Tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tầng lớp dân cư, phát triển con người và phát triển nông thôn. Cần tạo ra mặt bằng pháp lý chung đối với mọi thành phần kinh tế. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải được hiểu là sức mạnh tự thân do tính ưu việt của thành phần kinh tế đó so với các thành phần kinh tế khác, do đó mà có lợi thế cạnh tranh trong một môi trường pháp lý như nhau. Các chính sách về thị trường lao động, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, bao gồm cả hoạt động ngoại thương cần được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế.
Nhà nước nên tập trung vào kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội cũng như các ngành và lĩnh vực mang lại những lợi ích dài hạn, cung cấp hàng hóa công cộng, tạo dựng môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đầu tư có mục tiêu xã hội. Chẳng hạn, những khoản đầu tư để duy trì các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ được chuyển sang đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn hoặc trợ giúp phát triển nông nghiệp ở các vùng khó khăn.
Hoàn thiện các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập một cách hợp lý và công bằng, điều tiết quá trình phân hóa xã hội, trong đó có hai chính sách quan trọng là chính sách thuế và chính sách tiền lương.
Chính sách thuế phải nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh và tạo cơ hội cho các tầng lớp nghèo có khả năng tăng thu nhập. Cần giảm hoặc miễn thuế đối với các hoạt động nông nghiệp, kinh doanh nhỏ hoặc những hoạt động tự làm của những người lao động. Đối với các hoạt động kinh doanh lớn, công cụ thuế có tác dụng không chỉ phân phối lại mà còn có nghĩa là những khoản tái đầu tư trong tương lai.
Chính sách tiền lương, đặc biệt tiền lương trong khu vực hành chính sự nghiệp cần được cải cách sao cho tiền lương phản ánh đúng giá trị sức lao động. Từ đó có thể "chính thức hoá" các nguồn thu nhập, loại trừ các thu nhập không chính thức ngoài lương, vừa không thể kiểm soát được, vừa là kẽ hở cho các loại hình tham nhũng và lãng phí. Lúc đó tiền lương mới thực sự là "đòn bẩy" khuyến khích nâng cao hiệu quả, năng suất và chất lượng lao động, mới có cơ sở kinh tế cho việc duy trì trật tự và kỷ cương trong kinh tế.
Cải cách hành chính, làm trong sạch bộ máy nhà nước nhằm ngăn ngừa sự làm giàu bất hợp pháp; chống tham nhũng và phát huy dân chủ cũng là những giải pháp nhằm tạo lập cơ sở xã hội và thể chế tăng trưởng trong công bằng.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất lượng tăng trưởng của Malaixia và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang
· Danh mục các từ viết tắt………………………………….....................…………......2
· Lời nói đầu ........................................................................................................................3
Chương I
Lý thuyÕt Chung
1.Khái niệm - Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế………………………………..……4
2.Khái niệm- Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng………………..…….…………5
Chương II
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA
1.Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định…………………………………………………..…..12
2. Năng suất nhân tố tổng hợp TFP đang có dấu hiệu cải thiện………………………..…..15
3. Phúc lợi xã hội ngày càng được nâng cao, công bằng xã hội ngày càng
được cải thiện…………………………………………………………….………………17
4. Thành công trong chiến lược xóa đói giảm nghèo……………………………………….19
Chương III
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1.Chất lượng tăng trưởng trong kinh tế……………………………………………….……20
2. Nâng cao phúc lợi, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghè……………………….……22
· Kết luận………………………………………………………………………...……25
· Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….……26
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNI Thu nhập quốc dân
GNP Tổng sản phẩm quốc dân thực tế
HDI Chỉ số phát triển con người
ICOR Tỷ số gia tăng vốn trên sản lượng cận biên
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp
UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn phát triển vừa qua, Việt Nam đã đạt được kết quả tương đối cao về tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình từ năm 1990 đến nay là 7%, đặc biệt liên tục tăng cao trong mấy năm gần đây, đạt 7,6% năm 2004; 8,4% năm 2005, đưa Việt Nam đứng vị trí thứ 39 trên thế giới về chỉ số xếp hạng GDP, đứng thứ 2 trong khu vực Đông Á về tốc độ tăng trưởng. Nhờ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ 140 USD năm 1990 lên 640 USD năm 2005, mức sống của người dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 24,2% năm 2004.
Theo đánh giá của một số học giả, chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, Khóa IX đã nhận định “tăng trưởng kinh tế khá … nhưng chưa tương xứng với mức đầu tư, với tiềm năng của nền kinh tế". Vì vậy, nâng cao chất lượng tăng trưởng trở thành mục tiêu quan trọng của chính sách phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở những nhận định trên, bài đề án nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu, phân tích chất lượng tăng trưởng của Malaixia để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng đảm bảo chất lượng trong giai đoạn tới
CHƯƠNG I
Lý thuyÕt Chung
1. Khái niệm - Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế
1.1 Khái niệm
Tăng trưởng là mức tăng của một biến số qua thời gian. Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là mức tăng của tổng sản lượng thực tế của một nền kinh tế qua thời gian, thường được tính theo năm.
1.2 Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế thông thường được đo bằng mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP), hoặc của tổng sản phẩm quốc dân thực tế (GNP) hoặc của GDP hay GNP thực tế bình quân đầu người. Khi tình toán tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, kết quả cũng sẽ tương tự như nhau nếu sử dụng cả hai chỉ tiêu GDP và GNP thực tế. Vì thế cũng có thể định nghĩa tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng phần trăm hàng năm của tổng sản phẩm quốc dân GNP hay GNP bình quan đầu người. Tuy nhiên ý nghĩa của hai công cụ đo lường GNP và GDP có khác nhau tuỳ mục đích nghiên cứu.
GDP đo lường tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) không tính đến yếu tố sở hữu. Khi sử dụng GDP thì tốt hơn nếu muốn nói đến quy mô của nền kinh tế trong quan hệ so sánh giữa các quốc gia. GDP bình quân đầu người đo lường số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân, điều này có ý nghĩa khi muốn nói tới năng lực sản xuất, năng suất lao động. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới chỉ dừng lại ở mặt "lượng" mà chưa đề cập đến mặt "chất" của nền kinh tế. Với một nền kinh tế mà chủ yếu là dựa vào đầu tư nước ngoài, là công xưởng của thế giới thì có thể GDP có được một quy mô rất lớn nhưng ý nghĩa của nó lại rất hạn chế.
Khi sử dụng chỉ tiêu GNP thì lại tốt hơn đề nói về kết quả sản xuất của một quốc gia vì GNP đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng vì nó cho phép đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. GNP bình quân đầu người nói đến số lượng hàng hoá và dịch vụ mà một người dân của một nước có thể mua được. Vì thế nghiên cứu tình hình kinh tế cụ thể của một nước, chỉ tiêu GNP và GNP bình quân đầu người phản ánh xác thực tốc độ tăng trưởng kinh tế và biến động mức sống của dân cư nước đó. Do đó mức sống của cư dân một ngước phụ thuộc vào độ lớn của GNP và quy mô dân số. Nền kinh tế của một quốc gia sẽ phát triển nhanh chóng nếu quốc gia đó vừa duy trì được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, vừa kiểm soát được gia tăng dân số.
Việc đo lường và xác lập mối quan hệ giữa GDP và GNP bình quân đầu người là rất quan trọng. Kinh tế học đã tìm ra hai chỉ tiêu này như là hai chỉ tiêu bắt buộc và không thể thay thế được, dùng để tính toán mức tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, tất cả chính phủ của các quốc gia và các tổ chức kinh tế trên thế giới đều phải tiến hành thu thập và dựa vào các số liệu thu thập được về GDP và GNP để lập các nghiên cứu toàn diện về kinh tế trên phạm vi thế giới cũng như quốc gia, làm cơ sở để lập ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và đề ra các mục tiêu cần đạt được. Thiếu các thống kê chính xác về GDP và GNP bình quân đầu người các quốc gia thiếu một cơ sở tối cần thiết để hoạch định chính sách, quản lý và điều tiết kinh tế.
2.Khái niệm- Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng
2.1 Khái niệm
Năm 1972, Câu lạc bộ Rôma cho xuất bản cuốn sách "Những giới hạn của tăng trưởng" (Limits to Growth) lưu ý thế giới về những tác động đối với hệ sinh thái của tăng trưởng kinh tế và đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của cả loài người. Năm 1992, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị thượng đỉnh chuyên đề về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro (Bra-xin). Tại đây, "Tuyên bố Rio" về môi trường và phát triển và "Chương trình nghị sự 21" (Agenda 21) được thông qua và chính thức sử dụng thuật ngữ "phát triển bền vững"; sau đó vào năm 2000, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững được tiến hành tại Johannesburg (Nam Phi).
Từ đó đến nay, phạm trù phát triển bền vững đã được mở rộng nhiều, ít nhất bao gồm ba chiều của quá trình phát triển là kinh tế, xã hội và môi trường*/. Chính trong quá trình đi sâu nghiên cứu mở rộng phạm trù phát triển bền vững, người ta đi đến khái niệm "chất lượng tăng trưởng". Khái niệm này gắn với yêu cầu về sự ổn định, tính bền vững của bản thân tăng trưởng, đồng thời cũng bao hàm đòi hỏi nâng cao phúc lợi và chất lượng cuộc sống con người.
Trong lời tựa cuốn sách nhan đề "Vì chất lượng cuộc sống tốt hơn", được coi là tài liệu xác định Chiến lược Phát triển bền vững của Chính phủ Vương quốc Anh, Thủ tướng Tony Blair viết: Tiến bộ thực sự không thể đo bằng tiền. Chúng ta phải bảo đảm rằng tăng trưởng kinh tế đóng góp cho chất lượng cuộc sống của chúng ta, chứ không phải là làm cho nó xấu đi... Tăng trưởng vừa phải ổn định, vừa phải bền vững về mặt môi trường. Điều có ý nghĩa quan trọng ở đây là chất lượng của tăng trưởng, chứ không chỉ là số lượng.
Còn trong phần Tổng quan mở đầu cuốn sách "Chất lượng tăng trưởng", do Ngân hàng Thế giới tổ chức biên soạn và xuất bản, có đoạn viết: Thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đã chứng kiến bước tiến bộ đáng kể tại nhiều khu vực trên thế giới, đồng thời cũng chứng kiến sự trì trệ và những bước thụt lùi, thậm chí ở cả những quốc gia trước đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh nhất. Những khác biệt đang tiếp tục gia tăng và những đảo lộn ghê gớm này cho ta hiểu nhiều điều về những gì là yếu tố đóng góp cho phát triển. Đứng ở vị trí trung tâm là tăng trưởng kinh tế, nhưng không chỉ là tốc độ tăng (về số lượng) của nó, mà cũng quan trọng như vậy là cả chất lượng của tăng trưởng.
Đến đây, chúng ta có thể nói rằng, các phạm trù - phát triển và phát triển bền vững, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng - có mối quan hệ gần gũi với nhau, nhưng không trùng lặp, mà bổ sung lẫn cho nhau. Mỗi phạm trù đều có nội hàm riêng, thể hiện quá trình phát triển của tư duy, nhận thức của con người về tự nhiên, về xã hội và về bản thân cuộc sống của mình.
2.2 Các tiêu chí đánh giá
Có thể thấy, phạm vi của khái niệm "chất lượng tăng trưởng" là khá rộng và các tiêu chí định lượng để đánh giá nó vẫn còn trong quá trình tiếp tục được nghiên cứu, xác định. Cho đến nay, vì nhiều lý do, trong đó có việc cho phép so sánh quốc tế, GDP (GNP) và GDP (GNP) bình quân đầu người (cả số tuyệt đối và số tương đối) vẫn là hai tiêu chí được cả thế giới thừa nhận và sử dụng để đo lường, đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, cũng từ lâu trong kinh tế học, cả lý thuyết và thực hành, người ta đã lưu ý về những điểm hạn chế, điểm không phù hợp của các thước đo này, nhất là liên quan đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống và trong những khía cạnh xã hội của quá trình phát triển. Với sự phân biệt ngày càng chi tiết và sâu sắc giữa "tăng trưởng" và "phát triển", đặc biệt là trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn về phát triển bền vững, các học giả kiến nghị rằng thước đo về phát triển phải bao gồm không chỉ tốc độ tăng trưởng, mà cả các khía cạnh về chất lượng như cơ cấu, sự phân bổ và tính bền vững của tăng trưởng. Từ đó, trong hoạt động thực tiễn ở nhiều quốc gia, một số tiêu chí và đại lượng đã lần lượt được áp dụng.
Tăng trưởng kinh tế (theo nghĩa nguyên gốc, gắn với GDP) bắt nguồn từ ba yếu tố đầu vào là vốn, lao động và tiến bộ công nghệ (bao quát công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý và một số khía cạnh liên quan khác). Để đánh giá ba yếu tố này, lâu nay, người ta sử dụng các tiêu chí ICOR, năng suất lao động và năng suất nhân tố tổng hợp - TFP. Còn về phía đầu ra, từ góc độ kinh tế thuần túy, để bảo đảm sự ổn định và tính bền vững cho bản thân tăng trưởng, chắc chắn phải xem xét nhiều vấn đề như vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tái đầu tư và phân bổ nguồn lực... Riêng về phía đầu ra của tăng trưởng phục vụ cho con người, nghĩa là về các khía cạnh của tăng trưởng liên quan đến chất lượng cuộc sống, đến các lĩnh vực xã hội và môi trường, từng bước người ta đã đưa vào sử dụng các tiêu chí khác nhau, trong số đó có lẽ được biết đến nhiều nhất là tiêu chí tổng hợp "Chỉ số phát triển con người - HDI" (được công bố hàng năm trong Báo cáo phát triển con người của UNDP, bắt đầu từ 1990). Gần đây, nhiều tài liệu nói đến "Chỉ số thịnh vượng kinh tế bền vững" (ISEW), do một nhóm học giả Mỹ đề xuất cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, với ý tưởng hình thành một thước đo mới thay thế cho GDP (còn được gọi là "GDP xanh"). Ngoài ra, một số tiêu chí cụ thể khác về y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo và tiêu chí đặc thù đánh giá về môi trường cũng được áp dụng với mức độ khác nhau. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về một số tiêu chí trong số đó.
- Về chỉ số ICOR:
ICOR là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Incremental Capital - Output Ratio" (có thể dịch là: tỷ số giữa phần gia tăng vốn và phần gia tăng đầu ra), được hiểu là kết quả phép chia lượng vốn đầu tư mới cho phần gia tăng của GDP (I/ΔGDP), cho ta biết để có 1 đồng tăng thêm trong tổng sản phẩm quốc nội cần bao nhiêu đồng đầu tư mới. Trong tiếng Việt, nhiều tác giả đồng nhất tiêu chí này với khái niệm "hiệu quả đầu tư", hoặc cụ thể hơn - "hiệu quả sử dụng vốn đầu tư" (cũng có tác giả còn gọi là "suất đầu tư tăng trưởng").
- Về tiêu chí năng suất nhân tố tổng hợp - TFP:
TFP là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Total Factor Productivity" (có tác giả dịch là "tổng năng suất nhân tố sản xuất").
Trong tăng trưởng GDP có sự đóng góp của vốn và lao động (là hai trong ba nhân tố sản xuất cơ bản cùng với đất đai). Ở trên chúng ta đã nói về đóng góp của vốn và lâu nay ta đã quen thuộc với khái niệm năng suất lao động. Nhưng nhiều khi chúng ta muốn biết hiệu quả của các đầu vào tính gộp chung, chứ không chỉ riêng từng đầu vào. Để giải quyết vấn đề này, người ta đã đưa ra một khái niệm mở rộng năng suất lao động sang vốn. Về cơ bản, khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp - TFP là một cách đo lường đồng thời năng suất của cả vốn lẫn lao động trong một hoạt động cụ thể hay cho cả nền kinh tế. Cách tiếp cận được sử dụng ở đây là thông qua "hàm sản xuất" có dạng: GDP = A × f(K, L), thể hiện quan hệ giữa GDP và các đầu vào - vốn K và lao động L, trong đó A đại diện cho năng suất nhân tố tổng hợp.
Có thể nói, TFP là thước đo phản ánh hiệu quả kinh tế trong sử dụng vốn và lao động; song, với cách tiếp cận tổng thể này, ta có thể bổ sung các yếu tố khác. Trong các yếu tố bổ sung, người ta quan tâm nhiều đến tiến bộ công nghệ và các biện pháp quản lý, điều hành, cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều nghiên cứu đã được các học giả trên thế giới tiến hành về vai trò của TFP đối với tăng trưởng. Đối với một quốc gia, vốn và lao động là những đại lượng hữu hạn, vì thế các học giả khuyến cáo các chính phủ cần tập trung thúc đẩy TFP. Họ cũng đi đến kết luận rằng sự khác biệt giữa các quốc gia về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng phần lớn bắt nguồn từ khác biệt trong TFP. Đến nay, trong nghiên cứu phân tích tăng trưởng kinh tế, người ta thống nhất chỉ tập trung vào ba thành phần tạo nên tăng trưởng là vốn, lao động và TFP (trong hệ thống số liệu thống kê công bố hàng năm, nhiều nước đã công bố tỷ lệ phần trăm đóng góp của từng thành phần trong tăng trưởng GDP). Có nhiều yếu tố có thể góp phần thúc đẩy TFP. Năng lực tổ chức và quản lý; hệ thống giáo dục quốc gia cùng với hoạt động nghiên cứu - triển khai, công tác phổ biến và chuyển giao công nghệ; việc phân bổ nguồn lực; chính sách kinh tế, v.v… đều đóng góp vào việc đó. Giáo sư D. Dapice trong bài giảng tại Chương trình Fulbright ở Tp. Hồ Chí Minh đã có một dẫn chứng rất ấn tượng, khi nói rằng: Sản lượng nông nghiệp tăng lên rõ rệt sau Đổi mới ở Việt Nam là một ví dụ.
- Về Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI):
Đây là một thước đo tổng hợp có giá trị bằng trung bình cộng giản đơn của ba chỉ số phản ánh thành tựu của mỗi quốc gia về ba phương diện của sự phát triển con người: sức khoẻ - đo bằng tuổi thọ trung bình; kiến thức - đo bằng tỷ lệ biết chữ của người lớn cộng với tỷ lệ nhập học ở các cấp giáo dục; mức sống - đo bằng GDP thực tế bình quân đầu người tính theo phương pháp sức mua tương đương (PPP). Thành tựu trong mỗi lĩnh vực được đo bằng khoảng cách mà một quốc gia đã phấn đấu đạt được so với các mục tiêu được coi là "chuẩn" - tuổi thọ trung bình là 85 tuổi, tỷ lệ biết chữ và nhập học là 100% và GDP thực tế bình quân đầu người tính theo PPP là 40.000 đôla. Mặc dù đó là những mục tiêu rất đáng có nhưng đến nay chưa một quốc gia nào đạt được trọn vẹn các mục tiêu lý tưởng này và chỉ số được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm của con số thực tế so với chuẩn. HDI có giá trị từ 0 đến 1, trong đó 1 là cao nhất, là đích vươn tới, còn 0 là thấp nhất.
Ưu thế của chỉ số HDI là nó cho phép xếp hạng các quốc gia theo thành tích họ đạt được trong phát triển con người nói riêng và trong phát triển nói chung. Song, điểm yếu của nó là ở chỗ đưa ra được rất ít thông tin về từng quốc gia và cũng không cho biết về tỷ trọng tương đối của các yếu tố cấu thành đối với một quốc gia. Ngoài ra, khái niệm phát triển con người có ý nghĩa rộng hơn và phức tạp hơn nhiều, trong khi HDI chưa phải là một thước đo toàn diện. Nó không bao hàm các khía cạnh quan trọng của phát triển con người, đặc biệt là khả năng tham gia của người dân vào việc ra các quyết định có liên quan tới cuộc sống của họ, cũng như về quan hệ giữa người với người trong cộng đồng.
Xếp hạng theo chỉ số HDI của một số nước khác biệt đáng kể so với thứ tự xếp hạng của họ theo GDP (hoặc GNP) thực tế bình quân đầu người. Chính sự chênh lệch trong bảng xếp hạng này cho thấy mức độ thành công (hay không thành công) của nước này so với nước khác trong việc chuyển các lợi ích của tăng trưởng kinh tế vào chất lượng cuộc sống cho người dân của mình - một khía cạnh rất quan trọng để đánh giá chất lượng của tăng trưởng.
- Về Chỉ số thịnh vượng kinh tế bền vững (Index of Sustainable Economic Welfare - ISEW):
Ý thức được những hạn chế của chỉ tiêu GDP trong việc đo lường, đánh giá chất lượng tăng trưởng, nhất là về những khía cạnh liên quan đến chất lượng cuộc sống và đòi hỏi của phát triển bền vững, trong những năm gần đây, các học giả trên thế giới đã nghiên cứu đề xuất nhiều tiêu chí và phương pháp đánh giá khác nhau, trong số đó tiêu chí mang tính tổng hợp được nói đến nhiều là ISEW.
Sau khi được đề xướng năm 1989, chỉ số này được bổ sung, hoàn thiện, từng bước ứng dụng ở Mỹ và một số nước công nghiệp châu Âu. Đây thực chất là một cách chỉnh lý lại số liệu thống kê GDP thông thường lâu nay. Căn cứ để chỉnh lý là dựa trên tính chất của các hoạt động kinh tế: chỉ những lợi ích kinh tế thực sự mới được cộng vào, kể cả lợi ích từ các hoạt động không phát sinh tiền như công việc nội trợ. Trong khi đó, những chi phí phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế, kể cả chi phí về mặt xã hội và môi trường, mà không đóng góp gì vào chất lượng cuộc sống sẽ được trừ ra. Đồng thời, trong khi tính toán chỉ số ISEW, người ta không dựa trên giá trị làm ra mà căn cứ vào chi tiêu do người dân trong nước bỏ ra để thụ hưởng hàng hóa và dịch vụ. Điều đó đòi hỏi chỉ số ISEW phải được điều chỉnh giảm tương ứng với mức mất cân đối trong phân phối thu nhập.
Trong thực tiễn, việc thực hiện "GDP xanh" còn gặp không ít khó khăn về kỹ thuật. Để thống kê được đầy đủ các lợi ích kinh tế thực sự và các chi phí trong quá trình phát triển kinh tế là việc làm không dễ dàng và cũng khó kiểm định độ chính xác. Giá trị các sản phẩm và lao động có thể xác định khi đưa ra thị trường, nhưng để phản ảnh giá trị của các yếu tố môi trường thì khó hơn. Các chuyên gia đã đưa ra một số cách ước tính. Tuy không tính trực tiếp được mất mát khi một con sông bị ô nhiễm, nhưng chúng ta có thể tính được số tiền cần thiết phải chi để xử lý ô nhiễm.
CHƯƠNG II
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA
Kể từ năm 1957 đến nay, Malaixia bắt đầu tiến hành chính sách phát triển kinh tế dân tộc độc lập, vững mạnh. Trải qua hơn bốn thập kỷ phát triển và xây dựng đất nước, Malaixia đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Hiện nay Malaixia đang từng bước chắc chắn khẳng định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế cao và hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh, môi trường được đảm bảo, các vấn đề xã hội được cải thiện, mức sống của người dân được nâng cao. Đặc trưng trong tăng trưởng kinh tế Malaixia được đánh giá là tăng trưởng có chất lượng và bền vững.
1.Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định
1.1. GDP và GDP bình quân đầu người
Tăng trưởng kinh tế có sự cải thiện liên tục từ 1957 đến nay. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn từ 1970 - 1996 liên tục tăng và ở mức cao, bình quân 6,7%/năm. Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nền kinh tế Malaixia có tăng trưởng âm (-7,6%). Sau giai đoạn này, Malaixia đã có những biện pháp đúng đắn nhằm khắc phục khủng hoảng, nhờ vậy từ năm 1999 đến nay nền kinh tế Malaixia đã phục hồi khá nhanh. Tăng trưởng GDP năm 1999 đạt 6,1%; năm 2000 đạt 8,3%. Trong năm 2001, do tình hình kinh tế toàn cầu giảm sút tăng trưởng chỉ đạt 2,4%. Tuy nhiên, sang năm 2002, kinh tế Malaixia đã hồi phục và đạt mức tăng trưởng 4,1% và năm 2003 đạt 5,6%, sang năm 2004 đạt mức cao 7,1% và năm 2005 đạt 5,1%, ước đạt 5,3% trong năm 2006. Điều này cho thấy những chính sách kinh tế - xã hội được Chính phủ Malaixia áp dụng để hồi phục nền kinh tế đã có hiệu quả cao, trong đó có việc ấn định tỷ giá và kiểm soát vốn. Tốc độ hồi phục nhanh chóng của nền kinh tế rõ ràng là một chỉ số đặc biệt quan trọng nói lên tính bền vững của quá trình tăng trưởng ở Malaixia.
Biểu đồ :Tốc độ tăng trưởng GDP của Malaixia giai đoạn 1997-2006 (%)
1. 2. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ sở chứng tỏ sự tăng trưởng bền vững dài hạn cũng như chất lượng tăng trưởng của Malaixia còn thể hiện rõ ở quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đã diễn ra rất nhanh, từ nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp sang nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp ngày càng gia tăng.
Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP bắt đầu vượt qua nông nghiệp từ giữa những năm 1970 và sau đó tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm nhanh chóng, từ 22% năm 1980 xuống còn 12% năm 1998 và còn 9,7% năm 2003. Trong khi đó, tỷ trọng của khu vực công nghiệp đã tăng nhanh trong cùng thời kỳ, từ 38% năm 1980 lên 48% năm 1998 và đạt mức 48,5% vào năm 2003.
Chất lượng của quá trình tăng trưởng sản xuất cũng được phản ánh qua sự phát triển mạnh mẽ của khu khu vực công nghiệp chế tạo. Khu vực này đã lớn mạnh liên tục và đóng góp đáng kể cho tốc độ tăng trưởng cao trong suốt thời kỳ tăng trưởng nhanh và chiếm 35% GDP vào năm 1997. Thực tế, khu vực này cũng đã tạo ra nhiều việc làm chất lượng cao cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp không chỉ hướng tới xuất khẩu mà còn đáp ứng được những nhu cầu tiêu dùng trong nước. Các sản phẩm công nghiệp gia dụng như đồ điện, điện tử, may mặc đã hướng vào mục tiêu phát triển thị trường trong nước đã góp phần giảm nhập khẩu và tiến mạnh vào xuất khẩu.
Ngành dịch vụ cũng là một ngành được ưu tiên phát triển ngay từ khi tiến hành phát triển kinh tế. Trong suốt những năm vừa qua, ngành dịch vụ đã đạt được nhiều kết quả khá vững chắc. Chính phủ Malaixia rất chú trọng tới việc cải cách khu vực này theo hướng ngày càng tốt hơn, để các sản phẩm truyền thống của Malaixia tăng tính cạnh tranh trên thị trường, đưa Malaixia trở thành một trung tâm gia công hàng đầu trong khu vực. Những ngành dịch vụ hiện đại như tài chính, ngân hàng, viễn thông, công nghệ cao không ngừng phát triển. Những nỗ lực của Chính phủ Malaixia đã đạt được kết quả rất khả quan, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch. Du lịch là lĩnh vực mang lại thu nhập lớn thứ hai cho Malaixia, sau ngành công nghiệp chế tạo. Các dịch vụ bổ trợ như dịch vụ hàng không, cơ sở hạ tầng, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, siêu thị hiện đại, khu vui chơi giải trí liên tục được xây mới theo hướng hiện đại đáp ứng những nhu cầu cao nhất của người tiêu dùng đã góp phần vào sự thành công trong chính sách phát triển du lịch.
Tăng trưởng nhanh và ổn định ở Malaixia đạt được là do một số nhân tố sau:
Thứ nhất, thành quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp sang nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp ngày càng gia tăng. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm nhanh chóng, từ 22% năm 1980 xuống còn 12% năm 1998 và còn 9,7% năm 2003. Tỷ trọng của khu vực công nghiệp đã tăng nhanh trong cùng thời kỳ, từ 38% năm 1980 lên 48% năm 1998 và đạt mức 48,5% vào năm 2003. Chất lượng của quá trình tăng trưởng sản xuất cũng được phản ánh qua sự phát triển mạnh mẽ của khu vực công nghiệp chế tác. Khu vực này đã lớn mạnh liên tục và đóng góp đáng kể cho tốc độ tăng trưởng cao trong suốt thời kỳ tăng trưởng nhanh và chiếm 35% GDP vào năm 1997. Ngành dịch vụ cũng là một ngành được ưu tiên phát triển ngay từ khi tiến hành phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều kết quả khá vững chắc. Những ngành dịch vụ hiện đại như tài chính, ngân hàng, viễn thông, công nghệ cao không ngừng phát triển. Những nỗ lực của Chính phủ Malaixia đã đạt được kết quả rất khả quan, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch. Du lịch là lĩnh vực mang lại thu nhập lớn thứ hai cho Malaixia, sau ngành công nghiệp chế tác. Các dịch vụ bổ trợ như dịch vụ hàng không, cơ sở hạ tầng, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, siêu thị hiện đại, khu vui chơi giải trí liên tục được xây mới theo hướng hiện đại, đáp ứng những nhu cầu của người tiêu dùng đã góp phần vào sự thành công trong chính sách phát triển du lịch.
Thứ hai là độ mở cửa rộng của nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Thương mại của Malaixia đã liên tục tăng, trong đó xuất khẩu đã trở thành động lực tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu trong giai đoạn 1980 – 1990 tăng 10,6%/năm; trong thời kỳ 1990 – 1996 tăng 6,5%/năm. Năm 2004, tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là 14,6%, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2003 đạt 118,577 tỷ USD, nhập khẩu cũng đã tăng với tốc độ tương ứng là 11,3% và 6,5% trong cùng thời kỳ. Nhờ vậy, tỷ trọng thương mại so với GDP của Malaixia đã tăng mạnh và đạt mức cao hơn so với các nước trong khu vực. Tỷ trọng thương mại trên GDP của Malaixia tăng từ 176,7% năm 1987 lên 271% năm 1997 và đạt mức cao hơn so với con số 75,9% của Inđônêxia và 153% của Thái Lan trong cùng năm đó.
Thứ ba, sự phát triển lành mạnh của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Trong giai đoạn đầu phát triển, do xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu nên Nhà nước chủ động đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Nhưng từ năm 1983, Malaixia thực hiện chính sách tự do hóa kinh tế, nới lỏng luật lệ, khuyến khích tư nhân tham gia phát triển kinh tế, chủ trương tư nhân hóa các hoạt động kinh doanh và các công ty quốc doanh. Kết quả là đến cuối thập kỷ 1980, khu vực kinh tế tư nhân đã nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Hàng loạt các doanh nghiệp mới ra đời tham gia vào mọi hoạt động của nền kinh tế và họat động của các doanh nghiệp này là rất có hiệu quả.
2. Năng suất nhân tố tổng hợp TFP đang có dấu hiệu cải thiện
Yếu tố đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng của nền kinh tế Malaixia giai đoạn 1960 - 1994 là vốn vật chất, trong khi đó đóng góp của TFP chỉ hơn một phần ba của vốn vật chất. Thời kỳ 1960 – 1994, đóng góp vào tăng trưởng của yếu tố vốn là 60,8%, của TFP chỉ là 24,2%. Thời kỳ 1990 – 1994, tỷ trọng TFP ở mức khá cao (36,09%), nhưng thời kỳ 1995 – 1999 lại giảm mạnh chỉ còn 6,25% do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Kể từ năm 2001, tỷ lệ đóng góp của TFP bắt đầu được khôi phục lại, chiếm 26,7% đóng góp vào tăng trưởng GDP. Malaixia đã đặt kế hoạch giai đoạn 2001 – 2010, tỷ trọng TFP đạt 3,2 điểm phần trăm và chiếm 42,5% vào tăng trưởng GDP.
Bảng : Vai trò của TFP trong tăng trưởng kinh tế của Malaixia
Đơn vị tính: %
Tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng TFP
Đóng góp của TFP trong việc tăng GDP
1970 - 1980
7,6
2,5
32,9
1980 - 1990
5,8
0,7
12,1
1990 - 1994
9,31
3,36
36,09
1995 - 1999
5,12
0,32
6,25
1980 - 2000
6,48
1,29
19,90
2001 - 2003
3,00
0,80
26,7
Nguồn: ASEAN Development Outlook 2005
Đóng góp lớn vào tăng giá trị TFP chính là sự gia tăng năng suất lao động xã hội của Malaixia. Giá trị gia tăng cho một công nhân đã tăng từ 10.160 Ringgit năm 1985 lên 10.867 Ringgit năm 1988, tức là tăng 2,2% một năm. Trong những khu vực tiên phong của nền kinh tế như khu vực công nghiệp chế tác, năng suất tăng nhanh gần gấp 3 lần so với năng suất toàn bộ nền kinh tế, tức khoảng 6,5% một năm (thời kỳ 1985 – 1988). Trong khu vực nông nghiệp, năng suất lao động cũng tăng ở mức 2,5% một năm trong cùng thời kỳ và giải phóng được đáng kể lực lượng lao động cho công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế còn đạt mức cao hơn trong thời kỳ trước khủng hoảng, từ 1991 - 1995. Tính cho cả nền kinh tế, năng suất lao động đo bằng GDP trên một công nhân theo giá cố định của năm 1978, đã tăng với tốc độ 5,1% một năm. Đến năm 2004, năng suất lao động xã hội của Malaixia đạt 11.276,2 USD, cao gấp 2,5 lần năng suất của Thái Lan.
Tuy nhiên, yếu tố khoa học - công nghệ và hiệu quả đầu tư của Malaixia vẫn chưa đóng góp được nhiều vào tăng trưởng TFP. Mặc dù chính sách khoa học và công nghệ của Malaixia đóng góp khá lớn cho sự tăng trưởng GDP, số việc làm cũng như thúc đẩy nhanh xuất khẩu hàng hóa chế tác của đất nước, nhưng thành công trong ngành công nghiệp của Malaixia lại chỉ phụ thuộc vào một nhóm nhỏ ngành, như ngành công nghiệp điện tử. Sự chuyển giao công nghệ từ các công ty đa quốc gia tới các công ty bản xứ vẫn còn bị hạn chế. Chi cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) của Malaixia còn thấp ( thời kỳ 1987 – 1997 là 0,3% GDP). Về vấn đề hiệu quả đầu tư, chỉ số ICOR của Malaixia khá cao. Năm 1999, chỉ số ICOR của nước này là 4, đến năm 2004 đã tăng lên 4,6. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, đây chính là một trong những yếu tố có thể gây tổn hại đến chất lượng tăng trưởng của Malaixia trong tương lai.
3. Phúc lợi xã hội ngày càng được nâng cao, công bằng xã hội ngày càng được cải thiện
Theo Báo cáo phát triển con người năm 2005 thì năm 2003 chỉ số HDI của Malaixia là 0,796, xếp thứ 61 trong 177 nước có số liệu so sánh. Đó là thành quả từ sự quan tâm của Chính phủ Malaixia tới các vấn đề an sinh xã hội và phúc lợi cho người dân.
Những chính sách đầu tư thích đáng cho giáo dục đã thu được những kết quả tích cực. Tỷ lệ dân số biết chữ năm 1970 ở Malaixia mới đạt 58%, thì đến năm 2002, tỷ lệ này đã tăng lên 94%. Đặc biệt, năm 1997, tỷ lệ học sinh tiểu học của Malaixia đạt 100% nhóm tuổi, điều đó chứng tỏ những trẻ em thiệt thòi ở vùng sâu, vùng xa và thiểu năng tàn tật cũng đã có cơ hội tới trường. Một điều đáng lưu ý là tính xã hội hóa cao trong giáo dục của Mailaixia đã giảm bớt gánh nặng chi phí cho Nhà nước mà vẫn đạt được tiến bộ trong giáo dục.
Trong lĩnh vực y tế, nếu như năm 1980, 40% dân số của Malaixia không được tiếp cận các dịch vụ y tế thì đến năm 1993, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 12%. Tỷ lệ trẻ em bị chết dưới 5 tuổi đã giảm mạnh trong thời kỳ 1980 - 1998, từ 42‰ xuống còn 12‰ và 8‰ năm 2005; tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh là 17,7‰ năm 2005 và tuổi thọ trung bình của người dân đã tăng từ 65 tuổi vào năm 1970 lên 73 tuổi năm 2002.
Tỷ lệ dân số được cung cấp nước sạch và các dịch vụ vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn ở Malaixia ngày càng tăng, đã tăng từ 71% thời kỳ 1982 - 1985 lên 89% thời kỳ 1990 - 1996, trong đó năm 1996 có 100% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch và 86% cư dân nông thôn được sử dụng nước sạch. Tỷ lệ dân số được cung cấp các dịch vụ vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn ở Malaixia cũng đã tăng mạnh giữa hai thời kỳ nói trên, từ 75% thời kỳ 1982 - 1985 đến 94% thời kỳ 1990 - 1996, trong đó 100% các cư dân thành thị được hưởng dịch vụ này.
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, người dân Malaixia đã có cơ hội tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ công. Với mục đích theo đuổi một quá trình tăng trưởng và công bằng, Chính phủ và xã hội dân sự Malaixia đã đầu tư và quan tâm mạnh mẽ tới việc tăng cơ hội tiếp cận cho người dân tới các dịch vụ công. Chi tiêu công cộng cho phát triển xã hội đã tăng từ 17% trong thời kỳ 1971 - 1975 lên 25% trong thời kỳ 1990 - 1995. Nhờ đó, người dân Malaixia được đi học và chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội, nhiều quỹ và các chương trình được thành lập và hoạt động nhằm phục vụ cho sự an toàn cuộc sống cho người dân. Quỹ bảo vệ người lao động được thành lập năm 1951 và sửa đổi năm 1991. Quỹ này hoạt động dựa trên nguyên tắc đóng góp từ phía người sử dụng lao động và người lao động cùng với lãi suất thu được để cung cấp các khoản tiền trợ cấp hưu trí, bệnh tật vĩnh viễn, chết hoặc di cư ra khỏi Malaixia. Quỹ hưu trí cũng được thành lập từ năm 1952. Điều luật an sinh xã hội cho người lao động được thành lập năm 1969 và sửa đổi năm 1992. Sự hoạt động của điều luật này nhằm tạo ra sự an sinh xã hội cho người lao động và những người ăn theo trong gia đình thuộc các nhóm thu nhập thấp trong trường hợp xảy ra tai nạn lao động Với sự phát triển đầy đủ các chương trình phúc lợi thành một hệ thống, người dân Malaixia, đặc biệt những người trong đối tượng khó khăn đã được hưởng nhiều sự trợ cấp để đảm bảo cuộc sống tối thiểu, cũng như các cơ hội tiếp cận dịch vụ công cộng khác, chất lượng cuộc sống được nâng cao, theo đó công bằng xã hội được cải thiện, tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể.
4. Thành công trong chiến lược xóa đói giảm nghèo
Đặc biệt, trong chính sách phát triển mới của Chính phủ Malaixia, chiến lược xóa đói giảm nghèo sẽ được tiếp tục thực hiện, chú trọng cải thiện phân phối thu nhập giúp người nghèo được hưởng lợi ích từ tăng trưởng. Chính sách này cũng quan tâm đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của những khu vực và các bang chậm phát triển để họ có khả năng tiếp cận lớn hơn đối với các dịch vụ cơ bản được cải thiện. Kết quả là, từ một đất nước có trên 50% dân số sống dưới mức nghèo khổ vào đầu thập kỷ 70, đến năm 2002, số người nghèo đói ở Malaixia chỉ còn dưới 1%. Ngoài ra, sự chênh lệch về thu nhập ở Malaixia cũng ngày càng được thu hẹp giữa các nhóm ngành nghề và các nhóm dân cư thông qua các chính sách của Chính phủ đối với những tầng lớp có thu nhập thấp. Từ đó, cuộc sống của nhóm người nghèo đã được cải thiện nhiều và họ đã có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào quá trình phát triển đất nước.
Nhờ thành quả của tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như các chương trình phúc lợi và định hướng tập trung vào các nhóm bị thiệt thòi, Malaixia đã trở thành một trong những nước có thành tựu xóa đói đói giảm nghèo đáng khâm phục. Cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội được tăng lên đáng kể và chất lượng các dịch vụ này được cải thiện rất nhiều, công bằng xã hội được đề cao và các nhóm xã hội dễ bị tổn thương phần nào được bù đắp
CHƯƠNG III
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1. Chất lượng tăng trưởng trong kinh tế
Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, trong thời gian tới, định hướng cho tăng trưởng của nước ta là phải không ngừng nâng cao tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP trong tăng trưởng, nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng cường năng lực cạnh tranh nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu này cần có những giải pháp đồng bộ mang tính dài hạn cũng như các giải pháp ngắn hạn.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, đầu tư từ ngân sách nhà nước. Giải quyết những vấn đề liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản như chống thất thoát vốn đầu tư, đấu thầu, chất lượng công trình xây dựng, chống đầu tư dàn trải... đã được đề cập ở trên cũng như nâng cao chất lượng trong quá trình lựa chọn và quyết định dự án đầu tư bởi nguyên nhân của việc đầu tư kém hiệu quả, trước hết xuất phát từ việc lựa chọn và quyết định dự án đầu tư. Đây còn là vấn đề liên quan đến chống tham nhũng và quản lý đầu tư hiệu quả. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, cần và có thể duy trì hệ số ICOR hợp lý từ 3,5 - 4, muốn vậy cần phải lưu ý từ việc lựa chọn, quyết định dự án đầu tư để có được cơ cấu đầu tư hợp lý, tạo tiền đề hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Ngoài ra, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phải gắn với cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, giảm thiểu sự bất hợp lý trong phân bổ nguồn lực cho tăng trưởng. Đặt mục tiêu tăng hiệu quả đầu tư, trước hết là đầu tư của Nhà nước thay vì quá tập trung vào tăng vốn đầu tư.
Muốn có bước phát triển mới, duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và nâng cao chất lượng tăng trưởng, phải đầu tư ở mức cao hơn cho phát triển khoa học - công nghệ, hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D). Khoa học - công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh lợi hại trong thế kỷ XXI. Do đó, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển dài hạn về khoa học - công nghệ; đầu tư ở mức cao hơn, tạo điều kiện để hình thành thị trường các sản phẩm khoa học - công nghệ và có chính sách hỗ trợ thị trường này phát triển. Cần đón đầu, đi tắt, vận dụng kịp thời những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào hiện đại hóa sản phẩm, hiện đại hóa quản trị và nâng cao sự đóng góp của TFP cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D). Tuy nhiên, tăng đầu tư cho khoa học - công nghệ phải gắn liền với tăng hiệu quả và chất lượng đầu tư, đảm bảo nâng cao năng lực khoa học - công nghệ của nước ta. Nhà nước nên chuyển mạnh sang hình thức quản lý bằng cơ chế chính sách nhằm vào hai mục tiêu cụ thể là tạo kích thích đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và tăng hợp tác hai chiều giữa các tổ chức nghiên cứu triển khai và doanh nghiệp.
Đầu tư cao hơn cho giáo dục - đào tạo. Cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo được coi là vũ khí cạnh tranh lợi hại hiện nay. Đầu tư cao hơn và chất lượng hơn cho giáo dục - đào tạo có tác dụng nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động nhờ trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật của người lao động được nâng lên. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn nhằm tăng cường năng lực quản lý của doanh nghiệp, của các cơ quan quản lý nhà nước, từ đó nâng mức đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế nhờ vào yếu tố năng lực quản lý, yếu tố tri thức… trong năng suất nhân tố tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục cần chú trọng đến cơ cấu phân bổ, hiệu quả và chất lượng đầu tư.
Chất lượng tăng trưởng do nhiều yếu tố tạo nên, nhưng năng lực cạnh tranh là một trong những yếu tố then chốt. Do đó, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, trước hết phải cải thiện môi trường thể chế, môi trường kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia, giảm chi phí kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm. Về môi trường thể chế, xây dựng đủ các luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong kinh doanh; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống luật pháp; đáp ứng đồng thời yêu cầu ổn định của pháp luật và khả năng biến động của nền kinh tế. Về môi trường kinh tế vĩ mô, duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định bằng cách sử dụng các công cụ điều chỉnh linh hoạt, xóa bỏ những quy định hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không bình đẳng, không phù hợp với cơ chế thị trường, phá bỏ thế độc quyền kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. Về giảm chi phí kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải tận dụng các lợi thế cạnh tranh về chi phí thấp, chuyển dần sang cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng tri thức, công nghệ cao; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, năng lực khoa học công nghệ cũng như chất lượng lao động trong doanh nghiệp… nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm. Khả năng cạnh tranh càng cao, phát triển sẽ càng bền vững, trong khi những lợi thế cạnh tranh vốn có không còn được đánh giá cao, áp lực cạnh tranh từ bên ngoài không ngừng gia tăng cùng với quá trình hội nhập, thì nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trở thành một yêu cầu cấp bách nhằm góp phần cải thiện vị thế quốc gia và thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa” và “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế”
2. Nâng cao phúc lợi, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo
Trong y tế, tài chính y tế còn đóng vai trò “xương sống” trong hoạt động của hệ thống y tế, quyết định tính công bằng và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ toàn dân. Hiện nay, tài chính y tế của Việt Nam vẫn đang trông chờ vào 4 nguồn chủ yếu: Ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế, viện phí và viện trợ quốc tế. Trong điều kiện đầu tư ngân sách nhà nước cho y tế còn hạn hẹp, viện trợ quốc tế đóng vai trò quan trọng. Do vậy cần có những biện pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư này nhằm tăng cường hoạt động và phát triển ngành.
Trong giáo dục, tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề nhằm giúp cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến đổi của thị trường lao động. Cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Hoàn thiện môi trường pháp lý và thể chế nhà nước nhằm tạo điều kiện để mở rộng xã hội hóa các dịch vụ giáo dục, y tế, dịch vụ lao động - xã hội.
Tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tầng lớp dân cư, phát triển con người và phát triển nông thôn. Cần tạo ra mặt bằng pháp lý chung đối với mọi thành phần kinh tế. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải được hiểu là sức mạnh tự thân do tính ưu việt của thành phần kinh tế đó so với các thành phần kinh tế khác, do đó mà có lợi thế cạnh tranh trong một môi trường pháp lý như nhau. Các chính sách về thị trường lao động, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, bao gồm cả hoạt động ngoại thương cần được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế.
Nhà nước nên tập trung vào kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội cũng như các ngành và lĩnh vực mang lại những lợi ích dài hạn, cung cấp hàng hóa công cộng, tạo dựng môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đầu tư có mục tiêu xã hội. Chẳng hạn, những khoản đầu tư để duy trì các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ được chuyển sang đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn hoặc trợ giúp phát triển nông nghiệp ở các vùng khó khăn.
Hoàn thiện các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập một cách hợp lý và công bằng, điều tiết quá trình phân hóa xã hội, trong đó có hai chính sách quan trọng là chính sách thuế và chính sách tiền lương.
Chính sách thuế phải nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh và tạo cơ hội cho các tầng lớp nghèo có khả năng tăng thu nhập. Cần giảm hoặc miễn thuế đối với các hoạt động nông nghiệp, kinh doanh nhỏ hoặc những hoạt động tự làm của những người lao động. Đối với các hoạt động kinh doanh lớn, công cụ thuế có tác dụng không chỉ phân phối lại mà còn có nghĩa là những khoản tái đầu tư trong tương lai.
Chính sách tiền lương, đặc biệt tiền lương trong khu vực hành chính sự nghiệp cần được cải cách sao cho tiền lương phản ánh đúng giá trị sức lao động. Từ đó có thể "chính thức hoá" các nguồn thu nhập, loại trừ các thu nhập không chính thức ngoài lương, vừa không thể kiểm soát được, vừa là kẽ hở cho các loại hình tham nhũng và lãng phí. Lúc đó tiền lương mới thực sự là "đòn bẩy" khuyến khích nâng cao hiệu quả, năng suất và chất lượng lao động, mới có cơ sở kinh tế cho việc duy trì trật tự và kỷ cương trong kinh tế.
Cải cách hành chính, làm trong sạch bộ máy nhà nước nhằm ngăn ngừa sự làm giàu bất hợp pháp; chống tham nhũng và phát huy dân chủ cũng là những giải pháp nhằm tạo lập cơ sở xã hội và thể chế tăng trưởng trong công bằng.
KẾT LUẬN
Đề tài nghiên cứu kinh nghiệm tăng trưởng gắn với đảm bảo chất lượng trong tăng trưởng của Malaixia. Malaixia đã thu được nhiều thành tựu quan trọng và đang từng bước chắc chắn khẳng định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế cao và hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh, môi trường được đảm bảo, các vấn đề xã hội được cải thiện, mức sống của người dân được nâng cao. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học thực tiễn có thể áp dụng cho phát triển của Việt Nam.
Kế hoạch nhà nước 2006-2010 đánh dấu bước ngoặt quan trọng về chất trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Mục tiêu trong 5 năm tới Việt Nam sẽ phải phấn đấu để sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, đưa GDP tính theo đầu người từ khoảng 640 USD hiện nay lên khoảng trên 1000 USD vào năm 2010, hình thành đồng bộ các loại thị trường cơ bản và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập WTO. Bên cạnh yêu cầu phát triển nhanh, trong 5 năm tới sẽ nhấn mạnh tới yêu cầu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự tăng trưởng và phát triển.
Giai đoạn tới, để thực hiện mục tiêu phát triển trong kế hoạch nhà nước 2006 – 2010, chúng ta phải chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, tiếp tục duy trì tăng trưởng với tốc độ cao và cải thiện phúc lợi, xóa đói giảm nghèo – coi đây là điều kiện quyết định đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có các giải pháp mang tính đồng bộ từ khâu ban hành cơ chế chính sách của Nhà nước đến việc đi vào triển khai thực hiện và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nguồn lực trong nước là có hạn, do vậy, chúng ta cần xác định rõ mục tiêu cần ưu tiên trong giai đoạn trước mắt để làm tiền đề, động lực thực hiện các mục tiêu còn lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ASEAN Development Outlook 2005
“Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông Á”, NXB Thế giới, 2003
“Không chỉ là tăng trưởng kinh tế”, NXB Văn hóa Thông tin, 2005
Lê Thị ái Lâm: “Chất lượng tăng trưởng của Malaixia”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 7, 2003
Asian productivity Organization (APO) – Annual report, 2004
Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Thế giới 2006: Công bằng và phát triển, NXB Văn hóa Thông tin, 2005
Một số website cung cấp thông tin
- www.worldbank.com;
- www.vnexpress.net; www.vietnamnet.vn; www.mof.gov.vn; www.fetp.edu.vn; www.ncseif.gov.vn www.mpi.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22494.doc