Đề tài Chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty cao su Hà Nội (Harco)

Để thực hiện tốt hợp đồng công ty cần phải chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ tốt. Việc chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ xuất nhập khẩu phải đảm bảo đầy đủ các thủ tục, chính xác và kịp thời. Muốn vậy thì công ty cần yêu cầu khách hàng cung cấp sớm, kịp thời các chứng từ cần thiết, tiến hành theo dõi từng chuyến hàng, xử lý chính xác các thông tin như ngày giao hàng, cảng đến, số hiệu tàu, điều kiện thanh toán. ghi chép rõ ràng tình hình thực hiện hợp đồng tránh làm việc chồng chéo. - Công ty cần tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh chặt chẽ, phối hợp tích cực giữa các phòng ban để đảm bảo về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng. Giữa các phòng ban phải thường xuyên trao đổi thông tin để cùng nhau giải quyết, khắc phục những phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời phải thường xuyên báo cáo chính xác tình hình thực hiện hợp đồng cho ban giám đốc để có những chỉ đạo thống nhất và những giải pháp tối ưu nhất.

doc56 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty cao su Hà Nội (Harco), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại quốc tế. Các hình thức cơ bản để giải quyết các tranh chấp phát sịnh trong hợp đồng xuất khẩu: - Thương lượng trực tiếp giữa các bên: Trong phần lớn các trường hợp, khi bắt đầu nảy sinh tranh chấp các bên tự nguyện và nhanh chóng liên hệ gặp gỡ nhau để thương lượng , tìm cách tháo gỡ những bất động,cố gắng giữ gìn mối quan hệ kinh doanh lâu dài từ trước đến nay. Pháp luật các nước và Việt Nam đều quy định thương lượng là một bước bắt buộc khi giải quyết tranh chấp thưong mại.khoản 1 điều 239 luật thương mại quy định tranh chấp thương mại trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng. Khi thương lượng trực tiếp không thành thì các bên mới có thể tiến hành các bước và hình thức khác để giải quyết tranh chấp. - Hoà giải: Việc hoà giải phải được dựa trên sự tự nguyện của tất cả các bên, hoà giải đòi hỏi phải bảo toàn bí mật, những tài liệu chúng cứ, cũng như ý kiến của các bên và hoà giải viên trong giải quyết tranh chấp. Do tính chất tự nguyện của hoà giải nên khi một bên đơn phương chấm dứt hoà giải thì quá trình hoà giải sẽ đưong nhiên chấm dứt và sẽ được chuyển sang giải quyết bằng phương pháp khác. Thoả thuận hoà giải không có tính chất bắt buộc thi hành như phán quyết trọng tài hay toà án. - Thủ tục trọng tài, thủ tục toà án: Đây là phương thức do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó quyết định cuối cùng của trọng tài viên hay toà án có tính bắt buộc đối với các bên trong giải quyết tranh chấp. Để giải quyết theo thủ tục trọng tài trong thủ tục toà án. Các bên phải thoả thuận khi tranh chấp xảy ra thì đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài nào toà án nào và quy định thủ tục tố tụng kia nó. Thoả thuận này có thể được lập ra ngay trong hợp đồng và cả khi hợp đồng đã ký kết xong. Phán quyết của trọng tài có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp được cưỡng chế thi hành theo thủ tục trình bộ tư pháp ở cả trong và ngoài nước. Chương II Thực tiễn chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty cao su Hà nội I. Khái quát tình hình tổ chức và hoạt động kinh doanh tại công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty cao su Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc sở công nghiệp Hà nội được thành lập theo quyết định số 1318- QĐ/UB ngày 30.3.1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội và nghị định 388-HĐBT ngày 2.11.1991 về việc thành lập và giải thể DNNN. Hoạt động kinh doanh của công ty theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, công ty có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Tiền thân của công ty cao su Hà nội là xí nghiệp cao su Thống nhất. Xí nghiệp này là một xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trực thuộc Sở Công nghiệp Hà nội được thành lập theo quyết định số 1909/QĐ-TC ngày 17.6.85 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội trên cơ sở hợp nhất 2 xí nghiệp cao su Hà nội và cao sư Thống nhất (cũ) mà tiền thân của 2 xí nghiệp cơ sở này là xưởng quốc doanh cao su tái sinh (thành lạap tháng 6 năm 1959) và xí nghiệp công tư hợp doanh thống nhất (thành lập 11/1959.) trụ sở làm việc chính của xí nghiệp Cao su thống nhất được đặt tại 20 phố Cát linh - Quận Đống đa - Hà Nội. Khi đó, sản phẩm truyền thống của xí nghiệp là các mặt hàng dép xốp đi biển, ủng bảo hộ lao động, dây cua roa cùng các sản phẩm cao su công nghiệp khác. Ngay từ những năm đầu được thành lập (1960) thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, xí nghiệp đã sản xuất 159.800 đôi dép kiểu Thái lan, 59.500 ủng các loại, đạt giá trị tổng sản lượng 1.356.559đ. Đến năm 1990, xí nghiệp đã phấn đấu cao, khắc phục mọi khó khăn, phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, xí nghiệp đạt giá trị tổng sản lượng là 3.780.983đ với doanh thu 4.209.387.000đ. Trong quá trình xây dựng và phát triển, sản phẩm ủng và dép xốp của xí nghiệp luôn giữ vững đựoc uy tín đối với khách hàng, trong nhiều năm đã được xuất khẩu sang các nước Liên Xô, Đức, Tiệp khắc, Ba lan, Cu ba... đã được thưởng huy chương vàng tại các hội nghị trong và ngoài nước. Riêng loại ủng chịu xăng dầu đã được công nhận đề tài cấp nhà nước năm 1986. Năm 1982 là năm cũng đạt sản lượng cao nhất với 350.000 đôi. Đến năm 1990, xí nghiệp đã phấn đấu cao,khắc phục mọi khó khăn phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đạt giá trị tổng sản lượng là 3.780.983.000đ với doanh thu 4.209.387.000đ, tổng trích nộp ngân sách là 107.200.000đ với sản lượng 83.791 đôi ủng và 1.062.650 đôi dép các loại. Với tổng giá trị TSCĐ là 4.075.430.000đ, diện tích sản xuất là 10.600 m2 trên 15.200m2 mặt bằng do xí nghiệp quản lý. Năm 1992, xí nghiệp đã chủ động chuyển hướng sản xuất và ngành nghề cho phù hợp với cơ chế thị trường, một mặt giữ vững sản phẩm truyền thống mặt khác đa dạng hoá sản phẩm. Tuy nhiên, do hoàn cảnh không thuận lợi, xí nghiệp đã gặp phải nhiều khó khăn, nhất là về sản xuất nhu cầu thị trường về sản phẩm tiêu dùng trong nước giảm xuống, hợp đồng bán hàng nhỏ, thời gian ngắn làm cho sản xuất của xí nghiệp không ổn định. Đối với sản phẩm xuất khẩu, cũng do tình hình Đông âu biến động, dẫn đến những hợp đồng sản xuất xuất khẩu bị phá vỡ. Xí nghiệp đã mất đi thị trường xuất khẩu chủ yếu của mình, một số mặt bằng phải tạm ngừng sản xuất. Xí nghiệp chuyển hướng sang liên kết xuất khẩu từng loại mặt hàng, từng lô sản phẩm với một số đơn vị bạn. Trước tình hình đó, xí nghiệp đã được thành lập lại và đổi tên thành công ty cao su Hà nội. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty. Nhiệm vụ: Điều 5, trong bản điều lệ về tổ chức quản lý và hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty có quy định rõ công ty có những nhiệm vụ cơ bản sau: - Xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, các chương trình công tác, ngắn hạn và dài hạn. Không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất kinh doanh, tự bù đắp chi phí, tự trang trải vốn, làm tròn nghĩa vụ ngân sách đối với nhà nước, với thành phố trên cơ sở tận dụng năng lực sản xuất và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Tổ chức chăm lo nâng cao đời sống và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xã hội trong xí nghiệp. Thực hiện phân phối theo lao động xã hội và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên. - Mở rộng liên kết kinh tế với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, tăng cường mối quan hệ và hợp tác kinh tế với nước ngoài đẻ phát triển sản xuất kinh doanh góp phần tích cực vào nền sản xuất chung của xã hội, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc dân. - Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách kinh tế xã hội Đảng và nhà nước đối với quản lý công ty, quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý người lao động tuân thủ pháp luật và thực hiện báo cáo trung thực theo chế độ nhà nước quy định. - Bảo vệ công ty, bảo vệ bí mật của nhà nước, bảo vệ môi trường , giữ gìn an ninh trật tự xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng. Quyền hạn: Điều 6 trong bản điều lệ của công ty quy định những quyền hạn cơ bản của công ty: - Quyền chủ động xác định phương án sản xuất sản phẩm, lựa chọn thiết bị, công nghệ trên cơ sở năng lực thực tế, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường và cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh của nhà nước . - Quyền sử dụng và thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển nguồn vốn, chủ động tạo và không ngừng tăng vốn tự có. - Mở rộng mọi hình thức liên kết kinh doanh với các cá nhân và tập thể của mọi thành phần kinh tế và với nước ngoài, để thực hiện các chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, chế thử, hợp tác sản xuất kinh doanh. Ký kết các hợp đồng mua bán vật tư, nguyên liệu sản phẩm. Mở các gian hàng giới thiệu sản phẩm làm dịch vụ, đại lý, bán lẻ sản phẩm. - Quyền huy động vay vốn, ngoại tệ tại các ngân hàng ngoại thương, vay vốn nước ngoài, để thực hiện sản xuất và xuất khẩu, trên nguyên tắc, tự chịu trách nhiệm , tự trang trải và làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách. - Quyền tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, bố trí và sử dụng lao động lựa chọn các hình thức trả thù lao động, thực hiện phân phối theo lao động. - Quyền khen thưởng các đơn vị, cá nhân trong công ty có thành tích trong lao động sản xuất, công tác. Có quyền thi hành kỷ luật đối với cán bộ - công nhân viên trong công ty tới mức buộc thôi việc. - Có quyền nhượng bán, thanh lý, cho thuê những tài sản không dùng đến hoặc chưa dùng hết công suất (theo quy định của nhà nước) có quyền hoàn thiện cơ cấu tài sản cố định theo yêu cầu đổi mới phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. 3. Cơ cấu tổ chức của công ty: Cơ cấu tổ chức quản lý: Mô hình tổ chức quản lý của công ty bố trí theo cơ cấu thuộc tuyến chức năng. Đặc điểm của mô hình này là sử dụng các cán bộ chuyên trách ở các bộ phận chức năng làm tham mưu cho giám đốc, phân tích đánh giá tình hình và đưa ra phương hướng giải quyết. Nhưng quyền lựa chọn và ta quyết định cuối cùng thuộc về giám đốc, các phòng ban chức năng không có quyền đưa ra quyết định cho cấp dưới. Mô hình cơ cấu tổ chức của Công ty (trang bên) Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban lãnh đạo và các phòng ban trong Công ty: - Giám đốc: là người lãnh đạo và quản lý chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty và các quan hệ đối ngoại của công ty. Trực tiếp chỉ đạo và thông qua chương trình công tác hàng tháng, quý của các phó giám đốc quyết định công tác xuất nhập khẩu, công tác đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cũng như công tác mua bán vật tư , máy móc thiết bị... Trực tiếp quản lý và chỉ đạo công tác các phòng: tổ chức, tài vụ kế hoạch xuất nhập khẩu, kiểm tra chất lượng sản phẩm và phòng bảo vệ. - Phó giám đốc hành chính: là cán bộ lãnh đạo, phụ trách và chỉ đạo công tác hành chính - y tế, vệ sinh lao động và đời sống của cán bộ trong công ty. Có nhiệm vụ tổ chức hệ thống kho tàng vật tư, thành phẩm của công ty, cấp phát nguyên vật liệu cho các bộ phận, phân xưởng trong sản xuất; kiểm tra thanh toán quyết toán định mức hàng tháng, quý, đôn đốc công tác dịch vụ cửa hàng cho thuê và liên doanh; xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nội địa. Trực tiếp quản lý và chỉ đạo công tác phòng hành chính và phòng cung tiêu. - Phó giám đốc sản xuất : là cán bộ lãnh đạo, phụ trách, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất ở các phân xưởng theo hợp đồng đã ký,đảm bảo đúng tiến độ, thời gian, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Chỉ đạo triển khai thực hiện chương trình làm hàng mẫu đã được giám đốc thông qua. Đồng thời ... trưởng phòng kỹ thuật mẫu. - Phòng tài vụ: là phòng nghiệp vụ, giúp việc giám đốc trong công tác quản lý các nguồn vốn, đảm bảo sản xuất kinh doanh, đề xuất thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Hướng dẫn và thực hiện các nghiệp vụ hạch toán, thống kê và phân tích hoạt động kinh tế nội bộ của công ty, cũng như thực hiện chế độ quản lý tài chính trong công ty. - Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu: đảm nhận chức năng giám đốc xây dựng các phương án sản xuất, kế hoạch xuất nhập khẩu, kế hoạch giá thành dự thảo và chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, liên kết sản xuất kinh doanh, theo dõi, giám sát thực hiện kế hoạch sản xuất và hoạt động xuất nhập khẩu mà giám đốc đã ký. - Phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS): Đảm nhận chức năng giúp việc giám đốc trong khâu kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm ở các phân xưởng, trực tiếp giải quyết mối quan hệ của công ty với khách hàng về chất lượng sản phẩm . - Phòng tổ chức: Đảm nhận chức năng quản lý hành chính tổng hợp, giúp việc giám đốc giải quyết các mối quan hệ về nhân sự về chế độ trách nhiệm và quyền lợi của công nhân viên trong công ty. Xây dựng kế hoạch lao động tiền lương tháng, quý, năm hướng dẫn kiểm tra thực hiện thanh toán và phân phối tiền lương, phụ cấp bảo hiểm xã hội; thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật trong công ty; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưõng đội ngũ cán bộ. - Phòng hành chính: Đảm nhận chức năng quản lý và giải quyết các công tác chuyên môn quản lý thực hiện công tác văn thư các quan hệ hành chính dối nội đối ngoại, các công trình phúc lợi tập thể, đôn đốc kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy, thực hiện bảo vệ an ninh trật tự trong công ty. - Phòng cung tiêu: Đảm nhiệm chức năng giúp việc giám đốc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện việc thu mua cấp phát vật tư, nguyên liệu cho sản xuất đồng thời theo dõi tổng hợp và thanh toán vật tư nguyên liệu hàng tháng, quý đối với các bộ phận phân xưởng sản xuất. Thực hiện công tác bán hàng , tiêu thụ sản phẩm trong thị trường trong nước. - Phòng kỹ thuật mẫu: Đảm nhận chức năng trong việc quản lý chỉ đạo công tác thực hiện về quy trình công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Thực hiện việc thiết kế chế tạo ra các sản phẩm mẫu, xây dựng các dự án đầu tư kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức và thực hiện việc bảo dưỡng sửa chữa chế tạo đổi mới trong thiết bị. Thực hiện bồi dưỡng, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ về an toàn sản xuất cho công nhân. - Các phân xưởng (may, chuẩn bị, gò ráp): Hoạt động dưới sự chỉ đạo của Phó giám đốc sản xuất, là nơi trực tiếp sản xuất sản phẩm, các quản đốc phân xưởng có nhiệm vụ theo dõi công nhân làm đúng giờ, đúng việc đảm bảo chất lượng sản phẩm . 4. Tình hình hoạt động kinh doanh tại công ty: Là một doanh nghiệp nhà nước với chức năng chuyên sản xuất các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu bằng nguyên liệu chính từ cao su. Sản phẩm chính của công ty bao gồm: - Các loại ủng cao su: (ủng bảo hộ lao động, ủng đi mưa, ủng dùng trong môi trường xăng và dầu mỡ...). - Các loại dép dân dụng (dép xốp đi biển, dép cao su vải đi trong nhà) - Các loại dây cua roa hình thang. Các loại gioăng phớt phụ tùng cao su kỹ thuật ( gioăng thực phẩm, gioăng chịu xăng dầu, chịu nhiệt). - Các loại giầy vải. Sản phẩm truyền thống của công ty là các mặt hàng dép xốp đi biển, ủng bảo hộ lao động và dây cua roa hình thang chủ yếu được xuất khẩu sang các nước Đông âu và Liên xô (cũ). Từ khi tình hình Đông âu biến động , thị trường chính của công ty bị phá vỡ dẫn đến tình trạng một số mặt hàng chính của công ty phải tạm ngừng sản xuất .Công ty phải chuyển hướng thực hiện liên kết xuất khẩu từng loại mặt hàng lô sản phẩm với một số đơn vị bạn. Năm 1992 công ty xác định phương hướng sản xuất một mặt giữ vững sản phẩm truyền thống như ủng các loại , dép xốp đi biển, mặt khác triển khai sản xuất các loại giầy vải. Từ đó cho đến nay mặt hàng sản xuất chủ yếu của công ty và giầy vải các loại và được xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Châu âu. II. Thực tiễn chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy tại công ty 1. Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Là một DNNN, công ty cao su Hà nội có chức năng trực tiếp sản xuất và xuất khẩu các loại mặt hàng do công ty sản xuất ra, mà chủ yếu là các loại giày vải. Do đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu, nên trong công tác ký kết hợp đồng xuất khẩu của công ty cũng có những đặc điểm riêng khác, về giầy vải là một hàng cần thiết, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của con người nhưng có tính chất thời vụ, có giá trị thấp và thời gian sử dụng không cao, đa dạng về mẫu mã phong phú về chủng loại. Mặc dù vậy, trong công tác ký kết hợp đồng, công ty luôn tôn trọng và tuân thủ theo đúng các nguyên tắc cơ bản khi ký kết hợp đồng kinh tế nói chung cũng như hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng. Theo yêu cầu của khách hàng và hàng hoá xuất khẩu nên công ty thường ký kết hợp đồng một cách trực tiếp thông qua các cuộc đàm phán thương lượng, để từ đó công ty có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng cũng như nhu cầu của thị trường, đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng đạt hiệu quả cao nhất, có lợi nhất cho công ty. Vì sản phẩm giày đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại mà mỗi loại lại có những quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật sản xuất, hình dáng bề ngoài khác nhau nên giá cả của mỗi loại là khác nhau. Do vậy, nên gặp gỡ trực tiếp để xác định chính xác về giá cả và phẩm chất hàng tránh các tranh chấp phát sinh xảy ra sau này. Nói như vậy không có nghĩa là các hợp đồng xuất khẩu của công ty đều được ký kết dưới hình thức trực tiếp, mà trong một số trường hợp, hợp đồng xuất khẩu của công ty được ký kết một cách gián tiếp thông qua các tài liệu giao dịch bằng con đường thư từ, điện tín hay Fax. Mặc dù ký kết dưới hình thức nào thì hợp đồng cũng đều dựa trên hợp đồng mẫu cơ bản do công ty quy định. Các giao dịch công tác xuất nhập khẩu nói chung cũng như trong công tác ký kết hợp đồng xuất khẩu nói riêng đều do các cán bộ phòng XNK trực tiếp tiến hành và báo cáo lại cho giám đốc công ty để giám đốc nắm bắt được tình hình và lên kế hoạch ký kết hợp đồng. - Hình thức ký kết hợp đồng một cách trực tiếp thông qua các cuộc đàm phán, thương lượng thường được thực hiện đối với những khách hàng: + Lần đầu làm ăn với công ty, do đó công ty cần chủ động giới thiệu với khách về công ty mình. Mời họ đến thăm công ty, thăm các cơ sở sản xuất của công ty, xem mẫu hàng để họ hiểu rõ về công ty và đi đến quyết định làm ăn với công ty. Khi khách có quyết định đặt hàng, cán bộ phòng xuất nhập khẩu phải chủ động tiếp cận khách nắm bắt được những thông tin, những yêu cầu của khách về đơn hàng và ghi nhận lại toàn bộ những yêu cầu đó. Lúc này công việc của các cán bộ phòng xuất nhập khẩu là nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đơn hàng, đến đặt mẫu sản xuất, nhu cầu về chủng loại sản phẩm dự định đặt hàng, dự kiến về giá cả... báo cáo giám đốc và xin ý kiến trả lời. Nếu giám đốc chấp nhận đơn hàng của khách thì nên kế hoạch của hai bên gặp gỡ, ký kết hợp đồng. + Đã nhiều lần làm ăn với công ty và công ty đã tạo được uy tín, lòng tin đối với khách. Họ chủ động đặt hàng với số lượng lớn: mẫu mã của họ với trị giá của hợp đồng là lớn. Như vậy, cũng bắt buộc các bên phải gặp gỡ trực tiếp để xem mẫu hàng, nghiên cứu thiết kế mẫu. Trong một số trường hợp còn phải mời chuyên gia của họ sang để nghiên cứu thiết kế mẫu để đảm bảo được đúng tiêu chuẩn chất lượng của mẫu hàng. Nhưng yêu cầu quan trọng nhất trong trường hợp này là mẫu hàng đó phải phù hợp với năng lực sản xuất của công ty, phù hợp với dây truyền công nghệ của công ty. Tránh trường hợp cố chấp nhận đơn đặt hàng, rồi sau không thực hiện được, làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty, mất thời gian của khách. - Hình thức ký kết hợp đồng một cách gián tiếp thông qua tài liệu giao dịch (như thư từ, điện tín, Fax.v.v...) thường được thực hiện với những khách hàng đã làm ăn nhiều năm với công ty. Nhưng do nhu cầu của thị trường và thị hiếu luôn thay đổi của khách hàng bên họ, cũng như do tính chất thời vụ của sản phẩm nên họ chỉ đặt hàng với số lượng ít, giá trị của hợp đồng thấp, nhưng thường xuyên hơn. Trong quá trình giao dịch bằng Fax, điện thoại... Phòng xuất nhập khẩu có trách nhiệm dịch các nội dung văn bản bằng Fax đến báo cáo giám đốc và xin ý kiến trả lời. Toàn bộ văn bản Fax đến, Fax đi đều được giữ cẩn thận, là căn cứ cho việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng cụ thể sau này. 2. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Sau khi hợp đồng được ký kết , cán bộ phòng xuất nhập khẩu bắt đầu tổ chức triển khai việc thực hiện hợp đồng theo đúng như thoả thuận đã ký trong hợp đồng. Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty cũng được tiến hành theo đúng các nguyên tắc vì chấp hành hợp đồng theo pháp luật quy định. Trên thực tế cũng như các công ty trong nước khác có hoạt động về xuất nhập khẩu, công ty thường lựa chọn phưong thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C không huỷ ngang và có xác nhận), vì lựa chọn phương thức này có độ an toàn cao ít gặp rủi ro trong các vấn đề thanh toán. Về điều kiện giao hàng công ty lựa chọn điều kiện cơ sở FOB Hải Phòng theo Incoterms 1990. Như vậy theo điều kiện này mọi rủi ro trong việc hư hỏng hay mất mát hàng hoá sẽ được chuyển từ phía công ty sang bên mua kể từ khi hàng qua lan can tại cảng bốc Hải Phòng. Điều đó có nghĩa là công ty sẽ hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi hàng qua lan can tàu tại cảng bốc Hải Phòng. Cũng theo điều kiện này thì bên mua sẽ phải ký hợp đồng vận tải để chuyên chở hàng hoá từ cảng bốc quy định và chịu mọi phí tổn về việc đó. Nếu hàng hoá cần mua bảo hiểm thì bên mua cũng là người chịu trách nhiệm ký hợp đồng bảo hiểm và chịu chi phí nếu trong hợp đồng xuất khẩu không có quy định khác. Ngoài ra để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng đúng tiến độ đem lại hiệu quả cao nhất ban lãnh đạo công ty có ban hành quy chế về công tác xuất nhập khẩu. Trong đó có quy định rõ các bước, trình tự công việc mà cán bộ phòng xuất nhập khẩu phải tiến hành và trực tiếp báo cáo lại với cán bộ lãnh đạo công ty để khi có vướng mắc kịp thời giải quyết. Các bước trình tự công việc được tiến hành như sau: - Trước khi khách mở L/C, phòng xuất nhập khẩu có trách nhiệm cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết như ngân hàng thông báo tại nơi bán, số tài khoản, tên người hưởng thụ, để khách mở L/C tại ngân hàng bên mua theo đúng tinh thần hai bên đã thống nhất. Thời gian tiến hành các bước công việc này khoảng 7 đến 10 ngày. Trong thời gian này bộ phận xuất nhập khẩu có trách nhiệm thông báo lại cho các bộ phận có liên quan để chuẩn bị vật tư, nguyên phụ liệu phục vụ cho hợp đồng chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng mua bán sau này. - Sau khi chính thức nhận được L/C của khách hàng, bộ phận xuất nhập khẩu báo cáo giám đốc lên kế hoạch soạn thảo lại đơn hàng chuyển cho các bộ phận có liên quan lập kế hoạch sản xuất phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng. - Trong quá trình phục vụ sản xuất, bộ phận xuất nhập khẩu có nhiệm vụ bám sát tại các phân xưởng theo dõi tiến độ sản xuất hàng ngày. Chuẩn bị hoàn tất các thủ tục xuất khẩu các lô hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng. - Đăng ký hợp đồng tại Bộ Thương mại (đối với những hợp đồng cần phải đăng ký). - Đăng ký làm tờ khai hải quan (ít nhất 3 ngày trước khi xuất hàng). Tờ khai này chỉ có giá trị 15 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai. - Liên lạc với hãng tàu đã được chỉ định trong L/C (nếu là bán hàng theo điều kiện FOB) hoặc chỉ định tàu (nếu bán hàng theo điều kiện CIF) để có lịch tàu, căn cứ vào khả năng sản xuất để chọn chuyến tàu thích hợp. - Liên hệ với đơn vị vận tải tuỳ theo số lượng hàng xuất trong đợt. Cùng khâu chuẩn bị xuất hàng theo List đã thống nhất. - Mỗi cán bộ hải quan đến kiểm tra hàng sau khi đã điều container về kho bãi. - Chuyển hồ sơ hải quan xuống Hải Phòng sau khi container đã được kẹp chì. - Chuyển L/C, PACKING LIST (bản kê chi tiết) cho hãng tàu làm vận đơn (B/L), kiểm tra B/L và thông báo bằng FAX cho khách hàng yêu cầu xác nhận trước khi làm B/L chính. - Liên hệ với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam xin giấy chứng nhận xuất xứ (C/O: Certificate of Origin) của lô hàng vừa xuất. - Sau khi có xác nhận của khách hàng, cần chuẩn bị một bộ hồ sơ xuất hàng gốc hoặc copy (theo L/C quy định) để gửi thẳng cho khách hàng. - Hoàn tất bộ chứng từ thanh toán (theo L/C quy định) gửi trình ngân hàng thông báo và yêu cầu ngân hàng thông báo đòi tiền ngân hàng mở. Các bước công việc hoàn tất bộ hồ sơ sau khi hàng đi mất khoảng 2-3 ngày. Nếu bộ chứng từ hợp lệ phụ thuộc vào loại hình L/C công ty có thể nhận được tiền thanh toán từ 10-15 ngày sau khi bộ hồ sơ đã được ngân hàng thông báo gửi đi hoặc từ 25-30 ngày (đối với L/C Back to Back) - Kiểm tra tiền hàng và thông báo lại cho khách hàng. - Sau khi xuất hàng hết hợp đồng, bộ phận xuất nhập khẩu có trách nhiệm phải thanh toán hợp đồng tại hải quan để kết thúc việc thanh toán thực hiện hợp đồng. 3. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng xuất khẩu Hợp đồng xuất khẩu giày của công ty là một trong những hợp đồng xuất khẩu đơn giản nhất, bao gồm ít điều khoản, các điều khoản đều rất ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu. Do đó trong hợp đồng mẫu về xuất khẩu giày của công ty thường không có điều khoản quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, khi có các vi phạm xảy ra thì các bên đều phải có nghĩa vụ cùng hợp tác để giải quyết. Trên thực tế, trong ngành giày dép các vi phạm trong hợp đồng xuất khảu chủ yếu tập trung ở 3 loại: vi phạm về chất lượng, vi phạm về số lượng và vi phạm về thời gian giao hàng. Các vi phạm về chất lượng thường gặp là: tuột đường may, sai kích cỡ, độ bền màu, lỗi sợi... khi có khiếu nại, trước tiên công ty yêu cầu khách hàng cung cấp chi tiết về lô hàng khiếu nại như: hàng đó được giao đợt nào, trên tàu nào, ký mã hiệu, số bản kê chi tiết và tỷ lệ sai hỏng là bao nhiêu. Những sai hỏng này có thể do sản xuất, do vận chuyển hoặc do nhầm lẫn từ phía khách hàng. Vì vậy khi nhận được thông báo chi tiết của khách hàng, phòng xuất nhập khẩu đánh giá sơ bộ nguyên nhân để xem trách nhiệm thuộc về ai từ đó thoả thuận cách thức giải quyết. Nếu chất lượng hàng bị ảnh hưởng do nước biển ngấm, tràn... khi vận chuyển thì người chịu trách nhiệm là công ty vận tải, dựa vào các điều khoản trong hợp đồng vận tải và hợp đồng bảo hiểm để yêu cầu họ bồi thường. Nếu lỗi do công ty, thì công ty phải chịu trách nhiệm, tuỳ từng trường hợp và mức độ vi phạm, trách nhiêm đối với những vi phạm này được thể hiện qua 4 chế tài: buộc thực hiện, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và huỷ hợp đồng. Trong các vi phạm về chất lượng, chế tại buộc thực hiện và bồi thường thiệt hại được áp dụng là chính. Nếu lô hàng lớn, tỷ lệ sai hỏng cao thì khách hàng có thể yêu cầu công ty giao bù hàng thay thế. Nếu tỷ lệ sai hỏng không cao thì tuỳ theo mức thiệt hại thực tế mà công ty có trách nhiệm phải bồi thường nếu như không có thoả thuận khác giữa công ty và khách hàng. Ngoài ra, có trường hợp do mẫu xác nhận của người đặt hàng. Ngoài ra có trường hợp do mẫu xác nhận của người đặt hàng. Công ty đã sản xuất theo mẫu nhưng hàng vẫn không sử dụng được. Trong trường hợp này, công ty phải chứng minh cho khách hàng thấy rõ là lỗi của họ. Khiếu nại về số lượng thường do giao thiếu hoặc mất mát, có thể thiếu nguyên kiện hoặc thiếu lẻ. Nếu do công ty đóng gói thiếu thì công ty phải có trách nhiệm giao bù. Nếu mất mát do vận chuyển thì tùy từng trường hợp cụ thể, phòng xuất nhập khẩu có cách giải quyết cho phù hợp. Giao hàng chậm cũng là vi phạm thường gặp khi thực hiện hợp đồng. Nếu gần đến ngày giao hàng mà hàng vẫn chưa được chuẩn bị xong, công ty phải có trách nhiệm thông báo cho khách hàng và xin gia hạn. Nếu hết thời gian gia hạn mà vẫn không thể giao hàng thì khách hàng có thể gia hạn thêm hoặc yêu cầu huỷ hợp đồng. Vì trong một số trường hợp, do hàng có tính chất thời vụ nên thời hạn giao hàng có ý nghĩa quyết định đến giá trị của hàng hoá, khách hàng không thể gia hạn thêm được nữa. Chế tài áp dụng trong trường hợp giao hàng là buộc thực hiện, phạt giao chậm và huỷ hợp đồng. Như vậy, việc giải quyết các vi phạm hợp đồng ở công ty đã rất linh hoạt, hoàn toàn không cứng nhắc, dù trong hợp đồng đã qui định hay chưa thì thái độ khéo léo, mềm mỏng và năng động của người làm công tác hợp đồng ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả trong đàm phán và thương lượng và giải quyết khiếu nại giúp cho công ty luôn giữ được mối quan hệ tốt với khách hàng và hạn chế được một phần thiệt hại không đáng có. Mặc dù vậy, trên thực tế về phía công ty không có trường hợp vi phạm hợp đồng nào dẫn đến phải huỷ hợp đồng, làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty. 4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng xuất khẩu Về nguyên tắc, các tranh chấp mà các bên không thống nhất được cách giải quyết thì có thể đưa các tranh chấp này ra trọng tài hoặc toà án để giải quyết, trọng tài hoặc toà án này phải đựơc qui định trong hợp đồng. Nếu hợp đồng chưa qui định thì khi phát sinh tranh chấp không giải quyết được, trước hết các bên phải thoả thuận lựa chọn trọng tài hoặc toà án để giải quyết. Tuy nhiên trên thực tế do giá trị của hợp đồng và giá trị tài sản tranh chấp không lớn lắm, việc hiện tượng lại gây tổn hại về uy tín, tốn kém về tiền của nên các tranh chấp trong buôn bán với khách hàng tại công ty thường do hai bên thương lượng tự giải quyết. Vì vậy, trong hợp đồng của công ty có điều khoản chung qui định:"Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có tranh chấp xảy ra tước tiên các tranh chấp đó phải được giải quyết bằng thương lượng giưã các bên. Trong trường hợp không thể giải quyết bằng thương lượng, các tranh chấp này sẽ được đưa ra trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) để giải quyết. Kết luận của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là cơ sở pháp lý buộc các bên phải thi hành". Chương III Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty Cao su Hà Nội (HARCO) I. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty Cao su Hà nội 1. Những thuận lợi Bước vào thời kỳ đổi mới, với chính sách mở cửa nền kinh tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng phát triển.Thời kỳ này Đảng và nhà nước với chủ trương coi thương mại quốc tế là công cụ quan trọng trong quá trình thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiều chính sách, biện pháp quản lý, đã và đang góp phần hoàn thiện dần hệ thống quản lý và kinh doanh xuất nhập khẩu. Điểm khác biệt lớn nhất so với thời kỳ kế hoạch hoá tập trung là các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, không phân biệt thành phần kinh tế, miễn là có đủ điều kiện do pháp luật quy định, hơn nữa, cá doanh nghiệp đều được xuất khẩu những mặt hàng mình sản xuất ra (nếu không thuộc danh mục hàng do nhà nước cấm xuất nhập khẩu). Do đó, các doanh nghiệp có toàn quyền chủ động tìm hiểu khách hàng, chủ động ký kết hợp đồng với khách hàng ở nhiều nước không phân biệt chế độ kinh tế và chính trị của các nước đó. Mặt khác, để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả XNK, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước cũng đã kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động thương mại làm cơ sở cho công tác ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nếu như nghị định 64 HĐBT ngày 10.6.1989 với nội dung chủ yếu là tập trung vào việc xử lý giao hàng theo hiệp định với khối SEU và giải quyết thanh toán cho người sản xuất thì đến nghị định 114-HĐBT ngày 7.2.1992 và đặc biệt là nghị định 33-CP ngày 19.4.1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt đồng xuất nhập khẩu đã quy định một cách cụ thể hơn nội dung cần thiết, sát thực tế hơn. Trong đó quy định rõ ba vấn đề chủ yếu trong công tác xuất nhập khẩu là: ai được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, quy định về hàng hoá xuất nhập khẩu, và thẩm quyền xét cấp hạn ngạch. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người xuất khẩu, cải cách một bước thủ tục hành chính, chính phủ đã ban hành nghị định 89-CP ngày 15-12. 1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá từng chuyến. Ngoài ra, hàng năm thủ tướng chính phủ đều ra quyết định về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu, các quyết định này có hướng chỉ đạo cho công tác xuất nhập khẩu của từng năm. Ngoài những thuận lợi từ phía nhà nước, bản thân công ty cũng có những thuận lợi riêng. Như đã quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ, hàng năm thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân viên, mời chuyên gia sang hướng dẫn việc thiết kế mẫu, có những cố gắng lớn về vốn, cũng như tăng cường đổi mới trang thiết bị, cơ sở vật chất. 2. Những khó khăn Chính sách mở cửa và hội nhập, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của công ty, mặt khác cũng gây ra những thử thách buộc công ty phải vượt qua. Nó đòi hỏi sự cạnh tranh cao cả ở khâu sản xuất cũng như khâu lưu thông. Như vậy, người sản xuất luôn phải đổi mới mẫu mã, làm ra sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với thị hiếu ngày càng cao của khách hàng. Muốn vậy, thì phải luôn đổi mới trang thiết bị đối với công nghệ sản xuất để làm được điều đó thì phải cần có vốn. Ngoài ra tổ chức tiêu thụ phải có chiến lược thu hút khách hàng, linh hoạt trong ký kết hợp đồng để vừa giữ được mối quan hệ với khách hàng cũ vừa cạnh tranh thu hút khách hàng mới. Một khó khăn nữa, đối với những nhà sản xuất trong nước là việc thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể trong công tác xuất nhập khẩu. Mặc dù trong những năm gần đây, nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để định hướng chỉ đạo công tác hoạt động xuất nhập khẩu nhưng đây là một vấn đề luôn đòi hỏi phải đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, dẫn đến các văn bản pháp luật chưa cập nhật được với tình hình thực tế. Trong khi đó số lượng các điều ước quốc tế đa phương quan trọng trong lĩnh vực ngoại thương mà nhà nước ta tham gia phê chuẩn và ký kết chưa nhiều. Đây cũng chính là những khó khăn lớn ảnh hưởng đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và công ty nói riêng. Trên thực tế trong năm 1998 là năm công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận các đơn hàng sản xuất xuất khẩu. Do ảnh hưởng khó khăn chung của ngành giày trong nước và khủng hoảng tài chính trong khu vực. Một số khách hàng của công ty vẫn còn tồn giày của năm trước không bán được, mặt khác thị trường có nhiều thay đổi, xu hướng chung cần nhiều loại giày vải có chất lượng cao lại giầy thể thao hoặc giày da, các mẫu cũ của công ty như CVO, Supega... không còn được đặt mua nhiều như những năm trước. Các đơn hàng giày vải giảm từ 50-60% trong khi đó đối với một số mẫu mã mới như giày dép da, giày vải cao cấp... công ty chưa làm quen, điều kiện đầu tư chưa có nên mẫu mã không đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng về chất lượng. Mặt khác, công ty chưa nhanh nhạy với giá cả thị trường, chưa có giá cạnh tranh trong điều kiện giá thị trường xu hướng giảm từ 10-20% , chưa có sự kết hợp chặt chẽ với phòng mẫu để tạo được mẫu chào hàng, theo các yêu cầu về thời gian, chất lượng, khâu Marketing còn yếu chưa có người chuyên trách đón nhận về lĩnh vực này. Công ty cũng chưa có bộ phận pháp chế để hỗ trợ hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Toàn bộ các hợp đồng đều do phòng xuất nhập khẩu của công ty soạn thảo và chịu trách nhiệm về mặt pháp lý, họ phải tự thương lượng, giải quyết các khiếu nại. tranh chấp phát sinh xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong khi hầu hết cán bộ trong phòng là những người được đào tạo về kinh tế thuần tuý, chưa có hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Tóm lại, trong công tác ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, cán bộ lãnh đạo công ty cũng như cán bộ phòng xuất nhập khẩu đã cố gắng hết mình trong công tác nghiên cứu thị trường tìm kiếm khách hàng để ký những hợp đồng lớn có giá trị, có lợi nhất cho công ty và khi đã ký được thì nỗ lực thực hiện tốt. Do vậy trong những năm qua không có hợp đồng nào để ký vào những thực hiện được hay bị huỷ bỏ. Chính điều đó đã giúp công ty vượt qua khó khăn, đảm bảo được công ăn việc làm, đảm bảo được đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty. 1.Kiến nghị đối với nhà nước: 1.1. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về ký kết hợp đồng XNK Trong ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Những cơ sở pháp lý nhà nước ban hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu diễn ra nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí .Để đảm bảo việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu diễn ra một cách thuận lợi, đúng pháp luật nhà nước cần tiến hành thực hiện các vấn đề sau: Một là, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cho pháp luật thực sự là công cụ đắc lực hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh cả trong và ngoài nước. Từ đó tạo môi trường kinh doanh an toàn cho các doanh nghiệp tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, cụ thể là việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu trước mắt cần sửa đổi bổ sung và hoàn thiện các văn bản luật, bên cạnh đó cần có những văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp hiểu rõ và thuận tiện cho việc áp dụng. Ví như luật thương mại Việt Nam mặc dù đã có hiệu lực từ ngày 1.1.1998 nhưng cho đến nay chỉ có duy nhất một văn bản quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Đó là nghị định 57NĐ-CP của chính phủ ngày 31.7.1998 trong khi luật thương mại đề cập đến 14 loại hành vi thương mại. Hơn nữa nhà nước cần thu thập những thông tin phản hồi từ các doanh nghiệp ra trên thị trường để xem xét và rút ra những bất cập đã có những điều chỉnh bổ sung cho phù hợp tạo môi trường pháp lý thực tế và chặt chẽ hơn trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Hai là, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải nghiên cứu xem xét pháp luật quốc tế về ngoại thương, về tình hình thực tế trong và ngoài nước để tham gia ký kết, phê chuẩn hàng công nhận các điều ước quốc tế, ký kết các nghị định thư song phương và đa phương để hỗ trợ hoạt động thương mại quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu. Từ đó tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi ký kết hợp đồng thì có thể lấy đó làm nguồn lực đương nhiên, dẫn chiếu vào hợp đồng mà không cần phải mất thời gian cho những thoả thuận về các điều khoản cuả hợp đồng (đặc biệt là điều khoản về chọn luật áp dụng). Nhà nước cần sớm gia nhập công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế vì đây là công ước quan trọng được nhiều nước tham gia ký kết và phê chuẩn. Nó là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh trong khi thực hiện hợp đồng. Ba là, nhà nước cần thi hành ngay việc đăng ký và công bố công khai danh bạ thương mại Việt Nam để tạo cơ sở thông tin cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tìm kiếm và đặt quan hệ hợp tác với nhau. Từ đó đi đến ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu. 1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Thứ nhất, nhà nước cần cải cách triệt để các thủ tục hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, ngày nay với cơ chế mới doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Vì thế nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp thông qua việc tổ chức tốt các chế độ quản lý, đặc biệt là bộ máy hành chính nhà nước. Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhà nước cần. - Nâng cao công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ công chức viên chức nhà nước trong lĩnh vực hành chính về mọi mặt như kiến thức pháp luật, quản lý hành chính, nâng cao đạo đức về tinh thần trách nhiệm, chống quan liêu. - Phân định rõ chức năng thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tránh hiện tượng chức năng nhiệm vụ chồng chéo quyền hạn không được phân công rõ ràng. - Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cần cải cách triệt để các thủ tục hành chính như xin giấy phép xuất nhập khẩu (đối với hàng hoá cần có giấy phép) thủ tục hải quan, thuế quan... tiến tới chế độ một cửa, đơn giản hơn về mặt thủ tục nhưng vẫn hiệu quả, tạo sự thông thoáng, đảm bảo thời gian và giảm chi phí trong thực hiện hợp đồng cho các doanh nghiệp. Thứ ba, nhà nước cần hạn chế ban hành và đi đến loại bỏ các văn bản dưới luật không cần thiết để tránh việc chồng chéo mâu thuẫn nhau làm cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không biết phải thực hiện theo văn bản nào. Việc ban hành danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu tạm thời cần được thông báo và giải thích lý do một cách thoả đáng. Từ đó sẽ tạo tâm lý an tâm cho các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng đã ký kết. Thứ ba, nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp dưới hình thức, cho vay vốn lãi suất thấp. Vì hiện nay các doanh nghiệp đều ở trong tình trạng thiếu vốn, không có vốn để cải tiến sản xuất đổi mới công nghệ dẫn đến không sản xuất được những sản phẩm có chất lượng có khả năng cạnh tranh nên cũng không thể thực hiện được những hợp đồng có giá trị lớn. Thứ tư, nhà nước cần quy định mức thuế xuất nhập khẩu một cách hợp lý để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất và xuất khẩu. Với những mặt hàng tận dụng được nguyên liệu sẵn có trong nước, tạo thêm được công ăn việc làm cho người lao động, nhà nước khuyến khích sản xuất xuất xuất khẩu thì cần được ưu đãi không thu thuế xuất khẩu đối với mặt hàng đó. 2. Kiến nghị đối với công ty 2.1. Trong công tác ký kết hợp đồng - Công ty cần coi trọng công tác nghiên cứu, đánh giá khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mới. Từ đó có thể biết được mục đích thực sự của họ trong giao dịch, tránh được các phí tổn không cần thiết mà vẫn giữ được uy tín và quan hệ tốt đẹp. Mặt khác, nếu tìm hiểu kỹ và khách hàng, công ty có thể dành được một số ưu thế trong việc thoả thuận các điều khoản và ký kết hợp đồng. - Công ty cần chuẩn bị tốt cho quá trình đàm phán, trước khi đàm phán ký kết, cần phải có sự phối hợp giữa các phòng ban để đưa ra ý kiến chung thống nhất. Phòng xuất nhập khẩu cần phối hợp với phòng thiết kế mẫu để tính chính xác giá thành, trên cơ sở đó trong quá trình đàm phán có thể quyết định ở mức giá nào có thể chấp nhận được để hai bên cùng có lợi và đi đến ký kết hợp đồng. - Để sản phẩm của công ty được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, có uytín với khách hàng, thu hút được những hợp đồng có giá trị thì công ty cũng cầnphải quan tâm đến chất lượng về mẫumã sản phẩm. Muốn vậy thì công ty phải đổi mới công nghệ, nâng cao tay nghề cho công nhân kỹ thuật. Ngoài ra công ty phải thành lập phòng marketing, có chiến lược marketing phù hợp làm cho người tiêu dùng và khách hàng nước ngoài có sự tin tưởng vào chất lượng sản phẩm của công ty. Mở rộng thêm mạng lưới đại lý về giới thiệu sản phẩm, để sản phẩm của công ty được phân phối rộng rãi trên thị trường. Xoá bỏ tình trạng như hiện nay phòng xuất nhập khẩu phải đảm nhận quá nhiều chức năng, vừa làm công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường cả trong và ngoài nước vừa phải tham gia và lên kế hoạch thiết kế các mẫu mà mới cùng phòng thiết kế mẫu mã mới làm công tác ký kết và thực hiện hợp đồng. - Công ty cần nghiên cứu thành lập bộ phận pháp chế để tư vấn các vấn đề pháp luật có liên quan trong quá trình tìm hiểu, ký kết và thực hiện hợp đồng, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu đòi hỏi phải tuân thủ không những về mặt nghiệp vụ mà cả về những quy định của phápluật. Vì vậy khi soạn thảo hợp đồng phải cân nhắc kỹ và có phương án dự liệu đề phòng những tình huống bất lợi có thể xảy ra, hạn chế tối đa những từ ngữ lời văn có tính chất mập mời, đa nghĩa. Những vấn đề trên có liên quan đến tính pháp lý của công việc sẽ được giải quyết một cách hiệu qủa nếu như cán bộ có đủ kiến thức về nghiệp vụ và pháp luật do bộ phận pháp chế cung cấp. Các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách của nhà nước thường thay đổi do yêu cầu thực tế trong nước và quốc tế do đó có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của công ty. Bộ phận pháp chế sẽ thu thập nắm bắt những thông tin đó, xử lý và có những kiến nghị phù hợp cho công ty trong việc thực hiện pháp luật và chính sách của nhà nước. - Công ty cần có chế độ khuyến khích các cán bộ phòng xuất nhập khẩu hoàn thành tốt nhiệm vụ, tìm kiếm được các đơn hàng có giá trị bằng các hình thức khen thưởng hợp lý, trích phần trăm cho cán bộ nào tìm được khách hàng mới cho công ty. 2.2. Trong công tác thực hiện hợp đồng - Để thực hiện tốt hợp đồng công ty cần phải chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ tốt. Việc chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ xuất nhập khẩu phải đảm bảo đầy đủ các thủ tục, chính xác và kịp thời. Muốn vậy thì công ty cần yêu cầu khách hàng cung cấp sớm, kịp thời các chứng từ cần thiết, tiến hành theo dõi từng chuyến hàng, xử lý chính xác các thông tin như ngày giao hàng, cảng đến, số hiệu tàu, điều kiện thanh toán... ghi chép rõ ràng tình hình thực hiện hợp đồng tránh làm việc chồng chéo. - Công ty cần tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh chặt chẽ, phối hợp tích cực giữa các phòng ban để đảm bảo về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng... Giữa các phòng ban phải thường xuyên trao đổi thông tin để cùng nhau giải quyết, khắc phục những phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời phải thường xuyên báo cáo chính xác tình hình thực hiện hợp đồng cho ban giám đốc để có những chỉ đạo thống nhất và những giải pháp tối ưu nhất. - Đặc biệt trong thanh toán đối với hợp đồng xuất khẩu để thực hiện được nhanh chóng, công ty cần phải: + Xử lý các thông tin trên L/C phải chính xác như về số lượng, chất lượng, giá cả, kỹ mã hiệu, thời hạn có hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng, điều kiện giao hàng... để cung cấp cho hãng vận tải lập chứng từ vận tải phục vụ cho thanh toán. + Thường xuyên liên lạc yêu cầu khách hàng trả tiền, liên lạc với ngân hàng về tiến độ thanh toán. Phần kết luận Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như các báo cáo của Chính phủ tại các phiên họp của Quốc hội đều nhấn mạnh phương châm đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường tham gia thị trường hàng hoá quốc tế, khai thác các lợi thế của đất nước về tài nguyên, lao động, vị trí địa lý... Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã đặt vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu được xác định là mặt hoạt động quan trọng, là đòn bày đối với sự phát triển của nước ta hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Xuất phát từ yêu cầu đó, chuyên đề đã cố gắng đi sâu nghiên cứu, những vấn đề cơ bản trong pháp luật quốc tế và quốc gia về hợp đồng xuất nhập khẩu, phân tích và khẳng định vai trò, vị trí của hợp đồng xuất nhập khẩu đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. Từ cơ sở pháp lý về hợp đồng xuất khẩu, chuyên đề đã phân tích chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy tại công ty cao su Hà Nội nhìn từ góc độ pháp lý. Đánh giá các mặt thuận lợi và khó khăn còn tồn tại trong ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu, để từ đó đưa ra những giải pháp mới cho chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu nước ta nói chung và hợp đồng xuất khẩu giày tại công ty cao su Hà Nội nói riêng. Từ những phân tích ở các phần chuyên của chuyên đề có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau: - Để đảm bảo tuân thủ pháp luật trong kinh doanh nói chung cũng như trong công tác xuất nhập khẩu nói riêng, về mặt chủ quan trước hết công ty cũng như các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phải am hiểu pháp luật, có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của pháp luật trong nước điều chỉnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để từ đó thực hiện một cách có ý thức, thích ứng và có hiệu quả trong quan hệ với đối tác. Nhằm xác định một trật tự pháp luật trong quan hệ thương mại, đảm bảo được quyền lợi của đơn vị mình. - Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hơn bao giờ hết mọi doanh nghiệp , cơ sở sản xuất kinh doanh khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu cần coi đây là khâu quan trọng nhất, vì có ký kết hợp đồng chặt chẽ thì mới có cơ sở để thực hiện tốt hợp đồng. Tránh tình trạng ký bừa, ký ẩu, vi phạm hợp đồng dẫn đến vừa phải chịu hậu quả pháp lý, vừa mất lòng tin với khách hàng. - Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên cần phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc thực hiện đúng theo hợp đồng, vì nó không chỉ là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên mà còn quan hệ tới uy tín đối ngoại của quốc gia. - Để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu về mặt khách quan nhà nước cần ban hành kịp thời các văn bản pháp quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó cần nghiên cứu và sớm tham gia, phê chuẩn các điều ước quốc tế đa phương quan trọng trong lĩnh vực ngoại thương, để có thể hoà nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Những năm qua trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty dù có nhiều khó khăn còn tồn tại, song mặt thực tế mà chúng ta nhận thấy là nhiều hợp đồng xuất khẩu giày của công ty được ký kết và thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng quy định của pháp luật nên đã bảo vệ được quyền lợi của mình trong tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng và quyền lợi, uy tín của quốc gia trong quan hệ quốc tế nói chung. Tài liệu tham khảo I/ Các văn bản quy phạm pháp luật: 1. Luật dân sự Việt Nam (28.10.1995) 2. Luật Thương mại Việt Nam (10.5.1997) 3. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (26.12.1991) 4. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (25.9.1989) 5. Nghị định số 64/HĐBT ngày 10.6.1989 của Hội đồng Bộ trưởng về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. 6. Nghị định số 114/HĐBT ngày 7.4.1992 của Hội đồng Bộ trưởng về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. 7. Nghị định số 33-CP ngày 19.4.1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. 8. Nghị định só 54-CP ngày 28.8.1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 9. Nghị định số 89-CP ngày 15.12.1995 của Chính phủ về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu hàng hoá từng chuyến. 10. Nghị định số 57-CP ngày 31.7.1998 quy định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. 11. Quyết định số 28-TTg ngày 13.1.1997 của Thủ tướng Chính phủ về điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1997. 12. Quyết định số 11-TTg ngày 23.1.1998 của Thủ tướng Chính phủ về điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1998. 13. Quyết định số 254-TTg ngày 30.12.1998 của Thủ tướng Chính phủ về điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1999. 14. Quy định số 299/TMDL-XNKngày 9.4.1992 về hợp đồng mua bán ngoại thương. 15. Thông tư số 18/TT-BTM ngày 28.8.1998 của Bộ thương mại hướng dẫn thực hiện nghị định số 57-CP ngày 31.7.1998 của Chính phủ. II/ Điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế: 1. Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (Công ước Viên 1980) 2. Incoterms 1990 III/ Tài liệu khác: 1. Giáo trình luật thương mại quốc tế - Bộ môn luật kinh tế trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 2. Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương - PTS. Đinh Xuân Trình. NXB Giáo dục, 1996. 3. Tìm hiểu pháp luật trong thương mại quốc tế - PTS. Lê Quang Liên. NXB Thống kê. 4. Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng - Lê Xuân Thọ. NXB Thống kê 1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0054.doc
Tài liệu liên quan