Đề tài Cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

Hướng nghiên cứu mới: Khi cạnh tranh lãi suất không còn là công cụ chủ yếu, tức khi này thị trường tiền tệ phát triển đòi hỏi các ngân hàng và TCTD phải thực sự cạnh tranh trên thi trường ở trình độ dịch vụ bằng cách đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ thanh toán, nâng cao trình độ , thái độ phục vụ khách hàng hơn là sử dụng công cụ cạnh tranh lãi suất. Đây là hướng nghiên cứu mới cho hiện tại và tương lai trong hoạt động ngân hàng ở việt nam. Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh lãi suất trong hoạt động ngân hàng ở việt nam hiện nay, vẫn còn có ý nghĩa quan trọng đối với ngành ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Cho nên nó vẫn là một đề tài mở cho sự nghiên cứu sâu hơn, nhất là lúc này ngân hàng trung ương mới chuyển sang điều hành theo cơ chế lãi suất cơ bản và bảo hiểm tiền gửi cũng mới thực hiện.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy đa dạng các kì hạn tiền gửi với các mức lãi suất khác nhau theo nguyên tắc kì hạn càng dài lãi suất huy động càng cao. Tuy nhiên việc đa dạng các kì hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao dịch, quản lý dự trữ hồ sơ của ngân hàng có phần vất vả hơn. Ba là: Đa dạng các hình thức lãnh lãi: Khách hàng gửi tiền ngân hàng vì nhiều mục đích khác nhau. Có người vì mục đích an toàn, có người gửi chủ yếu để lấy lãi tiêu xài hàng tháng như các đối tượng là cán bộ hưu trí, sinh viên...v.v. Có người dư giả gửi tiền để đồng vốn ngày càng sinh sôi nảy nở. Vì thế họ chọn cách lãnh lãi cuối kì, lãi suất cao hơn lãnh lãi trước và lãnh lãi suất hàng tháng. Bốn là: Khuyến khích bằng các lợi ích vật chất. Khách hàng gửi tiền, ngoài việc so sánh lãi suất huy động vốn ngân hàng nào cao hơn còn quan tâm đến lợi ích vật chất mà họ được hưởng. Đây cũng là một điểm mà các ngân hàng thương mại cần chú ý để phát huy mạnh mẽ nhất tác dụng của chính suất cạnh tranh lãi suất huy động vốn của mình nhằm đạt được mục tiêu huy động vốn, mục tiêu lợi nhuận. Năm là: Trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại cần xây dựng những nguyên tắc phải đảm bảo khi nâng cao lãi suất huy động. Đó là các ngân hàng thương mại phải kinh doanh có lãi; Phải đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước thuận lợi và có điều kiện phát triển; quá trình này phải diễn ra một cách tự nhiên nhờ bàn tay vô hình của cơ chế thị trường và phải hợp pháp. 1.4.3 Cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Nguồn vốn cũng là sản phẩm “ đầu ra”, là hoạt động thường xuyên liên tục của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng chỉ có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng , nâng cao hiệu quả hoạt đông kinh doanh của mình một khi thực hiện tốt chức năng này, nhiệm vụ cho vay vốn của mình.ở đây ngân hàng hàng thương mại cũng phải là người “chiến thắng” trong cạnh tranh cho vay vốn nói chung và thông qua lãi suất nói riêng. Sau đây là một số biện pháp giúp ngân hàng thành công trong hoạt động cho vay vốn. Thứ nhất là: Để hạ thấp lãi cho vay, một trong những biện pháp thông thường là chuyển hoá nguồn ngoại tệ (lãi suất thấp) thành đồng Việt Nam để cho vay, như vậy cơ cấu lãi suất đầu vào sẽ giảm trong khi lãi suất đầu ra cao hơn, ngân hàng có thể tiết giảm một phần lãi suất cho vay mà không ảnh hưởng nhiều đến doanh lợi. Thứ nhì là: Cho vay bằng ngoại tệ thực chất là hình thức hạ thấp lãi suất cho vay (giảm chi phí của khách hàng). Tuy nhiên đã xảy ra tình trạng một số ngân hàng lạm dụng hình thức này để lôi kéo khách hàng. Bằng cách cho các doanh nghiệp này vay vốn bằng ngoại tệ không đúng với quy định của nhà nước để mời chào khách hàng. Biện pháp này đã được sử dụng ở nhiều ngân hàng có nguồn ngoại tệ dồi dào, nhất là khi mở rộng mạng lưới. Thứ ba là: Huy động nguồn vốn tài trợ, uỷ thác, vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài để giảm lãi suất đầu vào cũng là một biện pháp cạnh tranh tốt, tuy nhiên ưu thế này thuộc về một số ngân hàng hàng có quan hệ quốc tế rộng rãi như ngân hàng ngoại thương, Bkimbank,... và không phải ngân hàng nào cũng nhận được nguồn vốn này. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại có thể cạnh tranh với nhau bằng cách trức tiếp hạ lãi suất cho vay vốn đối với nguồn vốn được huy động trong dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội đảm bảo tuân thủ chính sách lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, điều hành cũng như đảm bảo lợi nhuận cho hoạt động của ngân hàng mình. Như vậy, trên đây là toàn bộ cơ sở lý luận cho việc cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Từ đó chúng ta vận dụng vào nghiên cứu vấn đề này trong thực tế hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào? Chúng ta sẽ cùng chuyển sang chương tiếp theo. Chương 2 Thực trạng cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Sau hơn 10 năm đổi mới, hoạt động ngân hàng ở nước ta đã có bước chuyển biến sâu sắc toàn diện. Hệ thống các ngân hàng thương mại gồm đủ thành phần kinh tế đã được hình thành và đi vào hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ hoạt động của các ngân hàng thương mại thể hiện sự cạnh tranh ngày càng trở nên ác liệt trên mọi bình diện. Sự cạnh tranh này được diễn ra trên hai phương diện chủ yếu là cạnh tranh lãi suất và cạnh tranh về trình độ dịch vụ. Cạnh tranh về lãi suất thể hiện là các ngân hàng thương mại thu hút khách hàng thông qua chính sách lãi suất huy động vốn và cho vay vốn hấp dẫn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, đảm bảo trong khuôn khổ điều hành của chính sách lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất. Vậy cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay hiện nay như thế nào? ưu thế cạnh tranh của từng loại hình ngân hàng ra sao? ảnh hưởng tích cực của nó thế nào? bên cạnh những tồn tại và hạn chế? Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu ở dưới đây. 2.1. Chính sách lãi suất của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Quá trình đổi mới cả tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường cũng là quá trình đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất của Nhà nước ta trong những năm qua đã đổi mới rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thận trọng, đi dần từng bước phù hợp với từng giai đoạn trên con đường tiến đến một chính sách lãi suất thị trường theo hướng tự do hoá lãi suất. Diễn biến cơ bản của chính sách lãi suất trong thời gian qua có thể chia thành các giai đoạn như sau: 2.1.1. Giai đoạn trước 1992. (chính sách lãi suất âm được duy trì) Chính sách lãi suất âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều kiện mức lạm phát cao; mức lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát. Tình trạng này làm cho lãi suất không thể thực hiện được những chức năng vốn có của nó, lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu tiền gửi của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. 2.1.2. Giai đoạn từ cuối 1992 đến 1995 (lãi suất thực dương bắt đầu duy trì). Lãi suất dương bắt đầu duy trì từ cuối 1992 và biến động phù hợp với tỷ lệ lạm phát . Bắt đầu từ 10/1996 lãi suất được khống chế bởi các mức lãi suất cho vay cao nhất (1,8%/tháng đối với doanh nghiệp nhà nước và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và lãi suất thoả thuận (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu - lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng). Thời kỳ này, lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ, cùng với lãi suất tái cấp được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế. 2.1.3. Giai đoạn từ 1/1/1996 đến 1/8/2000 (Cơ chế điều hành theo trần lãi suất được duy trì ). Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn, khống chế trần lãi suất cho vay cao nhất và bắt đầu áp dụng chênh lệch lãi suất tiền gửi - tiền vay 0,35% (cho đến 21/1/1998). Trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1%/tháng năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 1/9/99). Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 đến nay xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nếu mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Từ đầu năm đến cuối năm 7/2000, Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục điều hành lãi suất thông qua cơ chế trần lãi suất cho vay, với trần lãi suất cho vay ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng, ở khu vực nông thôn là 1%/tháng, trần lãi suất của NHTM CP nông thôn là 1,15%, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay: thành viên là 1,35%/tháng. 2.1.4. Giai đoạn từ 2/8/2000 đến nay(cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản bắt đầu được thực hiện). Đến ngày 2/8/2000, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ cho phù hợp với quy định của luật Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2/8/200). Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc NHNN quy định. Mức lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng, biên độ cho vay trung dài hạn là 0,5%/tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường liên ngân hàng Singapore (SIBOR). Kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng với biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định (hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1%/năm, biên độ cho vay trung và dài hạn là 2,5%/năm). Đối với ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín dụng nên cho phép các Tổ chức Tín dụng tự xem xét quyết định lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở Việt Nam. Với nội dung điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, phù hợp với luật pháp và thực tiễn Việt Nam. Đây là một bước tiến mới, bước đi tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất. Diễn biến lãi suất của ngân hàng đối với nền kinh tế minh hoạ ở bảng phụ lục (phía cuối). 2.2. Ưu thế cạnh tranh của mỗi loại hình Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay. ở Việt Nam, hiện nay có các loại hình Ngân hàng Thương mại sau: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng thương mại cổ phần chúng cùng tồn tại trong một môi trường cạnh tranh chung. Với đặc thù riêng của mỗi loại hình cho nên đã tạo nên lợi thế cạnh tranh đặc trưng. 2.2.1. Ngân hàng thương mại quốc doanh: Nguồn tiền gửi thanh toán lớn và ổn định từ các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp Nhà nước; có mạng lưới chi nhánh dày và rộng để thu hút các nguồn tiền gửi dân cư. Chấp nhận hạ lãi suất cho vay để giữ các khách hàng truyền thống và thu hút thanh toán hàng xuất khẩu qua ngân hàng. 2.2.2. Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các ngân hàng mẹ ở chính quốc, có các thế mạnh về dịch vụ ngân hàng quốc tế, về thanh toán quốc tế. Tranh thủ được nguồn vốn vay ngắn hạn với chi phí thấp trên thị trường liên ngân hàng để cho vay. Hạ lãi suất mạnh, có thể phân lợi nhuận rất thấp hoặc bằng không nhằm xâm nhập các doanh nghiệp lớn trong nước và có thêm nguồn ngoại tệ khi cho vay phục vụ xuất khẩu. 2.2.3. Các Ngân hàng Thương Mại cổ phần: buộc phải tham gia hạ lãi suất để giữ khách hàng. Nguồn vốn huy động không cao và phải đưa ra lãi suất huy động khá cao. Do đó tích cực tìm thêm các đầu ra tín dụng như: mở trung tâm địa ốc, cho vay phục vụ mua bán xây dựng nhà cho vay trả góp phục vụ tiêu dùng...v.v. 2.3. Cạnh tranh thông qua lãi suất huy động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. (NHNN điều hành theo lãi suất cơ bản từ 2/8/2000 ). Thị trường tiền tệ trên địa bàn cả nước sôi động hẳn lên trong mấy tháng gần đây, đặc biệt là từ đầu tháng 10/2000 đến nay. Điều này thấy rõ nhất qua các kênh chu chuyển vốn của hệ thống ngân hàng: thị trường tiền gửi, thị trường tín dụng, thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tỷ giá và lãi suất. Đó là kết quả của cuộc chạy đua cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện Ngân hàng Nhà nước đã chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản và sử dụng một số công cụ điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ. 2.3.1. Lãi suất huy động vốn tăng qua cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Sự sôi động đầu tiên phải kể đến đó là các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần (CP) ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đồng loạt và liên tục tăng lãi suất tiền gửi kể cả nội tệ đồng Việt Nam, và ngoại tệ - Dollar Mỹ (USD), nhưng mức tăng của nội tệ cao hơn. Tiếp đến là các NHTM quốc doanh, vốn được coi là có thế mạnh về huy động vì có tín nhiệm bởi là ngân hàng của Nhà nước, có mạng lưới rộng, cũng đủ phải tăng lãi suất huy động vốn. Tính bình quân , ở hầu hết các kỳ hạn gửi tiền của các NHTM đều tăng từ 0,027% - 0,1%/tháng so với trước đây. Hiện nay lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của các NHTMCP phổ biến là 0,65% - 0,72%/tháng, cao nhất là NHTMCP quốc tế là 0,72%/tháng; của các NHTMQD phổ biến là 0,5% đến 0,6%/tháng. Còn lãi suất tiền gửi Dollar Mỹ kỳ hạn 12 tháng của các NHTMCP phổ biến là 5,7% đến 6%/năm; của các NHTMQD là 5,3 đến 5,5%/năm. Mức tăng lãi suất nhìn bề ngoài có vẻ là nhỏ, nhưng thực ra là lớn. Bởi vì trong những tháng qua kể từ đầu tháng 8/2000, khi NHNN bắt đầu chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, thì các mức lãi suất do NHNN công bố hàng tháng vẫn giữ nguyên, đó là lãi suất cơ bản: 0,75%/tháng. Các ngân hàng thương mại tăng cường huy động vốn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu tín dụng tăng lên, trong khi việc huy động vốn nội tệ gặp nhiều khó khăn, còn tiền gửi ngoại tệ USD thì tăng khá. 2.3.2. Nguyên nhân gây tăng lãi suất huy động vốn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại hiện nay tăng lên là do cạnh tranh thông qua lãi suất huy động vốn trở nên gay gắt . Những lí giải cho sự gay gắt đó lại chính là nhằm tăng vốn để đáp ứng cho nhu cầu tín dụng hiện nay. Điều đó được thể hiện qua các nguyên nhân chủ yếu sau đây: Một là: Thực hiện chủ trương kích cầu, trong 2 tháng 8 và 9/2000, Ngân hàng Nhà nước tập trung tháo gỡ một loạt vướng mắc về cơ chế, chính sách ban hành các quy định mới về: thể lệ tín dụng, bảo đảm tiền vay thế chấp, bảo lãnh ngoại hối, tạo điều kiện cho các NHTM đáp ứng tối đa nhu cầu vay vốn hợp lý của các thành phần kinh tế. Hai là: Vùng đồng bằng sông Cửu long vốn là thị trường tín dụng lớn của cả nước. Nay lũ lụt đã rút yêu cầu giống, vốn, phân bón...v.v. cho sản xuất và tới gia tăng. Ước tính riêng nhu cầu vốn của vùng này sẽ tăng lên thêm 4000-5000 tỷ đồng. Ba là: Tính quy luật hàng năm, nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế trong các tháng cuối năm 2000 tăng lên, bởi yêu cầu của sản xuất kinh doanh, của nhập khẩu của dự trữ hàng hoá cho tiêu thụ trong dịp tế dươnglịch và tết âm lịch. Đặc biệt là thị trường các mặt hàng vật liệu xây dựng tăng lên rất lớn. Thị trường bất động sản ở khu vực Hà Nội cũng nóng dần lên. Hàng loạt dự án, công trình đầu tư phải gấp rút hoàn thành vào cuối năm, thu hút một lượng vốn vay khá lớn. Bốn là: Chính phủ quyết định cho tạm trữ 60.000 tấn cà phê nhân, ngân sách cấp bù phần lãi suất vay ngân hàng, tương ứng với nó là 600 tỷ đồng vốn vay của các ngân hàng phải dành cho nhu cầu này, đồng thời lại phải cho vay tiếp cho yêu cầu thu mua, chế biến và chăm sóc cà phê, nhu cầu vốn cho cà phê tăng lên. Các mặt hàng khác như: cao su, hạt điều, chè, thuỷ hải sản cũng tiêu thụ khá, thu hút một lượng vốn tín dụng rất lớn. Năm là: Một loạt mặt hàng quan trọng khác như: mía đường, xi măng lò đứng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, lâu nay bị tồn đọng, khó tiêu thụ, thì nay đã bán chạy hơn, được giá, nhu cầu tăng lên. Làm giải toả số vốn nợ đọng của các ngân hàng và gia tăng nhu cầu vay mới cho sản xuất kinh doanh. Sáu là: Hàng loạt khoản vay nợ nước ngoài, mở L/C và các khoản bảo lãnh của các NHTM cho các doanh nghiệp đến hạn phải thanh toán cho phía nước ngoài; đòi hỏi một số lượng vốn ngoại tệ không nhỏ cho yêu cầu thanh toán. Nhu cầu vốn ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu tăng gấp 2 lần năm 1999, nhu cầu ngoại tệ phát sinh cho yêu cầu nhập bổ sung 172.000 tấn clinker...v.v. Bảy là: Một nguyên nhân quan trọng khác phải kể đến đó là, từ ngày 7-7-2000. Bảo hiểm tiền gửi chính thức khai trương hoạt động. Tính đến nay có trên 1000 tổ chức tín dụng, đã đăng kí tham gia , nộp phí bảo hiểm, tổng số phí này trong một năm cũng sẽ lên tới vài trăm tỷ đồng. Bên cạnh đó, gần 10.000 tỷ đồng vốn đang bị nằm đọng trong hàng đống tài sản thế chấp, số giải toả được chịu đáng kể. Số vốn phải khoanh nợ, giảm nợ cho người vay ở các vùng bị thiên tai và Doanh nghiệp Nhà nước gặp khó khăn về kinh doanh cũng lên tới gần 1000 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM ở mức cao phải trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Tổng số tiền trích lập quỹ này ở các NHTM cũng lên tới vài nghìn tỷ đồng. 2.3.3. Đánh giá chung hoạt động cạnh tranh thông qua lãi suất huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại hiện nay.( NHNN điều hành theo lãi suất cơ bản) Cuộc cạnh tranh này làm cho khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào của các ngân hàng thương mại thấp hơn trước, thu nhập giảm đi. Nhưng có bị thua lỗ hay không thì còn tuỳ thuộc vào nghệ thuật quản trị, điều hành kinh doanh, năng lực cạnh tranh của mỗi NHTM. Nhìn vào chênh lệch giữa mức lãi suất tiền gửi cao nhất của kỳ hạn 12 tháng là 0,55% đến 0,62%/tháng so với mức lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng và lãi suất cho vay của các NHTM phổ biến từ 0,65% đến 1,0%/tháng thì có thể là thấp. Song các NHTM còn phải cân đối và hoà chung với nguồn vốn của các loại kỳ hạn tiền gửi khác nhau, như: Không kỳ hạn , kỳ hạn, 1 tháng, 2 tháng. Với lãi suất từ 0,15 đến 0,42%/tháng thì bình quân lãi suất đầu vào sẽ thấp đi. Đồng thời còn thúc ép các NHTM, tiết kiệm hơn nữa các chi phí hoạt động tinh giảm số lượng cán bộ và nhân viên, mở rộng dịch vụ ngân hàng để thu phí, linh hoạt sử dụng có hiệu quả nguồn vốn khả dụng, nâng cao trình độ công nghệ. Do đó nếu NHTM nào yếu kém, không vươn lên được, bị thua lỗ kéo dài sẽ bị đào thải là tất yếu. Cuộc cạnh tranh có lợi cho người gửi tiền, có lợi cho cả người vay vốn, tác động mạnh mẽ tới việc củng cố và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nhìn chung tình hình nói trên chỉ làm tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh trong xã hội. 2.4. Cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay.( NHNN điều hành theo lãi suất cơ bản từ 2/8/2000 ). Mặc dù nhu cầu vốn khẩn trương, sức ép tăng lãi suất rất lớn, nhưng dự đoán Ngân hàng Nhà nước sẽ không tăng mức lãi suất cơ bản, không tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu; Do đó lãi suất cho vay của các NHTM trong các tháng cuối năm sẽ không tăng lên, tất nhiên là có điều chỉnh chút ít, nhưng chỉ xoay quanh mức lãi suất cơ bản. 2.4.1. Chiến thuật cạnh tranh khá linh hoạt trong hoạt động cho vay vốn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Hiện nay, ở khu vực thành thị, các ngân hàng, thường chào lãi suất cho vay ở mức 0,7%/tháng. Nhưng với các khách hàng có số lượng vay lớn thì được hưởng 0,6%/tháng. Cuộc cạnh tranh lãi suất chỉ diễn ra mạnh ở những thị trường có độ nhạy cảm lãi suất cao, mật độ các doanh nghiệp hoạt động lớn. Riêng các ngân hàng nước ngoài có chiến thuật cạnh tranh độc đáo hơn. Do bị giới hạn ở trạng thái VND và khả năng huy động vốn bằng VND từ khu vực dân cư của các ngân hàng này gặp khó khăn nên họ thường cho vay “chớp nhoáng” trên thị trường liên ngân hàng. Chiến lược này nhằm xâm nhập vào thị trường các doanh nghiệp trong nước mà trước đây họ chỉ tập trung vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, các ngân hàng nước ngoài vay hoặc nhận tiền gửi có kỳ hạn của các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng có kỳ hạn ngắn với lãi suất khoảng 4,8% - 5,5%/năm hoặc cao hơn một chút hoặc tương đương với 0,39% - 0,45%/tháng. Như vậy các ngân hàng này sẽ chào khách hàng với lãi suất 5,5% - 6%/năm hoặc tương đương 0,45% - 0,6%/tháng, trong thời hạn ngang bằng với thời hạn mà họ nhận được tiền gửi có kỳ hạn hoặc vay từ các ngân hàng khác. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, họ chào lãi suất thấp tương đương với đi vay. Song phải kèm theo điều kiện ràng buộc chặt chẽ. Bộ chứng từ của giá từ lô hàng xuất khẩu phải thanh toán qua họ. Làm như vậy , các ngân hàng này vừa tạo thêm được khách hàng vừa có nguồn ngoại tệ mua được. Cạnh tranh lãi suất cho vay, bằng ngoại tệ cũng diễn ra không kém phần gay gắt. Hiện nay, lãi suất phổ biến ở mức 6,5%/năm. Tuy nhiên các ngân hàng có giá vốn thấp sẽ hạ lãi suất xuống tới mức 6%/năm thậm chí còn thấp hơn. Nếu so sánh với lãi suất gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế thì lãi suất qua đêm của đồng USD đến nay là 6%/năm, 3 tháng là 6,22%/năm, thì cho vay chỉ ở mức tương đương. Song các ngân hàng vẫn lựa chọn cho vay mặc dù có mức độ rủi ro cao hơn nhiều. 2.4.2. Hiện tượng “gậy ông đập lưng ông” trong cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt nam hiện nay. Giảm mạnh lãi suất cho vay lại ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Chỉ có các ngân hàng có lợi thế cạnh tranh cao (giá vốn đầu vào thấp), sẽ chịu ít thiệt hại so với các ngân hàng thương mại có giá vốn đầu vào tương đối cao hơn. Như vậy, chính các ngân hàng cho vay trên thị trường liên ngân hàng vớilãi suất thấp là “gậy ông đập lưng ông”, bị các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trở lại. Tình hình này nếu kéo dài sẽ làm yếu hệ thống ngân hàng. Lãi suất quá thấp còn dẫn đến quyết định đầu tư của các chủ đầu tư nóng vội, tràn lan và ngân hàng cũng muốn tăng khả năng giải ngân vốn, nguy cơ nợ quá hạn có thể đe doạ. Các ngân hàng cạnh tranh với lãi suất thấp khiến cho một số doanh nghiệp thực hiện hành vi đảo nợ, đặc biệt khách hàng làm ăn kém hiệu quả sẽ che đậy nguy cơ thua lỗ của mình. Thị trường tín dụng có thể bị lũng loạn, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng bị phá vỡ. Có thể nói đây là chiến lược phá giá của các ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích xâm nhập vào thị phần các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân mà trước đây họ đã bỏ ngỏ. 2.4.3. Đánh giá chung về cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay. Như chúng ta đã biết, từ ngày 5 tháng 8/2000. Ngân hàng Nhà nước chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, với mức quy định là 0,75% đối với nội tệ, và các NHTM được phép cho vay với biên độ dao động từ 0,3% - 0,5%/tháng xoay quanh mức lãi suất cơ bản đó. Trong những tháng qua, tuỳ theo đối tượng khách hàng, kỳ hạn vay mà các NHTM cho vay với lãi suất cụ thể khác nhau. Đối với Doanh nghiệp Nhà nước và khách hàng có uy tín, lãi suất cho vay chỉ là 0,75%/tháng và thấp hơn, các đối tượng khách hàng khác lãi suất cho vay cũng chỉ xoay quanh mức 0,75-1,0% /tháng. Việc tăng lãi suất huy động không gây nên sức ép làm tăng lãi suất cho vay bởi vì tuy nó có làm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào làm cho thu nhập thấp hơn, nhưng trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, giữa đông đảo các NHTM, kể cả ngân hàng nước ngoài, thì các NHTM đành phải chấp nhận sự thu hẹp đó. Bên cạnh đó, chỉ số giá cả tiêu dùng trên thị trường xã hội trong cả nước vẫn ở mức thấp. Do đó không có cơ sở để tăng lãi suất cơ bản, tăng lãi suất cho vay trong thời gian tới. Những diễn biến về lãi suất và tiền tệ nói trên cũng cho thấy nền kinh tế nước ta đang có những xu hướng chuyển động tích cực. 2.5. ảnh hưởng của cạnh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện thị trường tiền tệ còn đơn sơ, ở nước ta rõ ràng là không thể tránh khỏi cạnh tranh về lãi suất. Các NHTM cạnh tranh với nhau thông qua lãi suất huy động vốn và cho vay vốn. Hoạt động này bên cạnh những mặt tích cực cũng còn có những mặt tồn tại và hạn chế. Vậy nội dung cụ thể của nó là: 2.5.1. Mặt tích cực (ảnh hưởng tích cực). Một là: Do các NHTM cạnh tranh về lãi suất, nên lãi suất cho vay giảm thấp, chi phí của các dự án sản xuất kinh doanh vì thế sẽ thấp đi, hiệu quả sẽ tăng lên. Điều đó sẽ kích thích các doanh nghiệp và cá nhân tích cực triển khai nhiều dự án sản xuất kinh doanh hơn. Và như vậy, sẽ tăng cầu về tín dụng, là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hai là: Các NHTM cạnh tranh về lãi suất cho vay nhưng cũng đồng thời phải cạnh tranh về lãi suất huy động vốn để giữ vững, tăng trưởng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng. Song, mục tiêu cuối cùng của các NHTM là lợi nhuận và việc cạnh tranh cũng nhằm tăng thêm hoặc ổn định thu nhập của ngân hàng. Vấn đề này buộc các NHTM phải chú ý nghiên cứu, thực hiện những biện pháp để tiết kiệm các chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, mở rộng và phát triển các dịch vụ ..v.v.Điều đó sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho các doanh nghiệp, dân chúng và xã hội đồng thời tăng thêm sức mạnh cho các NHTM. Ba là: Trong môi trường cạnh tranh để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại hoạt động không thể không tham gia và không nỗ lực phấn đấu ganh đua với các đối thủ của mình làm nâng cao sức cạnh tranh của NHTM. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với từng ngân hàng, mà còn là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả và an toàn hệ thống, là sự chuẩn bị cho quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế ở khu vực và trên thế giới. 2.5.2. Những tồn tại và hạn chế của cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay. a) Những mặt còn tồn tại: Thứ nhất là: Cạnh tranh lãi suất sẽ đưa đến tình trạng “Cá lớn nuốt cá bé” hoặc đưa các NHTM nhỏ, yếu đến tình trạng khó khăn, thua lỗ, phá sản, tạo ra các yếu tố làm cho thị trường tiền tệ dễ bị biến động. Thứ nhì là: Cạnh tranh lãi suất dẫn đến nguy cơ làm giảm tiềm lực và sức mạnh của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hiện nay với tình trạng nợ quá hạn đang ở mức cao, lợi nhuận thấp, các NHTM chạy theo cạnh tranh về lãi suất sẽ làm cho nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài. Thứ ba là: Mặt khác cạnh tranh lãi suất không những tạo ra sự thiếu bình đẳng trong hoạt động giữa các ngân hàng mà còn tạo ra nhiều kẽ hở cho các biểu hiện tiêu cực về kinh tế. Một số doanh nghiệp sẵn sàng chi các khoản phí ngoại giao để vay được vốn với lãi suất thấp. Thứ tư là: Trong hoạt động ngân hàng rất rõ ràng là cạnh tranh về lãi suất không thể được xem là dạng, cạnh tranh lành mạnh vì nó tạo cho các doanh nghiệp tính trông chờ ỷ lại vào lãi suất thấp làm giảm hiệu qủa sử dụng vốn. Thứ năm là: Việc cạnh tranh hạ lãi suất giành giật khách hàng đưa đến một sự vội vã trong kiểm tra các điều kiện vay vốn, thậm chí bỏ qua cả các yếu tố pháp nhân của doanh nghiệp, (như cho các chi nhánh, các công ty phụ thuộc, vay khi chưa có sự đồng ý của công ty mẹ..v.v.). Việc cạnh tranh hạ lãi suất đưa đến tình trạng khách hàng chạy vòng quanh các ngân hàng: vay ngân hàng này để trả nợ ngân hàng khác làm mất tính ổn định, đưa đến ngân hàng không đủ thời gian và điều kiện để kiểm soát khách hàng, bởi lẽ khách hàng chỉ dừng lại ở một ngân hàng với thời gian khá ngắn. Thứ sáu là: Việc cạnh tranh còn đưa đến tình trạng cho vay không còn quan tâm đến tính thời vụ , tính chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp, như cho vay thu mua hàng xuất khẩu, đã có lúc, có nơi cho vay 06 tháng. Như thế đã phó mặc cho doanh nghiệp sử dụng tiền vay không gắn liền vào hợp đồng sản xuất kinh doanh, tính rủi ro còn nghiêm trọng hơn khi mà ngân hàng cho vay không có trụ sở cùng địa bàn hành chính với doanh nghiệp đi vay. Thứ bảy là: Về tương quan hiện nay giữa các NHTM, với sức mạnh về nguồn vốn, về kinh nghiệm, công nghệ..v.v. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đầy đủ lợi thế trong việc cạnh tranh với các NHTM trong nước. Bên cạnh đó, chúng ta không thể không tính đến khả năng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các đối tác nước ngoài trong các ngân hàng liên doanh dựa vào tiềm lực tài chính hơn hẳn của họ để sẵn sàng ganh đua ở mức chấp nhận thua lỗ nhằm chiếm lĩnh thị trường, hướng tới tương lai. Nếu tình hình cạnh tranh về lãi suất tín dụng tiếp tục bị cuốn hút, thì có nguy cơ gây mất ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại. Điều đó sẽ vô cùng nguy hiểm cho sự ổn định và phát triển kinh tế nước ta. b) Những hạn chế trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thưong mại Việt Nam hiện nay. Thứ nhất là: làm giảm tác dụng của chính sách lãi suất hiện nay. Trong thị trường cạnh tranh, giá cả hàng hoá (ở đây là lãi suất) phải hạ đến mức thấp nhất có thể, khoảng cách giữa mức lãi suất huy động cao nhất và mức lãi suất cho vay thấp nhất ngày càng rút ngắn. Thứ nhì là: Lợi nhuận không đủ bù đắp tích luỹ đổi mới hệ thống theo kịp các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, không đủ lập các quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Ngân hàng có vốn nước ngoài tiếp cận cho vay được một số khách hàng truyền thống của NHTM trong nước, đặc biệt trong khu vực có độ nhạy cảm cao với lãi suất, trong khu vực sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu. Thứ ba là : Ngân hàng muốn mở rộng tín dụng, tăng khả năng giải ngân, từ đó việc kiểm tra các điều kiện vay vốn và việc thẩm định sẽ gặp khó khăn vì việc chạy theo số lượng ồ ạt có thể sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. Thứ tư là: Một số doanh nghiệp vay ngân hàng này để trả ngân hàng khác để hưởng lãi suất thấp hơn; Những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả có thể che giấu các vấn đề tiêu cực về mặt tài chính và kết quả kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực thi hành vi đảo nợ. Thứ năm là: Bên cạnh đó, còn có thể phát sinh tác dụng nghịch: các doanh nghiệp vừa và nhỏ có dự án khả thi có khả năng vay vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp, lớn mà dự án đầu tư kinh doanh kém hiệu quả . Vì với mức lãi suất ưu đãi thấp, ngân hàng thường chú trọng cho vay những đối tượng khách hàng với lãi suất cao hơn, điều kiện xin vay khắt khe hơn. Như vậy chúng ta đã đi nghiên cứu về thực trạng cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các NHTMVN hiện nay; Vấn đề đặt ra ở đây là ta phải đưa ra được các giải pháp nhằm khắc phục được những tồn tại và hạn chế nêu trên đồng thời nêu lên những kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh lành mạnh, an toàn trong hoạt động ngân hàng để giải quyết vấn đề này chúng ta cùng chuyển sang nghiên cứu chương tiếp theo. Chương 3 Giải pháp và kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại việt nam hiện nay được lành mạnh, an toàn. Hiện nay, các Ngân hàng thương mại đang cuốn hút vào cuộc chạy đua bằng cách tăng lãi suất huy đông vốn và giảm bớt lãi suất cho vay vốn để tranh giành khách hàng một cách gay gắt. Mà lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm, có tác động rất nhanh chóng, được các ngân hàng thương mại quan tâm theo dõi rất chặt chẽ. Nếu tình hình cạnh tranh này tiếp tục bị cuốn hút, thì có nguy cơ gây mất ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại. Điều đó sẽ vô cùng nguy hiểm cho sự ổn định và phát triển kinh tế của nước ta. Do vậy, đòi hỏi phải có các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và hạn chế trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn giữa các ngân hàng thương mại. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh lành mạnh và an toàn. 3.1 Các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và hạn chế trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 3.1.1. Ngân hàng nhà nước cần ban hành lãi suất sàn khi cho vay. Đây là vấn đề đã được nhiều chuyên gia ngân hàng thảo luận và tình hình thực tế cũng cho thấy cần thiết phải ban hành lãi suât sàn để đảm bảo thực thi công cụ lãi suất, đem lại môi trường kinh doanh lành mạnh hơn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. 3.1.2 Đẩy mạnh kích cầu qua tín dụng ngân hàng,làm đòn bẩy chgo tăng trưởng kinh tế trong kinh doanh nói chung; từ đó mở rộng đầu tư cho tín dụng ngân hàng, khơi thông dòng chảy tiền tệ trong nền kinh tế. 3.1.3 Đối với các ngân hàng trong nước cần mở rộng cạnh tranh mang tính chủ động. Trước hết là: Khi mức lãi suất cho vay giữa các ngân hàng đã ngang bằng nhau, thì vấn đề cạnh tranh chủ yếu sẽ là chất lượng và công nghệ. Do đó các NHTM cần phải chủ động cải tiến chất lượng, quy trình tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, cải tiến chất lượng phục vụ. Đồng thời phải nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong nghiệp vụ ngân hàng, cải tiến các vấn đề nhân sự, chi phí quản lý...v.v. để tiến hành giảm tối đa chi phí kinh doanh. Tiếp theo là: Chú trọng công tác tiếp thị trong hoạt động ngân hàng, trước hết phải hiểu rõ nhu cầu của các khách hàng truyền thống, tổ chức tốt công tác tư vấn về dự án đầu tư, thanh toán quốc tế...v.v. cho khách hàng, cũng như thường xuyên lắng nghe, tiìm hiểu các đề nghị, phản ánh của khách hàng. Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp và ngân hàng trên cơ sở hiểu biết và hỗ trợ nhau; quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp càng ổn định thì cành có lợi cho cả đôi bên. Sau cùng là: Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng, đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những khu vực có mức độ cạnh tranh còn thấp và đang cần vốn như khu vực sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ... 3.1.4 Các ngân hàng thương mại cần nâng cao vai trò công tác cân đối tín dụng Trước tiên là: Đa dạng hoá các loại hình tín dụng như : cho vay tiêu dùng cán bộ công nhân viên, cho vay mua cổ phần, cho vay phục vụ chương trình nhà ở, tham gia các dự án kích cầu, cho vay hợp vốn để tăng trưởng tín dụng cân bằng với tăng trưởng huy động vốn. Sau đó là: Tổ chức tốt công tác điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống các chi nhánh ngân hàng để đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng; đồng thời tranh thủ nguồn vốn chi phí rẻ trên thị trường liên ngân hàng để cho vay Tiếp nữa là: Tăng cường đầu tư vào các hoati đông kinh doanh khác như: Góp vốn, mua cổ phần của các daonh nghiệp; tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức, bao gồm thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường các chứng từ có giá theo pháp luật quy định Cuối cùng là: Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính- tiền tệ, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp luật quy định nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng tín dụng. Đứng trước thực trạng cạnh tranh bằng lãi suất huy động vốn và cho vay vốn nêu ở chương 2, có những hạn chế tồn tại bên cạnh nhưng tác dụng có lợi như kích thích tăng cầu tín dụng, tạo động lực thúc đẩy đổi mới...v.v. và do đó, cần có những giải pháp để khắc phục những mặt tồn tại. Tuy nhiên áp dụng linh hoạt những giải pháp nào và khi nào, nơi nào cụ thể thì phải tuỳ theo đặc điểm, tính chất hoạt động của từng NHTM. Bên cạnh đó, tất nhiên có những biện pháp khả thi mà bài viết này chưa nêu được, mong rằng sẽ nhận được sự quan tâm xêm xét. Nghiên cứu cạnh tranh của các NHTM nhằm phát huy khả năng chủ động cung ứng vốn của ngành Ngân hàng đồng thời đảm bảo lành mạnh hoá phát triển công nghệ ngân hàng. Bài nghiên cứu này xin được đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh đó được lành mạnh và an toàn. 3.2 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh nói chung và cạnh tranh lãi suất nói riêng giữa các ngân hàng thương mại ở việt nam hiện nay được lành mạnh và an toàn 3.2.1 Về mặt quản lí vĩ mô của chính phủ và Ngân hàng Trung ương Thứ nhất là: Trong phạm vi luật các tổ chức tín dụng cho phép Chính phủ nên chú ý đến thực lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong nước để điều chỉnh dần nội dung, phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài, tại Việt Nam nhằm hạn chế bớt cạnh tranh không cân sức, trong giới hạn vừa đảm bảo tính ổn định, an toàn, vừa kích thích sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại. Thứ nhì là: Với chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhằm ổn định giá trị đồng tiền góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: ngân hàng trung ương cần phải sử dụng tốt, có hiệu quả công cụ lãi suất phù hợp với từng thời kỳ để điều chỉnh mức độ cạnh tranh trong giới hạn an toàn. Trong việc thực hiện luật Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam về chính sách lãi suất,ngân hàng trung ương cần xác định rõ và xây dựng các chuẩn mực về lãi xuất cơ bản, trong đó cần sử dụng quyền về công bố lãi suất cơ bản để hướng việc cạnh tranh của các NHTM trong trạng thái lành mạnh, an toàn. Thứ ba là: Sức mạnh và hiệu quả của quản lý còn cần phải dựa vào hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hàng nhà nước. Thực tế đã có nhiều NHTM vi phạm quy định của ngân hàng trung ương về lãi xuất, phí dịch vụ. Vì vậy thanh tra ngân hàng nhà nước cần phải có biện pháp đủ mạnh, có hiệu quả trong việc ngăn chặn những việc làm không đúng của các NHTM. Trong đó có việc thực hiện chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương và nội dung hoạt động của các tổ chức tín dụng do chính phủ quy định. 3.2.2 Vai trò đại diện của hiệp hội Ngân hàng. Các NHTM đã có một tổ chức đại diện cho mình là hiệp hội ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các NHTM trong nước đã trở thành viên của hiệp hội ngân hàng việt nam, với mong muốn có người đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời các ngân hàng tham gia hiệp hội để có cơ hội học hỏi, được hỗ trợ, hợp tác với nhau cùng phát triển. Vì vậy, với vai trò của mình, Hiệp hội ngân hàng cần phải nắm bắt được thông tin liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và việc cạnh tranh bằng lãi suất tín dụng nói riêng, để thông báo đề xuất với NHTƯ các biện pháp kịp thời điều chỉnh. Đồng thời cảnh cáo các vấn đề lợi hại, nguy hiểm đối với các NHTM và là đầu mối để các NHTM trao đổi ,thống nhất với nhau thực hiện biên độ lãi suất tín dụng cho phù hợp. 3.2.3 Đối với từng ngân hàng thương mại. Mỗi NHTM cần phải xác định rõ việc cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh NH nói chung và trong lĩnh vực tín dụng nói riêng là một thực tế và ngày càng diễn ra quyết liệt. Từ đó phải xác định các mục tiêu và thực hiện các biện pháp cạnh tranh hợp lý, hiệu quả nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của mình. Các biện pháp cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng trong hoạt động tín dụng chủ nyếu mà doanh nghiệp cần quan tâm là: Một là: Lãi suất tín dụng, đây chính là giá cả của khoản vay mà khách hàng phải trả khi sử dụng vốn vay ngân hàng, là yếu tố nhạy cảm và có tác dụng nhanh nhạy nhất. Song việc sử dụng lãi suất tín dụng trong cạnh tranh cần phải chú ý một số vấn đề sau: Khi hạ lãi suất tín dụng thì ngân hàng sẽ giảm nguồn thu và ảnh hưởng đến kế hoạch lợi nhuận. Vì vậy khi tính toán để giảm lãi suất tín dụng, NHTM cần phải có nguồn vốn đầu vào ổn định, có thể giảm thấp để đảm bảo lợi nhuận. Mặt khác, phải thực thi các biện pháp giảm chi phí như chi phí tiền lương, chi phí hành chính...v.v. Trong đó, việc giảm lãi suất đầu vào là rất khó khăn, vì các NHTM khác cũng cạnh tranh để giữ khách hàng. Nếu tính toán không sát khi giảm lãi suất tín dụng sẽ dẫn tới khả năng rủi do về lãi suất lớn trong trường hợp lãi suất giảm thấp, buộc NHTM phải áp dụng biện pháp tình thế, tăng lãi suất huy động nhằm thu hút thêm nguồn vốn để bù đắp. Vì lãi suất tín dụng là yếu tố rất nhạy cảm, có tác dụng rất nhanh nhạy nên các NHTM buộc phải quan tâm, theo rõi rất chặt chẽ. Họ sẽ không để cho một NHTM nào dùng lãi suất tín dụng để lôi kéo khách của mình. Khi NHTM nào đó hạ lãi suất tín dụng, các NHTM khác cũng hạ lãi suất tín dụng để giữ vững khách hàng, thậm chí có thể hạ hơn để kéo lại khách hàng. Như vậy hiệu quả của việc dùng lãi suất tín dụng trong cạnh tranh chưa chắc đã đem lại hiệu quả thu hút khách hàng , mà vô hình chung NHTM đã đưa mình vào tình huống khó khăn. Vì vậy khi dùng lãi suất tín dụng để cạnh tranh các NHTM cần phải tính toán cẩn trọng và cảnh giác với các” hiêụ quả ngược” không mong muốn . Hai là: Nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng. Đây là một biện pháp rất hiệu quả mà sự vươn tới là không có giới hạn, là sân chơi lành mạnh để các NHTM dùng hết khả năng của mình để cạnh tranh. Cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng phục vụ chỉ có tác duụng tốt cho các NHTM và đem lại lợi ích cho dân chúng và các doanh nghiệp. Chất lượng phục vụ có rất nhiều lĩnh vực có liên quan đến khách hàng, chẳng hạn như thủ tục giấy tờ gọn nhẹ, thời gian xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, tư vấn cho khách hàng có hiệu quả, thái độ giao tiếp tốt để vừa lòng khách hàng, nơi tiếp đón sạch sẽ thuận tiện. Nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng chính là nâng cao lợi ích của khách hàng. Trong đó lợi ích về kinh tế thể hiện qua chi phí vay vốn là quan trọng nhất. Nó không chỉ thể hiện qua lãi suất vay vốn mà còn các chi phí về thủ tục giấy tờ đi lại... Và còn vấn đề quan trong nữa là thời gian để hoàn tất các thủ tục vay trả. Với các doanh nghiệp thời gian là tiền bạc, thời gian còn gắn liền với các cơ hội kinh doanh mà không có gì thay thế được. Ngoài lợi ích kinh tế, việc cạnh tranh nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng còn đảm bảo cho khách hàng được hưởng các lợi ích khác tốt hơn như sự tôn trọng, sự thoải mái, thuận tiện...v.v.Chính vì vậy đây là lĩnh vực thiết nghĩ cần được khuyến khích, và các NHTM cần coi đây là lĩnh vực then chốt trong chiến lược cạnh tranh để phát triển. Ba là: Quan tâm đến công tác tiếp thị. Thực tế hiện nay các phương pháp tiếp thị mà các ngân hàng trong nước sử dụng còn nghèo nàn, kém hiệu quả. Tình trạng khách hàng tự tìm đến các ngân hàng để hỏi thủ tục xin vay vốn là khá phổ biến. Có nhiều nơi, khách còn không phân biệt được các ngân hàng khác nhau. Đã có những trường hợp NHTM này bán hồ sơ làm thủ tục cho vay vốn, nhưng khách hàng lại mang hồ sơ đến NHTM khác để xin vay. Vì vậy các NHTM cần phải đầu tư nghiên cứu để thực hiện các biện pháp tiếp thị cho phù hợp với tuừng loại khách hàng để có hiệu quả cao nhất. Tiếp thị phải đạt được một số yêu cầu cơ bản như: khi có nhu cầu vay vốn khách hàng dễ dàng biết trước được các điều kiện thủ tục và các quy định khác về quan hệ tín dụng của ngân hàng; đồng thời, có đủ thông tin để lựa chọn NHTM vay vốn thuận tiện, dễ dàng với chi phí thấp nhất. Muốn vậy, theo chúng tôi các NHTM cần phải chú ý một số hướng tiếp thị sau: Sử dụng các phương tiện thông tin phù hợp nhất với từng đối tượng khách hàng để giới thiệu,hướng dẫn cụ thể nội dung cơ bản của chính sách tín dụng của ngân hàng với khách hàng. Chủ động tìm kiếm và quan hệ với khách hàng bằng các hình thức khác nhau ( trực tiếp; thông qua Bộ, Sở, Ban ngành,hội chợ, khu công nghiệp, làng nghề, hiệp hội...v.v.) để giới thiệu và thu hút khách hàng. Sử dụng phương pháp tiếp thị gián tiếp thông qua chính khách hàng của mình bằng việc nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ khách hàng để giới thiệu với các bạn hàng...v.v. 3.3 Một số yếu tố giúp cạnh tranh thành công trong kinh doanh ngân hàng thế kỷ 21. 3.3.1 Khả năng sinh lợi:người chiến thắng phải có lợi nhuận hợp lỉtong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh và độ chênh lệch lãi suất nào.tài sản sinh lời có kỳ hạn thích hợp hoặc được phòng ngừa rủi ro bởi các sản phẩm tài chính phái sinh. 3.3.2 Độ chênh lệch tổng quát dương giữa thu nhập và chi phí: người chiến thắng phải có tỷ suất lợi nhận/vốn phù hợp ngay cả khi có độ chênh lệch thấp hơn đối với những khoản đầu tư với tỷ suất lợi nhận không chấp nhận được 3.3.3 Nâng cao năng suất: người chiến thắng cắt giảm phí tổn tài chính cùng với việc phát triển hệ thống phân phối điện tử có chi phí rẻ hơn và đạt năng suất cao hơn. 3.3.4 Phân khúc thị trường :người chiến thắng sẽ xác định ,tổ chức và quản lỷ rạch ròi và có hiệu quả những khúc thị trường nhằm phục vụ cho từng nhóm khách hàng một cách có hiệu quả hơn. 3.3.5. Xây dựng chuỗi sản phẩm đầy đủ và có tính cạnh tranh: Người chiến thắng phải có ưu thế về sản phẩm trong mọi phân khúc thị trường mà không quan tâm đến việc ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng là người cung cấp chúng. 3.3.6 Thiết kế kinh doanh tổng hợp: Người chiến thắng phải tổ chức và sử dụng có hiệu quả những công ty con như:công ty cho thê tài chính,công ty chứng khoán...v.v.Như là những bộ phận thống nhất của hệ thống. Một yếu tố quan trọng trong quản lý chiến lược là phải xác định được nhóm kinh doanh nào sẽ tăng thêm và giảm giá trị để có quyết định giữ lại hoặc thoát khỏi nhóm kinh doanh đó. 3.3.7 Chính sách trả lương : Người chiến thắng phải trả lương cho nhân viên theo kết quả công việc vì cấu trúc trả lương theo cấp bậc chỉ phù hợp với cơ cấu trong quá khứ khi những người có cấp bậc đóng vai trò nhiều hơn. 3.3.8 Vị thế trên thị trường: Người chiến thắng sẽ chọn thị trường mới để chống lại sự thâm nhạp của các ngân hàng khác ( áp dụng cho những ngân hàng nhỏ). 3.3.9 Nghiệp vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ khách hàng và phí : Người chiến thắng sẽ đương đầu với tình trạng hkông chắc chắn khi cân đối hệ thống phân phối điên tử và mức phí để hỗ trợ hệ thống đó trong khi vẫn duy trì chất lượng dịch vụ cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là quy luật khách quan và động lực thúc đẩy sự phát triển. Song, để đảm bảo phát triển ổn định nền kinh tế đòi hỏi phải có sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc quan tâm và điều chỉnh mức độ cạnh tránh trong hoạt động ngân hàng nói chung và cạnhn tranh trong lĩnh vực tín dụng nói riêng ở giới hạn an toàn là rất cần thiết. Từ suy nghĩ đó, em đã đi nghiên cứu vấn đề cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại với mong muốn đóng góp một phần nho nhỏ vào công tác nghiên cứu khoa học ngân hàng, nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Kết luận Cạnh tranh là quy luật đặc thù của nền kinh tế thị trường. Trong ngân hàng thì lãi suất huy động vốn và cho vay là công cụ để cạnh tranh với mục đích là huy đông được nhiều vốn với chi phí rẻ nhất và ngược lại là cho vay cũng được nhiều nhất nhưng với doanh thu phù hợp nhằm đem lại lợi nhuận cực đại. Bên cạnh đó nó còn đem lại những mặt tích cực hoặc có thể có cả tiêu cực đối với xã hội. Tuy vậy, vẫn phải khẳng định sự tồn tại của nó là tất yếu, là cần thiết khách quan, là sản phẩm của nền kinh tế thị trường đối với hoạt động ngân hàng. Vậy ở Việt nam với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì vấn đề cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại có chuyển biến như vậy hay không? và hiện tại mới là câu hỏi lớn? Ta thấy, hiện nay, nhu cầu vốn tín dụng đối với ngân hàng tăng lên, do vậy các ngân hàng thương mại cạnh tranh bằng cách tăng lãi suất huy động vốn lên bằng nhiều cách khác nhau, đồng thời cho vay được nhiều hơn và chính trong hoạt động cho vay cũng chứa đựng những yếu tố cạnh tranh. Tuy rằng mặt bằng chung lãi suất cho vay có tăng hơn nhưng việc giảm bớt lãi suất cho vay đến mưc tối thiểu có thể cho phép vẫn là biện pháp cạnh tranh trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại với nhau. Từ trong thực trạng đó nó đã nói lên được những mặt tích cực của hoạt động này đồng thời đi kèm với nó là những mặt tồn tại và hạn chế. Đứng trước vấn đề đó chúng ta đã đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục kết hợp với những kiến nghị với mục đích lành mạnh và an toàn (tạo ra sân chơi bình đẳng với trò chơi “trí tuệ” ). Một dấu hiệu đáng mừng đó là 2/8/2000 NHNN đã chuyển từ cơ chế trần lãi suất sang điều hành theo lãi suất cơ bản và ngày 7/7/2000 Bảo hiểm tiền gửi bắt đầu được thực hiện. Sau khi đã nghiên cứu song đề tài em xin được bày tỏ sự tán đồng với những giải pháp và kiến nghị trên, đồng thời đưa ra kiến nghị duy nhất cho việc thực hiện giải pháp và kiến nghị trên. Đó là khi đã có giải pháp, có hướng đi thì cần phải thực hiện, cho dù có chưa chuẩn thì cũng còn rút ra được bài học cho bước đi vững chắc, tránh tình trạng lý thuyết suông. Hướng nghiên cứu mới: Khi cạnh tranh lãi suất không còn là công cụ chủ yếu, tức khi này thị trường tiền tệ phát triển đòi hỏi các ngân hàng và TCTD phải thực sự cạnh tranh trên thi trường ở trình độ dịch vụ bằng cách đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ thanh toán, nâng cao trình độ , thái độ phục vụ khách hàng hơn là sử dụng công cụ cạnh tranh lãi suất. Đây là hướng nghiên cứu mới cho hiện tại và tương lai trong hoạt động ngân hàng ở việt nam. Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh lãi suất trong hoạt động ngân hàng ở việt nam hiện nay, vẫn còn có ý nghĩa quan trọng đối với ngành ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Cho nên nó vẫn là một đề tài mở cho sự nghiên cứu sâu hơn, nhất là lúc này ngân hàng trung ương mới chuyển sang điều hành theo cơ chế lãi suất cơ bản và bảo hiểm tiền gửi cũng mới thực hiện. Tài liệu tham khảo Bài giảng môn Nghiệp vụ ngân hàng thương mại Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Annual report - State of Viet Nam 1993-2000). Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 1998. Luật các tổ chức tín dụng – NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 1998. Ngân Hàng Thương mại của Edwarrd W.Rsed, R.D và Edwarrd K.Glll, Ph.D NXB TPHCM 1999. Tài liệu giảng dạy môn Lý thuyết tài chính tiền tệ (hệ ĐHCĐ) của bộ môn tiền tệ, khoa Tài chính và thị trường tiền tệ Học viện ngân hàng. 10. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính Frederis-Minshkin NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 1996. 11. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Lê Vinh Danh. 12. Tạp chí Ngân Hàng Năm 2001 số 1. Năm 2000 số 4,6,8,9,10,12, số chuyên đề 1+2. Năm 1999 số 10,16,18. Năm 1999 số 7,14,16,22,23. 13. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ Năm 2001 số1. Năm 200 số1+2,19. Năm 1999 số1,5,13. Năm 1998 số 8,11. 14. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 4/2000. 15. Thời báo kinh tế. Năm 2000 số 117. Năm 1999 số 22,45,71,73. Năm 1998 số 7,18,23,31,98,102. 16. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế: số 10/2000 và 1/2001. 17. Tạp chí Phát triển kinh tế: số 10/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35054.doc
Tài liệu liên quan