Đề tài Cải cách thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tầm quan trọng cho đến năm 2020. Nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC PHẦN I: THỰC TRẠNG VÀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ TẦM QUAN TRỌNG ĐẾN NĂM 2020 3 1.1. Những lý luận chung về thuế 3 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế 3 a. Khái niệm: 3 b. Đặc điểm của Thuế: 3 c. Vai trò - chức năng của Thuế 3 1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của thuế: 4 1.2. Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 4 1.2.1. Những thành tựu quan trọng đạt được của hệ thống thuế hiện hành 4 1.2.2. Những thuận lợi trong cải cách chính sách thuế ở nước ta 5 1.2.3. Những khó khăn và hạn chế trong cải cách chính sách thuế ở nước ta 6 1.2.4. Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế: 6 1.3. Định hướng cải cách chính sách thuế ở Việt Nam 7 1.3.1. Ý nghĩa 7 1.3.2. Mục tiêu 7 1.3.3. Yêu cầu cấp bách phải cải cách hệ thống thuế hiện hành 8 a. Vấn đề tài khóa 8 b. Vấn đề tái phân phối thu nhập và công bằng xã hội 8 c. Vấn đề hiệu quả trong phân bổ nguồn lực 8 d. Vấn đề hành chính thuế 8 1.4. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay và xu hướng đến năm 2020 9 1.4.1. Nguyên tắc và định hướng của việc cải cách chính sách thuế 9 1.4.2. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam 9 a. Kiến nghị sửa đổi trong một số luật thuế 10 b. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thủ tục hành chính thuế 11 c. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế 11 d. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm 12 e. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế 12 f. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế 12 PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 13 2.1. Những lý luận chung về Nợ Công 13 2.1.1 Khái niệm, mục đích của nợ công 13 a. Khái niệm 13 b. Mục đích vay của Chính Phủ 13 2.1.2 Sử dụng vốn vay của chính phủ 14 2.1.3 Các hình thức vay nợ của chính phủ 14 2.2. Thực trạng của nợ công 15 2.2.1. Nợ công đã vượt ngưỡng báo động 15 2.2.2. Thâm hụt ngân sách cao ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công 16 2.2.3. Nợ công sẽ còn tăng lên trong thời gian tới 16 2.2.4. Sử dụng nợ công không hiệu quả 17 2.2.5. Việc xác định nợ công vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến công tác quản lý vĩ mô của nhà nước 17 2.3. Giải pháp cho vấn đề nợ công ở Việt Nam 18 2.3.1. Giải pháp về chính sách và công cụ quản lý: 18 2.3.2. Giải pháp trong việc tổ chức thực hiện quản lý nợ công: 18

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2385 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải cách thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tầm quan trọng cho đến năm 2020. Nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên đề tài: Cải cách thuế ở VN trong giai đoạn hiện nay và tầm quan trọng cho đến năm 2020. Nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp MỤC LỤC PHẦN I: THỰC TRẠNG VÀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ TẦM QUAN TRỌNG ĐẾN NĂM 2020 Những lý luận chung về thuế Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế Khái niệm: Về kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công. Về phân phối TN thì thuế là hình thức phân phối và phân phối lại TSPXH và TNQD Về người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc. Vậy: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các pháp nhân, thể nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn xã hội. Đặc điểm của Thuế: Thuế luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước: Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp. Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước: Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị buộc người nộp thuế chuyển giao một phần thu nhập cho nhà nước thông qua quy định pháp luật về thuế Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp: Thuế không mang tính chất đối giá, mà nhận được lợi ích do NN cung cấp cho cộng đồng xã hội ( CSHT, KTTT…) Vai trò - chức năng của Thuế Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước: nguồn thu từ thuế chiếm trên 90% tổng thu và ổn định ngân sách nhà nước Năm Tỷ lệ thu NSNN/GDP (%) (không kể tăng thu do giá dầu thô tăng giá) Tỷ lệ thuế, phí/GDP (%) Tỷ lệ bội chi NSNN/GDP (%) 2004 24,2 20,2 4,85 2005 23,8 21,1 4,86 2006 25,2 22,6 5 2007 27,5 23,8 6 2008 26,9 23,9 4,58 2009 24,7 24 6,9 Điều tiết nền kinh tế: Khi sử dụng công cụ thuế, nhà nước có thể mở rộng hoặc thu hẹp một ngành kinh tế nào đó, đồng thời điều chỉnh giá cả thị trường, hạn chế lạm phát, thực hiện việc bảo hộ nền sản xuất trong nước Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng và thực hiện công bằng xã hội: Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng và đánh thuế thấp đối với mặt hàng thiết yếu, khuyến khích tiêu dùng.Nguồn thuế thu được, một phần được sử dụng để phân phối lại cho các đối tượng chính sách, khó khăn trong xã hội. Các nguyên tắc cơ bản của thuế: Nguyên tắc công bằng: Tất cả các đạo luật thuế đều đưa ra điều kiện đối với đối tượng nộp thuế, bất kỳ công dân nào đáp ứng các điều kiện này thì phải nộp thuế, không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp…. Nguyên tắc hiệu quả: đối với nền kinh tế được thể hiện về hiệu quả việc phân bổ nguồn lực của xã hội, giảm bớt chi phí hành chính, tạo thuận tiện cho người nộp thuế. Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, cụ thể: xác định rõ ràng đối tượng nộp thuế, chịu thuế, quy định cụ thể mức thuế phải nộp, thời hạn nộp thuế, miễn giảm, ưu đãi thuế cũng như xử lý vi phạm. Nguyên tắc linh hoạt: là khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế mới, đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời điểm và đối tượng thích hợp tạo ra sự ổn định và đáp ứng mục tiêu . Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Những thành tựu quan trọng đạt được của hệ thống thuế hiện hành Từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986), đất nước ta triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội.Sau gần 25 năm đổi mới, trải qua ba bước cải cách lớn đến nay ngành thuế đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ: Đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, làm cơ sở pháp lý để huy động nguồn lực và là công cụ để Đảng và Nhà nước điều chỉnh sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Hệ thống thuế nước ta bao gồm 9 sắc thuế chủ yếu, được chế tài bằng 6 luật, 3 pháp lệnh, áp dụng thống nhất đối với mọi đối tượng nộp thuế của các thành phần kinh tế tạo nên nguồn thu của ngân sách nhà nước. Bảng 1: Các sắc thuế hiện hành ở Việt Nam Sắc thuế Ngày ban hành Hiệu lực từ  ngày Hình thức Thuế sử dụng đất nông nghiệp 10.7.1993 1.1.1994 Luật Thuế nhà, đất 19.5.1994 1.1.1995 Pháp lệnh sửa đổi Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 19.5.1994 1.6.1994 Pháp lệnh sửa đổi Thuế chuyển quyền sử dụng đất 22.6.1994 1.7.1994 Luật Thuế tài nguyên 16.4.1998 1.6.1998 Pháp lệnh sửa đổi Thuế giá trị gia tăng 10.5.1997 1.1.1999 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 10.5.1997 1.1.1999 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 10.5.1997 1.1.1999 Luật sửa đổi Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 20.5.1998 1.1.1999 Luật sửa đổi Thủ tục hành chính thuế đã liên tục cải cách theo hướng rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí tuân thủ pháp luật thuế, đồng thời tiết kiệm được chi phí và nguồn lực trong quản lý thuế. Thành tựu nổi bật trong lĩnh vực quản lý thuế là đã thống nhất hệ thống quản lý thuế trên cơ sở hợp nhất 3 hệ thống quản lý thuế độc lập: Cục thu quốc doanh, Cục thuế nông nghiệp và Cục thuế công thương nghiệp. Ngành thuế đã hình thành hệ thống quản lý thuế thống nhất từ trung ương đến địa phương để quản lý thuế. Xây dựng hàng loạt các quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế theo hướng chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ quản lý thuế và từng bước chuyển sang chế độ tự khai - tự nộp thuế. Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường và đào tạo bồi dưỡng, nâng cao kể cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Công tác kiểm tra, thanh tra thuế đã được coi trọng, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lý thuế. Đã ứng dụng và phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin vào nhiều khâu quản lý thuế, phục vụ tốt người nộp thuế, do đó đã góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế. Ðến nay, tỷ lệ ứng dụng tin học đạt khoảng hơn 60% các công việc quản lý thuế, tự động hóa hầu hết các chức năng quản lý thuế chủ yếu, như: đăng ký thuế, xử lý kê khai, nộp thuế, kế toán thuế, quản lý thu nợ, thanh kiểm tra. (Nguồn: Tổng cục thuế). Những thuận lợi trong cải cách chính sách thuế ở nước ta Hệ thống chính trị ổn định, Đảng và Nhà nước quyết tâm đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính – tiền tệ nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững VN đã đạt được thành tựu quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô trong thời gian qua là kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định trên cơ sở phối hợp đồng bộ các chính sách tài chính – tiền tệ. Góp phần tạo môi trường kinh tế ổn định mà còn cũng cố lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách chính sách tài chính – tiền tệ nói chung và chính sách thuế nói riêng Sự thành công của các lần cải cách chính sách thuế trong thời gian qua đã cung cấp cho Chính phủ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cải cách chính sách thuế, góp phần đưa ngân sách từ chỗ thu trong nước không đủ chi thường xuyên tiến tới không những đảm bảo đủ nhu cầu chi thường xuyên mà còn có phần tiết kiệm để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước ngày một tăng lên. Là một nước đi sau trong tiến trình hội nhập quốc tế, VN có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước trong việc đổi mới chính sách thuế. Những khó khăn và hạn chế trong cải cách chính sách thuế ở nước ta Với một nền đang chuyển đổi như VN, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn và hạn chế nhất định: Cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; đối với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng vào GDP ngày càng tăng, song phần lớn là những cơ sở kinh doanh nhỏ và ẩn nấp nhiều hoạt động phi chính thức, không ổn định; tỷ lệ tiền lương còn chiếm trong tổng thu nhập quốc gia nhỏ. Hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thuế. Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và thống kê có gặp phải nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy. Môi trường pháp lý kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế như quản lý đăng ký kinh doanh, quản lý đất đai, quản lý xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý thanh toán bằng tiền mặt…. Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ bản chất và lợi ích của công tác thuê; chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian lận về tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu tiền thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu cho ngân sách, vừa không đảm bảo công bằng xã hội. Một số quy định còn rườm rà phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch, gây khó khăn tốn kém chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế. Chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và thế giới. Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế: Thử thách về nguồn thu: Sự hội nhập vào kinh tế thế giới yêu cầu phải gia tăng nguồn thu thuế để Nhà nước đảm nhận vai trò như chính phủ của các nền công nghiệp phát triển. Thử thách về quản lý thuế: Với sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu, hàng rào thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế và nguồn thu của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thuế thương mại quốc tế. Hiện tại những điều khoản chống lạm dụng thuế trong các đạo luật thuế cũng như sự đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ kiểm toán thuế ở VN nói chung là chưa đủ để ngăn chặn và phát hiện những thực tế như vậy. Về hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu hút vốn là một thử thách không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển. Điều quan trọng ở đây, cần phải giới hạn mục tiêu của thuế và giới hạn sự khuyến khích của thuế, đồng thời phải kết hợp với nhiều công cụ kinh tế để cạnh tranh và thu hút vốn . Định hướng cải cách chính sách thuế ở Việt Nam Ý nghĩa Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần: Gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công. Gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệch hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Mục tiêu Thuế là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.  Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính của xã hội, nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện các mục tiêu có tính đặc thù, đó là:  Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công. Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.  Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một chính sách thuế minh bạch, công bằng, có tính luật pháp cao. Yêu cầu cấp bách phải cải cách hệ thống thuế hiện hành Vấn đề tài khóa Trong điều kiện Việt Nam, tình trạng thâm hụt ngân sách quá cao trong nhiều năm đã đặt ra một yêu cầu phải cơ cấu lại cán cân ngân sách, trong đó cải cách thuế trên cơ sở gia tăng nguồn thu là một nhánh của quá trình. Đối với khía cạnh tài khóa, hoạt động cải cách thuế là nhằm làm tăng thu ròng cho ngân sách. Tình trạng bội chi ngân sách lớn và kéo dài đã làm cho không gian tài khóa trở nên chật hẹp, qua đó làm giảm tính chủ động của chính phủ trong các phản ứng chính sách, đặc biệt trong điều kiện thực hiện các gói kích thích kinh tế thời gian qua. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc tế sẽ giảm dần, do đó chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới đề quản lý nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết và vựt dậy nền kinh tế. Vấn đề tái phân phối thu nhập và công bằng xã hội Động cơ của cải cách thuế còn liên quan đến các vấn đề chính trị và xã hội, đó là khả năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo các tiến bộ và công bằng xã hội. Quá trình đổi mới kinh tế và cải cách thể chế ở Việt Nam đã tạo cơ hội cho một bộ phận người giau lên nhanh chóng nhưng lại tạo ra tầng lớp người nghèo mới. Theo Luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay cho thấy, không phải người nào giàu nhất cũng đang đóng thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người nghèo lại phải gánh những khoản thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của họ. Do đó hoạt động cải cách thuế nhằm phân phối thu nhập của xã hội để đảm bảo công bằng hơn cho phát hiện kinh tế hiện này là mục tiêu quan trọng. Vấn đề hiệu quả trong phân bổ nguồn lực Cải cách thuế còn phải làm tăng tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực vốn có tính hữu hạn của nền kinh tế.Cải cách thuế sẽ giúp điều chỉnh lại các khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế, khuyến khích khởi nghiệp và tinh thần doanh nhân. Thông qua các chính sách thuế, chính phủ có thể tạo ra các động cơ khuyến khích có tính kinh tế để khu vực tư nhân phân bổ vốn và các ngành nghề và lĩnh vực mục tiêu. Các chính sách thuế mới của Chính phủ để điều tiết và phân bổ lại nguồn lực thích hợp. Nguyên tắc quan trọng là cải cách thuế phải làm giảm tổn thất phúc lợi vô ích của xã hội bằng cách tạo ra một sắc thuế có mức thuế suất thấp nhưng có cơ sở thuế rộng hơn. Vấn đề hành chính thuế Hệ thống quản lý thu thuế ở Việt Nam được đánh giá là kém hiệu quả, trong khi mức độ tuân thủ của người nộp thuế thấp. Do vậy, khía cạnh hành chính thuế ở Việt Nam vừa mang tính mục tiêu, vừa mang tính hỗ trợ cho các cuộc cải cách thuế. Cải cách hành chính thuế phải tập trung vào ba lĩnh vực bao gồm giảm sự quá tải của hệ thống quản lý thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế và giảm chi phí quản lý thu thuế. Sự quá tải của hệ thống quản lý thuế hiện nay không chỉ cho thấy sự gia tăng về quy mô và tính phức tạp của hệ thống thuế mà còn là sự lạc hậu của mô hình quản lý thuế cũ không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Thực trạng đó cho thấy sự cần thiết phải thay đổi một cách căn bản và toàn diện phương thức quản lý một hệ thống thuế mới phù hợp hơn, có tính động và hiệu quả hơn. Do các thủ tục hành chính rờm rà phức tạp làm tăng chi phí tuân thủ thuế của người nộp thuế, bênh cạnh đó hệ thống quản lý thuế quá cồng kềnh lại không hiệu quả.Một số điều tra cho thấy các doanh nghiệp hàng năm phải mất trên 1.000 giờ cho các thủ tục liên quan đến thuế. Nếu nhân con số này với số doanh nghiệp nộp thuế sẽ thấy được một sự lãng phí ghê gớm về mặt nguồn lực mà nền kinh tế phải bỏ ra hàng năm Yêu cầu của cải cách thuế không chỉ là tái cơ cấu lại nguồn thu như đã đề cập ở trên mà còn phải tái cơ cấu lại cách thức quản lý hệ thống hành thu của các cơ quan thuế trên cơ sở giảm chi phí và tăng hiệu quả quản lý thuế. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay và xu hướng đến năm 2020 Nguyên tắc và định hướng của việc cải cách chính sách thuế Do hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, bên cạnh việc đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế như mở rộng thị trường xuất khầu, thu hút đầu tư, giảm chi phí do giá nhập khẩu giảm… đồng thời cũng tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình hội nhập thì chính sách thuế ở Việt Nam cần phải đảm bảo một số yêu cầu cơ bản mang tính nguyên tắc đó là: Hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam phải thực hiện theo đúng các cam kết về thuế trong các Hiệp định với các đối tác thành viên của WTO cũng như trong các Hiệp định song phương và đa phương. Hệ thống chính sách thuế phải phù hợp với đặc thù nền kinh tế ở Việt Nam và tuân thủ các nguyên tắc căn bản của thương mại quốc tế.hT Hệ thống chính sách thuế phải có sự cạnh tranh cao, nhưng đồng thời vẫn góp phần bảo đàm sự an toàn và ổn định của thị trường trong nước. Hệ thống chính sách thuế phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với các chính sách kinh tế, tài chính khác trong bối cảnh hội nhập, ổn định nguồn thu của ngân sách nhà nước. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế cần được xem xét trong mối quan hệ tổng thể về các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, phù hợp với năng lực hành chính và đạo đức của người nộp thuế. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam Kiến nghị sửa đổi trong một số luật thuế Thứ nhất: Định hướng hoàn thiện thuế tiêu dùng. Định hướng chung là củng cố và hoàn thiện các sắc thuế tiêu dùng nhằm tạo ra một hệ thống các sắc thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết, làm nền tảng bổ sung cho nhau, thuận tiện trong công tác quản lý và đảm bảo nguồn thu ổn định cho NSNN. Đối với chính sách thuế GTGT: Xây dựng các tiêu chuẩn rõ ràng về điều kiện hoàn thuế, đơn giản hóa qui trình thủ tục và cải tiến phương pháp hoàn thuế để đảm bảo tính kịp thời và chính xác, tiến tới áp dụng cơ chế một mức thuế giá trị gia tăng để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Đối với chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt: Xóa bỏ miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng xuất khẩu phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.Về thuế suất, cần nghiên cứu, áp dụng thuế suất hợp lý đối với các mặt hàng nhằm mục tiêu điều tiết, định hướng sản xuất, tiêu dùng; đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Cần đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, thận trọng trong việc vận dụng các cam kết hội nhập để điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu, vừa góp phần ổn định nguồn thu cho NSNN, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời hạn chế sự chệch hướng thương mại giữa khu vực ASEAN và WTO. Thống nhất đối tượng miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn thuế xuất khẩu. Hoàn thiện các qui định về các loại thuế mới được WTO thừa nhận để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thứ hai: Định hướng hoàn thiện thuế thu nhập Phương hướng chung là khắc phục những nhược điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở đảm bảo nguồn thu ngày càng vững chắc và chiếm xu thế trong tổng thu ngân sách. Đối với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp: Xác định lại phạm vi đối tượng chịu sự điều chỉnh của thuế thu nhập doanh nghiệp để đảm bảo đúng tính chất là sắc thuế đánh vào thu nhập của doanh nghiệp và tuân thủ tính hệ thống của thuế thu nhập theo thông lệ thế giới. Giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tiến hành rà soát lại các chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng trọng tâm, trọng điểm và đảm bảo nguyên tắc tập trung các biện pháp ưu đãi khuyến khích cho các mục đích kinh tế và được áp dụng trong một thời gian nhất định. Đối với chính sách thuế thu nhập cá nhân: Cần qui định các đối tượng hộ gia đình và cá nhân tự kinh doanh cũng là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, tính thống nhất trong hệ thống chính sách thuế, công tác quản lý thu thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bổ sung thêm các nguồn thu nhập mới đang và sẽ phát sinh trong cơ chế thị trường, hội nhập (như thu nhập về đầu tư dưới dạng lãi cho vay, lãi tiền gửi, cổ tức…), thu nhập về chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản… Thứ ba: Định hướng hoàn thiện các sắc thuế thuộc loại thuế tài sản Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các sắc thuế tài sản hoàn chỉnh trong điều kiện của nước ta hiện nay cần phải được thực hiện theo một số nguyên tắc sau đây: Hệ thống các sắc thuế tài sản phải góp phần tạo ra được hành lang pháp lý đủ mạnh để nhà nước thực hiện chức năng quản lý và điều hành trong lĩnh vực tài sản nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mỗi sắc thuế cũng như toàn bộ các sắc thuế tài sản phải thể hiện được mối quan hệ hữu cơ, nhất quán, đồng bộ với các sắc thuế khác trong hệ thống thuế, có tác dụng bổ sung tích cực cho các chính sách thuế tiêu dùng và thuế thu nhập. Việc xây dựng mức thuế tài sản phải đảm bảo hợp lý với mức thu nhập của các tầng lớp dân cư. Nguyên lý chung là: mức thuế đối với tầng lớp dân cư có mức thu nhập thấp và trung bình không tăng so với mức đóng góp hiện hành. Tuy nhiên, mức thuế đối với các tầng lớp có thu nhập cao, có nhiều tài sản nhà và đất... phải đảm bảo cao hơn nhằm tạo ra hiệu ứng luỹ tiến đối với các loại thuế tài sản nói chung và hệ thống các sắc thuế nói chung. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thủ tục hành chính thuế Đơn giản hóa chính sách thuế: đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục; dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận. Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo sự công bằng xã hội. Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế. Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Ap dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế Cần phổ biến, giáo dục, truyền tải thông tin pháp luật thuế một cách cụ thể hơn, sâu hơn, có định hướng mục đích và đối tượng xác định hơn với cả đối tượng nộp thuế, cán bộ thuế và người chịu thuế để cho các chủ thể quan hệ pháp luật thuế biết rõ, cặn kẽ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình quy định trong các quy phạm pháp luật của các luật thuế và các văn bản hướng dẫn áp dụng các luật thuế. Trong điều kiện hướng tới việc thực hiện cơ chế các đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuế càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì muốn cho người nộp thuế thực hiện tốt việc tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế thì phải tạo điều kiện cho họ hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, về cách kê khai thuế, về phương pháp tính thuế, thời gian nộp thuế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm Các cơ quan thanh tra ngành thuế cần tiến hành phân lọai các đối tượng nộp thuế trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của mình theo mức độ rủi ro về tình trạng thất thu thuế và về độ tín nhiệm của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, theo đó những đối tượng chấp hành thực hiện nghiêm túc những quy định của chính sách thuế thì cần hạn chế việc thanh tra, kiểm tra, ngược lại với những đối tượng thường có biểu hiện vi phạm pháp luật thuế thì phải có kế hoạch tăng cường thanh tra, kiểm tra và áp dụng chế tài xử phạt nghiêm khắc với những hành vi sai phạm nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa chung đối với các đối tượng nộp thuế. Cần có quy định thống nhất về việc tổ chức thanh tra, kiểm tra sao cho hạn chế thấp nhất việc gây phiền hà, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế, theo đó chỉ có cơ quan thuế là cơ quan chức năng duy nhất có quyền tiến hành kiểm tra, thanh tra các đối tượng nộp thuế về việc chấp hành và thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế và nâng cao đội ngũ cán bộ ngành thuế là yêu cầu rất bức bách đặt ra trong điều kiện tiến hành cải cách thuế hiện nay. Thực hiện chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý thuế sẽ được thực hiện theo hướng tinh gọn, hiệu quả cao. Theo đó bộ máy quản lý thuế cần được tổ chức theo hướng kết hợp mô hình quản lý theo loại đối tượng nộp thuế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngòai, doanh nghiệp dân doanh, cá nhân) với mô hình quản lý thuế theo chức năng như thanh tra, kiểm tra, xử lý cưỡng chế thuế, cung cấp dịch vụ cho đối tượng nộp thuế và thu thuế. Cần xây dựng thêm bộ phận làm công tác cưỡng chế thuế để thực hiện việc cưỡng chế thu thuế đối với các đối tượng chây ỳ, cố tình dây dưa kéo dài nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước; thực thi các quyết định xử phạt các đối tượng nộp thuế; thực hiện việc thanh lý, phát mãi tài sản của những doanh nghiệp phá sản mà không còn đủ khả năng trả được các khoản nợ thuế. Tăng cường công tác bồi dưỡng, giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngành thuế đạt chuẩn chất lượng về chuyên môn nghiệp vụ thuế, nắm vững kiến thức kế toán, tài chính, thành thạo kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quản lý, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đồng thời, không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ thuế để nâng cao phẩm chất đạo đức người cán bộ, công chức ngành thuế; xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ có cố tình vi phạm chính sách pháp luật  thuế, những cán bộ có biểu hiện tha hóa biến chất, thông đồng, tiếp tay cho các hành vi gian lận, trốn lậu thuế, bất kể đó là cán bộ lãnh đạo hay nhân viên ngành thuế, nhằm chấn chỉnh, củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ thuế ngày càng trong sạch vững mạnh. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế Tư vấn thuế có thể là hoạt động mang tính chất của một dịch vụ công - như là một chức năng thuộc lĩnh vực hành chính của cơ quan thuế, tư vấn miễn phí cho tất cả các đối tượng nộp thuế, nhưng cũng có thể đó là hoạt động mang tính chất của một dịch vụ tư - các đối tượng nộp thuế nào có nhu cầu cung cấp dịch vụ tư vấn thì phải trả phí dịch vụ cho hoạt động này. Việc khuyến khích hình thành và phát triển hoạt động dịch vụ tư vấn thuế không chỉ là nhiệm vụ của ngành thuế mà đó còn là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết rõ, kịp thời về chính sách thuế hiện hành của Nhà nước, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế từ khâu đăng ký, kê khai nộp thuế, lập sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn về thuế, tính toán mức thuế và các khoản thuế phải nộp, … Đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp hành chính sách pháp luật, chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước của các đối tượng nộp thuế, góp phần nâng cao tính khả thi của chính sách thuế. Bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên, cần tiến hành đồng thời các giải pháp khác như chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý chứng từ hóa đơn, thực hiện tự động hóa công tác quản lý thuế bằng công nghệ tin học hiện đại, áp dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng trong các hoạt động mua bán, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ … Thực hiện đồng thời những giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao tính khả thi của chính sách thuế hiện nay ở nước ta, nâng cao hiệu quả tác dụng của chính sách thuế hiện hành đối với nền kinh tế xã hội, góp phần đạt được những mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách thuế ở nước ta đã đề ra. PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Những lý luận chung về Nợ Công Khái niệm, mục đích của nợ công Khái niệm Theo Luật quản lý nợ công Việt Nam , Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ công bao gồm: Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp, các tổ chức khác được vay theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam. Mục đích vay của Chính Phủ Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn. Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo quy định của pháp luật. Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Sử dụng vốn vay của chính phủ Cấp phát từ nguồn vốn vay trong nước và vay ưu đãi của nước ngoài cho chương trình, phương án đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước theo quy định của Luật ngân sách nhà nước Cho vay lại toàn bộ hoặc một phần từ nguồn vốn vay nước ngoài cho chương trình, dự án đầu tư có khả năng thu hồi một phần hoặc toàn bộ vốn vay, bao gồm cả dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ theo kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính Phủ, đề án cơ cấu lại nợ đã được phê duyệt. Các hình thức vay nợ của chính phủ Vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc không phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác của Việt Nam vay của chính phủ các nước, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ các nước, tổ chức tài trợ song phương và tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc. Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng thành tố ưu đãi không đạt tiêu chuẩn của vay ODA. Vay thương mại là khoản vay theo các điều kiện thị trường. Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư cụ thể. Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một năm trở lên, do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho dự án đầu tư theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh. Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một năm trở lên, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phát hành hoặc uỷ quyền phát hành nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương. Thực trạng của nợ công Nợ công đã vượt ngưỡng báo động Nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001 lên 56.7% GDP vào năm 2010. Quy định nợ công ở mức an toàn là 50% nhưng liên tiếp 2 năm 2009 và 2010 tỷ lện này đã vượt ngưỡng an toàn đề ra đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng mà việt nam cần phải giải quyết trong thời giàn tới. Với tỷ lệ nợ công này thì năm 2009 là 52,6% , thì tỷ lệ nợ công việt nam đã đứng thứ 44 trên thế giới và đứng thứ 2 đông nam á sau phillipine. Cao hơn rất nhiều so với các nước mới nổi và đang phát triển trong khu vức Thâm hụt ngân sách cao ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 6,2% GDP . chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt qua ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Nợ công sẽ còn tăng lên trong thời gian tới Hiện nay tỷ lệ đầu tư trên GPD (I/GPD) của chúng ta rất cao lên tới con số 41,9% trong năm 2010 trong khi tỷ lệ tiết kiệm chỉ đạt 27% vì vậy chúng ta cần phải bù đắp khoản thiếu hụt này. Do nước ta là nước phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế khu vực công nhìn vào biểu đồ dưới chúng ta thấy răng đầu tư khu vực nhà nước năm 2010 chiếm 38.1% tương đương 316,3 nghìn tỷ, khu vực doanh nghiệp ngòai nhà nước chiếm 36,1% 299,7 nghìn tỷ đồng, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 169,183 nghin tỷ đồng chiếm 28,5 % . qua các số liệu trên chúng ta có thể thấy rằng việc bù đắp thiếu hụt đầu tư sẽ dựa vào việc đi vay của chính phủ nhất là những năm tới đây sẽ có rất nhiều dự án được thực hiện. Nếu nhìn vào một số dự án đầu tư cụ thể từ nay đến năm 2030 như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam (56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận (hơn 10 tỉ USD)... - trong đó nguồn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách và nợ công - có thể thấy nợ công sẽ tăng mỗi ngày. Sử dụng nợ công không hiệu quả Việc quản lý và chất lượng sử dụng nguồn vốn vay của Việt Nam hiện nay rất yếu kém. Nhìn vào con số thống kê qua từng giai đoạn, từ năm 1995, hệ số ICOR của Việt Nam liên tục tăng: từ mức 3,5 giai đoạn 1991 – 1995, tăng đến 5,24 giai đoạn 2001 – 2003. Năm 2008, hệ số ICOR của nền kinh tế là 6,6 – đã gấp hơn 2 lần mức khuyến nghị, năm 2009 là 8 và năm 2010 trên 6. Đầu tư khu vực công hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư của Việt nam cho chúng ta thấy rằng hiệu quả từ việc sử dụng vốn đặc biệt là sử dụng vốn vay của khu vực này còn yếu kém hơn các con số icor trung bình trên rất nhiều. Việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn này dẫn đến tăng trương GDP thấp (chủ yếu tăng về lượng đầu từ chứ không tăng về năng suất và hiệu quả), Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công Việc xác định nợ công vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến công tác quản lý vĩ mô của nhà nước Định nghĩa nợ công của Bộ Tài chính chỉ bao gồm nợ của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh chứ không bao gồm nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc Chính phủ, trong đó có các doanh nghiệp nhà nước như định nghĩa của UNCTAD- Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển . Theo định nghĩa này, nợ công của Việt Nam hiện nay không dưới 70% GDP vì theo Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến 31-12-2008, riêng tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã lên tới 287.000 tỉ đồng (hay 20% GDP năm 2008), mà tổng dư nợ này lại tăng lên đáng kể trong năm 2009 do chính sách kích cầu của Chính phủ. Không những thế, thống kê nợ của doanh nghiệp nhà nước thường rất không đầy đủ, được minh chứng qua trường hợp của Vinashin với tổng dư nợ thực tế, theo một đại biểu Quốc hội, có thể lên tới 120.000 tỉ chứ không phải 86.000 tỉ như báo cáo của Chính phủ. Giải pháp cho vấn đề nợ công ở Việt Nam Từ những số liệu và phân tích về thực trạng nợ công tại Việt Nam hiện nay, các giải pháp được đưa ra tập trung chính vào hai vấn đề: Giải pháp về mặt chính sách và giải pháp thực hiện quản lý nợ công. Giải pháp về chính sách và công cụ quản lý: Xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện và hoàn chỉnh các văn bản pháp luật về quản lý nợ công, các văn bản hướng dẫn thi hành quy định rõ nội dung, nhiệm vụ và quyền hạn của nhà nước, các cơ quan, ban ngành trong việc quản lý nợ công. Hiện nay, các văn bản pháp luật về quản lý nợ công gồm có: Luật quản lý nợ công ( luật số 29/2009/QH12 có hiệu lực từ ngày 1/1/2010) và Nghị định 79/2010/NĐ-CP ( có hiệu lực thi hành từ ngày 30/08/2010).Các Văn bản pháp luật này đã bước đầu hình thành khung pháp lý cho vấn đề quản lý nợ công. Bước tiếp theo là việc tổ chức, theo dõi và đánh giá việc thực hiện để kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh nội dung quản lý pháp luật của nợ công. Xây dựng các chiến lược về quản lý nợ công dài hạn, trung hạn; định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn; cụ thể hóa các mục tiêu, yêu cầu của việc quản lý nợ công phù hợp với tình hình kinh tế chính trị của đất nước và bối cảnh thế giới. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan xây dựng chương trình quản lý nợ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xây dựng, ban hành chỉ tiêu an toàn về nợ, hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định phương pháp tính toán và xây dựng các chỉ tiêu giám sát nợ. Xây dựng kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp kế hoạch vay và trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ. Việc hoàn thiện chính sách, khung pháp luật và định hướng, chiến lược mục tiêu quản lý, kiểm soát đánh giá nợ công thông qua các hệ thống chỉ tiêu cụ thể sẽ là kim chỉ nan cho việc tổ chức thực hiện quản lý nợ công. Giải pháp trong việc tổ chức thực hiện quản lý nợ công: Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nợ nước ngoài. Nghiên cứu đề xuất mô hình đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng hiện đại và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh và sắp xếp lại một cách hợp lý cơ cấu tổ chức quản lý nợ trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự phân công đúng người, đúng việc, tránh chồng chéo, trùng lặp. Để đưa ra một mô hình quản lý nợ công hợp lý cho Việt Nam hiện nay chúng ta không chỉ dựa vào Luật quản lý nợ công; mà còn phải rút kinh nghiệm thực tiễn từ cách quản lý nợ công trên thế giới để tránh đi vào vết xe đổ khủng hoảng nợ công của các nước. Cung cấp đầy đủ trang thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống thông tin, hiện đại hóa quy trình thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ tiên tiến. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây dựng những cơ chế phối hợp trong việc quản lý thông tin nợ quốc gia, tăng cường đầu tư cung cấp đầy đủ những phương tiện, thiết bị nhằm phục vụ cho đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên cập nhật các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ một cách tiên tiến mang tính chính xác cao cũng như phù hợp với điều kiện đất nước để có thể đưa ra những con số phản ánh đúng thực trạng của nợ nước ngoài cho các cấp lãnh đạo có thể có những quyết định đúng đắn. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường phổ biến kiến thức về quản lý nợ nước ngoài cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các ban quản lý dự án và đơn vị sử dụng vốn vay nước ngoài. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây dựng đề án đào tạo cán bộ, tăng cường phổ biến kiến thức cho các đối tượng có liên quan. Từ đó hình thành một đội ngủ cán bộ có đầy đủ trách nhiệm và chuyên môn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Cần có một chế tài nghiêm khắc với những cán bộ quản lý nợ công khi họ mắc những sai phạm. Tổ chức kiểm điểm và xử lý nghiêm túc các sai phạm của tập thể và cá nhân có liên quan để tránh trường hợp như Vinashin, khi vụ việc vỡ lỡ thì trách nhiệm bị đùn đẩy. Tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Nâng cao khả năng quản lý vốn vay. Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở kiểm soát thâm hụt ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả nợ công. Vay nước ngoài: Việc huy động vốn vay nước ngoài bổ sung cho đầu tư phát triển cần gắn với hiệu quả sử dụng. Ưu tiên huy động các khoản vay dài hạn, chi phí vay thấp và mức rủi ro hợp lý để đầu tư cho các dự án có hiệu quả cao cả về kinh tế - xã hội, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, vay nước ngoài tiềm ẩn nhiều rủi ro về tỉ giá, về hạn mức tín nhiệm cũng như có thể tồn tại một số ràng buộc về chính trị-kinh tế với nước cho vay, song song với việc hoàn thiện và kiểm soát chặt chẽ nguồn vay từ nước ngoài, Nhà nước nên có chính sách để phát triển thị trường trái phiếu trong nước để cải thiện tình trạng nợ công theo hướng giảm tỉ lệ nguồn vốn vay bằng ngoại tệ để phòng tránh rủi ro. Vay trong nước: Bộ tài chính là cơ quan chịu trách phát hành các công cụ nợ, kí kết các thỏa thuận vay theo kế hoạch vay , trả nợ chi tiết hàng năm của chính phủ. Hiện nay, vay trong nước chiếm khoảng 40% tổng nợ công của Việt Nam. Tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Tránh việc vay nợ quá nhiều, đầu tư công quá lớn và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài hạn bằng vốn vay ODA ở Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ. Duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn Trong giai đoạn trung hạn cần tiếp tục duy trì các chỉ số nợ ở mức an toàn theo các chỉ tiêu quy định tại Quyết định số 231/2006/QĐ-TTg ngày 16 tháng 10 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý hệ thống các chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của quốc gia cụ thể: STT Chỉ tiêu Tỷ lệ 1 Giá trị hiện tại của nợ nước ngoài so với GDP < 45% 2 Giá trị hiện tại của nợ nước ngoài so với xuất khẩu < 200% 3 Nghĩa vụ trả nợ hàng năm so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ < 25% 4 Trả nợ Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước < 12% 5 Dự trữ ngoại hối so tổng số nợ ngắn hạn > 200% Tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ nước ngoài, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế. Vận dụng linh hoạt các biện pháp mua lại nợ, chuyển đổi nợ tay ba, giảm nợ đặc biệt trên cơ sở nghiên cứu thận trọng các cơ chế quốc tế phù hợp có khả năng cho phép bằng cách thay đổi cơ cấu nợ để đạt được danh mục nợ tối ưu. Có chính sách điều hành tốt kinh tế vĩ mô để tăng thu ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tăng cường dự trữ ngoại tệ để cải thiện chỉ số nợ nước ngoài và các cân đối lớn của nền kinh tế. Thành lập Quỹ tích lũy trả nợ :Quỹ này được hình thành nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước phát sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. Cùng với quyết nghị thành lập Quỹ này, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính thực hiện quản lý Quỹ tích lũy trả nợ với nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Quỹ, sử dụng nguồn vốn của Quỹ đúng mục đích, bảo đảm tập trung đầy đủ, kịp thời các nguồn thu của Quỹ. Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công, quản lý rủi ro tài khoá, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia. Tăng cường giám sát hiệu quả của việc sử dụng vốn: giám sát các dự án được đầu tư bằng nguồn vốn chính phủ cũng như hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước thông qua cơ quan kiểm tra - thanh tra độc lập. Tăng cường quản lý rủi ro và giám sát nợ công: tất cả các cơ quan, các tổ chức cơ quan nhà nước có liên quan đều có quyền và trách nhiệm trong việc quản lý nợ công. Phải minh bạch, công khai rộng rãi các thông tin về nợ công: vốn vay trong nước, vay nước ngoài, trả nợ gốc, trả nợ lãi trong quyết toán NSNN, cung cấp thông tin về tình hình vay, trả nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh; vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia, nợ của chính quyền địa phương theo quy định thông qua hình thức phát hành Bản tin về nợ công. Thanh tra, kiểm toán việc tuân thủ pháp luật trong quản lý nợ công. Hiện, chúng ta đã có cơ sở pháp lý về quản lý nợ công và đây là nội dung quan trọng mà KTNN phải thực hiện. Kiểm toán nợ công không phải là kiểm toán từng khoản nợ, vay thế nào, trả thế nào, sử dụng ra sao, mà còn phải kiểm toán hoạt động nói chung, đánh giá tính kinh tế trong quản lý nợ công. Đối tượng kiểm toán gồm cả các cơ quan quản lý nợ công chứ không phải chỉ là từng khoản nợ công trên báo cáo tài chính. Hiện nay ta mới kiểm toán nợ công có mức độ trong phạm vi được giao kiểm toán. Trong thời gian tới cần mở rộng kiểm toán theo chuyên đề đối với quản lý sử dụng nợ công của từng niên khóa, từng thời kì để tăng tính minh bạch trong quản lý nợ công. Tăng cường hợp tác quốc tế, tạo lợi thế để tiếp cận nguồn vốn quốc tế và học tập cách thức quản lý tiên tiến của thế giới trong vấn đề quản lý nợ công.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCD1_ Thue va no cong.doc