có kế hoạch chỉ theo thời cơ, khả năng và trình độ quản ly còn rất yếu kém, theo thống kê cán bộ quản lí của các công ty ngoài quốc doanh có trình độ đại học chưa đến 10%. Có nhiều đơn vị khi đến ngân hàng xin vay, cán bộ tín dụng đòi hỏi bảng tổng kết tài sản, thỉnh thoảng nhận được câu nói đùa ‘muốn có bảng tổng kết tài sản như thế nào, cho lời bao nhiêu?’
Như vậy đối với các đơn vị quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh, ngân hàng đang đối đầu với tình hình không thuận lợi.
Toàn quốc có 6000 đơn vị quốc doanh, 30.460 đơn vị ngoài quốc doanh đã số đều có vay vốn lưu động của ngân hàng, theo ngành tài chính 20% đơn vị quốc doanh hoạt động có hiệu quả, 40% hoạt động cầm chừng còn lại là lỗ và như đã phân tích ở trên thì tín dụng ngân hàng đang đừng trước những nguy cơ rủi ro mà phần lớn là do những yếu tố khách hàng tác động.
4.6 Rủi ro do trình độ và năng lực của ngân hàng
Trong một số vụ rủi ro tín dụng đã xảy ra thì có nguyên nhân là do trình độ quản ly của lãnh đạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ các phòng ban còn yếu kém. Đôi khi những rủi ro tín dụng loại này có mức độ thiệt hại rất lớn cho ngân hàng, cán bộ các phòng ban không có năng lực nghiệp vụ, không có khả năng phân tích đánh già thẩm định đều là những nguy cơ cao dẫn đến rủi ro tín dụng, xuất phát từ những khoản tín dụng không thể thu hồi được. Lại nữa, một khoản tín dụng được cấp phát từ quyền lợi cá nhân, phe phái mà không chứa tính liêm khiết, khách quan là một rủi ro tín dụng tiềm ẩn chắc chắn có ngày sẽ bột phát.
Mặt khác trình độ hạn hẹp của cán bộ lãnh đạo ngân hàng còn ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tiền tệ của nhà nước mà trực tiếp là chính sách bảo vệ an toàn tín dụng như việc thực hiện bảo lãnh các L/C trả chậm thời gian qua.
Chương 5 : Quản lí rủi ro trong các tổ chức tín dụng ngân hàng Việt Nam
Kiểm soát rủi ro luôn là hoạt động trung tâp trong các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng. Trong thực tiễn, nội dung các hoạt động kiểm soát rủi ro phụ thuộc vào : Trình độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ. Các nguông lực, đặc biệt là nguồn lực về tài chính và nguồn lực về con người.
So với cá nươc đã có thị trường tài chính phát triển hàng năm trước đây thì rõ ràng trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam ở trình độ thấp. Nghèo nàn về sản phẩm và dịch vụ tài chính; nhỏ bé về quy mô và nguồn vốn kinh doanh; phạm vi hoạt động của thị trường chủ yếu ở trong nước; trình độ quản lý tài chính hiện đại còn yếu kém va hệ thống tài chính hoạt động chưa minh bạch và cởi mở.
5.1 Chính sách của ngân hàng nhà nước về an toàn rủi ro tài chính
Ngân hàng nhà nước chịu trách hiệm ban hành các chính sách về quản lý tiền tệ tín dụng ngân hàng. Trong thời gian gần đây ngân hàng nhà nước đã dần thay đổi cơ chế điều hành lãi suất tín dụng chuyển dần từ cơ chớ điều hành lãi suất theo trần sang lãi suất cơ bản và hiện nay là lãi suất thủa thuận đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với lãi suất cho vay ngoại tệ.
Để điều tiết các hoạt động của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, ngân hàng nhà nước đẫ ban hành hai văn bản quan trọng :
Văn bản thứ nhất, Quyết định số 297/1999 QĐ-NHNN5 ngày 25 tháng 8 năm 1999 của Thống đốc ngân hàng nhà nước quy địng về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động cảu tổ chức tín dụng. Theo quyết định này các tổ chức tín dụng tại Việt Nam phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn bao gồm : (i) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; (ii) tỷ lệ thanh khoản và (iii) Tỷ lệ tối đa dùng nguồn vốn ngắn hạn.
Văn bản thứ hai, Quyết định số 296/ 1999/ QĐ-NHNN5 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 25 tháng 8 năm 1999 về thời hạn cho vay đối với khách hàng của tổ chức tín dụng. Theo quyết định này tổng dư nợ cho vay của một tổ chức tín dụng đối với một khách hàng khong được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
5.1.1 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có so với tài sản có kể cả cam kết ngoài bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
Vốn tự có của tổ chức tín dụng bao gồm : Vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung điều lệ. Vốn của tổ chức tín dụng đầu tư vào tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần được loại trừ khỏi vốn tự có khi tính toán tỷ lệ an toàn vốn.
Tương tự như những quy định về vốn an toàn rủi ro tín dụng của hiệp định Basel, ngân hàng nhà nước cũng phân loại mức độ rủi ro của các tài sản trong bản và ngoài bảng cân kế toán để làm căn cứ chuyển đổi thành tài sản có rủi ro.
Bảng : Quy định tỷ lệ rủi ro chuyển đổi thành tài sản có rủi ro
Hệ số rủi ro
Tài sản có trong nội bảng can đối kế toán
Tái sản có ngoại bảng cân đối kế toán
0%
Tiền mặt; ngân phiếu đang có giá trị lưu hành; vàng; tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, giấy tờ có giá trị do NHNN và chính phủ phát hành có bảo lãnh; bảo đảm tiền cho vay bằng tiền tiếc kiệm; khoản cho vay có bảo đảm của chính tổ chức tín dụng; khoản cho vay có bảo đảm do NHNN, chính phủ Việt Nam phát hành.
2%
Cam kêt mua hối đoái có kỳ hạn
20%
Tiền gửi trong các tổ chức tín dụng khác; giấy tờ có giá do chính quyền tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức tín dụng khác phát hành; cho vay từ nguồn vốn uỷ thác; cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá của chính quyển tỉnh, thành phố, tổ chức tín dụng khác phát hành; khoản cho các tổ chức tín dụng khác vay; khoản cho thuê tài chính đối với TCTD khác
50%
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh dự thầu; các hình thức bảo lãnh khác cho tổ chức cá nhân trong các nghiệp vụ thanh toán L/C
100%
Cho vay thế chấp bất động sản; cho vay không có bảo đảm; cho thuê tài chính đối với cá nhân và các tổ chức khác; góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp; cam kết mua bán hối đoái có kỳ hạn và trong nghiệp vụ thanh toán L/C
Bảo lãnh vay; bảo lãnh thanh toán
5.1.2 Tỷ lệ thanh khoản
Theo quyết định 297/ 1999, kết thúc ngày làm việc các tổ chức tín dụng phải duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ thanh khoản tối thiểu bằng 1 giữa tài sản nợ phải thanh toán ngay.
Tài sản có thể thanh toán ngay bao gồm tiền mặt; ngân phiếu trong kỳ hạn lưu hành; vàng, kim loại, đá quy, tiền gửi tại ngân hàng nhà nước ; tiền gửi không kỳ hạn trong các tổ chức tín dụng khác ; tiền gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán ; tối đa 95% các khoản cho vay đến hạn thu nợ; các loại giấy tờ có giá; các khoản thu từ cam kết mua bán ngoại tệ có kỳ hạn thực hiện; các khoản đến hạn thu khác.
5.1.3 Tỉ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
Các tổ chức tín dụng thường được phép sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.
Theo quyết định 297/1999 của ngân hàng Nhà nước các tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng tố đa 25% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Riêng đối với các đối tượng vay là tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân và các tín dụng của các HTX thì tỉ lệ quy định tối đa là 20% và 10% tương ứng.
Tóm lại về phía quản lí nhà nước, Ngân Hàng Nhà Nước đã ban hành 04 tỉ lệ an toàn (an toàn vốn tối thiểu, an toàn về thanh khoản an toàn về sủ dụng nguồn vốn vay ngắn hạn và an toàn về tiền dư nợ tiền gửi). Tuy nhiên, chưa có cơ chế giám sát nào để đảm bảo các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước.
5.2 Quản ly rủi ro trong các ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất trong các ngân hàng thương mại. Điều đó giải thích tại sao rủi ro tín dụng là mối quan tâm hàng đầu các tổ chức tín dụng này. Bên cạnh nhưng tiến bộ đạt được trong một vài năm trở lại đây, vấn đề quản lyrủi ro tài chính trong các ngân hàng thương mại vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế sau :
Đối với tổ chức tín dụng, việc quản lí còn chưa đồng bộ, chưa có chiến lược rõ ràng. Nội cung chủ yếu trong quản lí rủi ro tín dụng là phòng ngừa ở phạm vi từng khoản vay mà chưa có chiến lược quản ly danh mục các khoản vay. Đối với từng tài khoản vay, biện pháp phòng ngừa rủi ro chỉ mang tính định tính. Trong các ngân hàng thương mại chưa có ngân hàng nào thực hiện hệ thống xếp hạng rủi ro tín dụng. Vì thế không lượng hoá được mức độ rủi ro.
Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng được áp dụng nhiều nhất hiện nay là yêu cầu tài sản thế chấp và việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro dưa trên cơ sở phân loại (đinh tính) các khoản vay
Về cơ cấu tổ chức quản lí rủi ro, nhìn chung các ngân hàng chưa có bộ máy chuyên trách để quản lí rủi ro. Tuy nhiên, hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ về bản chất không phải là thực hiện công tác quản kí rủi ro mà là giám sát việc thực hiện các quy định kinh doanh của ngân hàng.
Trong mỗi ngân hàng có một bộ phận (Phòng quản lí tín dụng) làm nhiệm vụ quản lí rủi ro tín dụng. Bộ phận này quản lí rủi ro thông qua việc soạn thảo các văn bản chế độ cho vay, trong đó mới chỉ chú trọng điều kiện cho mon vay. Các điều kiện này hiện nay chỉ đủ để dảm bảo lựa chọn một khoản cho vay an toàn.
Các quy định chủ yếu quản lí rủi ro tín dụng là: tổ chức hội đồng tín dụng, phân mức phán quyết cho chi nhánh, phân vùng đầu tư cho chi nhánh.
Khâu yếu nhất trong quản lí rủi ro là thông tin. Hệ thống thông tin ngân hàng hiện nay chưa đầy đủ, thiếu chính sác và không kịp thời. Đa phần các thông tin được báo cáo bằng mẫu biểu nên rất khó sự dụng phân tích.
Thông tin về cơ cấu tài sản hiện chưa cho phép áp dụng các biện pháp quản lí tài sản nợ có, chưa phân loại được tài sản theo kì hạn.
Ngoài rủi ro tind dụng là quan trọng bậc nhất hiện nay đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng cũng tập trung một phần nào đó rủi ro tỉ giá trong các hợp đồng kì hạn (forward), hợp đồng tương lai (future) và hợp đồng sawp. Tuy nhiên, thời gian ngần đây (kể từ năm 2000) các ngân hàng bắt đầu thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường nên rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản trơ nên quan trọng.
Triển vọng : Hiện các ngân hàng thương mại đang xây dựng bộ máy quản lí rủi ro, đứng đầu là Hội đồng quản lí rủi ro, Ban quản lí tài sản nợ có, nhóm giúp việc cho ban quản lí tài sản nợ có. Các ngân hàng nói chung đã chuẩn bị xong khâu chuẩn bị về mặt nhân sự. Nhưng còn phải làm rất nhiều khâu : đào tạo, xây dựng quy trình và quy chế hoạt động, mua phân mền kĩ thuật, cải tiến hệ thống hoạch toán.
Chương 6 : Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro
Rủi ro tín dụng thường thể hiện dưới một số hình thức : rủi ro về lãi suất huy động, lãi suất cho vay, nhưng khoản tín dụng không có khả năng thu hồi do khách hàng không trả được nợ, nợ quá hạn,… Đặc biệt rủi ro tín dụng ngân hàng thường tập trung ở sự yếu kém của khách hàng kinh doanh bị thua lỗ, lừa đảo, yếu kém về trình độ quản lí của ngân hàng, của cán bộ nhân viên tín dụng ngân hàng, mặc khác khi quyết định những khoản cho vay không tuân thủ các nguyên tắc chế độ tín dụng mà ngân hàng Nhà nước quy định. Cho vay, không tôn trọng các chế độ an toàn, gây nên chất lượng tín dụng kém hiệu qủa là hệ qủa tất yếu đưa đến rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Xuất phát từ một số nguyên nhân của rủi ro tín dụng hoạt động ngân hàng nên trên, ta rút ra một số biên pháp sau :
6.1 Xây dựng phương thức cho vay :
Thực tế xây dựng phương thức cho vay phải dựa trên cơ cấu và chất lượng các khoản vay của ngân hàng. Phương thức này quy định thể thức cho vay của ngân hàng và được thể hiện bằng văn bản: Thông thường phương thức cho vay phải đáp ứng được;
+ Các khoản cho vay đáng tin cậy và khả năng thu hồi vốn
+ Có chính sách đầu tư có lợi cho các khoản ngân quỹ của ngân hàng kinh doanh.
+ Có chính sách khuyến khích các khoản tín dụng có thể thoả mãn nhu cầu hợp pháp của thị trường mà ngân hàng cho vay.
Phương thức cho vay có thể thay đổi theo thời gian cũng như thay đổi theo chu kí tín dụng. Thực ra điều quan trọng là phương thức cho vay phải được cập nhật thường xuyên để phản ánh thực tại như một công cụ kiểm soát, một ngân hàng quản lí tôt thì phương thức cho vay là công nhăm bảo đảm xử lí đầy đủ các loại rủi ro mà ngân hàng sẵn sàng chấp nhận trong môi trường kinh doanh của họ.
Xây dựng quy trình quản lí tín dụng
Những ngân hàng hoạt động tốt đều coi trọng quy trình và thể lệ cho vay – là cơ sở thu hồi nợ bảo đảm lành mạnh về vốn đầu tư và sinh lời: Có 4 giai đoạn chính trong tiến trình quản lí rủi ro tín dụng:
+ Khởi đầu cho đến khi giải ngân và mục tiêu kinh doanh được chấp nhận, rủi ro được xem xét khi lập hồ sơ tín dụng và cho vay.
+ Giám sát khách hàng vay và theo dõi trả nợ.
+ Thu hồi nợ.
+ Đo lường rủi ro ngay từ giai doạn đầu cho đên khi thu hồi được hết nợ.
Trong thực tế 4 giai đoạn trên đều dựa vào chính sách tín dụng, thủ tục, kiểm soát và chế độ thông tin quản lí, là điểm trọng yếu của quy trinh quản lí tín dụng.
6.2 Thông tin khách hàng
Phải xác định cho được khách hàng vay vốn thuộc đối tượng nào? uy tín của họ đối với ngân hàng ra sao? Có sẵn lòng để trả nợ ngân hàng hay không? phương án xin vay vốn có mang lại hiệu quả kinh tế, để khách hàng trả nợ ngân hàng? việc thẩm định uy tín khách hàng phải được xem là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Xét theo ly thuyêt thì việc đánh giá các yếu tố cá nhân là hoàn toàn mang tính chất chủ quan, thế nhưng việc đánh giá của cán bộ tín dụng có được chinh sác hay không se có vai trò quyết định đến hiệu quả tín dụng của việc cho vay, nếu việc đánh giá sai đối tượng khách hàng xin vay vốn, sẽ làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng hoặc ngân hàng không có khả năng thu hồi nợ đã cho vay, sẽ phát sinh rủi ro trong các khoản vay. Công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu người đi vay là khách hàng thường xuyên và lâu năm của ngân hàng đã từng vay vốn trước đố, trường hợp mới quan hệ với ngân hàng thì ngân hàng phải có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể về thủ tục, phương thức cho vay và đặc biệt quan tâm đên khả năng trả nợ của khách hàng, xem đến trách nhiệm quản lí kinh doanh… Những khía cạnh nên xem xét một cách kĩ lưỡng trong quá trình ra quyết định cho vay.
6.3 Tinh hình sử dụng vốn của doanh nghiệp
Điều khá đặc biệt đặt ra là cán bộ tín dụng ngân hàng phải thường xuyên theo dõi tình hình sủ dụng vốn vay mà doanh nghiệp đã vay của ngân hàng để thực hiện theo mục đích vay vốn, tránh tình trạng không quản lí được tình hình sử dụng vốn theo phương án xin vay. Mặt khác ngâng hàng cũng phải biết rõ làm thế nào để đưa ra được con số xin vay và phải yêu cầu người vay đưa ra bản dự toán chi tiết của phương án xin vay vốn, đồng thời nghiên cứu kĩ tình hình thu chi tiền mặt của đơn vị, qua đó ngân hàng vừa tạo điều kiện giúp khách hàng thiếu vốn được vay sử dụng có hiệu quả và đồng thời mở rộng tín dụng của mình trên cơ sở lợi nhuận và an toàn cao trong khi cho vay.
6.4 Đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng
Khả năng trả nợ của khách hàng thường phụ thuộc vào các nguồn thu trong tương lai khi hợp đồng tín dụng chuẩn bị đến hạn thanh toán, có thể có nguồn thu này là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn trong từng chu kì. Những con số dự trù về nguồn thu trong phương án kinh doanh cũng được xem xét trong mối quan hệ với cam kết khác mà người đi vay phải thực hiện trả nợ. Đặc biệt khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, ngân hàng phải lắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lợi của phương án xin vay và nguồn thu khác mà khách hàng có thể cam kết trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ chính có sự cố, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm năng có thể mà ban đầu cán bộ tín dụng chưa thể thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ được hợp lí. Có thể nói trong bất kì trường hợp nào thì nguồn vốn tự có phải được coi là nguồn vốn ly tưởng để trả nợ, ngân hang không chỉ dựa vào phương án xin vay vốn để tìm nguồn thu nợ vay khi đó ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt ngân hàng phải cố gằng tránh xa quan điểm cho vay hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ 3 bảo lãnh vì khi đã xử ly các mối quan hệ thê chấp thì thường đã xuất hiện rủi ro rồi, mặt khác đây là một quá trình xử lí lâu dài, tốn kém rất nhiều thời gian mà thiệt thòi luôn thuộc về phía ngân hàng cho vay.
Trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ, ngân hàng cũng yêu cầu khách hàng vay vốn cung cấp bảng tổng kết tài sản và số liệu về hoạt động kinh doanh trong 3 năm trỏ lại (dự kiến đầy đủ về chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị máy móc thiết bị mới, danh sách chủ nợ – con nợ theo thứ tự thời gian, kế hoạch kinh doanh, bản giới thiệu doanh nghiệp, tóm tắt lịch sử quá trình hoạt động của công ty, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của ban lãnh đạo). Thông qua đó ngân hàng luôn có những thông tin cần thiết của doanh nghiệp để có quyết định cho vay chính sác hơn, hiệu quả hơn. Ngân hang nên yêu cầu các doanh nghiệp phải có số liệu báo cáo hằng tháng, hàng quy về tình hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có chiều hướng sấu của doanh nghiệp, để có những biện pháp sử ly kịp thời. Khả năng trả nợ là yếu tố rất quan trọng đánh giá công tác trong hoạt động cho vay của ngân hàng, là minh chứng về uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ nợ nần, như vậy vấn đề xác định vấn đề thu hồi được nợ là quyết định sống còn của ngân hàng khi tiến hàng thủ tục cho vay.
6.5 Cho vay dựa vào tài sản thế chấp cầm cố tài sản
Thực tế hoạt động cho thấy nguồn trả nợ là kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Thực tế trong cơ chế bao cấp các ngân hàng thương mại không xem trọng yếu tố tài sản tài chính mà phần lớn cho vay theo kế hoạch, chủ trương, chỉ đạo,… Trong cơ chế kinh tế mới, nhiều thành phần sở hữu, hạch toán kinh tế độc lập thì việc coi trong tài sản tài chính trong hoạt động tín dụng cho vay thường là một yêu cầu đặc biệt được ngân hàng quan tâm, là một trong những điều kiện nhằm giúp cho cac ngân hàng thương mại có khả năng thu hồi được một phần khoản nợ cho vay thông qua việc phát mãi tài sản tài chính khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Điều này mặc nhiên cho chúng ta thấy khi sử ly tài sản tài chính thì quan hệ tín dụng cho vay đã gặp phải rủi ro, do vậy sử ly tài sản tài chính là một biện pháp cuối cùng để thu nợ mà thôi.
6.6 Thực hiện tín dụng ngân hàng như “trung gian tài chính chuyển tiếp”
Điều đáng lưu y nhất với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng trở thành trung gian chuyển tiếp rủi ro trong nền kinh tế. Từ những vấn đề đặt ra phải xem xét ở nhiều góc độ và phải khẳng định rằng quản lý rủi ro trong ngân hàng nói chung và quản lý rủi ro trong tín dụng nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng, nó không chỉ là vấn đề của từng ngân hàng riêng lẻ mà là vấn đề của toàn hệ thống ngân hàng và của toàn nền kinh tế. Từ quan niệm ngân hàng thương mại là trung tâm biến đổi và chấp nhận rủi ro và đồng thời là trung tâm chuyển tải rủi ro cho nền kinh tế, vì thế chúng ta phải quan tâm: Rủi ro tín dụng ngân hàng không chỉ là vấn đề quản lý vi mô mà còn là vấn đề quản lý vĩ mô của nền kinh tế. Muốn quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng có hiệu quả cần phải có các tiền đề hình thành môi trường kinh doanh ổn định có sự can thiệp và điều tiết của chính phủ. Để ổn định thị trường tài chính tiền tệ cần phải có những giải pháp đồng bộ trên cơ sở nâng cao trìng độ quản lý rủi ro của các trung gian tài chính (NHTM).
6.8 Khả năng đo lương các loại rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng
Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng phải chấp nhận nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh, điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng đo lường các rủi ro phải gánh lấy để tạo lợi nhuận có thể sinh ra trong tương lại. Do vậy giải pháp tìm ra mức thích hợp có tính dung hoà giữa rủi ro và lợi nhuận là vấn đề cần quan tâm của các nhà quản lý ngân hàng, một mối quan hệ biện chứng mới phát sinh là làm sao vừa gia tăng lợi nhuận vừa phải chấp nhận một mức độ rủi ro cho phép. Giải pháp đồng bộ trong quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng thể hiện sự đánh đồi lẫn nhau tạo nên mối quan hệ không thể tách rời nhau trong hoat động kinh doanh ngân hàng. Chính vì thế, người tã khái quát nên mục tiêu đối với lợi nhuận và rủi ro, câu hỏi được đặt ra liệu mức độ nào trong toàn bộ rủi ro mà ngân hàng nên gánh chịu để gia tăng lợi nhuận và bao nhiêu loại rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận? Bởi vậy các ngân hàng nhất thiết phải xem xét môi trương kinh doanh trong tương lai và dự đoán sự ảnh hưởng của nó đối với cán cân lợi nhuận và rủi ro và tình thế hiện tại của ngân hàng trước khi lựa chọn loại rủi ro và mức độ rủi ro so với lợi nhuận có thể chấp nhận được, đây là nhóm nhân tố góp phần giúp các ngân hàng thương mại ở Việt Nam sớm ổn định và phát triển.
6..9 Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng được thực hiện dưới hai hình thức: thứ nhất, tổ chức cho vay có thể từ chối cung cấp tín dụng cho dù khách hàng có nhu cầu vay và sẵng sàng trả lãi suất cao; thứ hai, tổ chức cho vay chỉ đấp ứng một phần chứ không phải toàn bộ khoản vay.
Hình thức thứ nhất được áp dụng nhằm ngăn ngừa hiện tượng lựa chọn nghịch (Adverse selection) vì những khách hàng nhiệt tình vay vốn với lãi suất cao thường sử dụng vốn vay vào dự án cos độ rủi ro cao.
Hình thức thứ hai là hạn mức tín dụng nhằm phòng tránh rủi ro đạo đức ứng sử (Moral hazard) bởi lẽ khoản vay càng lớn thì khách hàng càng có điều kiện sử dụng vốn vay sai mục đích mà tổ chức cho vay không thể kiểm soát được.
Chương 7: Một số biện pháp quản lý rủi ro hiện nay
7.1 Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Biện pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích, thẩm định kỹ lưỡng các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính của người nhận nợ và áp dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi đầu tư nhằm phân loại khoản vay và các đối tác vay vốn dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của nó đề quản lý.
7.2 Trích lập dự phòng rủi ro
Tổ chức tín dụng (TCTD) trích lập ra một khoản dự phòng nhằm bù đắp cho những rủi ro có thể xẩy ra căn cứ vào mức độ rủi ro của các tài sản có.
7.3 Bảo hiểm rủi ro tín dụng
Thị trường trái khoán hoặc NHTM yêu cầu người nhận nợ phải có một khoản chi phụ thu thêm cho việc mau bảo hiểm nhằm bảo đam cho doanh nghiệp khi bị phá sản.
Chất lượng tín dụng càng cao thì tỷ lệ bảo hiểm rủi ro tín dụng càng thấp, khi bảo hiểm rủi ro tín dụng của một doanh nghiệp tăng lên, các nhà đầu tư trái khoán và các NHTM sẽ yêu cầu tỷ lệ bảo hiểm tín dụng cao hơn. Việc tăng lên của các khoản bảo hiểm này là cần thiết để bù đắp cho mất mát dự kiến cao hơn về trái khoánhoặc khoản vay vì khả năng khoản vay sẽ không được hoàn trả. Kết quả là mức độ thấp nhất về chất lượng tín dụng có thể làm tăng chi phí vay của nó.
7.4 Biện pháp phân tán rủi ro
Năm giứ nhiều tài sản có rủi ro thay vì chỉ tập chung giữ một hay một số loại tài sản có rủi ro nhất định. Việc phân tán rủi ro tín dụng cho người vay cho phép các TCTD và các nhà đầu tư giảm rủi ro tín dụng đối với toàn bộ tài sản có.
Tập hợp nhiều loại cho vay trong một tài sản cho phép TCTD giảm sự thay đổi về thu nhập của chúng. Thu nhập từ các khoản cho vay thành công sẽ bù đắp phần lỗ từ nhũng khoản cho vay bị vỡ nợ. Do đo sẽ làm giam khả năng TCTD đo sẽ bị thiệt hại.
7.5 Sử dụng thị trường bán nợ
Sau khi đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp vay, TCTD hoặc nhà đầu tư lập tức tập hợp các tài sản co rủi ro (trái phiếu hoặc khoản nợ có rủi ro tín dụng) và bán cho các nhà đầu tư khác đề chuyển đổi sở hứu khoản nợ nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Theo quan điểm của các nhà đầu tư việc mua các phần của gói nợ này là tương đối hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua nhiều khoản vay sẽ làm giảm rủi ro tín dụng nói chung và làm tăng các khoản thu nhập từ gói nợ đã mua mà không nhất thiêt phải nắm giữ các tài sản có này.
Như vậy để quản lý rủi ro tín dụng, các TCTD, các nhà đầu tư có thể sử dụng các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, bảo hiểm, phân tán rủi ro hoặc đặt chung các tài sản có rủi ro tín dụng với các tài sản khác và bán các phần của nó cho các nhà đầu tư bên ngoài. Những biện pháp như vậy có thể làm giảm rủi ro tín dụng của TCTD hoặc nhà đầu tư và những rủi ro tín dụng này có thể được chia sẻ cho những người sở hứu mới. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ nàycó những hạn chế, cụ thể:
Việc trích lập dự phòng rủi ro thường đặt ra những yêu cầu về tài chính đối với các tổ chức tín dụng trong khi bảo hiểm rủi ro lại đăt ra nhưng yêu cầu về tài chính đối với người nhận nợ. Do vậy, cả hai biện pháp nàyhoặc làm giảm khả năng cân đối và điều hành vốnkhả dụng của tổ chức tín dụng hoặc làm tăng chi phí vay vốn của người vay, dẫn đến TCTD gặp khó khăn trong việc mở rông tín dụng và thực hiên chính sách khách hàng.
Do các tổ chức tín dụng thường có xu hướng tập chung các khoản vay tín dụng của họ vào một số ngành, lĩnh vực sản xuất nhất định hoặc một số điạ bản nhất định, nên chúng thường bị giới hạn bởi các c hội phân tán rủi ro, sự hạn chế khả năng phân tán về địa lí hoặc các ngành, lĩnh vực đồng nghĩa, ví việc thu nhập từ những khoản cho vay của họ sẽ chủ yếu dựa vào kinh tế địa phương hoặc các ngành, lĩnh vực đó, vì vậy sự biến động về kinh tế của địa phương hoặc các ngành, lĩnh vực sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Riêng ở Việt Nam, do khả năng tiếp cận và trình độ tiếp thu công nghệ tài chính – ngân hàng của các TCTD hiện nay còn ở mức độ thấp nên biện pháp chủ yếu nhất vẫn chỉ là nâng cao chất lượng tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro, một số hoạt động khác như bán nợ và sử lí tài sản thế chấp mới trong giai đoạn triển khai, chưa thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Vì vậy, việc tiếp thu và sử dụng các công cụ dẫn suất tín dụng để quản lý rủi ro là hết sức cần thiêt đối với TCTD Việt Nam.
Phần kết luận
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra khi xuất hiện những biến cố không lường trước được do chủ quan hay khách quan khiến cho người đi vay không thực hiện đúng cam kết nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội như lạm phát, suy thoái kinh tế, chính sách nhà nước hoặc môi trường pháp lí không ổn định, chiến tranh hoặc thiên tai… Dù rủi ro tín dụng có xuất hiện từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng. Điều đó khẳng định lại rằng rủi ro tín dụng là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết trong hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện nay.
Và để hệ thông ngân hàng hoạt động tốt hơn động thời hạn chế được những rủi ro tín dụng kể trên thì tiền đề vẫn là môi trường luật pháp, môi trường kinh tế được cải thiện tốt hơn. Như vậy cần có sự góp sức của các Bộ ngành liên quan nhất là Bộ tài chính, kinh tế, nội ngoại thương… cùng cố gắng của bản thân ngân hàng và sau hết là sự góp sức của mỗi người tuỳ vị trí của mình trong xã hội.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình ly thuyết tài chính tiền tệ
Tạp chí ngân hàng bài: “Giải pháp quản lí rủi ro thông qua công cụ dẫn suất tín dụng của tổ chức tín dụng Việt Nam” Nguyễn Khắc Trung. Số 1+2 năm 2002
Tạp chí ngân hàng bài: “Phân tích rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại” PTS. Đào Minh Phúc số 3+4 năm 1999
Tạp chí ngân hàng bài: “Vấn đề dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng” Lê Thị Thanh Nhàn. Số 7 năm 2000
Rủi ro thực tiễn và phương pháp đánh giá. Nguyễn Văn Nam – Hoàng Xuân Quyền (NXB tài chính)
Tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Chương 4
Ly thuyết tiền tệ ngân hàng. Chương 7
Bài: “Một số y kiến về vấn đề rủi ro tín dụng hiện nay” Chu Chí Thành
Địa chỉ:
Bài “Rủi ro tín dụng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng” Trần Minh Tuấn (PGD ngân hàng nhà nươc chi nhánh TP Hồ Chí Minh)
Tham luận trong hội thảo “Rủi ro tín dụng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng” ngày 30.9.1997
Địa chỉ: http:www.hcmeco.edu.vn/tcptkt/th-10-97/minhtuan.htm
Bài: “Ước lượng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại” Chu Chí Thành
địa chỉ:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0762.doc