Đề tài Cầu lao động trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam là một nước đông dân với dân số trẻ, nên có lợi thế lớn về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, nguồn cung nhân lực đang ngày càng gia tăng đang gây sức ép lớn cho ciệc đáp ứng nhu cầu việc làm của xã hội. Số việc làm của xã hội lại phụ thuộc vào cầu lao động trên thị trường lao động, được hình thành từ nhu cầu của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức . hoặc từ nhu cầu nhập khẩu lao động từ nước ngoài. Việc nghiên cứu xu hướng, quy mô và chất lượng của cầu lao động là rất quan trọng trong việc xác định quy mô và chất lượng cung lao động cần thiết để đáp ứng, đồng thời tìm ra những giải pháp để sử dụng nguồn cung lao động một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế, từ đó ổn định phát triển kinh tế và xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đang chuyển đổi như ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch giữa các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, nhu cầu về lao động giữa các ngành và các thành phần kinh tế cũng thay đổi không ngừng để đáp ứng sự chuyển dịch, việc nghiên cứu cầu lao động lại càng có ý nghĩa quan trọng để giảm thiểu sự mất cân bằng cung cầu, giải quyết những vấn đề khó khăn của xã hội do mất cân bằng cung cầu gây ra như tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội . Nhằm phân tích xu hướng biến động của cầu lao động của Việt Nam trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, từ đó chỉ ra những biện pháp nhằm hướng cầu lao động phát triển phù hợp với sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế, em chọn đề tài : "Cầu lao động trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay" Đề tài của em gồm 3 phần: Phần I: Một số khái niệm về cầu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phần II: Thực trạng cơ cấu cầu lao động Phần III: Một số giải pháp

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cầu lao động trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành. III. ẢNH HƯỞNG CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ ĐẾN CẦU LAO ĐỘNG Các nước trên thế giới đều quan tâm đến việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu kinh tế của mình. Đối với các nước phát triển hàng đầu trên thế giới, với nền kinh tế công nghiệp đã được phát triển từ đầu thế kỷ 20, thì mối quan tâm là tạo ra những lĩnh vực công nghệ mới, có hiệu quả cao, đặc biệt là các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Việc thực hiện công nghệ này trước mắt có thể chưa thu được lợi nhuận, nhưng trong tương lai thì lại là cơ sở để giành vị trí thống trị hoặc áp đảo thị trường thế giới và khu vực. Để đổi mới công nghệ sản xuất, các nước công nghiệp hoá tìm cách chuyển những công nghệ lạc hậu hoặc kém tính cạnh tranh sang các nước kém phát triển hơn. Mặt khác, đối với những nước nghèo đang phát triển như Việt Nam, cơ cấu kinh tế còn rất lạc hậu với phần lớn dân số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ mới đang trên đà phát triển, đang rất có nhu cầu tiếp nhận các công nghệ có trình độ thấp để từng bước tham gia vào thị trường thế giới. Sự gặp gỡ giữa cung và cầu về công nghệ trình độ thấp đã thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển làm thay đổi cơ cấu kinh tế tại Việt Nam ngày nay. Cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi cơ cấu, tác động mạnh đến số lượng và chất lượng lao động, vì lao động được xem là nguồn lực của quan trọng cho phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì khả năng thu hút sức lao động càng cao và ngược lại. Đối với những nước nghèo đang trong quá trình chuyển dịch, cơ cấu kinh tế luôn biến đổi cho phù hợp với sự phát triển của thế giới, thị trường luôn biến động thì thị trường lao động cũng biến động không ngừng để đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế. Trước hết, đó là sự chuyển dịch cơ cấu của ba nhóm ngành lớn theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp và tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ đóng góp trong GDP. Theo đó, lao động trong ba nhóm ngành này cũng phải chuyển dịch theo hướng giảm bớt tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, phải tăng trình độ trang bị kỹ thuật trong nội bộ các nhóm ngành, đặc biệt là nông- lâm- ngư nghiệp, tăng cường sử dụng những máy móc hiện đại để giảm bớt lao động, sử dụng những giống cây trồng và vật nuôi cho năng suất cao để vẫn đảm bảo tăng trưởng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Lao động trong nông nghiệp sẽ được dịch chuyển vào công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, để làm được điều này phải nâng cao trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới... của lao động dịch chuyển nói riêng và dân cư nói chung. Lao động thủ công và bán cơ giới còn khá phổ biến nên năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nhất là công nghiệp nhẹ, công nghiệp nông thôn còn nhỏ bé, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng nên chưa có sức thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp. Sự tiếp thu công nghệ của thế giới, tiếp nhận đầu tư phải đi đôi với việc phát triển và đào tạo một nguồn nhân lực tương xứng để sử dụng được những công nghệ đó, có vậy thì công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới đạt được hiệu quả. Thứ hai, đó là sự chuyển dịch cơ cấu của các thành phần kinh tế cũng làm cho thị trường lao động biến động. Thành phần kinh tế tư nhân tăng lên, thu hút nhiều lao động ở nhiều trình độ giải quyết được khá lớn nhu cầu việc làm của nền kinh tế. Mặt khác, thành phần kinh tế nhà nước chuyển biến về chất, làm dư thừa ra một số lượng lao động dôi dư cũng là áp lực cho thị trường lao động. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đòi hỏi lao động trình độ cao, với chuyên môn kỹ thuật và trình độ quản lý đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến nhu cầu về lao động cũng thay đổi theo. Trong khi đó, nguồn cung lao động tăng lên không ngừng tạo ra áp lực lớn cho cầu lao động. Vì vậy, việc phát triển kinh tế cũng đồng nghĩa với việc tăng cầu lao động, tập trung vào những ngành có thể thu hút được nhiều lao động, tạo được nhiều việc làm cho nền kinh tế, đồng thời cũng phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề vô cùng quan trọng của nước ta hiện nay. PHẦN HAI THỰC TRẠNG CƠ CẤU CẦU LAO ĐỘNG I.CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH KINH TẾ Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động trong 3 ngành kinh tế lớn là giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Bảng 1: Cơ cấu lực lượng lao động có việc làm trong 3 khu vực kinh tế: Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Nông- lâm- ngư nghiệp 68,96 65,76 66,14 64,08 62,61 62,76 61,14 58,35 Công nghiệp và xây dựng 10,88 12,14 11,64 12,43 13,1 14,42 15,05 16,96 Dịch vụ 20,06 22,1 22,22 23,49 24,28 22,82 23,81 24,69 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn:Số liệu thống kê lao động việc làm 1996-2003,NXB Thống kê Cơ cấu việc làm vẫn có sự chênh lệch rất lớn giữa ba khu vực, trong đó nông- lâm- ngư nghiệp vẫn cao nhất, tiếp đến là dịch vụ, và thấp nhất là công nghiệp và xây dựng, ta thấy lao động đã có sự dịch chuyển nhưng tốc độ vẫn còn chậm và việc tăng giữa các ngành không ổn định. Sau 8 năm, ta mới di chuyển được 10,61% lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, trong đó công nghiệp chỉ tăng lên được 6,08%, dịch vụ tăng được 4,63%, sự chuyển dịch này còn chậm. So với cơ cấu lao động của các nước phát triển hầu hết lao động đều nằm trong dịch vụ (Mỹ 72,8% , Nhật 60,7% năm 1995), còn lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp (Mỹ 2,9%, Nhật 5,7% năm 1995); so với một nước đang phát triển như Thái Lan thì 42,95% lao động là nằm trong dịch vụ, chỉ có 40,35% lao động trong nông nghiệp năm 1996 thì ta thấy xu hướng nhu cầu lao động của ngành dịch vụ là rất lớn nhưng ta chưa thể tận dụng được. Thậm chí, việc tăng lao động giữa các ngành cũng không ổn định, năm 2000 và 2001 lao động trong nông nghiệp tăng (từ 62,61% lên 62,76%) còn lao động trong dịch vụ lại giảm (24,28% xuống 22,82%). Nguyên nhân của tình trạng này là tốc độ phát triển của ngành dịch vụ có xu hướng giảm, do sau khi nền kinh tế mở cửa đã tiếp nhận đủ các lĩnh vực dịch vụ phù hợp với trình độ phát triển của nó, và mức sống dân cư còn chưa cao nên khả năng phát triển các loại dịch vụ đa dạng khác chưa nhiều. Trong tương lai, bên cạnh việc đẩy nhanh quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tạo sự phát triển theo chiều sâu thì chúng ta vẫn cần thúc đẩy các lĩnh vực dịch vụ chủ chốt ( như bưu chính viễn thông...) phát triển, qua đó nâng cao tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP. Lao động trong nông- lâm- ngư nghiệp phải tiếp tục giảm, nhờ việc đầu tư kỹ thuật canh tác và máy móc hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Lao động trong công nghiệp và xây dựng giữ mức độ tăng chậm và ổn định, do xu hướng đổi mới công nghệ trong công nghiệp dẫn đến sử dụng ít lao động hơn những công nghệ cũ nhưng đòi hỏi trình độ của lao động phải được nâng cao. I.1.CẦU LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP Bảng 2: Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên trong nông nghiệp thời kỳ 1996-2003: Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Lượng lao động 23431 22589 23018 22863 22670 23648 24023 23099 Nguồn:Số liệu thống kê lao động việc làm 1996-2003,NXB Thống kê Cầu lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm chậm dần nhưng số lượng tuyệt đối vẫn lớn và tăng giảm không ổn định. Số lao động có việc làm trong nông nghiệp giảm từ 23,43 triệu người năm 1996 xuống còn 23,1 triệu người năm 2003, giảm 0,33% cả thời kỳ, trung bình mỗi năm giảm 47 nghìn người, tương đương với 0,25%/năm. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch còn rất chậm, trong từng thời kỳ, số lượng lao động tăng giảm không ổn định, không đáp ứng được yêu cầu giảm tuyệt đối số lượng lao động trong nông nghiệp theo mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đến nay, cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp với tốc độ 1 đến 1,5%/năm. Năm 1994, cơ cấu kinh tế nông thôn : 71% nông nghiệp và 29% công nghiệp và dịch vụ ; đến năm 2001, các tỷ lệ trên là 62% và 38%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống 70% và lao động phi nông nghiệp tăng từ 20% lên 30%. Trong đó, số lượng và tỷ trọng các nhóm hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, dịch vụ đã tăng lên, số hộ công nghiệp và xây dựng tăng từ 1,6% năm 1994 lên 5,8% năm 2001, số hộ dịch vụ tăng từ 6,4% lên 11,2% trong cùng kỳ. Như vậy, quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn đã làm giảm số lượng và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ trọng lao động phi nông nghiệp ; từ đó tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các hộ nông thôn. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng của các ngành cũng thay đổi theo hướng tăng số lượng và tỷ trọng lâm nghiệp thuỷ sản, giảm số lượng và tỷ trọng nông nghiệp. Kết quả là tạo ra nền nông nghiệp đa ngành, cơ cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện đất đai rừng biển, địa hình, khí hậu và trình độ dân cư xoá bỏ tính thuần nông trong nội bộ ngành nông- lâm- ngư nghiệp. Kéo theo đó là cơ cấu hộ nông, lâm thuỷ sản cũng có sự thay đổi. Mô hình kinh tế trang trại, nhất là trang trại hộ gia đình đã có sự phát triển và trở thành mô hình sản xuất hàng hoá có hiệu quả kinh tế. Số liệu của tổng cục thống kê cho thấy đến 1/10/2001 cả nước có 60758 trang trại (tăng 4906 trang trại so với năm 2000, tăng 8,78%), sử dụng 369 ngàn ha đất và mặt nước, thu hút được 375 ngàn lao động, bình quân 1 lao động 0,984 ha. Trong đó, số lao động của hộ chủ trang trại là 169 ngàn (chiếm 45%) và 206 ngàn lao động làm thuê ngoài (chiếm 55%). Thu nhập của các trang trại năm 2000 là 1905,8 tỷ đồng, bình quân một trang trại là 31,4 triệu đồng/năm, thu nhập một nhân khẩu một tháng đối với nhân khẩu là chủ trang trại là 584 ngàn đồng/ tháng, gấp 2,5 lần thu nhập bình quân một người một tháng khu vực nông thôn. Những hạn chế của cầu lao động trong nông nghiệp: Phần lớn lực lượng lao động vẫn nằm đọng trong khu vực nông nghiệp, trong khi tỷ lệ đóng góp của khu vực này trong GDP liên tục giảm ( từ 27,76% năm 1996 xuống 22,54% năm 2003) gây sức ép lớn cho việc giải quyết việc làm cho lao động dư thừa. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 72,28% năm 1996 lên 77,66% năm 2003, tức là tỷ lệ lao động ở nông thôn thiếu việc làm vẫn còn rất cao (22,34%). Việc tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động còn diễn ra rất chậm, do tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, tự cấp tự cung tự phát vẫn còn phổ biến. Sản xuất hàng hoá và ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp vẫn phát triển chậm chưa tạo ra thị trường để thu hút lao động trong nông nghiệp. Do vậy, tình trạng thiếu việc làm cao và khó có khả năng giảm nhiều trong những năm tới. Diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người còn thấp. Số diện tích đất nông nghiệp được sử dụng trên cả nước năm 2003 là 9406,8 nghìn ha, như vậy bình quân 1 lao động 0,41 ha, hay bình quân 2 ha đất có 5 lao động sử dụng. Trong tương lai, để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, việc đầu tư kỹ thuật canh tác và đưa máy móc vào sử dụng trong nông nghiệp sẽ càng làm giảm số lao động cần thiết trên 1 ha đất, như vậy số lao động thiếu việc làm càng nhiều. Mô hình kinh tế trang trại tuy đã phát triển nhưng quy mô của trang trại còn nhỏ (bình quân 6,2 lao động/trang trại), phần lớn lao động sử dụng lại là lao động phổ thông, giản đơn nên năng suất còn thấp. Các trang trại mới chỉ giải quyết được việc làm cho 1,6% lao động trong nông nghiệp, tiềm lực kinh tế chưa lớn, quan hệ tín dụng chậm phát triển, hơn nữa trình độ quản lý, trình độ tổ chức và trình độ kỹ thuật của nhiều chủ trang trại còn thấp nên khả năng phát triển nhanh mô hình này còn hạn chế. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, nhất là hạn hán đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cũng có sức cạnh tranh thấp, không đảm bảo yêu cầu về chất lượng quốc tế, dẫn đến sự chuyển dịch lao động nông nghiệp nông thôn rất khó khăn. I.2. CẦU LAO ĐỘNG TRONG CÔNG NGHIỆP Bảng 3: Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên trong công nghiệp Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Lượng lao động 3698 4169 4049 4435 4744 5432 5912 6713 Nguồn:Số liệu thống kê lao động việc làm 1996-2003,NXB Thống kê Cầu lao động trong công nghiệp có xu hướng tăng nhanh và tăng ổn định. Số liệu cho thấy, từ năm 1996 đến năm 2003 số việc làm do công nghiệp tạo ra là 0,43 triệu, cả thời kỳ là 3,03 triệu, tốc độ tăng việc làm hàng năm là 8,8%. Tính cả thời kỳ, số lượng việc làm do công nghiệp tạo ra chiếm khoảng 58,9% tổng số việc làm mới của nền kinh tế (cả thời kỳ nền kinh tế tạo ra được 5,6 triệu việc làm mới), trong khi số lao động trong công nghiệp chỉ chiếm 16,96% trong tổng số lao động có việc làm của nền kinh tế. Có được điều này là do tỷ trọng công nghiệp trong GDP có sự chuyển biến tích cực, từ 29,73% năm 1996 đến 39,47% năm 2003, trung bình mỗi năm tăng 16,9%. Điều này thể hiện chủ trương công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã đi đúng hướng, trong đó chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động; đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao; phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, phần mềm; đồng thời xây dựng công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế, quốc phòng. 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Công nghiệp chế biến 242.0 237.5 233.0 228.5 224.0 219.3 227.5 Công nghiệp khai thác mỏ 2643.3 2752.1 2860.5 2971.4 3088.7 3207.8 3331.5 Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước 77.7 78.2 78.6 78.9 79.3 79.5 85.2 Xây dựng 792.7 819.9 848.6 878.3 908.4 938.8 1068.1 Các ngành sử dụng nhiều lao động gồm có: Công nghiệp dệt may, da giày, công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản. Các ngành này vừa thu hút được một lực lượng lao động đáng kể vừa là nguồn tiêu thụ các sản phẩm của các ngành nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản phục vụ xuất khẩu, là hướng đi cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bảng 4: số lao động làm việc trong các ngành công nghiệp tại thời điểm 1/7 Ngu ồn: www.gso.gov.vn Sử dụng nhiều lao động nhất vẫn là ngành công nghiệp chế biến, với 3,33 triệu người, chiếm 70,2% lao động của các ngành công nghiệp; tiếp đến là ngành xây dựng 1,068 triệu người, chiếm 22,67% tổng số lao động; ngành khai thác mỏ 0,2 triệu người, chiếm 4,83%; thấp nhất là ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 0,085 triệu người, chiếm 2,3%. Về lượng tăng trưởng nhiều nhất là công nghiệp chế biến, tăng 688,2 nghìn người, trung bình mỗi năm tăng hơn 98 nghìn người; xây dựng tăng 275,3 nghìn người, mỗi năm tăng hơn 39 nghìn người; sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước tăng 7,5 nghìn người, trung bình tăng hơn 1 nghìn người/năm; chỉ có ngành khai thác mỏ giảm 14,5 nghìn người, trung bình 2 nghìn người/năm. Về tốc độ tăng trưởng, ngành xây dựng lại là ngành có tốc độ tăng nhanh nhất với 4,35% mỗi năm, ngành chế biến 3,36%, ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước 1,3%, ngành khai thác mỏ giảm 1%. Để đạt được sự tăng trưởng cầu lao động trong công nghiệp như vậy, không thể không kể đến sự phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN-KCX). Các KCN-KCX đã giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ những người lao động ở khắp mọi miền đất nước, nhất là những lao động phổ thông ở vùng sâu vùng xa. Tính đến năm 2004, ở Việt Nam có 106 khu công nghiệp được thành lập, ngoài ra còn có 124 cụm khu công nghiệp, khu công nghiệp vừa và nhỏ nằm rải rác ở 19 địa phương trong cả nước. Các KCN-KCX đã thu hút được 1442 dự án của các nhà đầu tư từ hơn 40 nước và vùng lãnh thổ và 1422 dự án đầu tư trong nước. Các KCN-KCX đã tạo việc làm ổn định cho gần 60 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Do duy trì việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động nên các KCN-KCX đã góp phần xoá đói giảm nghèo ở nhiều vùng nông thôn vốn trước đây chỉ trông chờ vào sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, trong môi trường sản xuất công nghiệp, kỹ năng làm việc và trình độ chuyên môn của người lao động được nâng cao, góp phần phát triển nguồn nhân lực theo hướng hiện đại. Như vậy công nghiệp đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn cho nền kinh tế, cùng với chính sách phát triển công nghiệp của Nhà nước hướng vào những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, cầu lao động trong công nghiệp sẽ vẫn là một nguồn thu hút sức lao động lớn của nền kinh tế, giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ những lao động kỹ thuật hiện nay. Tuy cầu lao động trong công nghiệp có tăng lên nhưng vẫn tiềm tàng những yếu tố bất ổn trong việc sử dụng và thu hút lao động: Nguyên nhân giảm lao động trong ngành khai thác mỏ (cụ thể là than đá), một phần do hạn chế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, một phần khác là ngành này là ngành lao động nặng nhọc, độc hại nhưng thu nhập thấp (khoảng 800-900 nghìn đồng) khiến người lao động không thể trụ nổi. Lao động trong ngành chế biến như may mặc, da giày tuy có tăng do phát triển sản xuất nhưng đặc thù là sản xuất theo mùa nên tỷ lệ biến động lao động lớn. Một doanh nghiệp có 5000-6000 công nhân thì hàng năm trung bình khoảng 1000-2000 công nhân thường xuyên ra vào, tỷ lệ ra đi thường chiếm 10-20% số công nhân hiện có. Thu nhập của những ngành này cũng nằm trong nhóm những ngành có thu nhập thấp (khoảng 900 nghìn đồng), công việc vất vả nên tuy cầu lao động lớn, cung lao động thừa nhưng vẫn xảy ra tình trạng thiếu nhân lực. Do vậy, biện pháp của các ngành này là đổi mới công nghệ để giảm thiểu lao động. Đây là một biện pháp không thể thực hiện được ngay nhưng chắc chắn là một biện pháp lâu dài trong tương lai, vì vậy việc tạo việc làm trong các ngành này trong tương lai sẽ không còn thuận lợi như trước nữa. Tốc độ phát triển của các khu công nghiệp tập trung, khi chế xuất diễn ra quá nhanh tuy có tác dụng giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động nhưng ngược lại dẫn đến việc mất đất canh tác, số lao động mất việc làm vì thế cũng tăng nhanh, dẫn đến việc tình hình giải quyết việc làm ở khu vực đô thị ngày càng khó khăn. Theo ước tính của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trong 5 năm tới có tới 50 vạn lao động nông nghiệp cần được dạy nghề và bố trí việc làm do mất đất canh tác. Lượng lao động 1995 Lượng lao động 2001 Lượng tăng tuyệt đối Tốc độ phát triển (%) Thương nghiệp; sửa chữa xe có động cơ, mô tô,xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 1936.5 2903.6 967.1 6.98 Khách sạn và nhà hàng 522.4 715.8 193.4 5.39 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 761.2 1025.9 264.7 5.10 Tài chính, tín dụng 67.9 78.8 10.9 2.51 Hoạt động khoa học và công nghệ 37.1 33.4 -3.7 -1.73 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 62.6 119.3 56.7 11.35 QLNN và ANQP, đảm bảo xã hội bắt buộc 842.5 936.7 94.2 1.78 Giáo dục và đào tạo 844.6 994.3 149.7 2.76 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 234.4 254 19.6 1.35 Hoạt động văn hoá và thể thao 63.3 75.1 11.8 2.89 Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 107.3 154 46.7 6.2 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 197.3 292.4 95.5 6.78 Hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân 61.4 74.1 12.7 3.18 Hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế 1.6 1.8 0.2 1.98 I.3.CẦU LAO ĐỘNG TRONG DỊCH VỤ Bảng 5:Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996-2003: Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Lượng lao động 6898 7593 7734 8382 8792 8597 9354 9773 Nguồn:Số liệu thống kê lao động việc làm 1996-2003,NXB Thống kê Bảng 6: Lao động trong một số ngành dịch vụ tại thời điểm 1/7 Nguồn: www.gso.gov.vn Xu hướng lao động trong dịch vụ tăng lên nhưng không ổn định. Ta thấy trong cả thời kỳ 1996-2003 số lao động trong dịch vụ đã tăng lên 2,87 triệu người, trung bình tăng thêm 0,41 triệu người làm trong ngành dịch vụ mỗi năm, tốc độ phát triển hàng năm là 5,1%. Xu hướng thay đổi của dịch vụ cũng tích cực với số việc làm tăng lên liên tục, trừ năm 2001giảm so với năm 2000 là 213 nghìn người. Nguyên nhân chính là do kinh doanh giảm sút trong ngành du lịch, khách sạn nhà hàng, kinh doanh tài sản... Dịch vụ là một ngành thu hút nhiều lao động nhất trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước trên thế giới, tuy vậy ở Việt Nam dịch vụ mới chỉ có gần 25% lao động làm trong ngành này và tốc độ phát triển cũng chưa tương xứng với tiềm năng. Lý do của tình trạng này là tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế chậm lại và hầu hết các lĩnh vực dịch vụ chủ chốt đều tăng trưởng thấp đi so với thời kỳ 1990-1995. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy trong thời kỳ 1995-2001, ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn có tốc độ tăng trưởng lao động cao nhất (11,35%) do sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển, từ đó tạo ra nhu cầu về dịch vụ tư vấn và thuê mướn tài sản. Thu hút nhiều lao động nhất là thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình chiếm 37,91% tổng lao động trong các ngành dịch vụ, cả thời kỳ lượng việc làm mới được tạo ra trong ngành này trên 50% tổng việc làm được tạo ra trong các ngành dịch vụ. Những lĩnh vực dịch vụ chủ chốt của nền kinh tế như khách sạn và nhà hàng; vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc;giáo dục và đào tạo cũng thu hút thêm được lượng lao động lớn (31,66% tổng lao động tăng thêm). Tốc độ phát triển của các loại hình dịch vụ không đều, kéo theo sự biến động của lao động trong các ngành này cũng ko đều nhau, thậm chí có ngành còn giảm lượng lao động (hoạt động khoa học và công nghệ), trong khi đó xuất hiện thêm nhiều ngành dịch vụ mới mà số liệu chưa thể thống kê hết được. Tuy nhiên, thị trường của Việt Nam tuy đông và giàu tiềm năng nhưng chưa phải đã phát triển và có mức nhu cầu cao như thị trường của các nước công nghiệp khác, nên tốc độ phát triển thêm các lĩnh vực dịch vụ mới không còn cao như thời kỳ đầu nữa. Hai ngành dịch vụ quan trọng là du lịch, khách sạn nhà hàng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố xã hội như vấn đề an ninh, bệnh dịch... Do vậy năm 2000 nước ta và cả châu Á bị bệnh dịch Sars đã làm cho kinh doanh của 2 ngành này giảm sút, dẫn đến giảm lượng lao động thu hút trong dịch vụ trong năm 2001 (đã phân tích ở trên) tuy trong cả thời kỳ, tốc độ phát triển của 2 ngành này là rất cao (do mở cửa thị trường và mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới trong thời kỳ đầu đổi mới). Trong thời kỳ hiện nay, vấn đề an ninh của Việt Nam đã được đảm bảo, nhưng vấn đề vệ sinh thực phẩm và môi trường không tốt có thể phát sinh nhiều loại bệnh dịch nguy hiểm (ví dụ như bệnh cúm gà phát sinh từ châu Á trong đó Việt Nam là một trong những nước phát hiện đầu tiên hiện nay có nguy cơ lan truyền trên toàn cầu đe doạ đến tính mạng hàng triệu người), vấn đề này rất ảnh hưởng đến việc kinh doanh du lịch và có thể làm tốc độ phát triển của hai ngành nói trên chậm lại. Ngoài ra, sự độc quyền của Nhà nước trong những ngành dịch vụ chủ chốt như Bưu chính viễn thông cũng làm hạn chế sự tăng trưởng chung của cầu lao động dịch vụ. Trong ngành dịch vụ nhu cầu về lao động có chất lượng cao, lao động đã qua đào tạo (tốt nghiệp PTTH trở lên) là chủ yếu, đặc biệt là ở những ngành chủ chốt như Bưu chính viễn thông (95% trở lên), du lịch (70% trở lên), thương mại (30% trở lên)... việc phát triển các loại hình dịch vụ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các khu đô thị phát triển và xung quanh các KCN-KCX. Ở Việt Nam, mới chỉ có 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và một số thành phố nhỏ, còn lại hầu hết là những vùng nông thôn với nghề nghiệp chính của người dân là nông nghiệp , hơn nữa tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao trên 90% cũng là một hạn chế để phát triển các ngành dịch vụ. II.CƠ CẤU LAO ĐỘNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Bảng 7: số lao động trong các thành phần kinh tế thời kỳ 1996-2004 Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng 33978 34352 34801 35679 36205 37677 39289 41176 42316 Nhà nước 2973 3094 3533 3606 3644 3769 3995 4163 4340 Ngoài Nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33554 34857 36485 37334 Có vốn đầu tư nước ngoài - 130 185 189 218 354 437 528 642 Nguồn: www.gso.gov.vn Ta thấy trong cả ba nhóm Nhà nước, ngoài Nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài đều có xu hướng tăng. Trong 8 năm tổng số người có việc làm đã tăng lên 8.338 nghìn người, trung bình tăng hơn 1 triệu người một năm. Trong đó, lượng tăng của các thành phần như sau: Nhìn chung trong cả thời kỳ, tỷ trọng của lao động làm việc ngoài Nhà nước là cao nhất, nhưng có xu hướng giảm nhẹ ( từ 91,25% năm 96 xuống 88,23% năm 2004), tỷ trọng thấp nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (1,51%), còn tỷ trọng lao động trong khu vực Nhà nước có xu hướng tăng nhẹ ( từ 8,75% lên 10,26%). Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn là khu vực tạo ra nhiều việc làm nhất ( tạo ra gần 76% việc làm mới trong cả thời kỳ), tuy nhiên về tốc độ tăng thì chậm nhất (2,35%), tăng nhanh nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (25.63%), tiếp đến là khu vực Nhà nước (4,84%). Bảng 8: Lượng tăng lao động trong các thành phần kinh tế Tỷ trọng 1996 (%) Tỷ trọng 2004 (%) Lượng tăng thêm (nghìn người) Tỷ trọng tăng thêm (%) Tốc độ tăng thêm (%) Tổng 100 100 8338 100 2,78 Nhà nước 8,75 10,26 1367 10,39 4,84 Ngoài Nhà nước 91,25 88,23 6328 75,89 2,35 Có vốn đầu tư NN 0 1,51 642 7,72 25,63 Nếu chia thời kỳ 1996-2004 thành hai thời kỳ 1996-1999 và 1999-2004 thì ta thấy xu hướng tăng lao động trong các ngành kinh tế có sự biến đổi như sau: Bảng 9: Tốc độ tăng 1966-1999 (%) Tỷ trọng tẳng thêm (%) Tốc độ tăng 1999-2004 (%) Tỷ trọng tẳng thêm (%) Tổng 1,64 100 3,47 100 Nhà nước 6,64 37,21 3,77 11,06 Ngoài Nhà nước 0,94 51,68 3,2 82,1 Có vốn đầu tư nước ngoài 13,3 11,11 27,7 6,89 Ta thấy thời kỳ 2000-2004 tốc độ tăng lao động có việc làm đã tăng lên hơn 2 lần, trong đó xu hướng tăng như sau: lao động làm việc trong khu vực Nhà nước tăng chậm lại (3,77% so với 6,64%), khu vực ngoài Nhà nước tốc độ tăng nhanh hơn (3,2% so với 0,94%), khu vực có vồn đầu tư nước ngoài vẫn có tốc độ tăng nhanh nhất (27,7% so với 13,3%, gấp hơn 2 lần). Nguyên nhân là do năm 1999 Luật Doanh nghiệp đã được quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ năm 2000, nên kể từ đầu năm 2000 số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký hoạt động tăng lên đáng kể, dẫn đến việc tốc độ tăng lao động làm việc trong khu vực này cũng lớn hơn hẳn ( gần 3,5 lần), ngược lại do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện sắp xếp lại nên tốc độ lao động tăng thêm cũng giảm đi. Khu vực ngoài Nhà nước đã tạo ra hơn 80% số việc làm mới của cả nước thời kỳ 1999-2004, cao hơn hẳn so với thời kỳ trước (51,68%), chiếm gần 90% tổng số việc làm năm 2004, đóng góp vai trò không nhỏ trong việc hạn chế thất nghiệp của Việt Nam. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là khu vực có tốc độ tăng nhanh nhất do Việt Nam tiếp tục đổi mới chính sách đầu tư nước ngoài để thu hút đầu tư. Như vậy, cơ cấu lao động trong các thành phần kinh tế cũng có những sự chuyển biến tích cực, song vẫn còn một số hạn chế sau: Khu vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi có nhiều khả năng tạo việc làm vì những ưu thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ việc làm, tính năng động và lợi ích trực tiếp của lao động, phù hợp với chất lượng lực lượng lao động và trình độ quản lý. Tuy nhiên, khu vực này cũng đang đối đầu với những khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém tính cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Khu vực Nhà nước cũng đang gặp những thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giảm biên chế, sắp xếp lại số biên chế hiện có, hạn chế nhận thêm lao động mới. Các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù có nhiều khoản đầu tư và các chính sách hỗ trợ, cũng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền, do đó cơ hội tạo thêm việc làm là rất hạn hẹp. Hơn nữa tình trạng dư thừa lao động tại các doanh nghiệp Nhà nước cũng đang là vấn đề đáng quan tâm với tỷ lệ lao động dôi dư năm 1999 lên tới hơn 9%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khá cao, nhưng tỷ trọng trong GDP và tỷ trọng lao động còn thấp. Hơn nữa, phần lớn các doanh nghiệp này tập trung vào những ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản, đó là những ngành cần nhiều vốn, có hệ số bảo hộ cao, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiều. Qua những số liệu ở trên, ta có thể kết luận, cầu trên thị trường lao động còn có cơ cấu lạc hậu, thể hiện cơ cấu kinh tế chưa tiến bộ. Cầu lao động trong nông nghiệp vẫn là chủ yếu, nhưng nông nghiệp lại đứng trước tình trạng thiếu việc làm (tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt ở mức 70 đến 73% và có xu hướng tăng lên, năm 2003 đạt 77,94% nhưng tăng trưởng chậm và không vững chắc). Cầu trong công nghiệp có tăng nhưng quy mô còn nhỏ, chưa tận dụng được nguồn nhân lực dư thừa của nông nghiệp ( những nông dân mất đất). Cầu tiềm năng trong dịch vụ còn rất lớn nhưng thực tế lại chưa thể tận dụng được vì ngành dịch vụ phát triển không ổn định. Giữa các khu vực kinh tế cầu lao động đang có sự chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm, khu vực Nhà nước gặp khó khăn trong vấn đề giải quyết lao động dôi dư, khu vực ngoài Nhà nước có nhu cầu lao động rất lớn nhưng không thu hút được lao động giỏi vì trình độ quản lý và thu nhập thấp, khu vực đầu tư nước ngoài là nơi có cầu lao động chất lượng cao thì còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong nền kinh tế. Tất cả những tình trạng đó gây lãng phí các nguồn nhân lực, kể cả nguồn nhân lực có học vấn ở đô thị. Khả năng cải thiện cầu lao động phụ thuộc vào các chương trình phát triển các ngành kinh tế (75% tổng cầu từ 1999-2004) và các chương trình mục tiêu quốc gia (việc làm, xóa đói giảm nghèo, xuất khẩu lao động - 25% tổng cầu). Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động đang là vấn đề lớn của nền kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay. PHẦN BA MỘT SỐ GIẢI PHÁP Theo văn kiện đại hội Đảng IX, đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp nước ta sẽ đạt 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%. Theo đó đến năm 2010, cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế của Việt Nam phải đạt được khoảng 50% trong nông-lâm-ngư nghiệp, 22,9% trong công nghiệp và xây dựng, còn lại 27,1% trong dịch vụ. Như vậy, cần phải tái phân bố lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khu vực nông nghiệp cần rút tuyệt đối khoảng 17 nghìn lao động mỗi năm, tức giảm 0,1%/năm, bên cạnh đó cần phải tạo thêm việc làm cho 9 triệu lao động đang thiếu việc làm, khu vực công nghiệp -xây dựng cần thu hút thêm 463 nghìn việc làm một năm, hay tăng 6,6%/năm, khu vực dịch vụ cần thu hút thêm khoảng 507 nghìn việc làm/năm, hay 3,3%/năm. Theo Bộ Lao động thương binh và xã hội tổng cầu lao động năm 2010 sẽ là khoảng 47 triệu người, tức là theo mục tiêu từ 2005-2010 sẽ phải giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm 1,6 triệu người, trong đó xuất khẩu lao động khoảng 80000-90000, nâng quỹ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn lên 82% và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 5% vào cuối năm 2010 . Để làm được điều này, chúng ta phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kích thích tăng trưởng kinh tế và kích thích tiêu dùng của dân cư, các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thu hút tạo mở việc làm cũng như nâng cao năng suất lao động và chất lượng việc làm. Những giải pháp chính có thể là: I.GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP Công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước không thể thành công nếu không tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Các chương trình phát triển khu vực nông thôn cần phải được khuyến khích tập trung vào việc tạo thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng số công ăn việc làm, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, nước...) và cung cấp các tiện nghi khác cho nông thôn. Về ngành nghề trong khu vực nông thôn cần có sự thay đổi về tỷ trọng kéo theo sự thay đổi cơ cấu lao động. Ở nông thôn cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp truyền thống sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu, những hoạt động dịch vụ, vận tải, thu gom nông sản, thương mại trên cơ sở kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hoạt động này sẽ tạo ra thị trường mới, thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, biến lao động thuần nông, giản đơn thành lao động phi nông nghiệp có kỹ thuật. Thực hiện giải pháp này sẽ có tác dụng hai mặt, một mặt sẽ tác động làm giảm cung lao động về lâu dài, mặt khác sẽ tăng cầu lao động tại chỗ, hạn chế di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Trong chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp cần phải giảm từ mức 62% đến 50% vào năm 2010, hay nói cách khác cần phải giảm lao động trong nông nghiệp và chuyển số lao động này sang khu vực phi nông nghiệp ở cả nông thôn và thành thị. Các giải pháp cụ thể bao gồm: - Cần phải tạo điều kiện tối đa về cơ chế chính sách cũng như đầu tư để có thể nhanh chóng thiết lập quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn ở nông thôn. Ở nông thôn hiện nay, với trình độ kỹ thuật hiện có, giá trị cận biên của năng suất lao động đã đạt đến đỉnh điểm và khó có khả năng tiếp tục tăng trong tương lai. Lao động nông nghiệp đang bị dồn nén, không cân đối với các nguồn lực sản xuất khác (đất đai, vốn...). Do vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất để thúc đẩy quá trình phân công lại lao động và tích tụ tư bản. Các hình thức kinh tế mới như kinh tế trang trại, kinh tế tiểu chủ nông, kinh tế hợp tác cần được tạo điều kiện sớm hình thành để tiếp tục thu hút thêm lao động ở nông thôn. - Thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn. Hiện nay chúng ta có rất ít kinh nghiệm về công nghiệp hóa nông thôn. Việc thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa làm động lực cho quá trình này đòi hỏi phải có các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân trong tất cả các lĩnh vực (về vốn và tín dụng, kỹ thuật và công nghệ, thị trường và tiêu thụ sản phẩm, thông tin, đào tạo kỹ năng và tay nghề), ngoài ra còn phải tập trung phát triển hạ tầng cơ sở nông nghiệp và giao thông. Các biện pháp cụ thể có thể áp dụng bao gồm: + Cung cấp cho người nông dân, người tiểu chủ nông càng nhiều thông tin càng tốt (cả về thị trường lẫn kỹ thuật) dưới hình thức dễ hiểu nhất và chi phí thấp nhất; và tạo điều kiện tham gia vào thị trường lao động quốc tế. + Xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở nông nghiệp và nông thôn. + Thực hiện đa dạng hóa sản xuất, tập trung cho nghiên cứu ứng dụng, triển khai để tiếp tục nâng cao năng suất lao động cho khu vực này. - Phát triển và khôi phục các ngành nghề truyền thống của nông thôn Trong thời gian qua, GDP của tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP của nông thôn đã liên tục tăng từ 26,8% năm 1990 lên 35,5% năm 1995 và lên trên 40% năm 1999. Bình quân mỗi cơ sở ngành nghề tạo việc làm cho 25 lao động, mỗi hộ ngành nghề từ 4-6 lao động. Thu nhập bình quân của một hộ ngành nghề cao gấp 2-4 lần so với hộ thuần nông. Do vậy việc phát triển các ngành nghề sẽ bảo đảm tăng thu nhập, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thông theo hướng công nghiệp hóa. II.GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG TRONG CÔNG NGHIỆP Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp là một trong những ưu tiên hàng đầu hướng về cầu lao động trong công nghiệp. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát triển các ngành kinh tế truyền thống, lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam, là một số các hướng đi được đánh giá là hiệu quả và hợp thời. Đây là một trong những bài toán rất khó giải quyết trong hầu hết các nước đang phát triển. Việc tập trung vào các ngành công nghiệp khai thác được các thế mạnh về tiềm năng tài nguyên của đất nước, đem lại lợi ích kinh tế nhanh như năng lượng, dầu mỏ, khai thác… thông thường bỏ qua mối liên kết về kinh tế và lao động đối với các ngành truyền thống. Kết quả là việc làm trong các ngành truyền thống bị thu hẹp lại và dần dần bị mai một, các ngành xuất khẩu sử dụng nhiều lao động cũng không được chú ý đến. Do vậy, trong tương lai cần phải tạo ra một sự cân bằng hơn giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn với các ngành truyền thống sử dụng lao động hoặc có nhiều lợi thế xuất khẩu như công nghiệp chế biến hải sản, nông sản, các ngành công nghiệp nhẹ (dệt may, da giày…). Trong bối cảnh của nền kinh tế đang phát triển và hội nhập thì các khu vực kinh tế truyền thống có vai trò rất quan trọng. Bởi vậy chiến lược đặt ra là thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp cả ở khu vực truyền thống lẫn hiện đại, cả ở nông thôn và thành thị, có khả năng tạo việc làm nhiều hơn. Thực hiện chiến lược này có thể các cách sau: - Phân bố đầu tư hợp lý hơn và hỗ trợ đầu tư với cơ chế đặc thù. - Nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách xóa bỏ các bao cấp về thuế quan và hàng rào khác. - Chính sách tiền tệ, tài chính và lãi suất linh hoạt để đảm bảo sử dụng chi phí một cách có hiệu quả. - Chính sách đào tạo nghề và các chính sách thị trường lao động để nâng cao hiệu quả của thị trường lao động - Tương quan lao động và vốn trong sản lượng phụ thuộc vào hàm sản xuất và giá cả, do đó cần có các chính sách tài chính hạn chế tăng dung lượng vốn và sử dụng công nghệ đắt không thích hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Khuyến khích các hình thức tiêu dùng sao cho có nhu cầu lớn với hàng hóa trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các công nghệ sản xuất cần nhiều lao động, thì sẽ tăng được nhu cầu tiêu dùng, kết quả sẽ làm tăng cầu lao động. Đến lượt mình nhu cầu tiêu dùng chịu sự tác động bởi các hình thức phân phối thu nhập trong xã hội. Các gia đình giàu và trung bình thường có xu hướng thiên về các hàng hóa ngoại nhập có dung lượng vốn cao. Cần có chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng nội địa đáp ứng nhu cầu của đông đảo các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, do đó sẽ tăng được cầu lao động. III.GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG TRONG DỊCH VỤ Phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đều hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, vì vậy muốn tăng cầu lao động trong dịch vụ giải pháp hiệu quả nhất là khuyến khích khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là phát triển tỷ lệ những người làm công ăn lương và giảm quy mô của thị trường lao động phi chính thức. Việc phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân dựa trên 3 nguyên tắc chung: - Xác định chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy khu vực tư nhân. - Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước. - Cho phép các doanh nghiệp tư nhân tự do kinh doanh theo pháp luật. Trong tương lai, cần có các biện pháp sau: - Phải ổn định thể chế và kinh tế vĩ mô. Trước hết hệ thống luật lệ điều tiết hoạt động kinh tế tư nhân không được thay đổi thường xuyên, như việc thành lập các công ty tư nhân, quyền sở hữu, điều tiết thu nhập từ hoạt động kinh tế tư nhân, hệ thống thuế, các điều khoản thi hành các hợp đồng. Hơn nữa, nền kinh tế phải ồn định để đảm bảo không lạm phát, ổn địng về tiết kiệm, tích lũy, chính sách tài chính tiền tệ. - Tiếp tục củng cố môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ: đơn giản hóa các thủ tục, nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý nhà nước, các cơ quan công quyền, cải cách thủ tục hành chính để tránh các thủ tục phiền hà, tình trạng tham nhũng, đòi hối lộ và tạo nên kinh tế ngầm; tiếp tục tự do hóa thị trường lao động, đất đai, tài chính...; tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Tiếp tục các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân: Các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ khó tiếp cận với thông tin, kỹ thuật, thị trường, thiếu lao động có tay nghề cao, do vậy các cơ quan sau đây sẽ có tác dụng rất lớn: Cơ quan quốc gia về doanh nghiệp vừa và nhỏ (để phối hợp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách nhất quán); Hội đồng thúc đẩy khu vực tư nhân (tăng cường trao đổi giữa các bên có liên quan); Trung tâm trợ giúp kỹ thuật (tăng cường trợ giúp về bí quyết và kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa); Trung tâm thông tin cho doanh nghiệp tư nhân; Dịch vụ phát triển kinh doanh (giúp các doanh nghiệp cải thiện khả năng tiếp cận với các nguồn lực, thị trường, công nghệ mới, lao động có tay nghề...) - Tăng cường đầu tư vốn cho khu vực tư nhân để tạo mở việc làm: Theo dự báo, trong thời kỳ 2001-2010, để thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu việc làm như mong muốn, việc làm trong khu vực tư nhân cần phải tăng với tốc độ 5-6%/ năm (giả định là 5,5%). Để đạt được, tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP của khu vực này cần chiếm khoảng 44,5% so với mức hiện nay là 23%. Điều này đòi hỏi các nỗ lực của Chính phủ trong việc khuyến khích đầu tư tư nhân, việc tạo điều kiện để khu vực tư nhân có khả năng tiếp cận các nguồn vốn. - Xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ/ doanh nghiệp tư nhân: Ngoài việc thiếu thông tin, khả năng cạnh tranh thấp và năng lực hạn chế trong thị trường, đặc biệt kinh nghiệm về thương mại toàn cầu là một trong những khó khăn của doanh nghiệp nhỏ. Kiến thức và những hiểu biết còn vụn vặt về thị trường nước ngòai chính là một trong những cản trở cơ bản trong thương mại. - Nâng cao uy tín và vị trí của tư nhân trên thị trường: Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong việc tạo việc làm cần phải được thừa nhận và truyền bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống giáo dục ở mọi cấp. IV.GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG TRONG CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo việc làm và giải quyết thất nghiệp. Bên cạnh biện pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân như đã nói ở trên, song song với nó cần phải tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm phát triển và thu hút việc làm. Ở Việt Nam, thị trường lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tách riêng hẳn với thị trường lao động ở khu vực bên ngoài, và tồn tại những thực trạng làm ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh kinh doanh và lao động, đó là: - Có quá nhiều người lao động. Chính phủ thường sử dụng quá nhiều người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh. Nhiều doanh nghiệp thực tế được thiết lập ra như một công cụ để tạo việc làm và bảo trợ về chính trị. Sự bảo hộ về cạnh tranh, sự thiếu ràng buộc chặt chẽ về ngân sách, và việc bảo đảm các việc làm vĩnh viễn đã dẫn đến tuyển quá nhiều người so với mức cần thiết. Việc sử dụng nhiều lao động phổ biến hơn trong các doanh nghiệp độc quyền, có sự bao cấp nặng nề, được Nhà nước bảo hộ. - Mức trả và quyền lợi rộng rãi. Vì không có các ràng buộc chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp quốc doanh trả lương cho công nhân rất hậu và thường cao hơn rất nhiều so với hiệu quả công việc của họ. Mức tiền lương trong khu vực này thông thường lớn hơn thu nhập có thể tính trên tổng sản lượng trên đầu người, do sự áp đặt các mức tiền lương cứng nhắc, khá cao của Chính phủ và hiện tượng "dư thừa biên chế". - Tiền lương có xu hướng bình quân hơn, trả lương quá cao cho lao động không có trình độ chuyên môn cao và thấp hơn khu vực ngoài quốc doanh đối với các mức trình độ cao. Kết quả thường dẫn đến hiện tượng chảy máu chất xám đối với các mức trình độ cao từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. Thị trường khu vực công chính là yếu tố tạo ra và duy trì một thị trường lao động 2 khu vực (chính quy và phi chính quy). - Cuối cùng là các hợp đồng lao động quá chặc chẽ. Các hợp đồng lao động chặt chẽ hoặc các thỏa thuận tập thể ở cấp doanh nghiệp cũng góp phần tạo ra năng suất lao động thấp và chi phí cao. Những hợp đồng lao động như thế thường giới hạn quyền của người chủ sử dụng lao động trong quá trình thuê, sử dụng, sa thải và tổ chức lao động. Điều này không những làm cho các chi phí kinh doanh tăng thêm mà còn làm cho tỷ lệ nghỉ việc và làm thêm giờ của các doanh nghiệp Nhà nước cao hơn và đặc biệt gây khó khăn trong việc giải quyết lao động dôi dư. Ở nước ta, các doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 30% GDP, 25% tổng đầu tư, 15% việc làm phi nông nghiệp và khoảng 50% tổng tín dụng của các ngân hàng trong nước. Trong thời gian 1995-1999 việc làm trong khu vực kinh tế này hầu như không tăng. Trong chiến lược 10 năm tới, cùng với việc tiếp tục tạo cơ hội bình đẳng hơn cho các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế Nhà nước vẫn được xác định là đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng kinh tế. Do vậy, một khối lượng lớn nguồn vốn của Nhà nước vẫn tiếp tục dành cho khu vực này, nếu hiệu quả sử dụng không cao thì sẽ làm giảm khả năng bố trí nguồn lực cho các khu vực khác để tăng khả năng tạo việc làm. Để đạt được điều này, đòi hỏi trong tương lai cần phải: - Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng tăng nhanh về quy mô và chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc giải thể các doanh nghiệp hoạt động không có lãi để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, tạo và tiếp tục tăng trưởng, thu hút việc làm; xúc tiến việc thành lập các công ty tài chính. - Tăng cường khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước, giảm dần bảo hộ, ưu đãi đối với khu vực này để nâng cao hiệu quả sản xuất và lành mạnh môi trường kinh doanh. Cần phải có cơ chế bảo đảm tính minh bạch, sự độc lập trong quản lý để có thể đứng vững trong thị trường có tính cạnh tranh ngày càng cao. Do vậy cần thiết phải có sự chuyển hướng một cách tích cực hơn đến việc thực hiện các chính sách thị trường lao động theo hướng tạo mở môi trường trong đó tạo ra một sự liên kết chặt chẽ giữa việc tăng trưởng kinh tế và cơ chế tự chủ về giá và tiền lương. - Tăng cường tính trách nhiệm, tính minh bạch và khả năng thích ứng của Chính phủ để đảm bảo phát triển khu vực kinh tế Nhà nước mà không gây tổn hại cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (ít nhất là lĩnh vực lao động và việc làm). - Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách về vấn đề giải quyết lao động dôi dư trong quá trình cơ cấu lại. Cần phải xây dựng chính sách và chương trình giải quyết lao động dôi dư sao cho vừa đạt được mục tiêu giảm lao động, vừa giảm thiểu những tác động tiêu cực cho người lao động trong quá trình này. Tức là cần tập trung vào các chính sách "hỗ trợ chủ động" như: đào tạo lại, hỗ trợ vốn tạo việc làm, thông tin, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người lao động dôi dư. Cần kiểm soát tiền lương, chẳng hạn cần cân nhắc quy định lương cao trong khu vực Nhà nước, bởi vì điều này có thể làm tăng lương trong khu vực khác. Khi đó, thay vì chỉ mong muốn được làm việc trong khu vực Nhà nước, người lao động sẽ sẵn sàng làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là tư nhân nơi có nhu cầu lao động rất lớn vì chênh lệch về thu nhập đã được giảm bớt. Nhìn chung, tiền lương trong khu vực thành thị có xu hướng cao hơn nhiều chi phí cơ hội của lao động đang tạo ra sự thiên lệch về sử dụng lao động trong khu vực này. KẾT LUẬN Việt Nam đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa để phù hợp với sự phát triển kinh tế của thế giới. Vì vậy, cầu lao động của Việt Nam cũng chuyển dịch không ngừng để đáp ứng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, đó là tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyền khích phát triển việc làm trong khu vực ngoài quốc doanh để tạo nhiều cơ hội làm việc cho người lao động, nhằm giải quyết nguồn cung lao động đang ngày càng gia tăng. Cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, nhưng vẫn còn rất lạc hậu so với thế giới và tốc độ chuyển dịch còn chậm. Vì vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu cầu lao động ở Việt Nam đang là vấn đề quan trọng nhằm đáp ứng đòi hỏi của chiến lược phát triển công nghiệp hóa- hiện đại hóa của đất nước từ nay đến năm 2020. Việc phát triển cầu lao động và cơ cấu của nó phụ thuộc vào chiến lược phát triển các ngành kinh tế của Chính phủ, các chính sách để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, và các chính sách khuyến khích đầu tư xã hội để tăng sức sản xuất của nền kinh tế, từ đó tăng cầu lao động. Cơ cấu kinh tế luôn luôn thay đổi trong từng thời kỳ phát triển của mỗi quốc gia, cầu lao động cũng luôn luôn chuyển dịch phù hợp với cơ cấu kinh tế, vì vậy việc nghiên cứu cầu lao động luôn là vấn đề quan trọng để xác định hướng phát triển đúng đắn cho nền kinh tế, đáp ứng được cung lao động, giải quyết việc làm cho người lao động trong xã hội. Tài liệu tham khảo Sách: 1. Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và các giải pháp phát triển - Phạm Quý Thọ, Nxb Lao động xã hội, 2003. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 - Tiến sỹ Nguyễn Trần Quế (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 2004. 3. Giáo trình Phân tích lao động xã hội - Tiến sỹ Trần Xuân Cầu, Nxb Lao động xã hội, 2002. 4. Số liệu thống kê lao động việc làm 1996-2003, NXB Thống kê, 2004. Tạp chí: 1. Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - GS.TS Phạm Đức Thành, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 64, Tháng 10/2002. 2. Lao động trong các doanh nghiệp qua ba cuộc điều tra doanh nghiệp 2001-2002-2003, P. Đ.Q - Bản tin thị trường lao động, số 1/2004. 3. Định hướng kế hoạch lao động - việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 và 5 năm 2006-2010. Nguyễn Văn Khang, Bản tin thị trường lao động, số 10/2004. Web www.gso.gov.vn - Tổng cục thống kê Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA233.doc
Tài liệu liên quan