LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 3
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1. Tính tất yếu của vấn đề bảo đảm tiền vay của NHTM 3
2. Hợp đồng tín dụng ngân hàng 8
II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 12
1. Bảo đảm tiền vay 12
2. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo hình thức cầm cố 15
3. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo hình thức thế chấp 21
4. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo hình thức bảo lãnh 27
5. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay 30
CHƯƠNG II 33
THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TÁC ĐẢM ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN TẠI NHNo &PTNT HUYỆN VĂN LÂM - TỈNH HƯNG YÊN 33
I. TỔNG QUAN VỀ NHN0 & PTNT HUYỆN VĂN LÂM - HƯNG YÊN 33
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Lâm - Hưng Yên 33
2. Địa vị pháp lý của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm - Hưng Yên 34
3. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm 38
II. QUY TRÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN VĂN LÂM 41
1. Khách hàng và điều kiện với khách hàng 41
2. Đối tượng vay vốn 45
3. Quy trình, các hình thức cho vay tại NHNo và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm 45
III. THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC CHO VAY CÓ BẢO ĐẢM TẠI NHNO VÀ PTNT HUYỆN VĂN LÂM - HƯNG YÊN 47
1. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức cầm cố 47
2. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức thế chấp 49
3. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh. 51
4. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay 53
CHƯƠNG III 57
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN VĂN LÂM TỈNH HƯNG YÊN 57
I.THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN 57
1. Tình hình kinh tế xã hội 57
2. Phương hướng phát triển của những năm tới 58
3. Một số vướng mắc nảy sinh trong quá trình triển khai cơ chế bảo đảm tiền vay tại NHNo và PTNT huyện Văn Lâm 59
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 63
1. Đối với hồ sơ 63
2. Về đăng ký giao dịch bảo đảm 64
3. Đối với thế chấp bất động sản và thế chấp quyền sử dụng đất 66
4. Về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất 69
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của từng loại hồ sơ, báo cáo trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng. Nếu không đủ điều kiện cho vay thì trả hồ sơ cho khác hàng. Nếu đủ điều kiện cho vay thì viết phiếu hẹn khách hàng, chậm nhất là 10 ngày đối với cho vay ngắn hạn và 45 ngày đối với cho vay trung hạn và dài hạn phải giải quyết.
(-) Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ đi thẩm quyền. Cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm quyền các điều kiện vay vốn và lập báo cáo thẩm định trình trưởng phòng. Cán bộ tín dụng phải ghi rõ ý kiến của mình có đồng ý hay không đồng ý, và phải chịu trách nhiệm trước cấp trên, trước pháp luật về ý kiến đó. Trường hợp không phải thẩm định tại đơn vị vay vốn thì tính toán và thẩm định tại Ngân hàng và giải quyết ngay trong ngày.
(-) Trưởng phòng tín dụng giám đốc phê duyệt và thông báo cho khách hàng.
(-) Khi có quyết định cho vay, hồ sơ tín dụng được chuyển cho cán bộ tín dụng để cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm tiền vay. Sau đó chuyển hồ sơ cho kế toán để tiến hành giải ngân. Cán bộ tín dụng vào sổ theo dõi cho vay thu nợ.
(-) Sau khi giải ngân bán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay.
(-) Căn cứ vào kết quả kiểm tra, tuỳ thuộc theo mức độ vi phạm của khách hàng có thể xử lý tạm ngừng cho vay, chuyển thành nợ quá hạn, chấm dứt cho vay, khởi kiện trước pháp luật.
(-) Thông báo cho khách hàng biết số tiền, ngày đến hạn trả nợ trước khi đến hạn trả nợ 10 ngày.
III. THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC CHO VAY CÓ BẢO ĐẢM TẠI NHNO VÀ PTNT HUYỆN VĂN LÂM - HƯNG YÊN
1. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức cầm cố
1.1. Tổng quan về cho vay có bảo đảm bằng hình thức cầm cố tại NHNo Và PTNT Huyện Văn Lâm
Hiện nay, dư nợ đối với cho vay có bảo đảm theo phương thức cầm cố chỉ chiếm môt tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ tại NHNo và PTNT Huyện Văn Nâm. Khách hàng đa số là cá nhân, hộ gia đình và đối tượng làm đảm bảo tiền vay chủ yếu là sổ tiết kiệm, kim khí, đá quý. Bên cầm cố giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình (bao gồm cả gốc, lãi và tiền phạt nếu có). Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu (chủ yếu là xe máy và ô tô) thì NHNo& PTNT Huyện Văn Lâm thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bán gốc giấy tờ quyền sở hữu cho bên nhận cầm cố giữ. Hợp đồng cầm cố tài sản được lập dưới hình thức văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, do mỗi bên giữ một bản.
Tại NHNo &PTNT Huyện Văn Lâm thì vốn để xử lý tài sản cầm cố chủ yếu theo phương thức thoả thuận trong hợp đồng như gán nợ cho bên nhận bảo đảm chính tài sản đó; tự đấu giá hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá. Đối với những tài sản của doanh nghiệp nhà nước mà pháp luật quy định phải được cơ quan Nhà nưóc có thẩm quyền cho phép thế chấp cầm cố, thì khi xử lý phải có ý kiến của cơ quan Nhà nước đó. Trong một số trường hợp có tranh chấp, thì ngân hàng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc khởi kiện lại toà án (năm 2002 có 2 trường hợp). Phương thức xử lý tài sản khá đơn giản, giảm bớt các chi phí trung gian. Mặt khác, việc đa dạng hoá các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là điều kiện cho phép các bên có thể tìm ra phương thức phù hợp nhất, đảm bảo được quyền lợi và lợi ích của các bên. Tuy nhiên có một số vấn đề còn tồn tại như là: Việc định giá của tài sản cầm cố tại thời điểm cho vay có thể . Cao hoặc thấp hơn thời hạn trả nợ cho nên khi phát mại có thể gây khó khăn cho việc thu hồi vốn chuyên môn của cán bộ tín dụng còn hạn chế dẫn tới dễ bị lừa …
1.2. Thực tế với một hợp đồng có bảo đảm bằng hình thức cầm cố
Ta đi xem xét tư cách pháp lý của chủ thể trong hợp đồng cầm cố này;
Hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp.
Tên công ty: Công ty TNHH Nhựa cao cấp Thịnh Vượng.
Trụ sở chính: Khu công nghiệp B Như Quỳnh - Văn Lâm - Hưng Yên.
Giấy chứng nhận đang ký kinh doanh số 018003742 do phòng đăng ký kinh doanh - sở kế hoạch và đầu tư Hưng Yên cấp ngày 15/1/1996.
Vậy qua các điều kiện trên ta thấy công ty TNHH Thịnh Vượng đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật về cầm cố trong hợp đồng tín dụng (có tư cách pháp nhân)
- Phương thức cho vay: Giao một lần với số tiền là 600 triệu đồng.
- Mục đích sử dụng tiền vay: Mua nguyên liệu (nhựa ) đầu vào
Hình thức đảm bảo tiền vay: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo phương thức cầm cố.
Về tài sản cầm cố là hai sổ tiết kiệm với tổng giá trị là 856 triệu, sổ một: 300 triệu, sổ 2: 556 triệu.
Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sau khi xem xét giấu đề nghị của công ty TNHH Nhựa cao cấp Thịnh Vượng, đã đề nghị với trưởng phòng tín dụng và giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Lâm cho vay số tiền là 600 triệu trong thời hạn 6 tháng. Hiện nay công ty TNHH Nhựa cao cấp Thịnh Vượng đã trả hết nợ.
2. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức thế chấp
2.1. Tổng quan về cho vay có bảo đảm bằng hình thức thế chấp tại NHNo&PTNT huyện Văn Lâm
Hiện nay, dư nợ đối với cho vay có bảo đảm theo phương thức thế chấp chiếm tỷ lệ tương đối trong tổng dư nợ tại NHNo&PTNT huyện Văn Lâm, khách hàng đa số là các cá nhân, hộ gia đình và đối tượng làm bảo đảm tiền vay chủ yếu là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền trên đất. Bên vay vốn (bên thế chấp) giao bản gốc giấy tờ quyền sử dụng đất (sở hữu tài sản là bất động sản) của mình cho bên nhận thế chấp (NHNo & PTNT huyện Văn Lâm) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hợp đồng thế chấp tài sản được lập dưới hình thức văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, mỗi bên giữ một bản.
Đối tượng thế chấp tại NHNoPTNT huyện Văn Lâm chủ yếu là nhà ở, tài sản gắn liền trên đất như dây chuyền sản xuất, nhà kho, cửa hàng đối tượng là quyền sử dụng đất.
Ngoài tài sản nhà ở và quyền sử dụng đất, tài sản bảo đảm là hàng hoá cũng chiếm tỷ trọng tương đối cao (từ 10% -15%). Đối tượng khách hàng sử dụng hàng hoá và phương tiện vận tải làm thế chấp chủ yếu là các doanh nghiệp, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm bổ sung vốn lưu động hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tài sản đem thế chấp tại NHNo &PTNT huyện Văn Lâm phải có đủ điều kiện sau: Phải thuộc quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng đối với đất đai) của khách hàng. Trong trường hợp pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản; tài sản không bị ràng buộc vào các khoản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng khác, Tài sản không có tranh chấp, phong toả, đang làm thủ tục giải thể hoặc phá sản; Dễ dàng mua bán, trao đổi trên thị trường. Đối với tài sản thế chấp phải mua bảo hiểm thì người thụ hưởng phải là NHNo & PTNT huyên Văn Lâm.
Vấn đề xử lý tài sản thế chấp, thì chủ yếu theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng, như gán nợ cho bên nhận bảo đảm tài sản đó; tự đấu giá hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá. Đối với những tài sản của doanh nghiệp nhà nước mà pháp luật quy định phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thế chấp, thì khi xử lý phải có ý kiến của cơ quan nhà nước đó. Trong một số trường hợp có tranh chấp thì NHNo&PTNT huyện Văn Lâm yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc khởi kiện tại toà án. Phương thức xử lý tài sản khá đơn giản, giảm bớt các chi phí trung gian. Mặt khác việc đa dạng hoá các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là điều kiện cho phép các bên có thể tìm ra phương thức phù hợp nhất, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Tuy nhiên trên thực tế là giá cả của tài sản bảo đảm luôn biến động, có thể đánh giá tại thời điểm khách hàng vay vốn thì giá ở mức cao hơn khi phát mại do vậy gây khó khăn cho việc thu hồi vốn.
2.2. Thực tế với một hợp đồng có bảo đảm bằng hình thức thế chấp.
- Xét tư cách pháp lý của bên thế chấp.
Hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp
Tên công ty: Công ty tư nhân linh châu.
Trụ sở chính: Đình Dù - Văn Lâm - Hưng Yên
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0197000165 do phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hưng Yên cấp ngày 06/07/1997.
Người đại diện: Ông Ngô Quang Phúc.
Số chứng minh nhân dân: 143034881 cấp ngày 1/3/1996.
Vậy công ty tư nhân Linh Châu đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ thế chấp trong hợp đồng tín dụng.
Phương thức cho vay: Giao một lần với số tiền là: 3.600 triệu
Mục đích sử dụng tiên vay: Xây nhà xưởng và nhà khách.
Hình thức bảo đảm tiền vay: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo phương thức thế chấp (có hợp đồng thế chấp riêng về quyền sử dụng đất).
Về tài sản thế chấp gồm: Mảnh đất cạnh đường năm có diện tích 12000m2 thuộc quyền sử dụng của công ty Linh Châu.
Cán bộ tín dụng sau khi xem xét giấy đề nghị vay vốn của công ty tư nhân Linh Châu đã đề nghị trưởng phòng tín dụng và giám đốc NHNo & PTNT huyện Văn Lâm cho vay số tiền là 3,6 tỷ đồng. Hiện nay công ty tư nhân Linh Châu (kinh doanh vàng bạc) đã trả hết nợ và tiếp tục vay vốn của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm.
3. Cho vay có bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh.
3.1. Tổng quan về cho vay có bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm
Trong hợp đồng có bảo đảm theo phương thức bảo lãnh thì NHNo & PTNT huyện Văn Lâm yêu cầu là bên bảo lãnh phải có tài sản thuộc sở hữu của mình để cầm cố, thế chấp tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm, trừ trường hợp bảo lãnh bằng tín chấp. Như vậy, thực chất của biện pháp này là biện pháp cầm cố, thế chấp gián tiếp thông qua người thứ ba. Do vậy các tiêu chuẩn về tài sản bảo lãnh, chủ thể bảo lãnh cũng phải thoả mãn các điều kiện như khi sử dụng biện pháp thế chấp, cầm cố.
Trong quan hệ bảo lãnh tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm, bên bảo lãnh (bên thứ ba) chủ yếu là các tổng công ty, bên được bảo lãnh là các đơn vị thành viên trực thuộc chiếm 70%, còn bên bảo lãnh là cá nhân, doanh nghiệp bảo lãnh cá nhân, doanh nghiệp khác, hay ngân hàng khác bảo lãnh chiếm khoảng 30%.
3.2. Thực tế với một hợp đồng có bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm.
Trước tiên ta đi xem xét tư cách pháp lý của từng bên trong hợp đồng tín dụng.
Bên nhận bảo lãnh:
NHNo & PTNT huyên Văn Lâm
Địa chỉ: Thị trấn Như Quỳnh - Văn Lâm - Hưng Yên.
Người đại diện : Giám đốc.
Bên bảo lãnh:
Tên công ty: Công ty TNHH Phú Lộc
Văn phòng giao dịch: Khu công nghiệp Như Quỳnh A - Văn Lâm - Hưng Yên.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 013850071 do phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hưng Yên cấp ngày 5/5/1997.
Người đại diện: (giám đốc) Dương Minh Thúy
Số chứng minh thư nhân dân: 14470871, cấp ngày 2/3/1990 do công an Bắc Ninh cấp.
Như vậy công ty TNHH Phú Lộc đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện để có thể trở thành chủ thể (bên bảo lãnh) của quan hệ bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng.
Bên được bảo lãnh:
Tên công ty TNHH Hồng Hà
Văn phòng giao dịch số 178 Thụy Khuê, Quận Ba Đình, Hà Nội.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 013850012
Cấp ngày 3/5/1989do phòng kinh doanh - Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp.
Người đại diện (giám đốc) Nguyễn Bình Trọng
Số CMTND: 02900192 cấp ngày 1/3/1994 tại Hà Nội
Như vậy công ty TNHH Hồng Hà đã thoả mãn các điều kiện để có trở thành chủ thể (bên được bảo lãnh) của quan hệ bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng.
Các bên đã thống nhất về việc bên bảo lãnh tài sản được thực hiện nghĩa vụ bảo đảm tiền vay cho hợp đồng tín dụng ngày… tháng … năm 2001
Phạm vi bảo đảm là: số tiền 1,9 tỷ VND
Bên bảo lãnh cam kết dùng quyền sử dụng 2500m2 đất trụ sở công ty TNHH Phú Lộc để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng.
NHNo & PTNT huyện Văn Lâm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 2500m2 của công ty TNHH Phú Lộc. Cán bộ tín dụng đã thẩm định toàn bộ giấy tờ, giá trị tài sản và đề nghị cho vay, giám đốc đồng ý cho vay.
Sau khi lập hợp đồng tín dụng có xác nhận của công chứng nhà nước, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm đã giải ngân cho công ty TNHH Hồng Hà. Đến nay hợp đồng tín dụng này vẫn đang tiếp tục được thực hiện và công ty TNHH Hồng Hà vẫn đang tiếp tục trả lãi, cán bộ tín dụng vẫn thường xuyên theo dõi quá trình sử dụng vốn vay của công ty TNHH Hồng Hà, chưa phát hiện sai phạm gì.
4. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
4.1. Chủ thể đi vay
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm, cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay khách hàng phải đáp ứng được những điều kiện sau:
Có tín nhiệm đối với NHNo & PTNT Văn Lâm. Có khả năng tài chính và có các khoản thu hợp pháp có khả năng thu được trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi. Có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật. Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay bằng các biện pháp cầm thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án.
Cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điểm trên.
Đối với khách hàng nay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện quy định trên còn phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm còn yêu cầu doanh nghiệp phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán đối với kết quả sản xuất kinh doanh của 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay.
Khách hàng vay theo hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay của NHNo và PTNT huyện Văn Lâm thường là các doanh nghiệp và được cấp tín dụng dưới hình thức cho vay trung và dài hạn. Hiện nay có một số khách hàng vay theo hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay như công ty TNHH An Thành, công ty Linh Châu…
4.2. Thực tế áp dụng cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay đối với dự án đầu tư trang thiết bị tăng năng lực sản xuất của công ty sản xuất cám con cò An Thành
Để xem xét điều kiện có được vay hay không ta đi xem xét các điều kiện sau:
Thứ nhất: Hồ sơ pháp lý về thành lập doanh nghiệp
Quyết định lập số 58/HĐND - UBND ngày 1/6/1996 do giấy phép đăng ký kinh doanh số0128003521 do phòng kinh doanh -Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hưng Yên cấp ngày 3/6/1996.
Có giấy chứng nhận của tổ chức kiểm toán về tình hình kinh doanh của các năm 1998, 1999, 2000, 2001.
Qua thẩm định hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp đã đầy đủ, NHNo và PTNT huyện Văn Lâm nhận thấy doanh nghiệp có đầy đủ tư cách pháp nhân vậy có thể tham gia vào hoạt động tín dụng.
Thứ hai: Quan hệ tín dụng với các ngân hàng.
Qua điều tra sơ bộ được biết công ty An Thành có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng đầu tư và phát triển và đặt quan hệ với ngân hàng công thương. Tại các ngân hàng này công ty vay trả đầy đủ, không phát sinh nợ quá hạn. Đến nay công ty đặt mối quan hệ với NHNo & PTNT huyện Văn Lâm.
Thứ ba: Kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Cộng
1. Doanh thu
15.712
28.617
55.043
41.388
140.760
2. Lợi nhuận trước thuế
421
617
1.057
770
2.919
3. Lợi nhuận sau thuế
316
503
739
577
2.189
Thứ tư: Phân tích tình hình tài chính.
Qua phân tích tình hình tài chính của công ty con cò An Thành thấy:
Về khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán hiện thời là bảo đảm thể hiện qua khả năng chuyển đổi các tài sản lưu động để trả nợ ngắn hạn.
Về khả năng sinh lợi: Chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có tăng qua các năm chứng tỏ công ty sử dụng vốn có hiệu quả.
Qua phân tích nhận thấy đây là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín và ngày càng tạo được mối liên hệ với khách hàng. Là một doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận và tạo nhiều công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên đồng thời đã đóng góp vào ngân sách nhà nước một khoản đáng kể, do đó NHNo &PTNT huyện Văn Lâm đánh giá đây là một doanh nghiệp tốt.
Thứ năm: Thẩm định dự án đầu tư
Mục tiêu của dự án nhằm tăng năng lực sản xuất của công ty cám con cò An Thành. Dựa vào tình trạng máy móc của công ty đã bị lạc hậu, thiếu nhiều trong khi công ty đang ký kết được nhiều hợp đồng có giá trị lớn. Để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và có thể hoàn thành các hợp đồng đúng thời hạn thì nhu cầu vốn để trang bị máy móc thiết bị của doanh nghiệp là chính đáng và cần thiết.
Tổng vốn đầu tư: 3.810 triệu
Tổng vốn cần vay: 3.500 triệu
Nguồn trả nợ từ dự án: Từ lợi nhuận dùng để trả nợ và khấu hao tài sản cố định hình thành bằng vốn vay. Qua phân tích nguồn trả nợ và mức trả nợ của dự án NHNo&PTNT huyện Văn Lâm nhận thấy dự án có khả năng trảđược nợ.
Bảng dự kiến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi vay của công ty
(Lãi suất 1,05/tháng, lãi suất năm 1,05 x 12)
(Đơnvị: triệu đồng)
Thời kỳ
Nợ gốc
Trả nợ
Trả lãi
Tổng
T2/01 - T2/02
3.500
73,5
73,5
T2/02 - T2/03
3.500
600
441
1041
T2/03 - T2/04
2.900
720
365,4
1085,4
T2/04 - T2/05
2.180
720
274,69
994,69
T2/05 - T2/06
1.460
720
184,1
904,1
T2/06 - T2/07
740
740
93,33
833,33
Tổng cộng
3500
1432,02
4932,02
(Nguồn: NHNo & PTNT huyện Văn Lâm)
Vậy qua tất cả những phân tích trên NHNo &PTNT huyện Văn Lâm nhận thấy việc đầu tư là có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và lãi. Kết luận của cán bộ thẩm định, trưởng phòng tín dụng và giám đốc ngân hàng nên cho vay dự án này.
Việc giải ngân,cấp vốn cho vay được thực hiện dựa trên hợp đồng mua bán giữa hai bên, và tiền mua máy móc được chuyển trả trực tiếp cho bên thụ hưởng. Hiện nay vốn đã được phát hết và theo thoả thuận, công ty cám con cò An Thành đã bắt đầu tiến hành trả nợ. Cán bộ tín dụng có sổ theo dõi riêng và thu nhập các thông tin về dự án công tác kiểm tra tình hình thực hiện dự án vẫn đang diễn ra và đến nay chưa phát hiện thấy sự vi phạm nào.
Sau khi máy móc thiết bị đã được chuyển về công ty cám con cò An Thành, NHNo & PTNT nông thôn Văn Lâm đã yêu cầu công ty An Thành làm thủ tục thế chấp toàn bộ số máy móc đã mua làm tài sản bảo đảm tiền vay.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN VĂN LÂM TỈNH HƯNG YÊN
I.THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN
1. Tình hình kinh tế xã hội
1.1.Thuận lợi
Năm 2002 kinh tế xã hội của huyện Văn Lâm tiếp tục dành được những kết quả cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 34,3% tăng hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh 22,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 43,3%vượt mức kế hoạch 27,8%, thương mại dịch vụ tăng 24% vượt kế hoạch 2%.Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,3% vượt mức kế hoạch 0,3%
Thu nhập/1hađất canh tác đạt: 35,1 triệu tăng 2,1 triệu so với kế hoạch. Trong năm 2002 huyện đã tạo điều kiện cho 29 dự án đầu tư vào địa bàn, đưa tổng số dự án vào dịa bàn lên 60 dự án. Hiện nay đã có 23/60 dự án đã đi vào hoạt động. Thông qua việc thực hiện đề án phân vùng kinh tế và chuyển đổi ruộng đất trong nông nghiệp đã hình thành 69 dự án phát triển trang vườn trại, hội chăn nuôi lợn đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thực hiện lãi suất cho vay đối với khách hàng được năng động. Đồng thời nghiệp vụ thị trường mở, bảo hiểm tiền gửi ra đời giúp cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả hơn, an toàn hơn.
1.2.Trong năm 2001 tuy có nhiều thuận lợi nhưng vẫn còn những khó khăn như sau
Khó khăn:
Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế cho vay mới, cơ chế áp dụng lãi suất theo thoả thuận, chuyển nợ quá hạn trích lập dự phòng và rủi ro…Những cơ chế chính sách đó ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Mặt khác, hiện nay có nhiều ngân hàng, quỹ tín dụng càng hoạt động huy động vốn, cho vay trên địa bàn do vậy sự cạnh tranh về lãi suất huy động, cho vay ngày càng gay gắt hơn.
Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, ban hành chồng chéo có nhiều mâu thuẫn, còn quy định một cách chung chung chưa rõ ràng dẫn tới khó khăn cho cả ngân hàng và khách hàng vay vốn.
2. Phương hướng phát triển của những năm tới
Năm 2003, chính phủ tiếp tục chủ trương kích cầu để phát triển kinh tế đa dạng. Trong đó nguồn vốn tín dụng đóng vai trò quan trọng. Nhận thức được vấn đề mới này với định hướng chiến lược kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm phấn đấu đạt mục tiêu.
+ Tăng tổng nguồn vốn 30% so với năm 2002.
+ Tăng tổng dư nợ lên 30,4% so với năm 2002.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn < 1% tổng dư nợ.
+ Lợi nhuận tăng 3% - 6%
Để đạt được những mục tiêu trên NHNo & PTNT huyện Văn Lâm tăng cường mối quan hệ giao tiếp với bạn hàng và các ban ngành đoàn thể, tổ chức chính trị địa phương…để giữ vững và tăng cường vị thế của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm đồng thời thúc đẩy phát triển.
Để thực hiện được những mục tiêu đề ra thì phải có giải pháp cụ thể, sau đây ta đi tìm hiểu giải pháp thực hiện.
Thứ nhất: đẩy mạnh công tác huy động vốn tại địa phương chủ động nguồn vốn đầu tư. Tiếp tục mở rộng và giữ vững thị phần ở nông thôn. Chủ động đầu tư cho vay doanh nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Thương mại và dịch vụ.
Thứ hai: đẩy mạnh công tác tiếp thị, thông tin tuyên truyền để huy động vốn của dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Tiếp tục chỉ đạo điều tra khảo sát phân loại khách hàng ở từng địa bàn. Bám sát kế hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng của xã, thị trấn. Phấn đấu để 100% số hộ có nhu cầu vay được vay vốn của NHNo của huyện.
Thứ ba: củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ tín dụng doanh nghiệp, tổ tín dụng lưu động. Giao cho tổ tín dụng thực hiện thu tiền gửi của dân cư, tổ chức kinh tế. Đồng thời thực hiện tốt công tác tự kiểm tra, đối chiếu để xử lý kịp thời những thiếu sót còn tồn tại trong hoạt động bảo đảm an toàn vốn.
Thứ tư: làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn – công đoàn dưới sự lãnh đạo của đảng. Phát huy sức mạnh tập thể, duy trì các phong trào thi đua. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng và xử lý nghiêm những cán bộ vi phạm nhằm tạo không khí và động lực thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ năm 2003.
3. Một số vướng mắc nảy sinh trong quá trình triển khai cơ chế bảo đảm tiền vay tại NHNo và PTNT huyện Văn Lâm
Qua nghiên cứu và so sánh cơ chế bảo đảm tiền vay trong 2 thời kỳ đã thấy rõ rằng cơ chế bảo đảm tiền vay theo NĐ 178/1999/NĐ - CP có những ưu việt cơ bản sau.
So với cơ chế bảo đảm tiền vay trước đây, thì cơ chế bảo đảm tiền vay theo NĐ 178 có nhiều điểm thông thoáng hơn trong việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các TCTD. Tuy nhiên, qua triển khai đã thấy rõ những vướng mắc cần bổ sung và sửa đổi sau:
Thứ nhất: cơ sở pháp lý còn thiếu đồng bộ
Đứng về quan điểm kinh doanh trong giai đoạn hiện nay, NHNo và PTNT huyện Văn Lâm cũng như phần lớn các TCTD khác đều thực hiện quy định hướng dẫn của ngành và từng hệ thống TCTD, việc hướng dẫn không kịp thời sẽ dẫn đến ách tắc trong giải quyết những sự việc theo hướng vừa bảo đảm đúng quy định theo nghị định của chính phủ. Chính vấn đề này đã tạo nên những phân vân đối với những cấp trực tiếp tác nghiệp trong quyết định tín dụng của mình. Cơ sở pháp lý thiếu đồng bộ, kịp thời được thể hiện ở các điểm sau:
+ Về phía chính phủ
Theo điều 12 NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp có quy định “nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu, TCTD giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”. Thực tế hiện nay, các TCTD chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và các cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó.
+ Về phía NHNN.
Theo điểm 2 mục 1 chương V của thông tư 06 thì NHNN cần phải tiếp tục có văn bản quy định chế độ kế toán về cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản do TCTD lựa chọn, cho vay theo chỉ định của chính phủ để các TCTD thực hiện. Nhưng hiện giờ văn bản trên vẫn chưa được ban hành.
Theo quy định tại điểm 7.2, mục 2 của thông tư 06 về thủ tục thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng, thì khi DNNN có thế chấp, cầm cố tài sản là toàn bộ dây truyền công nghệ chính theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật thì phải có văn bản đồng ý của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đó. Vậy toàn bộ dây truyền chính theo quy định là những loại dây truyền nào? và những văn bản cụ thể nào của những cơ quan đó quy định nội dung này.
+ Về phía các bộ, ngành liên quan:
Điều 8 nghị định 08/2000/NĐ - CP về đăng ký giao dịch đảm bảo và điều 9 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Nhưng trên thực tế, cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo ở các chi nhánh được được hình thành. Các cơ quan đăng ký khác cũng đang chờ văn bản hướng dẫn để thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo.
Thứ hai: Về mặt khách quan, việc giao quyền tự chủ đối với các TCTD là phù hợp và có ý tưởng tiến bộ như tại điểm 1 điều 4 – NĐ 178 có quy định “TCTD có quyền lựa chọn và quyết định cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tuy vậy, trong thực tế với sự không ổn định của thị trường, giá cả, thông tin cong nghèo nàn… Những rủi ro phát sinh trong tương lai không ai có thể lường trước được. Vì vậy, việc quyết định này tự chịu trách nhiệm sẽ dưa đến tình trạng rất khó có những quyết định từ các TCTD đối với những trường hợp cho vay không có bảo đảm do tâm lý ít nhiều còn e ngại về trách nhiệm trong tương lai dẫn đến sẽ hạn chế trong việc giải quyết nguồn vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế.
Thứ ba: vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật nay còn nhiều phức tạp và thời hạn kéo dài mặt khác, tại điểm 3, điều 4, Nghị định 108 và điểm 4, mục 3 thông tư 06 có quy định: “sau khi xử lý tài sản bảo đảm, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết”.
Trong thực tế, đây là vấn đề mang tính thủ tục và hình thức vì phần lớn khách hàng vay đặc biệt là khách hàng hộ gia đình cá thể đi vay đã thế chấp toàn bộ tài sản cho các TCTD. Do đó, khi phát sinh rủi ro, khách hàng không trả nợ đúng hạn từ nguồn sản xuất kinh doanh, dẫn đến các TCTD phải phát mại tài sản, thì hộ vay không còn điều kiện sản xuất kinh doanh để tiếp tục hoàn trả nợ còn lại.
Thứ tư: về việc cầm cố tài sản bằng ngoại tệ và tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi.
Theo Nghị định 165/ 1999/NĐ - CP tại điều 2 điểm 7 quy định tài sản cầm cố có thể là: “tiền Việt Nam, ngoại tệ”
Thông tư 06/2000/TT – NHNN1 cũng có quy định “ngoại tệ, tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi tại TCTD bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ” không nói tài sản cầm cố là tiền Việt Nam.
Tuy ngoại tệ tiền mặt hay nội tệ, ngoại tệ trên tài khoản cũng là động sản, nhưng theo Bộ luật dân sự thì tiền và kim khí đá quý là nằm trong khái niệm “đặc cọc”. Nhưng ở góc độ cầm cố ngoại tệ tiền mặt hay gửi để đảm bảo vay vốn thì cũng ít có khả năng xảy ra, chỉ khi nào cần dự trữ ngoại tệ. Khi khả năng ngoại tệ còn lên giá hay tiền gửi ở các TCTD có kỳ hạn chưa đến kỳ có thê rút ra. Nhưng điều quan trọng là, bên cầm cố loại tài sản này là loại tài sản đặc biệt thì phải có điều kiện gì? nếu kỳ hạn tiền gửi không phù hợp với kỳ hạn của hợp đồng tín dụng thì việc cầm cố để đảm bảo có được đảm bảo hay không? nhưng đã cầm cố ngoại tệ tiền mặt thì phải niêm phong tại TCTD (bên nhận cầm cố) vốn sẽ bị ứ đọng và cũng không sinh lời gì. Còn tiền gửi dù có kỳ hạn hay không kỳ hạn, nếu đã cầm cố cho bên nhận cầm cố thì phải chuyển vào tài khoản phong toả hay đóng tài khoản, bên bảo đảm cũng sẽ không được hưởng lãi suất.
Thứ năm: về phạm vi bảo đảm tiền vay của tài sản.
Quy định về vấn đề này có sự khác nhau giữa Nghị định 178/1999/NĐ - CP, thông tư 06/2000/TT – NHNN1 . Điều 22 Nghị định 178 /1999/ NĐ - CP quy định: “trong mọi trường hợp, một tài sản chỉ được để đảm bảo nghĩa vụ tại một TCTD. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nhưng cũng chỉ tại một TCTD”.
Trong khi điều 22 (d) của Thông tư 06/2000/TT – NHNN1 hướng dẫn “không được sử dụng tài sản thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ khác trừ trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu” còn có nghĩa là, nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thế chấp nhiều nghĩa vụ khác không giới hạn số lượng đối tượng được đảm bảo. Trong trường hợp cho vay hợp vốn, thì tài thế chấp không chỉ đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại một, mà có thể 2 hoặc 3 TCTD. Nếu thực hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ - CP thì lại càng bế tắc. Khi đó, Bộ luật dân sự ở điều 329 và 346 có quy định: “một tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật có thể được cầm cố để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. “Bất động sản có đăng ký quyền sở hữu có thể được thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Thứ sáu: Là trường hợp cho vay hợp vốn, có nhiều TCTD cùng cho vay một dự án, cùng nhận một tài sản cầm cố thế chấp thì việc đăng ký và thứ tự đăng ký như thế nào để bảo đảm bình đẳng cho các TCTD khi phải xử lý tài sản thu nợ. Vấn đề chưa có hướng dẫn cụ thể.
Thứ bảy: theo quyết định số 67/1999/ QĐ - TT g của thủ tướng Chính phủ “về một số chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn” có cho phép “đối với DNNN được Nhà nước giao nhiệm vụ làm đầu mối thu mua để xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón được dùng tài sản hình thành từ vốn vay”. Các DNNN có nhiệm vụ xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, do đó không thể thực hiện được quy định đó.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Đối với hồ sơ
1.1. Đối với hồ sơ và thủ tục bảo đảm
Trong Thông tư số 06/2000/TT – NHNN1 ngày 4/4/2000 quy định rất rõ “Hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng”. Như vậy tổ chức tín dụng hoàn toàn có thể đưa các nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo đảm vào hợp đồng tín dụng mà không cần phải lập hợp đồng riêng.
Đây là cơ sở để tinh gọn bộ hồ sơ tín dụng của tổ chức tín dụng nhưng vẫn bảo đảm các căn cứ về mặt pháp lý, việc lập thành văn bản riêng đối với hợp đồng cầm cố, thế chấp là không cần thiết. Theo tôi các tổ chức tín dụng nên từ bỏ cách nghĩ hồ sơ tín dụng càng giày càng tốt, càng yên tâm, mà nên tham chiếu các quy định của pháp luật đã có thể cải thiện bộ hồ sơ cho vay sao cho vừa gọn nhẹ vừa dễ hiểu, tránh rườm rà đối với khách hàng và đối với cán bộ tín dụng của ngân hàng.
1.2. Đối với nội dung của hợp đồng bảo đảm
Theo điều 11, nghị định 165/1999/NĐ - CP về giao dịch bảo đảm quy định: “hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản phải có các nội dung chủ yếu sau”.
+ Nghĩa vụ được bảo đảm
+ Mô tả tài sản bảo đảm
+ Giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
+ Bên giữ tài sản cầm cố, thếp chấp.
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Các trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
+ Các thoả thuận khác.
Vấn đề vướng mắc ở điều khoản “các thoả thuận khác”. Bởi vì điều 401 – Bộ luật dân sự quy định: “nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản đó, thì hợp đồng không thể giao kết được”. Như vậy, nếu một giao dịch bảo đảm mà thiếu 1 trong 7 điều khoản chủ yếu trên, thì coi như chưa có hợp đồng, hay nói cách khác giao kết đó bị coi là vô hiệu. Ở đây, “các thoả thuận khác” cũng là những điều khoản cơ bản, chủ yếu của hợp đồng bảo đảm. Có thể nói rất khó xác định cụ thể là những thoả thuận gì để đưa vào hợp đồng bảo đảm. Không lẽ, nếu các bên không đưa “các thoả thuận khác” vào hợp đồng đảm bảo, vì có thể không thấy cần thiết, thì hợp đồng vô hiệu hay sao? Quy định này thật vô lý và rất khó cho bên nhận bảo đảm. Bởi lẽ, trong trường hợp khách hàng vay cố ý lừa đảo hoặc không thế hoàn trả nợ, họ sẽ không cho tổ chức tín dụng cho vay tiến hành xử lý tài sản bảo đảm với lý do hợp đồng này vo hiệu vì không có đủ các điều khoản chủ yếu. Và trong trường hợp đó bên bị thiệt chính là các tổ chức tín dụng cho vay.
Vậy để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng tín dụng, đồng thời ngăn ngừa và phòng tránh rủi ro có thể xảy ra từ những lý do trên, tôi đề nghị nên sửa lại điều 11, Nghị định 165/1999/NĐ - CP về giao dịch bảo đảm như sau: “Hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản có các nội dung chủ yếu sau:
+ Nghĩa vụ được bảo đảm
+ Mô tả tài sản bảo đảm
+ Giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
+ Bên giữ tài sản cầm cố, thế chấp.
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Các trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
+ Ngoài những nội dung chủ yếu trên, trong hợp đồng bảo đảm có thể có các nội dung khác do các bên thoả thuận”.
2. Về đăng ký giao dịch bảo đảm
Khoản 7, điều 37, Nghị định số 165/1999/NĐ - CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định :” trong trường hợp một tài sản được dùng để đảm bảo nhiều nghĩa vụ, thì tiền bán được thanh toán theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm”. Sẽ không có vấn đề gì nếu giá trị các nghĩa vụ được đảm bảo, nhưng nếu giá trị tài sản bảo đảm khi thanh lý thấp hơn nhiều tổng giá trị các nghĩa vụ được đảm bảo, thì người nhận đảm bảo sau sẽ bị thiệt. Trong trường hợp cho vay hợp vốn, khi các tổ chức tín dụng đồng tài trợ nhận thế chấp, cầm cố một tài sản thì việc đăng ký và thứ tự đăng ký sẽ như thế nào để đảm bảo bình đẳng cho các tổ chức tín dụng khi phải xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ. Điều này hiện nay đang là bế tắc trong việc thực hiện, đặc biệt trong trường hợp các tổ chức tín dụng đồng tài trợ không thoả thuận được thứ tự đăng ký giao dịch đảm bảo.
Theo tôi, trong trường hợp này vốn nên quy định: trong trường hợp các tổ chức tín dụng đồng tài trợ không thoả thuận được thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm, thì giá trị tài sản bảo đảm được phân chia theo tỷ lệ số tiền cho vay của mỗi tổ chức tín dụng trên tổng mức tài trợ của tất cả tổ chức tín dụng đồng tài trợ.
Về hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Khoản 2 điều 16 Nghị định 165/1999/NĐ - CP quy định: “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm”. Vấn đề này sẽ vướng mắc do trên thực tế rất khó có cơ sở pháp lý để xác định được khi nào thì “giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm” để mà quy kết hợp đồng chính là vô hiệu. Nghị định 178/1999/NĐ - CP thì lại không đề cập đến vấn đề này. Vậy, quy định trên có được áp dụng đối với việc bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng hay không? nếu nó được áp dụng cho hợp đồng tín dụng thì hợp đồng tín dụng bảo đảm vô hiệu sẽ hầu như dẫn đến sự vô hiệu sẽ hầu như dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng. Việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vô hiệu có dẫn tới hợp đồng tín dụng vô hiệu hay không cũng đang là vấn đề thời sự đặt ra hiện nay trong ngành ngân hàng. Sau khi có Nghị định 178/1999/ NĐ - CP ngày 29/12/1999, thì cơ quan pháp luật sẽ dễ dàng nghiêng theo quan niệm cho rằng đa số hợp đồng tín dụng sẽ bị vô hiệu hoá khi việc cầm cố, thế chấp bị vô hiệu. Điều vô lý ở đây là bên cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thì được quyền thu đủ gốc và lãi.
Để tăng độ tin cậy và an toàn hơn họ bắt bên vay phải có tài sản đảm bảo, nhưng nếu vì một lý do nào đấy, các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bị vô hiệu thì hợp đồng cho vay cũng bị vô hiệu hoá theo. Như vậy, việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản lại rơi vào tình thế bất lợi hơn so với việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (không được quyền thu lãi). Phải chăng quy định này xuất phát từ chỗ đánh giá sai lầm về bản chất pháp lý của giao dịch bảo đảm? dù có gọi là giao dịch bảo đảm theo nghị định 165/1999/NĐ - CP ngày 19/11/1999 hay là hợp đồng bảo đảm theo nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999, thì cũng không nên coi đó hoàn toàn như một hợp đồng vì theo bản chất pháp lý nó chỉ là một biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng hay các nghĩa vụ khác và chỉ trong những điều khoản, những nội dung của hợp đồng kinh tế. Theo tôi, nên xử lý vấn đề này tương tự như điều khoản về trọng tài trong quan hệ Thương mại quốc tế: dù hợp đồng có vô hiệu, thì thoả thuận về trọng tài dù có vô hiệu cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng Thương mại.
Hiện nay cơ quan Nhà nước quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc bộ tư pháp, nhưng chưa triển khai được hoạt động của cơ quan này tại các địa phương. Phần lớn các hợp đồng bảo đảm không được đăng ký giao dịch bảo đảm mà chỉ có công chứng của Nhà nước hoặc chứng thực của uỷ ban nhân dân có thẩm quyền.
Để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có xu hướng xử lý nợ, các cơ quan có thẩm quyền cần phải sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 165/1999 / NĐ - CP ngày 19/11/1999 của chính phủ về giao dịch bảo đảm.
3. Đối với thế chấp bất động sản và thế chấp quyền sử dụng đất
Đây không phải vấn đề ít rắc rối và dễ nhầm lẫn do đặc thù của pháp luật Việt Nam về đất đai và quyền sở hữu tài sản, từ đó có nhiều quan điểm khác nhau về giao dịch ký kết hợp đồng và xử lý hợp đồng có liên quan đến quyền sử dụng đất.
Bất động sản chỉ có giá trị khi được chuyển nhượng kèm với đất đai và không ai chỉ nhận thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không yêu cầu thế chấp cả quyền sử dụng đất. Như vậy, trong trường hợp này thì tài sản nào là chính? Đây chính là vướng mắc khi thiết kế hợp đồng bảo đảm. Trong thực tế do Nghị định 17/1999/NĐ - CP ngày 29/3/1999 của chính phủ “về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” lại không quy định, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được công chúng, để chắc chắn tổ chức tín dụng đã yêu cầu khách hàng lập song song hai hợp đồng (hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng thế chấp tài sản) để xin chứng thức của công chúng Nhà nước.
Tuy nhiên, bất động sản và đất đai có bất động sản gắn liền tuy hai mà một, không thể tách rời nhau. Do đó, sẽ rất trùng lặp khi thiết lập song song hai hợp đồng thế chấp bất động sản, đây là một sự phiền hà không đáng có, làm cho bộ hồ sơ càng dày thêm, đồng thời làm tốn kém thời gian và chi phí cho khách hàng.
Tại khoản 5, điều 6, Nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng quy định: “khi thế chấp gắn liền với đất, khách hàng vay phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, trong trường hợp quyền sử dụng đất được thế chấp, thì khi thế chấp bất động sản, tổ chức tín dụng và khách hàng chỉ cần ký một trong hai dạng hợp đồng: hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thế chấp tài sản để đăng ký giao dịch bảo đảm là đủ.
Nếu muốn gọn nhẹ hơn nữa, tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thoả thuận đưa những nội dung này vào trong hợp đồng tín dụng theo quy định hiện hành, không phải lập văn bản riêng. Pháp luật đã tạo điều kiện để các bên trong quan hệ tín dụng ngân hàng tinh giảm gọn nhẹ bộ hồ sơ cho vay, giảm bớt các thủ tục phiền hà, rút ngắn thời gian và chi phí.
Một khía cạnh khác của vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất và vấn đề về sơ đồ chứng nhận quyền sử dụng đất trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện đó, ngân hàng là nơi đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu này. Tuy nhiên để vay được vốn, bên đi vay phải có tài sản đảm bảo. Thực tế trên phạm vi cả nước tài sản đem ra thế chấp tại các tổ chức tín dụng chủ yếu là các bất động sản gắn liền với đất. Nhưng để thế chấp được giá trị quyền sử dụng đất, các tổ chưc tín dụng đều yêu cầu khách hàng phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “sổ đỏ” trong khi đó, ở trên toàn quốc việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra một cách quá chậm chạp.
Theo quy định tại điều 25,28, Nghị định 17/1999/NĐ - CP ngày 29 tháng 3 năm 1999 của chính phủ “về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”. Thì cá nhân, hộ gia đình, tổ chức làm hồ sơ thế chấp giá trị quyền sử dụng đất phải có.
+) Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất;
+) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
+) Sơ đồ thửa đất hoặc trích lục bản đồ thửa đất;
+) Chứng từ nộp tiền thuê đất.
Nếu thiếu mộ trong các giấy tờ trên, cán bộ tín dụng không được vay với lý do không đủ giấy tờ làm hồ sơ thế chấp. Như vậy, do thiếu giấy chứng nhận đất thì khách hàng không thể vay vốn tại ngân hàng và đương nhiên là cả hai phía đều bị thiệt. Tổ chức tín dụng không cho vay được nên không thu được lợi nhuận, còn khách hàng mất cơ hội kinh doanh.
Để tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình, tổ chức làm thủ tục thế chấp giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng được nhanh chóng thuận lợi, tôi đề nghị các cấp có thẩm quyền cần có những giải pháp tháo gỡ theo hướng sau:
+ Đẩy nhanh việc thực hiện các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình tổ chức.
+ Nên thiết kế một mẫu hợp đồng thế chấp chung cho cả đất đai và động sản gắn liền với đất để giảm bớt thủ tục phiền hà cho bên vay vốn cũng như cho tổ chức tín dụng khi làm hồ sơ thế chấp.
+Nên gộp chung thủ tục xác nhận được thế chấp và đăng ký thế chấp tại sở địa chính đối với hồ sơ thế chấp của tổ chức kinh tế nhằm giảm bớt phiền hà về thủ tục cho bên thế chấp chứ không nên tách ra làm hai giai đoạn như hiện nay.
4. Về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
Thông tư số 06/2000/TT – NHNN ngày 4/4/2000 của ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng, thì quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp, khách hàng có thể dùng để làm tài sản bảo đảm để vay vốn ngân hàng. Việc thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng đã và đang ngày càng trở nên phổ biến, nhờ vậy đã tạo thuận lợi cho người vay khi có nhu cầu vay vốn và góp phần làm phong phú thêm hoạt động ngân hàng. Khi cho vay các ngân hàng luôn mong muốn khách hàng làm ăn có hiệu quả, trả vốn và lãi đúng hạn, còn việc xử lý tài sản đảm bảo chẳng qua là biện pháp tình thế. Đa dạng hoá các hình thức xử lý và xử lý nhanh gọn tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất sẽ giảm bớt những thiệt hại cho các bên có liên quan mà đặc biệt là đối với các tổ chức tín dụng. Hiện nay, việc hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất còn thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với tình hình thực tế nên việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.
Tại khoản 2.1 điểm 2, mục II phần B thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT / NHNN – BTP – BCA – BTC – TCĐC ngày 23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng, quy định: “tổ chức tín dụng trực tiếp bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải bán tại tổ chức bán đấu giá chuyên trách?
Nhưng hiện nay, những quy định về xử lý quyền sử dụng đất dù thế chấp được đề cập trong điều 737. Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 chỉ nêu: “khi đã đến hạn hạn thực hiện nghĩa vụ đảm bảo bằng thế chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì quyền sử dụng đất được xử lý như sau: - Trong trường hợp quyền sử dụng đất nồng nghiệp, đất lâm nghiệp đã thế chấp tại ngân hàng Việt Nam, tổ chức tín dụng Việt Nam thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi; - trong trường hợp quyền sử dụng đất ở đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước, thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi”.
Như vậy, về điểm này, Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 chỉ nhấn mạnh đến quyền của bên nhận thế chấp trong việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất. Đó là, bên nhận thế chấp quyền sử dụng đất có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ bảo đảm mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Ở đây không bắt buộc nhất thiết phải thông qua các tổ chức bán đấu giá chuyên trách. Điều này cũng có nghĩa là bên nhận thế chấp không yêu cầu tổ chức bán đấu giá chuyên trách xử lý quyền sử dụng đất thì họ vẫn định đoạt các biện pháp xử lý thích hợp.
Việc theo thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/ NHNN – BTP – BCA – BTC – TCĐC ngày 23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng chỉ quy định chung là quyền sử dụng đất mà pháp luật quy định phải được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp là chưa đề cập đến các quyền còn lại mà tổ chức tín dụng có thể thực hiện được làm hạn chế tính năng động của các tổ chức tín dụng trong việc xử lý quyền sử dụng đất. Việc không hướng dẫn cụ thể đối với loại đất nào thì khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ các tổ chức tín dụng phải thông qua các tổ chức bán đấu giá chuyên trách để xử lý công bằng cho tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc thực hiện.
Thực tế việc bán đấu giá quyền sử dụng đất còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều tổ chức tín dụng đã chuyển hồ sơ sang cho cơ quan bán đấu giá chuyên trách để xử lý quyền sử dụng đất nhưng nhìn chung tiến độ xử lý chậm, thậm chí nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được.
Để tạo điều kiện thuận tiện, vừa thông thoáng cho các tổ chức tín dụng vừa bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, thiết nghĩ việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nên thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất: trong thời gian 60 ngày kể từ ngày hết hạn trả nợ, cho phép các tổ chức tín dụng cùng các bên có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất được tiến hành xử lý tài sản theo các biện pháp đã thoả thuận.
Thứ hai: sau thời gian 60 ngày kể từ ngày đến hạn trả nợ mà tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất chưa xử lý được thì tuỳ từng trường hợp cụ thể các tổ chức tín dụng có thể xử lý theo hướng sau: Đối với những trường hợp trước đây mà người vay cam kết cùng tổ chức tín dụng trong việc xử lý tài sản, nay họ vẫn có thiện chí trong việc trả nợ thì tổ chức tín dụng cùng người vay tiếp tục xử lý tài sản để thu hồi nợ. Chỉ qua tổ chức bán đấu giá chuyên trách những trường hợp mà người đi vay cố chây ỳ hoặc không thoả thuận được với tổ chức tín dụng trong qúa trình xử lý tài sản nhằm bảo đảm tính công bằng và lợi ích của mỗi bên.
Thứ ba: khi đã thực hiện các biện pháp như đã nêu trên nhưng nếu sai thời gian 1 năm kể từ ngày đến hạn trả nợ mà tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất vẫn chưa xử lý được thì tổ chức tín dụng được chọn quyền trực tiếp xử lý, bán tài sản để thu hồi nợ, kể cả việc nhận lại tài sản từ tổ chức bán đấu giá. Trong trường hợp này người có tài sản bảo đảm không được quyền khiếu kiện.
Thứ tư: cho phép các tổ chức tín dụng nhận tài sản là quyền sử dụng đất để thay thế những vụ trả nợ nếu tổ chức tín dụng xét thấy việc khai thác tài sản bảo đảm khả năng thu hồi nợ hoặc có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở, phòng giao dịch nhằm phục vụ cho hoạt động của mình.
KẾT LUẬN
Quán triệt đường lối của Đảng, trong những năm qua hoạt động ngân hàng nhà nước ta đã có chuyển biến sâu sắc. Kể từ ngày Nghị định số 178/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ "Về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng" có hiệu lực đến nay, việc đưa Nghị định vào cuộc sống đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nhất là từ khi quyết định 1627/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước "về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng" được ban hành đã lới lỏng các thủ tục cho vay, dư nợ ngày càng tăng bởi vì tỷ lệ nợ quá hạn bình quân toàn ngành ngày càng giảm đồng thời tài sản bảo đảm dần được xử lý. Do đó có thể nói Nghị định số 178/NĐ - CP ngày 29/12/1999 đã trở thành người bạn đường tin cậy của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Chuyên đề đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay có bảo đảm bằng tài sản và thực tiễn áp dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm, đồng thời cũng phân tích đánh giá những tồn tại, vướng mắc để từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị.
Trong thời gian tới việc thực hiện tốt các giải pháp, kiến nghị trên sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng, tạo động lực cho nền kinh tế quốc dân. Với mục đích như vậy tôi đã trình bày chuyên đề thực tập của mình với những nội dung đã nêu trên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các văn bản quy phạm pháp luật.
1. Luật Ngân hàng Nhà nước (12/12/1997)
2. Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997)
3. Luật Doanh nghiệp (12/6/1999)
4. Luật Thương mại (10/5/1997)
5. Nghị định 165/NĐ - CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm
6. Nghị định 178/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảma tiền vay tại các tổ chức tín dụng.
7. Nghị định 17/NĐ - CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
8. Quyết định 1627/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
9. Quyết định 167/2001/QĐ - HĐQT ngày 18/8/2001 của Chủ tịch hội đồng quản trị NHNo& PTNT Việt Nam về việc ban hành quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
10. Quyết định 284/2000/QĐ - NHNN1 về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng.
11. Thông tư 06/2000/TT - NHNN1 ngày 31/8/2000 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc hướng dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng theo nghị định 178/NĐ - CP ngày 29/12/1999.
12. Quy chế thế chấp cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng kèm theo quyết định số 217/QĐ -NH1 ngày 17/8/1996.
13. Một số văn bản khác.
ssB. Các tài liệu khác
1. Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995
2. Ngân hàng thương mại - EDWARD WREED, PH,D và EDWARDK, GILL, PH,D.
3. Quản lý rủi ro tín dụng - THOMAS. J. GRYP
4. Báo cáo thường niên của NHNo& PTNT huyện Văn Lâm 2001 -2002.
5. Tạp chí ngân hàng, thị trường tài chính tiền tệ năm 1999 - 2001.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 67.doc