- Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế VN phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
- Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục, chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước, đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để tăng cường thực thi luật thuế.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cạnh tranh thuế trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá - Cạnh tranh thuế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậm chí còn có cơ hội tăng hơn trước do cơ sở đánh thuế được mở rộng hơn nhờ sự gia tăng của các nguồn đầu tư và hiệu quả hành thu
b, Những thách thức đối với các chính phủ( đặc biệt là các nước nghèo)
Thứ nhất, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế và tăng cường áp dụng các ưu đãi thuế diễn ra đồng loạt ở các nước là nguy cơ thu hẹp cơ sở đánh thuế của mỗi nước mà do đó làm hạn hẹp nguồn thu của chính phủ. Hiệu ứng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế sự chảy máu vốn và chất xám ra bên ngoài chỉ xảy ra đối với những nước có chế độ thuế ưu việt hơn so với mặt bằng các nước khác. Tuy nhiên nếu việc cắt giảm thuế xảy ra đồng thời ở các nước thì hiệu ứng này bị trung hòa và có thể ở trạng thái số không. Hệ quả kéo theo của việc thu hẹp nguồn thu của chính phủ sẽ là không đủ nguồn lực để cung cấp các dịch vụ công cần thiết cho người dân. Vai trò và sức mạnh của nhà nước có thể bị thu hẹp và nguy cơ bất ổn trong nền kinh tế có thể dự đoán trước. Đối với các nước nghèo nguy cơ này càng gia tăng, vay nợ sẽ ngày càng nhiều và môi trường đầu tư ngày càng sa sút, dẫn đến sự sụt giảm về tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, trong khi tạo gánh nặng nợ cho thế hệ sau.
Thứ hai, cạnh tranh thuế là nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Một ví dụ dễ thấy nhất là do sức ép cạnh tranh thuế các nước buộc phải cắt giảm mức thuế biên cao nhất (đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân ) và giảm bớt độ lũy tiến của thuế. Vì vậy khả năng phân phối lại thu nhập của hệ thống thuế bị thu hẹp. Hơn thế nữa, gánh nặng thuế sẽ dần bị chuyển sang cho các yếu tố sản xuất khác không hoặc ít có khả năng di chuyển, như tầng lớp lao động có trình độ thấp, đất đai bất động sản. Gánh nặng thuế đối với thu nhập từ vốn sẽ giảm, thuế đối với việc di chuyển vốn và thu nhập bị thu hẹp và dần được bãi bỏ. Thông thường người có thu nhập cao thì thu nhập chủ yếu là thu nhập lãi vốn, người có thu nhập thấp thì thu nhập chủ yếu là từ lao động. Vì vậy, việc chuyển gánh nặng thuế từ vốn sang lao động, từ lao động có trình độ cao sang lao động có trình độ thấp cũng đồng nghĩa với việc chuyển gánh nặng thuế từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp. Nguy cơ phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ ngày càng sâu sắc và nguy cơ gia tăng bất ổn và bất công trong xã hội là có thực.
Thứ ba, nhìn từ khía cạnh kinh tế học, cạnh tranh thuế có thể làm suy giảm hiệu quả chung của nền kinh tế thế giới. Do những ưu đãi thái quá, quyết định đầu tư có thể bị bóp méo. Vốn và nhân lực có thể chảy nhiều vào những nước có mức thuế thấp, nhưng có thể nơi đó không phải là có năng suất và hiệu quả sử dụng vốn và nhân lực cao hơn. Hiệu quả phân bổ nguồn lực kinh tế tối ưu khó mà đạt được. Tương tự như vậy, các ưu đãi, miễn giảm thuế thường gây ra những méo mó trong quyết định đầu tư. Thêm vào đó cạnh tranh thuế dưới hình thức cung cấp những ưu đãi, miễn giảm thuế thuế làm tăng cơ hội cho tham nhũng, tăng gánh nặng cho cơ quan thuế. Đây là những bất lợi dễ hiển hiện nhất ở các nước kém phát triển.
2. Xu thế cạnh tranh thuế trong một số thập kỉ gần đây
Xu thế cạnh tranh thuế đã bắt đầu xảy ra khá phổ biến từ những năm 80 của thế kỉ XX. Khởi đầu là sự cắt giảm liên tục mức thuế suất thuế thu nhập công ty và sau đó là thuế thu nhập cá nhân. Nếu như năm 1986, mức thuế thu nhập công ty trung bình của 26 nước trong khối OECD là 41%, thì đến năm 2006, mức thuế trung bình của các nước này chỉ còn ở mức 27%( bảng1). Tương tự như vậy, năm 1985 mức thuế suất biên cao nhất trung bình thuế thu nhập cá nhân của các nước trong khối OECD là 63% thì đến năm 2005 mức thuế suất biên cao nhất chỉ trung bình là 35% ( bảng 2 ).
Có thể nói hầu hết các nền kinh tế chủ chốt của thế giới đang thực hiện một cuộc chạy đua giảm thuế suất nhằm đạt lấy ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế tình trạng chảy máu chất xám, vốn và nhân lực ra nước ngoài. Trước đây khi thủ tục hành chính chưa được nới lỏng và môi trường đầu tư khác biệt với những quy định có tính chất đặc biệt theo vùng miền, thì thuế suất không phải là nhân tố chính quyết định các luồng đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường và thông lệ đầu tư ngày càng thông thoáng thì thuế suất lại là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư:
+ Thuế suất cao làm giảm nỗ lực của các nhà đầu tư, đồng thời kích thích các nhà đầu tư áp dụng các thủ pháp kĩ thuật nhằm làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp( như định giá chuyển giao các yếu tố đầu vào cao, doanh thu đầu ra thấp để chuyển lợi nhuận ra nước ngoài một cách hợp pháp), bên cạnh đó khuyến khích các nhà đầu tư thay đổi cấu trúc vốn theo hướng nâng cao tỷ trọng vốn vay để khấu trù lãi phải trả vào chi phí nhằm làm giảm lợi nhuận chịu thuế.
+ Ngược lại thuế suất thấp hơn sẽ là nhân tố khuyến khích các nhà đầu tư tích cực bỏ vốn đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng nhằm làm tăng cường năng lực kinh doanh. Mức thuế suất danh nghĩa thấp là tín hiệu cho thấy chính phủ nước chủ nhà thực sự có thiện chí trong việc khuyến khích đầu tư và không áp dụng các biện pháp hành chính can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Thuế suất thấp có thể làm giảm nguồn thu của chính phủ trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài có thể nó sẽ được bù đắp ở cơ sở tính thuế rộng hơn nhờ việc tăng cường thu hút thêm các khoản đầu tư từ nơi khác.
Thuế suất danh nghĩa là một trong những nhân tố nhãn tiền có sức thu hút đối với các nguồn đầu tư. Tuy nhiên, không chỉ có thế, các hình thức ưu đãi thuế là một nhân tố khác cũng có sức hấp dẫn không kém ẩn định đằng sau mức thuế suất danh nghĩa. Đối với nhà đầu tư, mối quan tâm cuối cùng không phải mức thuế suất danh nghĩa mà là mức thuế suất hiệu quả, đặc biệt là mức thuế suất hiệu quả sau khi đã khấu trừ đi các ưu đãi, miễn giảm thuế. Đôi khi có những nước công bố mức thuế suất danh nghĩa và mức thuế suất hiệu quả khá cao, nhưng mức thúê suất thực lại khá thấp do có nhiều chế độ ưu đãi, miễn hoặc giảm thuế theo những tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Chẳng hạn mức thuế suất hiệu quả của thuế thu nhập doanh nghiệp sau khi đã khấu đi miễn, giảm thúê của Thái Lan chỉ còn là 7%, trong khi thuế suất hiệu quả trước miễn giảm là 46%( bảng 3).
Như vậy, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế suất và tiếp tục duy trì hay đẩy mạnh các biện pháp ưu đãi ,miễn giảm thuế là một xu hướng hiện thực trong nhiều thập kỉ qua ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cạnh tranh thuế có cả những mặt hại và mặt lợi xét trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Vấn đề là mỗi quốc gia cần có mhững đối sách thích hợp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, hoặc đơn giản chỉ là để khỏi rơi vào tình trạng nguồn thu bị sói mòn từ quá trình này phục vụ tốt nhất cho đường lối phát triển của mình.
II, Khu vực thương mại tự do Asean ( AFTA) và quá trình gia nhập AFTA của Việt Nam:
1, AFTA - CEPT:
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối.
a, Sự ra đời của AFTA:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.
Mục tiêu của AFTA:
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
- Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
- Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.
b, Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT-AFTA):
* Các Quy định chung của Hiệp định CEPT:
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm).
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây :
- Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.
- Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ.
- Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan .
* Các Nội dung và Quy định cụ thể :
Vấn đề về thuế quan:
Các bước thực hiện như sau :
Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT:
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL).
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL)
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL)
Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL) : Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GEL nêu trên.
Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện Hiệp định):
Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay( IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau :
a) Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL):
Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau :
+ Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại.
Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003.
+ Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu .
Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000.
Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước.
b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT.
Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục TEL vào Danh mục IL.
Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL này như sau:
- Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn 20% , và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục IL.
- Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003
Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên.
Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh mục TEL hoặc IL. Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường.
Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng năm :
Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo cho các nước thành viên.
Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs)
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...) Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
- Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng.
- Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi;
- Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT;
- Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau;
- Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu.
Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan:
Thống nhất biểu thuế quan:
Để tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ Khu vực được dễ dàng và thuận lợi, cũng như các cơ quan Hải quan ASEAN dễ dàng trong việc xác định mức thuế cho các mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực hiện CEPT- AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất một biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới(HS). Hiện nay biểu thuế quan chung của ASEAN đã được xây dựng và hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào chậm nhất cũng phải áp dụng từ năm 2002.
Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên ASEAN đã thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT- GTV (GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO) để tính giá hải quan.
Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và ngưòi nhập khẩu, không phải là do nhà nước áp đặt.
Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT của ASEAN.
Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan là :
+ Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan: Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D, Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu lại thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT.
+ Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau:
· Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu;
· Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu;
· Các vấn đề về giám định hàng hoá;
· Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố;
· Các vấn đề liên quan đến hoàn trả...
2, Qúa trình tham gia khu vực Mậu dịch Tự do Asean (AFTA) và lịch trình giảm thuế của Việt Nam theo CEPT/AFTA
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của Asean và tham gia ngay vào chương trình thực hiện AFTA
a. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt Nam:
Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm.
Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm:
• Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
• Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003.
• Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 5%.
• Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm 2010 :0-5%.
• Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó.
b. Tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam:
* Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam :
- Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách
- Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước
- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước
- Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
* Lộ trình cắt giảm thuế :
- Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL;
Cụ thể:
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL):
Danh mục này được xây dựng phù hợp với Điều 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc sống và sức khoẻ của con người, động thực vật, đến các giá trị lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ như các loại động vật sống, thuốc phiện, thuốc nổ, vũ khí,...
Danh mục này chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, và là các mặt hàng cụ thể như sau:
• Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, xì gà, thuốc lá và rượu bia thành phẩm;
• Các loại xỉ và tro;
• Các loại xăng dầu (trừ dầu thô);
• Các loại thuốc nổ, thuốc phóng, các loại pháo;
• Các loại lốp bơm hơi cũ;
• Các loại thiết bị điện thoại, điện báo hữu tuyến, vô tuyến, các loại thiết bị ra đa, các loại máy thu sóng dùng cho điện thoại, điện báo...;
• Các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi, các loại ô tô và phương tiện tự hành có tay lái nghịch;
• Các loại vũ khí, khí tài quân sự;
• Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đồ chơi cho trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và trật tự an toàn xã hội;
• Các loại hoá chất, dược phẩm độc hại, các chất phế thải, đồ tiêu dùng đã qua sử dụng;...
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL):
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt nam bao gồm 26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu và là những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lứt,..., được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo Danh mục này của các nước ASEAN khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành.
Danh mục cắt giảm thuế ngay (IL):
Danh mục này chủ yếu bao gồm những mặt hàng trong Biểu thuế hiện đang có thuế suất dưới 20% - là những mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay và một số mặt hàng tuy có thuế suất cao nhưng Việt nam lại đang có thế mạnh về xuất khẩu. Tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế quan là 1661, chiếm 51,6% tổng nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện chương trình CEPT, nhưng đây là biện pháp an toàn nhất đối với Việt Nam.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL):
Danh mục này chiếm khoảng 40,9% tổng số các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu và chủ yếu là những mặt hàng sau:
• Các loại ô tô (trừ các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi);
• Xe đạp, các loại đồ chơi trẻ em;
• Các loại máy gia dụng (như máy giặt, máy điều hoà, quạt điện,...);
• Các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu;
• Các loại vải sợi và một số đồ may mặc;
• Các loại sắt, thép;
• Các sản phẩm cơ khí thông dụng;...
Đây chủ yếu là các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất thấp hơn 20% nhưng trước mắt cần thiết phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, hoặc các mặt hàng đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, hàng phải có giấy phép của Bộ quản lý chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra nhà nước về chất lượng, hàng phải qua kiểm tra về vệ sinh dịch tễ và hàng phải qua kiểm tra về an toàn lao động.
Ngoài ra theo quy định của CEPT, những mặt hàng nào của nước thành viên ASEAN công bố cắt giảm thuế quan và hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác thì đồng thời cũng phải loại bỏ ngay các hạn chế về định lượng và trong thời hạn 5 năm sau đó, thực hiện loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu thông qua các hàng rào phi thuế quan khác. Việc Việt nam chưa đưa các mặt hàng này vào Danh mục cắt giảm thuế quan sẽ cho phép chúng ta có thêm 5 năm (kể từ năm mặt hàng được chuyển sang Danh mục cắt giảm cho tới khi phải loại bỏ các biện pháp hạn chế phi thuế quan) để hỗ trợ các ngành sản xuất và các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh. Đây là khoảng thời gian cần thiết để hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước và tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động để nền kinh tế phát triển có hiệu quả hơn.
- Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
- Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL, 755 mặt hàng cắt giảm ngay trong năm 2003. Việc thực hiện cắt giảm thuế CEPT/AFTA của VN được thể hiện trong Lộ trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA năm 2003-2006, bắt đầu từ ngày 1/7/2003. Với Lộ trình này, 73,6% số dòng thuế sẽ có mức thuế suất 0-5% vào năm 2003, 84,3% số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2005, 100% số dòng thuế có thuế suất 0-5% và 53,6% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm 2006.
- Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện xong các cam kết của AFTA.
3. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA: 3.1.Thuận lợi :
* Tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới:
Asean với thị trường gồm 11 nước thành viên có hơn 550 triệu dân đây là thị lớn trên thế giới. Khi Việt Nam tham gia vào Chương trình cắt giảm thuế CEPT, thì các doanh nghiệp Việt Nam khi XK sang các nước Asean cũng được hưởng thuận lợi vì hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước cũng cắt giảm tương ứng, giúp hàng hoá của VN rẻ hơn, sức cạnh tranh tăng lên. Ngoài ra, là thành viên của AFTA, VN có thêm điều kiện để tăng cường buôn bán với các nước trên thế giới. Tóm lại, thị trường Xk mở rộng kích thích các nhà doanh nghiệp VN tăng cường đầu tư phục vụ cho sản xuất hàng XK.
* Đẩy mạnh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới:
Sau bao nhiêu năm VN thực hiện chính sách hướng nội “ đóng cửa kinh tế” đeo đuổi nền kinh tế phi thị trường , quản lý nền kinh tế dựa trên nền tảng: kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp. Việc gia nhập Asean, tham gia xây dựng AFTA giúp VN tăng tốc độ chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường, thực hiện chính sách: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về XK”. Thật vậy, mới gia nhập Asean trên 13 năm mà nền kinh tế VN có sự chuyển hướng mạnh sang nền kinh tế thị trường, biểu hiện: xây dựng hệ thống pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ: Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật bảo hiểm…tạo hành lang pháp lý cho kinh tế thị trường phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế có sự hoàn thiện đổi mới phù hợp với các chuẩn mực khu vực và quốc têa: quy chế về hải quan, biểu thuế XNK, thuế VAT, cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài, về chế độ hạch toán kế toán. Bộ máy quản lý nhà nước đựoc hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ, năng động, cải cách hành chính đã tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế..
Khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU…
* Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên thế giới.
* Kích thích mạnh mẽ Việt Nam thay đổi cơ cấu kinh tế: Đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá phục vụ cho XK:
Quy chế của CEPT trước hết cắt giảm thuế mạnh ở các mặt hàng công nghiệp chế biến. Trong khi đó, tổng kim ngạch XK của VN trong năm 1996(năm VN bắt đầu thực hiện CEPT) tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới đạt 18%, nông sản, thuỷ sản ít qua chế biến 48%, nhiên liệu 34%. Nếu tiếp tục duy trì cơ cấu XK như hiẹn nay, VN sẽ hưởng lợi rất ít khi XK sang các nước thành viên Asean. Cho nên, tham gia thực hiện Chương trình CEPT tạo điều kiện kích thích VN thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến hàng XK.
* Góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp:
Tham gia vào AFTA, với thời gian những hàng rào mậu dịch được rỡ bỏ dần dần, nền kinh tế sẽ phải đối đầu với cạnh tranh. Hơn nữa sự cạnh tranh này là sự cạnh tranh khốc liệt, vì đa số các nước Asean có lợi thế so sánh tương tự như VN, cho nên cơ cấu sản phẩm XK của họ gần tương tự như VN. Cho nên muốn trụ được và thắng thế trong cạnh tranh trong môi trường kinh doanh chung AFTA buộc các doanh nghiệp VN phải hoàn thiện sản phẩm, đầu tư đổi mới trang thiết bị và công nghệ để tạo sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, để các sản phẩm VN chẳng những chiếm lĩnh được thị trường nội địa mà còn XK thuận lợi sang thị trường các nước Asean và các nước khác trên thế giới.
* Người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
* Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực:
Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia kinh tế có uy tín, dưới tác động của AFTA trong thời gian tới sẽ có sự chuyển dịch vốn đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều công nhân như ngành dệt, may mặc, sản xuất giày dép, chế biến gỗ, lắp ráp hàng điện - điện tử từ những nước nguồn nhân lực còn thiếu va đắt trong khối như Malaysia, Thái Lan, Philippiné…sang VN
3.2. Khó khăn :
- Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu giảm.
- Đa số các doanh nghiệp VN vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu. Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chơi cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nền kinh tế trong nước dễ bị tác động xấu bởi sự biến động không thuận lợi của các nứoc trong khu vực( khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước Asean 1997 – 1998 đã tác động rất mạnh mẽ đến sản xuất và XK của VN).
- Các nước Asean có những lợi thế tương đồng giống VN do vậy việc hợp tác thông qua sự phân công lao động trở nên khó khăn phức tạp và mang tính cạnh tranh gay gắt hơn. Vì thế trong cạnh tranh của VN thấp hơn so với nhiều nước Asean khác vì vốn và công nghệ cao hơn ta, thêm vào đó các nước lại mở cửa kinh tế trước VN cho nên kinh nghiệm đối phó với cạnh tranh và thâm nhập thị trường quốc tế nhiều hơn so với các doanh nghiệp VN.
- Cơ cấu hàng XK VN hiện nay chủ yếu là nông sản chưa qua chế biến. Đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó những mặt hàng công nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm XK của các nước AFTA khác và là sản phẩm NK của VN.
- Cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng.
Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn.
4. Giải pháp:
Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế.
a. Những khó khăn và thử thách:
Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần:
(1) gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công;
(2) gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế;
(3) gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệnh hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Với một nền đang chuyển đổi như VN, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn nhất định:
- Một là, cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; đối với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng vào GDP ngày càng tăng, song phần lớn là những cơ sở kinh doanh nhỏ và ẩn nấp nhiều hoạt động phi chính thức, không ổn định; tỷ lệ tiền lương còn chiếm trong tổng thu nhập quốc gia nhỏ. Tất cả những đặc điểm này làm giảm đi khả năng xây dựng một hệ thống thuế dựa vào những loại thuế hiện đại như thuế thu nhập và ở chừng mực nhất định là thuế VAT.
- Hai là, hạn chế về khả năng quản lý thuế. Một phần là do cơ cấu kinh tế, một phần là do nguồn lực cán bộ quản lý thuế yếu kém, tiền lương thấp đã tạo ra rất nhiều khó khăn để tiến đến thiết lập một hệ thống quản lý thuế tốt.
- Ba là, hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thuế. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế là đáng ghi nhận, nhưng do quy mô hoạt động của khu vực này còn nhỏ và phân tán cho nên những yêu cầu về báo cáo thống kê không được thiết lập một cách có hệ thống. Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và thống kê có gặp phải nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy. Thiếu số liệu tin cậy và cung cấp không kịp thời làm cho những người ra quyết định chính sách gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng tiềm năng của những thay đổi cơ bản đến hệ thống thuế hiện hành .
Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế:
- Thử thách về nguồn thu: Sự hội nhập vào kinh tế thế giới yêu cầu phải gia tăng nguồn thu thuế để Nhà nước đảm nhận vai trò như chính phủ của các nền công nghiệp phát triển. Nhưng làm thế nào gia tăng được nguồn thu, đặc biệt là gia tăng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân và không làm giảm đi những động lực kinh tế trong khi nền kinh tế sẽ phải giảm đi nhiều sự dựa vào nguồn thu thuế từ các hoạt động thương mại quốc tế. Để vượt qua những thử thách này, đòi hỏi những người ra quyết định chính sách phải đưa ra các ưu tiên chính sách đúng đắn và phải có cam kết chính trị để thực hiện cải cách cần thiết.
- Thử thách về quản lý thuế: Với sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu, hàng rào thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế và nguồn thu của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thuế thương mại quốc tế. Sự thay thế thuế thương mại quốc tế bằng hệ thống thuế nội địa và đi kèm theo đó là những chuyển hướng lợi nhuận thông qua các hoạt động chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài đó là những thử thách rất lớn trong quá cải cách thuế của VN. Hiện tại những điều khoản chống lạm dụng thuế trong các đạo luật thuế cũng như sự đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ kiểm toán thuế ở VN nói chung là chưa đủ để ngăn chặn và phát hiện những thực tế như vậy.
- Về hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu hút vốn là một thử thách không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển. Nhận thức được sức ép này VN cũng sẽ tăng cường mở rộng phạm vi khuyến khích thuế để cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này sẽ làm cho chính sách thuế trở nên phức tạp, không trung lập do có nhiều trường hợp miễn giảm. Một hệ thống thuế với nhiều điều khoản khuyến khích sẽ tạo ra nhiều kẽ hở và đó là mảnh đất màu mỡ cho những hoạt động trốn thuế. Hơn nữa, những khuyến khích của thuế mà thiếu đi những nền tảng hỗ trợ cần thiết khác thì hiệu lực của nó không cao. Điều quan trọng ở đây, cần phải giới hạn mục tiêu của thuế và giới hạn sự khuyến khích của thuế, đồng thời phải kết hợp với nhiều công cụ kinh tế để cạnh tranh và thu hút vốn .
b. Định hướng cải cách chính sách thuế của VN trong thời gian tới
* Mục tiêu:
Là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính của xã hội, nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện các mục tiêu có tính đặc thù, đó là:
° Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công. Theo tính toán của Bộ tài chính được xác định trong chiến lược phát triển tài chính đến năm 2010, thì tỷ lệ thu NSNN phải ở mức bình quân năm vào khoảng 20-21% GDP, trong đó thuế, phí và lệ phí đạt 18-19% GDP. Trên cơ sở đó, đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước vào khoảng 24-25% GDP, khống chế bội chi ngân sách nhà nước 4-5%GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP.
° Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.
° Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một chính sách thuế minh bạch, công bằng, có tính luật pháp cao.
* Các quan điểm cải cách chính sách thuế:
- Cải cách chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp VN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ap dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010).
- Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực.
Dự báo giai đoạn 2001 -2010 tỷ suất thu thuế chỉ vào khoảng 17 -18% GDP (giai đoạn 1991-2000: 16,2% GDP). Trong giai đoạn này do phải cắt giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo cam kết của các hiệp định thương mại cho phù hợp với xu hướng hội nhập vào khu vực và thế giới; đồng thời thực hiện chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư, nên phải có sự điều chỉnh, cắt giảm thuế thu vào nội địa. Với mức thu thuế thấp trong giai đoạn tạo đà cho công nghiệp hóa, nhưng lại kích thích sự phát triển của khu vực doanh nghiệp và dân cư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế cất cánh, làm tăng thêm nguồn thu thuế cho ngân sách trong giai đoạn tiếp theo.
- Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết: như thuế tài sản, thuế môi trường.
Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất - tiêu dùng và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.
- Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện VN hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp VN tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp VN đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì vậy, chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN .
- Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế VN phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
- Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục, chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước, đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để tăng cường thực thi luật thuế.
Bảng 1 : Mức thuế thu nhập công ty cao nhất ở các nước OECD
Năm
Nước
1986
1991
1996
2001
2006
Thay đổi từ 1986-2006
Australia
49
39
36
30
30
-19
Austria
30
30
34
34
25
-5
Belgium
45
39
40
40
34
-11
Canada
36
29
29
28
22
-14
Denmark
50
38
34
30
28
-22
Finland
33
23
25
29
26
-7
France
45
42
33
36
34
-11
Germany
56
50
45
38
38
-18
Greece
49
46
40
37
29
-20
Iceland
51
45
33
30
18
-33
Ireland
50
43
40
20
12
-38
Italy
36
36
36
36
33
-3
Japan
43
38
38
27
27
-16
Korea
30
34
32
28
25
-5
Luxembourg
40
33
33
28
22
-18
Mexico
34
34
34
35
29
-5
Netherlands
42
35
35
35
29
-13
New zealand
45
33
33
33
33
-12
Norway
28
27
19
28
28
0
Portugal
47
36
36
32
25
-22
Spain
35
35
35
35
35
0
Sweden
52
30
28
28
28
-24
Switzerland
10
10
10
8
8
-2
Turkey
46
49
25
33
30
-16
United kingdom
35
34
33
30
30
-5
United states
46
34
35
32
32
-14
Trung bình
41
35
33
31
27
-14
Nguồn: OECD database 2006
Bảng 2: Mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở các nước OECD
Năm
Nước
1985
1990
1995
2000
2005
Thay đổi từ 1985- 2005
Australia
60
49
47
47
47
-13
Austria
62
50
50
50
50
-12
Belgium
76
55
58
58
50
-26
Canada
5-0
44
44
29
29
-21
Denmark
73
68
64
28
26
-47
Finland
64
63
55
37
33
-31
France
65
53
51
53
48
-17
Germany
65
65
66
51
42
-23
Greece
63
50
45
45
40
-23
Iceland
56
40
47
33
26
-30
Ireland
65
58
48
44
42
-23
Italy
81
66
67
45
43
-38
Japan
70
65
65
37
37
-40
Korea
65
60
48
40
35
-30
Luxembourg
57
56
50
46
38
-19
Mexico
55
40
35
40
30
-25
Nertherland
72
72
60
60
52
-20
New zealand
66
33
33
39
39
-27
Norway
64
54
42
29
27
-37
Portugal
69
40
40
40
40
-29
Spain
66
56
56
39
29
-37
Sweden
80
72
58
25
25
-55
Switzerland
33
33
35
12
12
-21
Turkey
63
50
55
40
35
-28
United kingdom
60
40
40
40
40
-20
United states
50
33
42
39
35
-15
Trung bình
63
53
50
40
35
-28
Nguồn: chris Edwards, 2002 và OECD database 2006
Bảng 3: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trước và sau ưu đãi
Philippine
Malaysia
Thailand
Thuế suất hiểu quả trước ưu đãi
47
30
46
Giảm thuế suất hiệu quả do:
- miễn thuế kỳ hạn
19
0
28
- nhượng bộ thuế gián thu
7
8
11
Thuế suất hiệu quả sau ưu đãi
21
22
7
Nguồn: world development report 2005
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21807.doc