Đề tài Chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Từ năm 1988 hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu có ở Việt Nam và đã trở thành một bộ phận quan trọng có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại của Việt Nam. Có thể nói việc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo thuận lợi cho việc nâng cao vị thế hội nhập của đất nước với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên hiện nay, sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN trên thế giới và khu vực gia tăng mạnh mẽ, nhất là sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước ASEAN, trong khi tỷ lệ ĐTNN vào các nước đang phát triển nói chung, vào khu vực ASEAN giảm mạnh. Đồng thời những nền kinh tế có mức ĐTNN lớn vào Việt Nam như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc những năm qua gặp nhiều khó khăn nên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của những nước này. Thêm vào đó môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sức cạnh tranh thu hút ĐTNN. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế của khu vực và quốc tế Việt Nam phải có hệ thống chính sách pháp luật phù hợp với tình hình, đáp ứng điều kiện kinh tế của đất nước. Ngành Hải quan là một trong những cơ quan hành chính Nhà nước liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết là làm cho ngành Hải quan thực sự thành nhịp cầu nối để doanh nghiệp vươn xa ra thị trường thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường vào Việt Nam. Như vậy, để đáp ứng nhiệm vụ khó khăn này cán bộ nhân viên Hải quan phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế đối ngoại, ngoại giao, pháp luật, tâm lý, ngoại ngữ, thương phẩm học.đồng thời nắm vững nghiệp vụ. Phải rất coi trọng nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, xây dựng phương pháp làm việc khoa học, tập trung xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh Chuyên đề với kết cấu gồm ba chương đã hệ thống hóa một số qui định của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ đó đề cập đến tình hình quản lý của Hải quan đến hoạt động này và đưa ra một số gợi ý về giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề được đề cập đến trong chuyên đề, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, còn hẹp và tính khái quát chưa cao. Để giải quyết một cách triệt để và toàn diện vấn đề cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về cả lý thuyết và thực tiễn từ đó sẽ đóng góp được ít nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói riêng.

doc79 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1743 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh quản lý Nhà nước về Hải quan được rút ngắn, (tăng cường tính dân chủ, bình đẳng trước pháp luật của người làm xuất nhập khẩu, góp phần nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và các qui định quản lý Nhà nước về Hải quan). Đến nay phần lớn những vấn đề vướng mắc nổi lên có tính thời điểm như: tỷ giá tính thuế, thời hạn nộp thuế, xuất xứ hàng hoá, phụ lục tờ khai mới.. đã được tháo gỡ kịp thời giúp doanh nghiệp chủ động trong việc tự kê khai, tự tính thuế, nộp thuế theo đúng qui trình thủ tục qui định. Với mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, chống thất thu thuế và chống nạn gian lận về thuế, Tổng cục Hải quan đã ban hành và tham gia phối hợp cùng các bộ ngành chức năng ban hành văn bản liên quan đến thuế, đồng thời cử các đoàn đi tới các địa phương và đến tận doanh nghiệp để tăng cường công tác thu đòi nợ thuế xuất nhập khẩu. Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, cùng với việc thực hiện Luật Hải quan và tăng cường công tác cải tiến qui trình thủ tục theo Luật Hải quan, ngành Hải quan cũng đã áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ để chống gian lận trốn thuế, thanh khoản hợp đồng, truy thu nợ đọng thuế, phối hợp cùng với các ngành nghiên cứu, đề xuất, tháo gỡ những khó khăn trong kinh doanh, đề xuất các biện pháp chống hoàn thuế giá trị gia tăng khống, tăng cường chống buôn lậu. Do vậy nên số thu của ngành Hải quan vẫn giữ được nhịp độ tăng trong mấy năm gần đây mặc dù tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động và có một số sự thay đổi trong cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Chính phủ như: kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe gắn máy phục vụ sản xuất lắp ráp theo nội địa hoá hầu như ngừng trệ và bị giảm, các mặt hàng linh kiện cơ khí, điện, điện tử do Chính phủ thực hiện tỷ lệ nội địa hoá cũng chưa ổn định. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu giảm, kim ngạch nhập khẩu tăng nhưng chủ yếu là tăng kim ngạch của những mặt hàng không thuế, hàng có thuế xuất thấp, hàng đầu tư, gia công, nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu..gây khó khăn cho việc thực hiện kế hoạch thu của Ngành. Tuy vậy tính đến 18/12/2002, ngành Hải quan vẫn thu thuế được 34.376 tỷ đồng, đạt 103,23% so với kế hoạch giao là 33.300 tỷ đồng, tăng khoảng 19% so với cùng kỳ năm 2001. Ta có thể thấy xu hướng tăng số thu tổng hợp của ngành Hải quan trong vài năm gần đây để đánh giá tình hình thu thuế ở khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Biểu đồ thống kê số thu thuế của ngành hải quan ( từ năm 1997 đến năm 2002 ) Năm Tổng số thu Thuế XNK, TTĐB Thuế VAT Thu khác Ghi chú 1997 13800 13400 400 Thuế VAT từ 1/1/1999 1998 16600 14849 1751 1999 23669 14417 8162 1090 2000 24423 13430 10721 272 2001 29381 17441 11660 280 2002 34376 20414 13642 320 Nguồn: Tổng cục Hải quan Đơn vị tính: tỷ đồng Tuy nhiên, trong vấn đề này còn một số tồn tại như sau: Hiện nay theo Cục Kiểm tra thu thuế XNK_TCHQ, việc tính thuế đối với thiết bị đồng bộ303, thiét bị toàn bộ đang phát sinh một số vướng mắc.Theo thông tư 99/2000/TT_BTC ngày 12-10-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn phân loại thiết bị toàn bộ, thiết bị đồng bộ thì tập hợp các máy móc thiết bị thuộc các chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu được tính thuế theo máy chính Nếu có cả hàng hoá là vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, ô tô..(hàng hoá khác) thì những hàng hóa này phải tính thuế nhập khẩu theo mã số quy định của biểu thuế. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hiện nay vẫn xác nhận các loại hàng hoá khác này thuộc danh mục hàng hoá thiết bị đồng bộ, toàn bộ. Tuy nhiên các chứng từ của thiết bị đồng bộ, toàn bộ nhập khẩu thường chỉ qui định giá chung cho cả tập hợp thiết bị đồng bộ mà không quy địnhgiá riêng từng khoản mục hàng hoá trong đó. Bởi vậy cơ quan hải quan rất khó tính thuế nhập khẩu đối với hàng hoá không thuộc các chương trên. Do vậy dẫn đến không thống nhất trong việc tính thuế đối với mặt hàng này. Một số đơn vị vẫn tính thuế nhập khẩu cho cả dây chuyền thiết bị đồng bộ( trong đó có hàng hóa khác không thuộc các chương trên) theo máy chính. Mặt khác có đơn vị tính thuế tách biệt ra hai loại: những hàng hoá thuộc các chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 thì tính thuế nhập khẩu theo máy chính, những hàng hoá khác thì tính thuế nhập khẩu theo mã số quy định trong Biểu thuế nhập khẩu. Theo ý kiến của Tổng cục hải quan, hiện nay việc xác nhận thiết bị đồng bộ cũng là vấn đề đáng bàn. Có trường hợp cùng một loại hàng hoá thiết bị đồng bộ nhưng lại do các cơ quan khác nhau xác nhận, các cơ quan này lại xác định máy chính khác nhau. Chẳng hạn, thiết bị đồng bộ là dây chuyền lắp ráp động cơ xe gắn máy, có trường hợp thì do UBND tỉnh, thành phố xác nhận máy chính, lúc thì do Bộ Công nghiệp hoặc Bộ Giao thông vận tải xác nhận máy chính. Chưa hết đôi khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận thiết bị đồng bộ nhưng không xác nhận danh mục cụ thể các hàng hoá cần nhập khẩu. Bên cạnh đó về phía hải quan cũng có một số đơn vị chưa thực hiện đúng quy định của Thông tư số 99 , chẳng hạn tính thuế nhập khẩu theo máy chính trên cơ sở kết quả giám định của Vinacontrol, tính thuế nhập khẩu theo máy chính dựa theo hàng hoá giống hệt đã được xác nhận đồng bộ…Những bất cập này càng khó giải quyết khi hàng hoá của bên đối tác nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam là những thiết bị máy móc còn mới lạ nhằm chuyển giao công nghệ cho bên Việt Nam. III. Những điểm thuận lợi và những khó khăn tồn tại trong việc áp dụng chế độ quản lý Nhà nước về hải quan ở Việt Nam. 1. Những thuận lợi. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của đầu tư nước ngoài, hoạt động của hải quan trong việc quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được hoàn thiện về cả tổ chức và cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng thời vẫn đảm bảo nhiệm vụ kiểm tra giám sát hàng đầu tư nước ngoài. Trước những diễn biến tích cực cũng như những biểu hiện tiêu cực như vậy của loại hình hàng hoá này ngành hải quan đã có những sự cố gắng vượt bậc cả về cơ cấu tổ chức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là đã có những tiến bộ trong việc ban hành những chính sách, chế độ quản lý của hải quan đối với các loại hàng hoá để quản lý có hiệu quả đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thêm vào đó phải kể đến công tác tuyên truyền có hiệu quả các văn bản chế độ chính sách đối với từng đối tượng góp phần giảm bớt khó khăn, vướng mắc phát sinh do không hiểu, nắm vững pháp luật. Hải quan chịu trách nhiệm làm thủ tục cho hàng đầu tư liên doanh đã cố gắng tạo lòng tin của các nhà đầu tư, ưu tiên làm thủ tục trước cho những lô hàng đầu tư liên doanh, tìm mọi cách giải phóng hàng nhanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đưa vật tư máy móc đến chân công trình, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đưa vật tư máy móc hàng hoá về niêm phong bảo quản giảm chi phí và ách tắc ở cảng trong khi chờ bổ xung giấy phép, đi áp tải hàng hoá từ cửa khẩu nhập về địa điểm kiểm tra hàng ngoài cửa khẩu để kiểm hoá giảm chi phí bốc dỡ và nguy cơ mất hàng tại cửa khẩu.. Ngoài ra công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại đối với các lô hàng liên doanh đầu tư hải quan đã thực hiện tương đỗi tốt. Bên cạnh việc rà soát kiểm tra lại toàn bộ hệ thống văn bản chính sách của ngành, công tác theo dõi đi sâu đi sát kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp cũng được coi trọng nhằm kiểm tra thực tế cơ sở, trực tiếp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của hải quan các cửa khẩu, các tỉnh thành phố , của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài từ đó kiến nghị những biện pháp giải quyết linh hoạt tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư nước ngoài. Song song với việc đó Tổng cục hải quan đã công khai đường dây nóng nhằm trực tiếp kiểm tra theo dõi và giám sát công tác thủ tục giữa chủ hàng và nhà đầu tư, doanh nghiệp nhằm lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư đồng thời giải quyết ngay những vướng mắc, kiên quyết loại bỏ khỏi ngành những “con sâu làm rầu nồi canh”, trong sạch lành mạnh hoá đội ngũ chiến sỹ hải quan. Thêm vào đó Bộ Thương Mại, Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.. đã thường xuyên trao đổi với ngành hải quan, trên cơ sở những ý kiến của doanh nghiệp, nhà đầu tư tìm biện pháp khắc phục những khó khăn hoặc thống nhất giải quyết những vấn đề tồn tại hay mới phát sinh nhằm hoàn thiện công tác theo dõi quản lý. Ngoài ra, một trong những nội dung quan trọng được đề ra trong chương trình công tác năm 2003 của ngành hải quan là triển khai thực hiện Nghị định 96/2002/NĐ-CP ngày 19-11-2002 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan. Cụ thể từ đầu quý IV năm 2002 lãnh đạo Bộ và lãnh đạo TCHQ đã chỉ đạo Hải quan phải sửa đổi mạnh mẽ hơn nữa về lề lối tác phong làm việc, phải chấn chỉnh quyết liệt kỷ cương, kỷ luật hành chính trong ngành Hải quan.Tổng cục đã xây dựng lại quy chế làm việc quy trình nghiệp vụ, kế hoạch công tác, phân cấp mạnh hơn, rõ hơn cho Cục hải quan địa phương, cho Chi cục hải quan cửa khẩu để có cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn mà Luật hải quan đã quy định. 2. Những khó khăn. Tuy công tác hải quan đã có nhiều cố gắng để theo kịp sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng nhưng trong thời gian qua ở các địa phương, tỉnh thành phố có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bộc lộ một số điểm bất cập. Điển hình là không có sự phối kết hợp giữa các ngành chức năng để quản lý hoạt động đầu tư nên khi có vấn đề phát sinh thì ngành nọ đổi lỗi cho ngành kia. Lâý ví dụ như không có văn bản nào trong các văn bản về đầu tư nước ngoài nêu rõ trách nhiệm quản lý nhà nước đối với việc theo dõi quản lý các dây chuyền máy móc thiết bị nguyên liệu (đặc biệt là tài sản góp vốn hình thành trong suốt quá trình thực hiện dự án và sau khi xây dựng xong xí nghiệp không có cơ quan nào quyết toán xem doanh nghiệp nhập khẩu vật tư thiết bị, nguyên vật liệu để sử dụng xây dựng hình thành xí nghiệp đã sử dụng thừa thiếu ra sao) là thuộc ngành nào nên hải quan gặp nhiều khó khăn trong quả trình quản lý theo dõi. Từ khi Đảng và nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế, mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá các hoạt động kinh tế, đối ngoại, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong đó có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá đầu tư nước ngoài, các hình thức đầu tư nước ngoài, liên doanh đầu tư phát triển mạnh, đa dạng cả về hình thức lẫn thành phần đầu tư. Bên cạnh các nhà đầu tư có mục đích kinh doanh chân chính đầu tư vào những lĩnh vực làm ăn có lợi nhằm phát huy lợi thế sẵn có đem lại hiệu quả kinh tế thì có không ít những đối tượng lợi dụng cơ chế thị trường “mở cửa”, những kẽ hở của điều khoản, điều luật của chúng ta hoặc sự non kém về nghiệp vụ của nhân viên hải quan để làm ăn phi pháp như trốn thuế, buôn lậu, gây rối thị trường nội địa. Biểu độ thống kê số vụ buôn lậu gian lận thương mại, vi phạm pháp luật hải quan bị phát hiện, bắt giữ (từ năm 1997 đến năm 2002) Biểu đồ thống kê trị giá tang vật, hàng hóa buôn lậu, gian lận thương mại do lực lượng hải quan phát hiện bắt giữ (từ năm 1997 đến năm 2002). Nguồn : Tổng cục hải quan Như vậy là do những điểm yếu trên trong khâu quản lý mà những hành vi vi phạm chế độ, chính sách, pháp luật trong loại hình đầu tư nước ngoài mà những hành vi gian lận đó không được phát hiện và xử lý kịp thời gây môi trường đầu tư không lành mạnh, cạnh tranh bất bình đẳng. Có nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư vi phạm pháp luật nhà nước về hải quan nhằm kiếm lời bất chính mà hoạt động của họ thường là một số hành vi gian lận thương mại, khai báo không trung thực về mặt hàng thực xuất, nhập khẩu với hải quan, khai man trị giá hàng nhằm trốn thuế xuất, nhập khẩu, thuế khác, khai man số lượng, trọng lượng, chất lượng và xuất xứ hàng hoá...Ngoài ra do luật của chúng ta chưa nghiêm, còn nhiều kẽ hở nên họ cố tình vi phạm, nếu bị phát hiện thì chỉ xử lý, đôi khi xử phạt hành chính mà số tiền cũng không quá nhiều nên họ vẫn nộp phạt và lần sau lại vi phạm, ngược lại nếu không bị phát hiện thì họ kiếm lời to. Do vậy, nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư làm ăn chân chính thì gặp không ít khó khăn thiệt thòi trong sản xuất kinh doanh còn những doanh nghiệp, nhà đầu tư làm ăn gian dối thì đạt mục đích kiếm lời bất chính do có sự cạnh tranh không bình đẳng. Về các qui định của ngành, mặc dù chúng ta đã có Luật Hải quan nhưng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến việc làm thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ tại các địa điểm làm thủ tục Hải quan. Hệ thống pháp luật thiếu cụ thể, minh bạch, thiếu đồng bộ và thay đổi nhiều gây khó khăn cho Hải quan và tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Thêm vào đó, cơ sở vật chất thiếu thốn, hạn chế không nhỏ đến khả năng kiểm soát và nâng cao chất lượng quản lý Hải quan. Đội ngũ cán bộ của ngành cũng là một trở ngại không nhỏ trong việc thực hiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vấn đề này không chỉ bộc lộ ở trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ chưa cao của cán bộ viên chức hải quan mà còn ở thái độ tinh thần phục vụ chưa hết mình. Có không ít những lời phàn nàn kêu ca của các nhà đầu tư, doanh nghiệp về thái độ cửa quyền, hách dịch, vòi vĩnh, những đòi hỏi khắt khe về giấy tờ, trình độ non kém gây ra những sai sót không đáng có. Trên thực tế đã xảy ra rất nhiều những vụ tiêu cực gian lận thương mại, buôn lậu có sự tiếp tay cố ý hay vô tình của những nhân viên hải quan không còn đủ phẩm chất, không đủ bản lĩnh trước cám dỗ. Thử lấy một ví dụ con số những trường hợp cán bộ trong ngành bị xử lý vi phạm năm 2001 để thấy việc cấp thiết phải củng cố lực lượng của ngành Hải quan cả về chất và lượng. Tổng hợp số liệu kỷ luật cán bộ công chức ngành hải quan năm 2001 Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Hạ bậc, hạ ngạch Buộc thôi việc Khởi tố Tổng số cán bộ bị kỷ luật Lãnh đạo cấp cục 2 2 4 Lãnh đạo cấp phòng 4 8 3 2 3 17 Cán bộ nhân viên 17 152 6 9 15 4 199 Nguồn: Tổng cục hải quan Chương III : một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. I. Cơ sở của việc hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Cơ sở về mặt chính sách, luật pháp. Vì nền kinh tế của nước ta hiện nay được xác định là một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, nên việc quản lý nền kinh tế của nhà nước phải bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Pháp luật, chính sách của Nhà nước là thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Do đó về thực chất, các vấn đề quan trọng của quốc gia như tính độc lập tự chủ cũng như định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể hiện trước hết trong các quy định của pháp luật, chính sách Nhà nước. Đồng thời tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI phù hợp với thông lệ, tập quán quốc tế, phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trong tình hình kinh tế hiện nay việc hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên cơ sở của chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá kết hợp kinh tế chính trị với kinh tế đối ngoại trong một thể thống nhất. Xây dựng chính sách kinh tế ổn định thống nhất, phù hợp với tình hình hiện nay. Tạo điều kiện hỗ trợ và ưu đãi cho vốn đầu tư sản xuất, khuyến khích đầu tư trong nước và đặc biệt là đầu tư vào các vùng sâu vùng xa nhằm tạo điều kiện và tập trung sức lực phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa bàn, từng sản phẩm và mặt hàng. Về mặt pháp luật, chúng ta đã và đang cố gắng xây dựng hệ thống pháp luật nghiêm minh đối với tất cả các loại hình kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, chú trọng xây dựng khung pháp lý thuận lợi, đổi mới các thủ tục hành chính, ngăn chặn tình trạng phiền hà, sách nhiễu, tăng cường các biện pháp hướng dẫn và giúp đỡ thiết thực cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư thực hiện theo đúng luật pháp; thúc đẩy nâng cao sức cạnh tranh khuyến khích đầu tư phục vụ nhiệm vụ dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sau một vài năm chững lại và suy giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, do cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và những hạn chế của môi trường đầu tư, từ năm 2000 đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi. Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư yên tâm làm ăn tại Việt Nam như đã đưa ra các luật lệ phù hợp nhằm cố gắng xây dựng một môi trường đầu tư rõ ràng, ổn định, giảm chi phí mọi dịch vụ cho nhà đầu tư dần tạo một mặt bằng kinh doanh bình đẳng giữa các hoanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn FDI. Năm 2002, thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN, Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành hoặc hoàn chỉnh nhiều đề án nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin cho các nhà ĐTNN. Cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính Phủ( TTCP) ký và Ban hành danh mục dự án quốc gia gọi vốn ĐTNN thời kỳ 2001-2005; trình Thủ tướng Chính phủ về Dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam…Ban Vật giá Chính Phủ đã trình TTCPđề án điều chỉnh giá phí thống nhất đối với ĐTNN và đầu tư trong nước. Bộ Y tế đã có văn bản hướng dẫn NĐ 06/2000/NĐCP ngày 6-3-2000 của Chính phủ về hợp tác ĐTNN trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.Ngoài ra còn có một số văn bản khác của Tổng cục Địa chính , Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.. Theo đó, quản lý Nhà nước về hải quan đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ có những thay đổi phù hợp, đảm bảo thực hiện tốt định hướng của Nhà nước. 2. Cơ sở về khoa học kỹ thuật. Chính Phủ Việt Nam chủ trương tạo lợi thế về hạ tầng cơ sở và cả hạ tầng kinh tế xã hội để khuyến khích FDI. Các doanh nghiệp sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế, giá, phí để hướng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có tỉ lệ nội địa hoá cao. 3. Cơ sở về điều kiện tự nhiên, xã hội. Việt Nam là một quốc gia ở Đông Nam á có điều kiện tự nhiên tương đối ưu đãi song trình độ phát triển kinh tế xã hội còn thấp. Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới tránh nguy cơ tụt hậu.Nếu có những quyết sách táo bạo Việt Nam sẽ đủ sức cạnh tranh với các nước khác trong lĩnh vực tranh thủ đầu tư nước ngoài và sẽ trở thành miền đất lành cho các nhà đầu tư tìm đến. Trong tình hình hiện nay, Việt Nam đang phấn đấu phát triển FDI theo hướng tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến khoáng sản, phát triển nông thôn, nhằm hiện đại hoá, công nghiệp hóa nông ngiệp, hướng FDI vào xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp có công nghệ cao, quan tâm thu hút FDI vào các lĩnh vực kinh doanh vừa và nhỏ, tạo công ăn việclàm cholao động trong nước. HIện nay, vốn FDI vẫn chủ yếu tập trung vào một số địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, nơi có nhiều cơ sở sản xuất sẵn có và có cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội tương đối phát triển như thành phố Hồ Chí Minh 9.643 triệu USD, Hà Nội 7.699 triệu USD, Đồng Nai 4.494 triệu USD, Bình Dương 2.284 triệu USD..Tuy vậy, cơ cấu lãnh thổ cũng ngày càng cân đối hơn. Nếu trong những năm đầu, đầu tư ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% vốn đầu tư, thì tính đến nay, các tỉnh phía Bắc đã thu hút được 31% số dự án với 36% vốn đầu tư. Trong tổng số 61 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước thì đã có 60 địa phương có dự án đầu tư nước ngoài. Điều này có thể giải thích được là do mỗi địa phương đều có thế mạnh riêng về tiềm năng, nhưng quan trọng là do Nhà nước đã có những điều chỉnh thích hợp, kịp thời về chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư và do công tác vận động đầu tư ngày càng chủ động hơn.Việt Nam với những tiềm năng về nhân công lao động, các tiềm năng sẵn có đặc biệt là các dự án vào vùng núi phía Bắc hay Tây Nguyên, Chính phủ đã có qui hoạch tổng thể về đầu tư nước ngoài công bố các ngành, lĩnh vực và các dự án đầu tư được hưởng chế độ ưu tiên các vùng được ưu tiên tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Ngành hải quan là một trong những cơ quan hành chính Nhà nước liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết là làm cho ngành hải quan thực sự thành nhịp cầu nối để doanh nghiệp vươn xa ra thị trường thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường vào Việt Nam. Định hướng phát triển ngành hải quan Việt Nam chính là xây dựng một lực lượng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt theo hướng thường xuyên đáp ứng được những đòi hỏi thực tế phức tạp của tình hình hiện nay và là nhiệm vụ hàng đầu nhằm đưa hải quan Việt Nam tiến lên chính qui hiện đại, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Lực lượng hải quan chính là lực lưọng thi hành và bảo vệ pháp luật, các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ nền kinh tế đối ngoại bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia nên công tác xây dựng lực lượng hải quan đóng một vai trò hết sức quan trọng và cần thiết quyết định mức độ và chất lượng công tác quản lý nhà nước về hải quan. II Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.Cải thiện môi trường pháp lý. Chúng ta cần cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư pháp lý đối với hoạt động đầu tư. Điều này là cần thiết đối với mọi quốc gia coi trọng hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nguồn vốn trực tiếp nước ngoài tạo đà cho nền kinh tế phát triển và phát huy nội lực kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo lòng tin của các nhà đầu tư vào Việt Nam. Trước mắt cần hoàn thiện hơn nữa các bộ luật liên quan đến đầu tư nước ngoài nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng làm căn cứ để theo dõi và quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như làm căn cứ để thực hiện các hoạt động đó. Cải tiến phương pháp hạch toán kế toán, kiểm toán, hoàn thiện hệ thống ngân hàng trong cả nước để hoà nhập giao lưu với quốc tế và khu vực tạo cơ sở niềm tin cho khách hàng đầu tư nước ngoài. Đồng thời, khi thực hiện ban hành các văn bản, qui định phải nhất quán, rõ ràng cụ thể, tránh những quy định chung chung, thậm chí trái ngược nhau gây lúng túng cho hải quan khi xử lý, bị động trong thực hiện chỉ đạo. Để thống nhất trong chỉ đạo của ngành, cần phải có những văn bản có giá trị hiệu lực cao, có sự phân cấp trách nhiệm quản lý của từng ngành đối với từng nội dung quản lý tránh sự đùn đẩy về những vấn đề phát sinh, thiếu ý kiến chỉ đạo. Ngoài ra, cần có những qui định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về việc xử lý các hành vi vi phạm, kể cả những hành vi bao che, dung túng, thông đồng để gian lận thương mại trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy không ít nhà đầu tư, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã nhập khẩu nhiều, sử dụng ít nhằm trốn thuế mà không phải chịu một hình phạt nào. Việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực hải quan phải có tác dụng giáo dục răn đe đồng thời thể hiện tính công bằng của pháp luật, tính nghiêm minh trong các qui định của nhà nước, từ đó thực hiện tốt chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta. Chính phủ cũng cần có những qui định về xử lý khi các bộ ngành ban hành văn bản nào không phù hợp gây khó khăn cho hoạt động đầu tư nước ngoài thì bộ, ngành đó phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ tránh hiện tượng đổ lỗi cho nhau đặc biệt là cho hải quan như hiện nay. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính theo hướng tiếp tục đơn giản hoá, giảm bớt các thủ tục không cần thiết, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. Công tác tuyên truyền pháp luật hải quan và pháp luật liên quan đến công tác hải quan cần tiến hành triệt để và sâu rộng đến các nhà đầu tư làm cho họ nắm được những thông tin nhanh chóng về những thay đổi trong lĩnh vực thuế và làm tốt nghĩa vụ đóng thuế. 2. ổn định chính trị, xã hội, môi trường kinh tế. Duy trì và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị, xã hội, phát triển nền kinh tế mở, không ngừng mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa hình thức đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân thông qua các chương trình, kế hoạch có tính hướng dẫn và hệ thống chính sách kinh tế điều chỉnh gián tiếp theo các chương trình đó. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đỗi ngoại. Khi một quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thì quốc gia đó đã trở thành một bộ phận của cơ cấu kinh tế quốc tế. Theo sự phân công lao động quốc tế thì mỗi nước sẽ chuyên môn hoá sản xuất ở một hay một số ngành mà họ có lợi thế hơn và ngành đó sẽ trở thành ngành mũi nhọn của họ. Sau đó thông qua trao đổi và hợp tác với nhau, mỗi nước sẽ phát huy thế mạnh của mình và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Khi đã hình thành mối liên hệ liên kết, hợp tác và phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các nước có thể bố trí cơ cấu kinh tế, không cân đối tức là chỉ tập trung vào phát triển các ngành mũi nhọn, có nhiều tiềm năng và có thể kéo nhanh nền kinh tế đI vào quĩ đạo phát triển. Một cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả xét trên quan điểm của nền kinh tế mở phảI có khả năng dịch chuyển nhanh và thoả mãn các đòi hỏi của mô thức cạnh tranh hiện đại, bảo hộ mọi hình thức sở hữu hợp pháp và quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực đầu tư phát triển. 3. Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hải quan và tổ chức bộ máy hải quan hoạt động có hiệu quả. 3.1 Cơ sở pháp lý. Trước hết, luật hải quan cần tránh chồng chéo mâu thuẫn với các bộ luật khácvà khi ban hành các thông tư nghị định cần phải tránh chồng chéo về mặt trách nhiệm theo dõi, giám sát quản lý giữa các cơ quan bộ ngành tổ chức nhằm tạo điều kiện hợp tác và giúp đỡ ngành hải quan thực hiện tốt công tác của mình vì công tác của ngành liên quan đến rất nhiều cơ quan bộ ngành khác. Ngoài ra, hệ thống cơ sở pháp lý, lý luận công tác hải quan cần phải đảm bảo tính khoa học thực tiễn phục vụ đắc lực cho đường lối kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá với nước ngoài góp phần giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích chủ quyền và an ninh quốc gia. Trong tình hình hiện nay cần tiếp tục đầu tư mọi nguồn lực cho việc đưa Luật Hải quan vào cuộc sống, theo dõi, rà soát, kiến nghị hoàn chỉnh việc xây dựng đầy đủ các văn bản hướng dẫn Luật Hải quan, các văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu để trình hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền ban hành. 3.2 Thể lệ thủ tục và các quy trình nghiệp vụ. Hiện nay thể lệ thủ tụcvà các quy trình nghiệp vụ hải quan cần được cải cách, hoàn thiện, tinh giản hơn nữa.Thể lệ thủ tục hải quan là các qui tắc quản lý nhà nước về hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn vừa có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu. Một quy định thủ tục phù hợp gắn chặt với thực tiễn sẽ đưa lại hiệu quả: vừa đảm bảo thực thi đúng pháp luật, ngăn chặn buôn lậu, gian lận thương mại tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài. Ngược lại sẽ gây tác hại cho các hoạt động này, giảm lòng tin của khách hàng, các nhà đầu tư đối với chính sách luật lệ của Nhà nước Việt Nam.Một ví dụ cụ thể về việc cần thay đổi và hoàn thiện hơn nữa thủ tục và nghiệp vụ hải quan , hải quan các tỉnh, thành phố cần có biện pháp để phát hiện kịp thời những trường hợp gian lận trong việc khai báo định mức của các doanh nghiệp gia công xuất khẩu và sản xuất xuất khẩu, nhất là những mặt hàng có thuế suất thuế nhập khẩu cao như mặt hàng may mặc, kính xây dựng..Những trường hợp nghi vấn doanh nghiệp khai báo định mức không đúng so với thực tế thì phải tiến hành kiểm tra ngay hoặc phối hợp với cơ quan thuế địa phương để tổ chức kiểm tra tại doanh nghiệp hoặc trưng cầu cơ quan giám định chuyên ngành. Trường hợp phát hiện có gian lận thì xử lý truy thu thuế, phạt theo Luật thuế và pháp luật hiện hành. Tiến hành ngay việc kiểm tra sau thông quan đỗi với các trường hợp đủ điểu kiện áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo làm tròn chức năng nhiệm vụ quản lý và đấu tranh, để hoà nhập được với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới, ngành hải quan phải hiện đại hoá công tác hải quan cả về phương tiện kỹ thuật và con người. Cần tạo cơ sở hạ tầng phù hợp cho hải quan thực hiện tốt công tác theo dõi hàng hoá trong tình hình ngày một phức tạp hiện nay. Tích cực đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý. Tin học hoá công tác hải quan. Cải cách, đổi mới thủ tục hải quan không thể chung chung mà đòi hỏi phải có trọng tâm , trọng điểm và xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ thực tế. Cải cách do vậy cần tập trung thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là: hợp lý hoá có nghĩa là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành chức năng và cơ quan lập pháp trong việc ban hành các qui định về quản lý xuất nhập khẩu; thống nhất hoá thủ tục hải quan - trách nhiệm của cơ quan hải quan; đơn giản hoá thủ tục hải quan. Công tác hải quan của Việt Nam không chỉ cần tương xứng với tình hình kinh tế phát triển và hội nhập mà còn phải đặt trong sự phát triển của khu vực. Thể lệ thủ tục hải quan biều hiện văn minh của một quốc gia vì vậy cùng với việc gấp rút hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu và hải quan, cần nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực hải quan. Trong vấn đề làm thủ tục hải quan cần có một số qui định đặc biệt có thể được coi như những hình phạt đối với những doanh nghiệp đã từng vi phạm pháp luật về hải quan một cách cố ý. Điều này rất cần thiết vì phải có ranh giới rõ ràng giữa những doanh nghiệp làm ăn chân chính với những doanh nghiệp, nhà đầu tư không chân chính tạo điều kiện thông thoáng về thủ tục nhưng không để những kẽ hở cho những kẻ làm ăn gian dối lợi dụng gây rối thị trường Việt Nam. Tăng cường hướng dẫn,kiểm tra, thanh tra việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính; việc thực hiện các qui trình nghiệp vụ Hải quan tại các đơn vị cơ sở trong ngành, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Lãnh đạo các cấp trong ngành; phát hiện và giảI quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết đỗi với những trường hợp vượt quá thẩm quyền của Ngành. Xử lý kiên quyết, kịp thời và nghiêm túc đỗi với các trường hợp cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, làm trái qui trình nghiệp vụ. 3.3 Thủ tục hành chính, công tác tổ chức cán bộ. Cần phải đổi mới công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hoá và tự động hoá công tác hải quan, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan. Tức là phải tinh giảm biên chế, gọn nhẹ tổ chức, tiêu chuẩn hoá cán bộ, dân chủ công khai, công bằng, mạnh dạn trong giao việc và đề bạt cán bộ. Trong hoạt động của guồng máy Nhà nước, thủ tục hành chính là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan Nhà nước xem xét, giải quyết công việc của nhân dân theo pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho dân. Tuy nhiên thủ tục hải quan cần hết sức chú ý đến vấn đề thủ tục hành chính rườm rà không thống nhất và tệ cửa quyền làm suy giảm lòng tin đối với nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính về hải quan chính là đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên hải quan, cải tiến các qui trình nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật kiểm tra giám sát nâng cao hiệu quả quản lý. Đây là quá trình đào tạo lâu dài và phức tạp, gắn liền với cải cách bộ máy hành chính quốc gia.Việc cải tiến thủ tục hành chính về hải quan theo hướng đơn giản hoá cần quán triệt ở tất cả các khâu công tác và mang tính thực tế chứ không chỉ chạy theo hình thức chung chung. Mục tiêu tiên quyết là giảm thời gian chờ đợi cho doanh nghiệp, giải phóng nhanh hàng hoá mà vẫn quản lý đúng pháp luật. Để đạt được điều này có thể kết hợp rà soát công tác cải cách thủ tục hành chính với việc áp dụng tin học để bỏ một số khâu không cần thiết trong dây truyền thủ tục Hải quan với việc áp dụng tin học để bỏ một số khâu không cần thiết trong dây truyền thủ tục Hải quan. Phấn đấu thời gian làm thủ tục Hải quan tối đa cho lô hàng xuất khẩu phải kiểm tra còn 1 đến 2 tiếng; lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra giảm xuống tối đa chỉ còn 4 đến 6 tiếng. Trong công tác tổ chức cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp tại các đơn vị có ý nghĩa quyết định hiệu quả công tác quản lý hải quan đối với hoạt động hàng hoá đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy ở đơn vị nào, cục hải quan nào cán bộ lãnh đạo chú trọng tới công tác xây dựng lực lượng nâng cao năng lực công tác cho đơn vị, đi sâu, đi sát quan tâm chỉ đạo sâu sát việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao của đơn vị mình thì nơi đó công tác kiểm tra giám sát hải quan càng mang lại hiệu quả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Ngược lại, ở những đơn vị nào thiếu sự chỉ đạo thường xuyên thì công tác quản lý lỏng lẻo, những trường hợp tiêu cực xảy ra nhiểu, không hoàn thành nhiệm vụ, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Ngoài ra, cần kiên quyết sửa đổi bổ sung lề lối làm việc, thay thế các quy trình, quy chế làm việc của Ngành, của các đơn vị đến nay không còn phù hợp, trước hết là ở cơ quan Tổn cục, đảm bảo tuân thủ sự lãnh đạo, điều hành và các qui định của Bộ Tài Chính và của Tổng cục Hải quan; thực hiện việc bỏ cấp Phòng để nâng cao năng lực, hiệu quả công tác tham mưu, hướng dẫn, xử lý của các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục. 3.4 Vấn đề xây dựng lực lượng. Một vấn đề hết sức quan trọng là nguồn lực con người. Cần coi phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả là một yếu tố chiến lược then chốt. Rà soát phân loại, tiêu chuẩn hoá lực lượng cán bộ nhân viên hải quan, xây dựng một lực lượng hải quan trong sạch vững mạnh. Tức là không chỉ xây dựng một lực lượng hải quan đủ tài năng, trình độ được đào tạo nghiệp vụ phù hợp đáp ứng yêu cầu của công việc mà còn phải có đủ phẩm chất, lòng yêu nghề và đủ bản lĩnh tránh mọi cám dỗ vật chất và đối phó với những tình huống gặp phải trong nghề nghiệp. Mặt khác, cán bộ ở nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại nhất là về mặt trình độ quản lý kinh tế, ngoại ngữ. Chú trọng ngay từ khi tuyển chọn đội ngũ cán bộ nhân viên theo hướng lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt được đào tạo cơ bản tại các trường đại học, những cán bộ có năng lực và chuyên môn thích hợp tăng cường vào các khâu công tác nghiệp vụ. Kiên quyết đưa ra khỏi ngành những “con sâu làm rầu nồi canh” không đủ phẩm chất hay năng lực công tác. Coi trọng công tác đào tạo tập huấn và huấn luyện nghiệp vụ ở các khâu công tác. Đối với việc quản lý hàng hoá đầu tư nước ngoài rất cần những cán bộ hải quan có kiến thức chuyên sâu về thương phẩm học, có tính kiên trì, ý thức trách nhiệm cao với công việc. Có chế độ thưởng phạt vật chất nghiêm minh để khuyến khích động viên những cán bộ nhân viên có hiệu quả công tác cao đồng thời đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực tạo lòng tin trong quần chúng, khách hàng. Do cơ quan hải quan là người đại diện cho Việt Nam làm việc với các tổ chức cá nhân nước ngoài có liên quan tại cửa khẩu nên cần có thái độ đúng đắn ứng xử công việc một cách văn minh trung thực tuân thủ pháp luật tránh gây ảnh hưởng xấu đến uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, đảm bảo niềm tin của họ với hải quan. Thêm vào đó, cần quan tâm đúng mức đến quyền lợi kinh tế, chính trị của cán bộ, nhân viên hải quan; thực hiện tốt chính sách cán bộ, chăm sóc chu đáo và tạo điều kiện thuận lợi để ổn định và cải thiện đời sống cán bộ trong toàn ngành.Việc thực hiện tốt chính sách này góp phần quan trọng trong xây dựng lực lượng có tính chất quyết định sự vững mạnh của lực lượng hải quan . Ngoài ra, đây còn là yêu cầu cấp bách đặt ra và còn là trách nhiệm của lãnh đạo trong toàn lực lượng. Trong những năm tới, những công việc cần làm là: Tiếp tục thực hiện quy hoạch cán bộ và bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, kết hợp với việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và năng lực. Đổi mới quan điểm về công tác đào tạo, đào tạo phải có địa chỉ, phải xuất phát từ yêu cầu của công việc kể cả trước mắt cũng như lâu dài. ưu tiên và coi trọng việc đào tạo những công chức có đủ trình độ năng lực điều hành, quản lý và phẩm chất đạo đức đáp ứng các yêu cầu của công cuộc hội nhập, hiện đại hoá và cải cách thủ tục Hải quan. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục danh dự, trách nhiệm nghề nghiệp và công tác thi đua cho cán bộ, công chức Hải quan. Đề cao năng lực điều hành, trách nhiệm quản lý, của các cấp lãnh đạo, đặc biệt coi trọng việc chấp hành và thực hiện chế độ thông tin báo cáo của cấp dưới với cấp trên đi đôi với việc cá thể hoá trách nhiệm thực thi công vụ của qui chế dân chủ, giữ vững mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa thủ trưởng đơn vị với các cấp uỷ Đảng, chấp hành các đoàn thể để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan. 3.5 Xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế về hải quan. Trong thời đại toàn cầu hoá thông tin có sự cạnh tranh thương mại quyết liệt công tác xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế vể hải quan nhằm phục vụ cho chủ trương của Đảng và Nhà nước là đổi mới cơ cấu kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để trao đổi, học tập kinh nghiệm, nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức về quy trình quản lý, điều hành và kỹ năng tác nghiệp, nâng cao trình độ lý luận, từng bước hiện đại hoá công tác hải quan xây dựng một lực lượng chính qui trong sạch vững mạnh. Cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác với Hải quan các nước, nhất là Hải quan các nước, nhất là Hải quan các nước trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, một số nước công nghiệp phát triển trong việc đào tạo nghiệp vụ Hải quan, trao đổi kinh nghiệm quản lý, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực. Chủ động chuẩn bị để thực hiện cam kết, tham gia các Công ước về lĩnh vực Hải quan trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Đồng thời, xây dựng lực lượng hải quan Việt Nam cần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng lực lượng đồng bộ trên cơ sở kế thừa chọn lọc, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đổi mới và hiện đại hoá công tác hải quan, phấn đấu phát triển ngang tầm các nước tiên tiến trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt lợi ích của nhân dân, lợi ích và chủ quyền quốc gia theo đúng chức năng nhiệm vụ quyền hạn của hải quan. 4.Cụ thể hoá các chính sách đầu tư. Cần có chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư nhưng cũng cần quan tâm đến những qui định chặt chẽ về quản lý đầu tư nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng nhằm phân định trách nhiệm chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh sự hợp tác giữa các cơ quan liên quan khắc phục sự bất cập trong năng lực quản lý của các cấp đỗi với hoạt động này. Trước mắt cần chú trọng đến rà soát lại các văn bản hiện hành xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ công tác giữa các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan đỗi với hàng hóa đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó vừa quản lý tập trung thống nhất đỗi với nguồn vốn nước ngoài đồng thời quản lý toàn diện, triệt để từ lúc hình thành, thẩm định đến khâu thực hiện dự án. Ngoài ra, các cơ quan Nhà nước có chức năng còn phải đẩy mạnh kiểm tra định kỳ, kiên quyết xử lý, kể cả kiểm tra rút giấy phép đối với các trường hợp dây dưa không triển khai dự án theo qui định hiện hành. Ví dụ như cần có các văn bản qui định rõ ràng về việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ Thương Mại, của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cùng các văn bản chấp thuận nhập khẩu khác của Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động và của cơ quan chuyên ngành khác nhằm giúp các nhà đầu tư, Hải quan trong việc giải quyết các vấn đề liên quan. Mặt khác, về qui hoạch và định hướng thu hút vốn, cần xác định trọng tâm và trọng điểm đầu tư qui hoạch theo ngành, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế và mục tiêu dự án phải được đặt lên hàng đầu. Hiện nay, các xí nghiệp liên doanh đầu tư chỉ hầu hết tập trung nhiều ở một số tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng như điện, nước, đường xá giao thông thuận tiện, mặt bằng đất đai. Các lĩnh vực đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài hầu hết chỉ tập trung ở các mặt hàng có lợi thế về xuất khẩu ( lãi nhiều). Vì vậy hiện tại các mặt hàng ở lĩnh vực gia công chế biến hàng nông sản, các dự án đầu tư ở vùng sâu vùng xa thì chưa có nhà đầu tư nào dám đầu tư vì thu hồi vốn chậm, hiệu quả đầu tư thấp, nguy cơ rủi ro lớn…Do công tác qui hoạch còn chậm, chất lượng qui hoạch không cao nên việc cấp giấy phép cho nhiều dự án chưa chuẩn. Giấy phép được cấp cho các dự án sản xuất cùng một loại sản phẩm có khi vượt quá xa nhu cầu thị trường như: khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, lắp ráp ô tô, sản phẩm nghe nhìn, điện dân dụng, chất tẩy rửa…công suất huy động thực tế trong ngành khách sạn văn phòng cho thuê đạt 25-30%, ô tô đạt 10%.. 5.Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật. Công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật không chỉ dừng lại ở thông báo các chính sách pháp luật mới đưa ra mà còn phải thông báo kịp thời về thời gian thực hiện hay áp dụng, kế hoạch thực hiện nhằm giúp cho các doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách chủ trương, theo đúng pháp luật. Việc này không chỉ dừng lại ở những phương tiện thông tin đại chúng mà còn phải có những khoá đào tạo về chính sách mới như về thuế..tổ chức những hội thảo để giải đáp những thắc mắc, những thay đổi cho phù hợp tinh hình mới. Ngoài ra, việc thực hiện công tác tuyên truyền chính là duy trì mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp giúp họ hiểu rằng luật pháp và các qui định, chính sách đưa ra là bảo đảm cho lợi ích của chính họ. Tuy nhiên khi thực hiện tuyên truyền cần phải có thời gian cho các doanh nghiệp chuẩn bị trong một khoảng thời gian nhất định để thích nghi dần với chế độ chính sách mới. 6.Tăng cường hợp tác quốc tế. Trong điều kiện đất nước như hiện nay việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nhưng không ngừng phát huy nội lực là hết sức cần thiết. Tăng cường hợp tác quốc tế nói chung và tăng cường hợp tác quốc tế về hải quan nói riêng góp phần tăng cường trao đổi thông tin thương mại quốc tế tạo nguồn cơ sở dữ liệu nghiệp vụ, cũng như tạo những cơ hội học tập và trao đổi kinh nghiệm qua các đợt công tác, hội thảo, tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ quản lý của hải quan tham gia tích cực vào hoạt động của tổ chức quốc tế, ngày càng nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Kết luận Từ năm 1988 hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu có ở Việt Nam và đã trở thành một bộ phận quan trọng có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại của Việt Nam. Có thể nói việc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo thuận lợi cho việc nâng cao vị thế hội nhập của đất nước với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên hiện nay, sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN trên thế giới và khu vực gia tăng mạnh mẽ, nhất là sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước ASEAN, trong khi tỷ lệ ĐTNN vào các nước đang phát triển nói chung, vào khu vực ASEAN giảm mạnh. Đồng thời những nền kinh tế có mức ĐTNN lớn vào Việt Nam như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc những năm qua gặp nhiều khó khăn nên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của những nước này. Thêm vào đó môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sức cạnh tranh thu hút ĐTNN. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế của khu vực và quốc tế Việt Nam phải có hệ thống chính sách pháp luật phù hợp với tình hình, đáp ứng điều kiện kinh tế của đất nước. Ngành Hải quan là một trong những cơ quan hành chính Nhà nước liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết là làm cho ngành Hải quan thực sự thành nhịp cầu nối để doanh nghiệp vươn xa ra thị trường thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường vào Việt Nam. Như vậy, để đáp ứng nhiệm vụ khó khăn này cán bộ nhân viên Hải quan phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế đối ngoại, ngoại giao, pháp luật, tâm lý, ngoại ngữ, thương phẩm học..đồng thời nắm vững nghiệp vụ. Phải rất coi trọng nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, xây dựng phương pháp làm việc khoa học, tập trung xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh Chuyên đề với kết cấu gồm ba chương đã hệ thống hóa một số qui định của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ đó đề cập đến tình hình quản lý của Hải quan đến hoạt động này và đưa ra một số gợi ý về giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề được đề cập đến trong chuyên đề, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, còn hẹp và tính khái quát chưa cao. Để giải quyết một cách triệt để và toàn diện vấn đề cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về cả lý thuyết và thực tiễn từ đó sẽ đóng góp được ít nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Tài liệu tham khảo Báo cáo tổng kết của Tổng cục Hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu sau 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm của Tổng cục Hải quan Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2002 và những giải pháp chính năm 2003 – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các văn bản pháp luật về Hải quan – NXB chính trị quốc gia ( 1997) Các qui định pháp luật về chế độ chính sách xuất nhập khẩu – NXB chính trị quốc gia ( 1998) Công báo các năm 1997 đến nay Đầu tư nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam – NXB Thống Kê ( 1997) Pháp lệnh Hải quan ( 1995) Tạp chí Hải quan Việt Nam Tạp chí Đầu tư Website: Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Những vấn đề lý luận chung 3 I. Khái niệm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 1. Khái niệm 3 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 3 II. Khái niệm hải quan và chức năng nhiệm vụ của hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 1. Khái niệm hải quan 4 2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 2.1. Những nhiệm vụ chủ yếu của hải quan Việt Nam 4 2.2. Quản lý nhà nước về hải quan 5 2.3. Quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 III. Sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 7 IV. Những quy định của nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 8 1. Đối với hàng hoá dịch vụ phương tiện do chủ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam để góp vốn 8 1.1. Giám sát quản lý hải quan 8 1.2. Thủ tục hải quan 11 1.3. Chế độ thuế được áp dụng 14 1.3.1. Đối tượng được miễn thuế 14 1.3.2. Thủ tục thuế và giá tính thuế 18 2. Đối với hàng hoá dịch vụ nhập khẩu để sản xuất gia công hàng xuất khẩu 21 3. Đối với hoạt động của hải quan tại Khu chế xuất và Khu công nghiệp 26 3.1. Công tác quản lý nhà nước về hải quan 26 3.2. Hoạt động cụ thể của hải quan tại Khu chế xuất Khu công nghiệp 27 Chương II: Tình hình áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 30 I. Khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua 30 II. Thực trạng áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan ở Việt Nam 36 1. Hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 36 1.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 36 1.2. Về phía một số cơ quan, bộ ngành 37 1.3. Về phía ngành hải quan 39 2. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài 41 2.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 41 2.2. Về phía một số cơ quan bộ ngành 42 2.3. Về phía ngành hải quan 44 3. Việc thu thuế hải quan đối với hàng đầu tư trực tiếp nước ngoài 45 3.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 45 3.2. Về phía một số cơ quan bộ ngành 47 3.3. Về phía ngành hải quan 50 III. Những điểm thuận lợi và những khó khăn tồn tại trong việc áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan ở Việt Nam 54 1. Những thuận lợi 54 2. Những khó khăn 55 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đôi với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 60 I. Cơ sở của việc hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 60 1. Cơ sở về mặt chính sách luật pháp 60 2. Cơ sở về khoa học kỹ thuật 62 3. Cơ sở về điều kiện tự nhiên xã hội 62 II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 63 1. Cải thiện môi trường pháp lý 63 2. ổn định chính trị xã hội, môi trường kinh tế 65 3. Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hải quan và tổ chức bộ máy hải quan hoạt động có hiệu quả 65 3.1. Cơ sở pháp lý 65 3.2. Thể lệ thủ tục và các quy trình nghiệp vụ 66 3.3. Thủ tục hành chính công tác tổ chức cán bộ 68 3.4. Vấn đề xây dựng lực lượng 69 3.5. Xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế về hải quan 71 4. Cụ thể hoá các chính sách đầu tư 72 5. Đẩy mạnh công tác, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật 73 6. Tăng cường hợp tác quốc tế 73 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 77

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29731.doc
Tài liệu liên quan