Tính chất bao cấp trong chi NSNN thể hiện ở chỗ Nhà nước đứng ra đảm nhận trang trải toàn bô các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các hoạt động xã hội. Với khả nang thu nguồn kinh phí và nguồn dự trữ hạn hẹp việc làm này không tránh khỏi nhiều tiêu cực. Chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước có chức năng và vai trò điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, thực hiện đổi mới chính sách tài chính quốc gia, xoá bỏ ngay tình trạng bao biện, bao cấp có như vậy mới khắc phục được những khó khăn bị động, tuỳ tiện và kém hiệu quả từ phía NSNN và các bên được NSNN cấp.
- Về kinh tế đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh cần chấm dứt trợ giúp thông qua cơ chế cấp phát vốn lưu động, cho vay ưu đãi, bù lỗ, bù giá, bù lương triền miên, chi thực hiện phân phối và sử dụng vốn theo hạch toán kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp tách riêng chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh, xoá bỏ bao cấp trong các hoạt động kinh tế phải đi đôi với việc ban hành các chế độ chính sách, tạo điều kiện kiểm tra các doanh nghiệp có thể huy động được các nguồn vốn không chi từ tín dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh, tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, cá nhân nước ngoài, phát hành trái phiếu., NSNN có thể chuyển một phần vốn đầu tư thành hình thức tín dụng góp liên doanh bằng vật tư thành hình thức tín dụng góp liên doanh bằng vật tư tài sản vốn hiện có. Cải tiến cơ chế quản lý doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp của NSNN, có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau cho phù hợp với điều kiện thực tế, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp đáng chú ý.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi ngân sách nhà nước và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tích lũy của nền kinh tế là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế của ngân sách, khả năng tích luỹ càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng lớn. Đương nhiên việc đầu tư của ngân sách cho đầu tư phát triển kinh tế tuỳ thuộc vào khả năng tập trung nguồn tích luỹ và NSNN và chính sách chi của NSNN trong từng giai đoạn lịch sử.
- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong từng giai đoạn lịch sử.
- Sự biến động về tình hình giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái.
2.3. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước.
Cơ cấu chi NSNN được hiểu là hệ thống các khoản chi ngân sách bao gồm: các khoản chi và tỷ trọng của nó. Hệ thống chi NSNN rất đa dạng và phong phú và luôn luôn biến động theo tình hình kinh tế - xã hội, chính trị, có nhiều cách phân loại các khoản chi NSNN tuỳ theo các tiêu thức khác nhau. Phân loại ở đây có nghĩa là sắp xếp các khoản chi NSNN có cùng tính chất, cùng mục đích thành các loại chi. Nếu căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi, người ta chia ra các khoản chi bằng hai loại:
- Chi cho đầu tư phát triển sản xuất.
- Chi cho tiêu dùng.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực chi, người ta có thể chia các khoản chi theo các loại:
- Chi cho y tế.
- Chi cho giáo dục.
- Chi cho phúc lợi.
- Chi cho quản lý Nhà nước
- Chi đầu tư kinh tế.
Nếu căn cứ theo yếu tố có thể phân loại các khoản chi thành:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư
- Chi trả khác.
Nếu căn cứ theo chức năng của Nhà nước thì các khoản chi NSNN được phân bằng hai loại:
- Chi nghiệp vụ
- Chi phát triển.
Mục đích phân loại này để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các chức năng của Nhà nước thông qua các khoản chi.
2.4. Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN.
- Nguyên tắc thứ nhất: gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi.
- Nguyên tắc thứ hai: tiết kiệm, có hiệu quả.
- Nguyên tắc thứ ba: tập trung vốn có trọng điểm.
- Nguyên tắc thứ tư: thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Nguyên tắc thứ năm: Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp theo luật để bố trí các khoản chi thích hợp.
- Nguyên tắc thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ chi NSNN với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ gía hối đoái để tạo nên sức mạnh tổng hợp tác động đến kinh tế vĩ mô.
3-/ Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH.
3.1. Thực trạng của chi NSNN
- Trong giai đoạn 1986 - 1995 chính sách phân phối NSNN đã có nhiều đổi mới tích cực, góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền kinh tế - xã hội.
- Chi ngân sách ngày càng tăng đã phục vụ có kết quả việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cơ cấu chi đã từng bước thay đổi một cách hợp lý hơn, tình trạng bao cấp qua chi ngân sách được thu hẹp dần.
- NSNN coi trọng đầu tư cho phát triển, tiết kiệm chi tiêu dùng tăng chi tích luỹ cho đầu tư phát triển. Năm 1994 thặng dư thu chi thường xuyên của NSNN dành cho đầu tư đã đạt 3,4% so với GDP chiếm 55% tổng chi của NSNN cho đầu tư phát triển tăng gấp 3 lần so với năm 1990, 2 lần so với năm 1991. Trong năm 1999, chi đầu tư phát triển tăng 38,7% so với dự toán. Số tăng chi này chủ yếu là để thực hiện kích cầu thông qua việc bổ sung vốn cho các công trình cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng giao thông ở các tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu và củng cố nhiều khó khăn, cũng trong năm 1999, chi thường xuyên đạt 102,1% dự toán năm. Trong đó chú trọng tăng chi cho giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ như tinh thần nghị quyết TW 2, cắt giảm chi quản lý hành chính đồng thừi đảm bảo củng cố quốc phòng, an ninh đối ngoại.
- NSNN đã chú trọng đầu tư cho chiến lược con người trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, bảo đảm chi cho việc thực hiện các chính sách xã hội.
Đây là một trong những mục tiêu quan trọng đẩy mạnh CNH - HĐH. Quyết định sự thành công hay thất bại của CNH - HĐH.
- Cùng với việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng, NSNN chú trọng chi cho việc duy tu, bảo dưỡng, nâng dần tính hiệu quả sử dụng của hệ thống hạ tầng.
- Đồng thời, đã đảm bảo kinh phí cho nhiệm vụ chiến lược bảo vệ tổ quốc, an ninh quốc gia.
Trong giai đoạn này, bội chi NSNN đã có xu hướng giảm dần qua từng thời kỳ 1986 - 1990: 7,7% so với GDP; 1991 - 1995: 4,3% so với GDP. Theo con số mới nhất, bội chi NSNN vào năm 1999 được kiềm chế trong kiểm soát và có tác động tích cực đối với quá trình kích thích tăng trưởng, chống thiểu phát, nâng cao sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế. Bội chi NSNN năm 1999 là 4,9%, cao hơn mức bội chi năm 1998 (3,6% GDP) và mức Quốc hội cho phép hồi đầu năm (3,5% GDP). Đặc biệt, đây là năm thứ 8 chúng ta không phát hành thêm tiền mà vay trong nước thông qua phát hành tín phiếu kho bạc và vay ưu đãi nước ngoài (ODA) để bù đắp bội chi, và toàn bộ phần bù đắp bội chi dành cho đầu tư phát triển, nhờ vậy đã góp phần quan trọng vào giảm lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Như vậy, bội chi NSNN được kiềm chế trong tầm kiểm soát và có tác động tích cực đối với quá trình kích thích tăng trưởgn, chống thiểu phát, nâng cao sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế.
- Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá IX nước CHXHCNVN đã thông qua luật NSNN. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về quản lý ở Việt Nam. Theo tinh thần của luật NSNN, việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả các khoản chi NSNN là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thuộc NSNN. Công tác kiểm soát, thanh toán chi trả các khoản chi ngân sách của KBNN là công đoạn cuối cùng để hoàn thành quy trình kiểm soát chi NSNN. Đây là khâu chủ yếu có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cho tiền vốn chi ra của NSNN được sử dụng vào mục đích đã định một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Nhờ những quy định chặt chẽ này, việc điều hành NSNN trở nên có hiệu quả hơn và chi mua sắm, sửa chữa của các đơn vị đã được quản lý một cách chặt chẽ bằng cơ chế đấu thầu (đối với hợp đồng có giá trị > 100 triệu. Đối với các khoản chi thường xuyên khác thì thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải tự chịu trách nhiệm, KBNN chỉ kiểm tra thanh toán theo bảng kê chứng từ, chính vì vậy đã tạo ra tính chủ động cho đơn vị thụ hưởng ngân sách, tạo sự thông thoáng trong việc quản lý chi thường xuyên của đơn vị.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chi ngân sách còn những tồn tại và hạn chế sau:
- Quản lý NSNN thiếu tập trung, thống nhất: nhiều nguồn lực tài chính không được động viên vào NSNN còn phân tán chia cắt, sử dụng hết sức lãng phí, kém hiệu quả đặc biệt là tài nguyên, khoáng sản, đất đai, nhà cửa và các loại bất động sản khác bị mất mát, tổn thất rất lớn, một bộ phận không nhỏ đã biến thành tài sản phường hội của một nhóm người và cá nhân.
- Mặc dù tốc độ thu ngân sách tăng nhanh, liên tục song tình hình chi ngân sách vẫn luôn căng thẳng, vì tiềm lực của ngân sách vẫn còn rất hạn chế nhưng phải chịu sức ép tăng chi của cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. ở đây cần phải nói thêm rằng, giai đoạn trước khi có luật NSNN (từ năm 1990 đến 1996), việc cấp phát ngân sách bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính còn khá phổ biến ở các cấp ngân sách, đặc biệt là ngân sách cấp tỉnh, huyện. Trong trường hợp này, tiền của NSNN được chuyển thẳng vào tài khản tiền gửi của đơn vị dự toán, tồn quỹ ngân sách bị giảm trong khi đơn vị chưa sử dụng ngay số tiền đó. Điều đó một mặt gây căng thẳng giả tạo cho NSNN, mặt khác cơ quan tài chính, kho bạc Nhà nước rất khó khăn trong việc kiểm tra giám sát quá trình chi tiêu của đơn vị.
- Việc quản lý NSNN vẫn còn nhiều yếu kém, nhiều khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Định mức chi không đúng hoặc không rõ ràng, việc cấp phát ngân sách còn qua nhiều khâu, nhiều cấp, thủ tục phiền hà, nhiều sơ hở gây thất thoát lớn cho NSNN, chưa có cơ chế quy định việc kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi thực hiện chi, việc quyết toán ngân sách thực chất chỉ là quyết toán số cấp phát, chưa phải là quyết toán số thực chi ngân sách, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách không được quy định rõ ràng, nên dần đến tình trạng tuỳ tiện, chi sai mục đích vi phạm kỷ luật tài chính. Cơ quan tài chính, KBNN thiếu cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản.
Chi NSNN cơ quan tài chính ra lệnh cấp phát, KBNN thực hiện việc xuất quỹ ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính, đơn vị thụ hưởng thực hiện chi tiêu. Cơ quan tài chính căn cứ nhu cầu chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách để bố trí theo các khoản chi, có phân chia chi tiết theo một số mục chi nhưng chỉ là hình thức, việc điều chỉnh giữa các mục chi do các đơn vị tự động thực hiện dẫn đến tình trạng kiểm soát chi tiêu qua kho bạc Nhà nước rất hạn chế, đặc biệt đối với việc mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên của các đơn vị dự toán. Thời kỳ này (1990 - 1996) cơ chế đấu thầu chưa được triển khai thực hiện nên tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát kinh phí NSNN còn khá phổ biến.
- Tính năng động, sáng tạo của địa phương trong việc tăng thu tiết kiệm các khoản chi chưa được phát huy. Điều này xuất phát từ nhược điểm của phân cấp ngân sách hiện nay, việc phân định nhiệm vụ thu, chi cho ngân sách địa phương không rõ ràng và thường xuyên thay đổi qua các năm.
- Bội chi ngân sách tuy đã giảm, nhưng vẫn còn lớn, việc bù đắp bội chi thực hiện bằng vay trong nước và vay (ODA). Nhưng các khoản vay ngoài nước không được quản lý chặt chẽ, hiệu quả sử dụng kém, khoản vay dân chủ yếu là vay ngắn hạn dưới một năm với lãi suất cao (cứ hơn sau 3 năm thì khoản vay này tăng gấp đôi). Hiện đang là một gánh nặng phải trả đối với NSNN. Đối với các khoản vay ngoài nước thì khó khăn lớn nhất là mức rút vốn thấp và chậm. Các khoản vay dân và vay nước ngoài thấp dần đều phải cắt giảm một phần chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ là nguy cơ đe doạ trực tiếp đối với khả năng tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là đối với sự nghiệp CNH - HĐH sẽ bị ảnh hưởng.
- Tuy nhiên trong tất cả các giai đoạn, tỷ trọng chi tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số chi của NSNN. Tỷ trọng chi tiêu dùng có xu hướng tăng trong từng giai đoạn và tỷ trọng chi tích luỹ có xu hướng giảm đi tương xứng, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1 - Bảng cơ cấu và tỷ trọng chi NSNN
Giai đoạn
Tổng số chi NSNN
Trong đó
Chi tích lũy (%)
Chi tiêu dùng (%)
1956 - 1960
100
54,4
45,6
1961 - 1965
100
56,3
43,7
1966 - 1970
100
46,9
53,1
1971 - 1975
100
40,8
59,2
1976 - 1980
100
39,2
60,8
1981 - 1985
100
31,2
68,8
1986 - 1990
100
33,7
66,3
Nếu tính tổng hợp tất cả các giai đoạn thì chi tích luỹ có tỷ trọng là 43,2%, chi tiêu dùng chiếm 56,8%. Nếu xét cụ thể từng giai đoạn 1956 - 1960 và 1961 - 1965 tỷ trọng chi tích lũy đạt trên 50%, chi tiêu dùng đạt dưới 50%. Từ năm 1966 - 1970 tỷ trọng chi tích luỹ đã giảm mạnh và tỷ trọng chi tiêu dùng tăng lên gần 70%. Đặc biệt trong năm 1990 tỷ trọng chi tích luỹ hạ xuống rất thấp được thể hiện bảng 1.
2-/ Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
NSNN phải động viên hợp lý ở mức cao nhất các nguồn lực của nền kinh tế - xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa động viên tạo ra nguồn lực mạnh để Nhà nước có điều kiện thực hiện những nhiệm vụ chiến lực, với việc bảo đảm tích tụ vốn trong doanh nghiệp, dân cư để họ có thể mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo tích luỹ ngày một lớn cho đất nước. Trong những năm trước mắt, NSNN phải bảo đảm tốc độ tăng chi cho đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, thu trong nước không những đảm bảo cho chi thường xuyên và trả nợ mà còn phải giành một phần cho chi phí đầu tư và phát triển chi của NSNN cho đầu tư phát triển cơ bản giành cho hạ tầng kinh tế: một phần Chính phủ có thể dùng để đầu tư cho một số công trình có ý nghĩa quan trọng dưới hình thức cho vay ưu đãi, hoặc để góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp. Chi của NSNN giành phần thích đáng cho lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục..., các chương trình mục tiêu quốc gia đảm bảo kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện chiến lược con người, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh và quản lý Nhà nước.
Chúng ta sẽ đi sâu phân tích về chi đầu tư và chi thường xuyên.
a, Chi đầu tư phát triển để thực hiện những nội dung CNH - HĐH.
Để nền kinh tế có thể phát triển ổn định và vững chắc, và để đẩy mạnh CNH - HĐH, chi NSNN cho đầu tư phát triển phải đạt mức bình quân khoảng 8% GDP (gần tăng 1/3 đầu tư của toàn xã hội) trong đó, 4 - 5% là nguồn thặng dư thu - chi thường xuyên (tích luỹ từ NSNN); 3 - 4% là nguồn ODA và vay dân. Những năm trước mắt, ngân sách tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng khắc phục một bước tình trạng lạc hậu, yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên đầu tư chiến lược phát triển con người (giáo dục, y tế...) và các chính sách xã hội khác. Đồng thời với đầu tư từ NSNN cần thực hiện các chính sách huy động các nguồn lực từ dân, từ các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Thực hiện tốt chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm. Bố trí NSNN theo nguyên tắc thắt chặt chi tiêu thường xuyên giành chi cho đầu tư phát triển.
Một điều chắc chắn rằng việc phân phối và sử dụng vốn NSNN cho đầu tư và phát triển là không thể thiếu. Hơn nữa trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH thì việc chi NSNN cho đầu tư phát triển lại càng trở nên quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH.
Không ai phủ nhận vai trò to lớn của khoản chi đầu tư từ NSNN đối với nền kinh tế. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, vai trò của Nhà nước trong việc cấp vốn đầu tư ban đầu để hoàn thiện cơ sở kinh tế hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp. Then chốt, là hết sức to lớn để mở đường và định hướng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Nhất là đối với sự nghiệp CNH - HĐH, mặc dù vậy không phải khoản đầu tư nào của Nhà nước cũng góp phần kích thích hoặc làm tăng nhịp độ tăng trưởng tư tưởng chủ quan, nóng vội thường là nguyên nhân của những quyết định sai lầm và lãng phí. Thực tế cũng ghi nhận một hiện tượng mang tính chất “quốc tế” ở các nước đang phát triển là nền kinh tế kém phát triển, vốn đầu tư của Nhà nước càng bị phân tán và càng bị hướng vào những lĩnh vực thiếu vốn.
Trong mấy năm gần đây, đã xuất hiện ngày càng nhiều các ý kiến cho rằng Nhà nước chỉ nên dùng nguồn kinh phí của ngân sách để cấp phát cho các nhu cầu tiêu dùng thuộc chức năng của mình, không nên bao cấp tràn lan, và nhất là không nên để cho các nhà đầu tư tư nhân và các thành phần kinh tế khác thực hiện, về mặt nguyên tắc, quan điểm này có thể hợp lý nhưng nếu nhìn lại thực trạng kinh tế Việt Nam và khả năng nguồn vốn thì nhiều vấn đề còn phải xem xét lại. Nếu theo quan điểm này thì e rằng Việt Nam sẽ khó thực hiện CNH - HĐH.
Trong phần phân tích về CNH - HĐH ta biết rằng: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đặt ra yêu cầu tăng cường hơn nữa nhịp độ gia tăng của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, cần phải đẩy mạnh CNH - HĐH. Để đạt được yêu cầu này, dứt khoát phải có vốn đầu tư. Theo tính toán của các nhà kinh tế, thì trong giai đoạn đầu, một nền kinh tế còn yếu kém, muốn vươn lên, phải có nhịp độ gia tăng vốn đầu tư cao hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Người ta cũng tính được rằng muốn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức 6%/năm (mức tối thiểu để thoát khỏi cảnh nghèo đói) thì một nước có thu nhập thấp phải có vốn đầu tư hàng năm lớn hơn 15% GDP (với ICOR = 2,5%) và 22,5% (với ICOR = 3,75%) trong đó ICOR là tỷ lệ gia tăng vốn so với tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội.
Một vấn đề đặt ra là vốn lấy ở đâu ? Về mặt lý thuyết thì tổng số vốn cho nền kinh tế (vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn: nguồn trong nước VTN và nguồn nước ngoài VNN).
VĐT = VTN + VNN
Vốn trong nước lại có thể hình thành từ vốn đầu tư của Nhà nước (VCF) và tiết kiệm của dân cư (VDC) bao gồm: tiết kiệm của các doanh nghiệp (phần lợi nhuận để tái đầu tư và khấu hao) tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, còn vốn nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư (VTT) và vốn vay hoặc viện trợ (VVT). Vậy tổng hợp khả năng huy động vốn ta có các nguồn sau.
VĐT = (VCF + VDC) + (VTT + VVT)
Tất cả các nguồn vốn trên sẽ được tập trung vào hai khu vực đầu tư. Đầu tư của Nhà nước và đầu tư của tư nhân. Đầu tư của Nhà nước được lấy từ nguồn tiết kiệm của Nhà nước, vay dân, vay và viện trợ nước ngoài, đầu tư của tư nhân lấy từ nguồn vốn tự có của các nhà đầu tư trong nước, vốn đầu tư thông qua huy động cổ phần, liên doanh. Tuy nhiên trong 2 khu vực đó thì đầu tư Nhà nước vẫn giữ vai trò quyết định trong nhiều mặt đối với công trình đầu tư quan trọng và cần thiết để tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và các công trình cần nhiều vốn nhưng hiệu quả kinh tế thấp và thời gian thu hồi vốn dài, không thu hút được các nhà đầu tư tư nhân (trong và ngoài nước) như các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các công trình nhằm cung cấp dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng (điện, nước).
Chúng ta sẽ làm sáng tỏ hơn khi phân tích cụ thể về các khoản chi đầu tư.
+ Trước hết là vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong sự nghiệp CNH - HĐH thì nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng đã thực sự trở nên cấp bách, vì hệ thống này hiện nay đã ở trong tình trạng xuống cấp nặng nề, không những không đáp ứng nhu cầu giao lưu hàng hoá ở trong nước mà còn quá lạc hậu so với nhu cầu chung của thế giới. Để cải tạo, nâng cấp xây dựng mới các công trình thuộc hệ thống này (kể cả các công trình giao thông, bưu điện...) cần thiết phải có lượng vốn rất lớn.
Về cơ sở hạ tầng, chi NSNN phải đảm bảo vốn để thực hiện các dự án sau:
Trong 10 - 20 năm tới việc hiện đại hoá bưu chính viễn thông phải đi trước một bước, đảm bảo sự giao lưu thông suốt giữa các trung tâm kinh tế, các thành phố và các vùng kinh tế trong cả nước với các quốc gia khác trên thế gioiứ.
Trong thời gian tới phải tập trung nâng cấp sân bay quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, đạt trình độ quốc tế; nâng cấp các sân bay thuộc các thành phố khu công nghiệp, khu du lịch liên doanh, hợp tác với các hãng hàng không quốc tế, mở thêm các đường bay, mua sắm thêm các phương tiện, thiết bị phục vụ cho ngành hàng không.
Cải tạo mở rộng hệ thống đường biển, đường sông, cải tạo mở rộng các cảng lớn như cảng Hải Phòng, cảng Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng và nâng cấp thêm các cảng, Cửa Lò, Quy Nhơn, Đà Nẵng, ... xây dựng cảng ở tất cả các tỉnh ven biển, xây dựng hệ thống cảng biển liên hoàn, phát triển vận tải ven biển, phà sông biển.
Tập trung cải tạo, nâng cấp đường sắt Bắc Nam, mở các tuyến đường sắt Đông - Tây đặc biệt là các tuyến đường nối với Lào, Thái Lan, Cam Pu Chia với các vùng kinh tế trọng điểm.
Xây dựng các đường cao tốc nối liền các vùng kinh tế trọng điểm với các cảng biển, trước mắt là các đường cao tốc Hà Nội - Cái Lân - Hải Phòng, Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu, nâng cấp toàn tuyến quốc lộ 1A, phát triển các trục ngang, các đường 12, quốc lộ 8, 9; nối các cảng miền Trung tới Lào, Thái Lan nâng cấp các quốc lộ trên địa bàn kinh tế trọng điểm ở trong toàn quốc. Đặc biệt là việc xây dựng con đường Trường Sơn nối liền Bắc - Nam công trình đã khởi công trong hạng 4 năm 2000. Theo con số mới nhất hàng năm 1999, chi đầu tư phát triển tăng 38,7% so với dự toán năm. Số tăng chi này chủ yếu là để thực hiện kích cầu thông qua việc bổ sung ốm cho các công trình cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng giao thông ở các tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu và vùng có nhiều khó khăn.
+ Vốn đầu tư cho các doanh nghiệp then chốt.
Ngoài chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì hàng năm 10 - 15% tổng mức chi của NSNN cho một số ngành mũi nhọn có vai trò to lớn trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, những công trình quan trọng, dưới hình thức cho vay ưu đãi của Chính phủ (có hoàn trả) hoặc chính phủ đầu tư dưới hình thức tham gia cổ phần vào các doanh nghiệp (bỏ hình thức cấp phát vốn thường xuyên cho các doanh nghiệp Nhà nước).
Chính sách tài chính nói chung và chính sách chi ngân sách nói riêng đối với các doanh nghiệp then chốt phải được coi trọng. Đồng thời với việc xúc tiến nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như hiện nay là việc quản lý đối với những doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu công ích, chẳng hạn đối với một số sản phẩm do các doanh nghiệp này sản xuất ra mà Nhà nước khống chế mức đầu ra (điện, xăng dầu...) thì Nhà nước nên để các doanh nghiệp thực hiện hạch toán đầy đủ giá đầu vào của các nguyên, nhiên vật liệu, lao độg ... và chỉ thực hiện bù lỗ ở một khâu, hoặc tài trợ phần chênh lệch giữa giá bán thực tế trên thị trường với giá quy định chứ không tài trợ tràn lan như hiện nay.
+ Vốn đầu tư cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài chính sách thương mại và thuế quan thì NSNN không ngừng đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp này thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Trên thực tế để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong thời gian gần đây. Nhà nước đã có sự can thiệp mạnh mẽ bằng biện pháp tài chính như trợ giá hàng xuất khẩu, hàng chính sách, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả v.v....
b, Chi thường xuyên.
Khoản chi này nằm trong nội dung chi tiêu dùng của NSNN nó không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai mà nó dùng cho tiêu dùng hiện tại đối với từng cá thể từng bộ phận. Các khoản chi trong lĩnh vực này gắn liền với chức năng quản lý xã hội và kinh tế của Nhà nước tập trung vào y tế, giáo dục, dự trữ, trả nợ, trả lương.
Về tình hình thực hiện chi đầu tư phát triển ở từng địa phương cụ thể chúng ta có thể có một cái nhìn khái quát thông qua bảng thống kê tình hình đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ (1991 - 1995) và 1996 - 2000
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng số
1.148.190
1.276.050
1.364.830
684.126
1.256.498
Đầu tư từ nguồn vốn XDCB từ NSNN
1.148.190
1.276.050
1.364.830
684.126
1.224.897
+ NSTW
1.036.587
1.091.211
1.107.825
462.854
1.017.798
+ NSĐP
111.603
184.839
257.005
221.272
207.099
Đầu tư từ nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi
31.601
* Tình hình đầu tư phát triển trên địa bàn TP Hà Nội giai đoạn 1991 - 1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
1.724.171
1.991.185
1.744.441
1.432.860
1.576.195
Đầu tư từ nguồn vốn XDCB từ NSNN
1.615.512
1.815.849
1.584.986
1.257.492
1.383.241
+ NSTW
1.194.439
1.334.900
704.386
415.192
414.596
+ NSĐP
921.073
470.949
880.600
892.300
968.645
Đầu tư từ nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi
108.659
175.336
159.425
175.367
192.904
* Tình hình đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 1996 - 2000.
Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, nhằm giải quyết những mâu thuẫn lớn về kinh tế, dân số, biên chế, khả năng huy động vốn trong dân, chi NSNN không những phải đầu tư cho phát triển sản xuất mà còn gánh nhiệm vụ đầu tư phát triển xã hội.
Theo Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng để có “... đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”, trên quan điểm về CNH - HĐH “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế và bền vững. Động viên toàn dân tham gia cần kiệm xây dựng kinh tế đất nước, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện chế độ tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường (quan điểm thứ 4) và (quan điểm thứ 5) “Khoa học công nghệ là nền tảng của CNH - HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”. Trong các văn kiện. Đảng ta đã xác định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội là những con người, trước hết là người lao động, sự phát triển toàn diện của con người là nguồn lực quyết định sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước, do đó chăm lo phát triển nguồn lực con người, thực hiện công bằng xã hội là một trong những nội dung chủ yếu của CNH - HĐH thể hiện ở trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Đây là nhiệm vụ phải thực hiện ngay đồng thời cũng là chiến lược lâu dài đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn. Do đó tỷ trọng chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật ngày càng tăng lên.
Cụ thể trong cơ cấu thì sự nghiệp của NSNN của các năm 1986 - 1990 như sau:
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
Tổng chi NSNN
100
100
100
100
100
Nghiên cứu khoa học
0,5
0,4
0,5
0,7
1,0
Sự nghiệp đào tạo
2,1
1,8
1,4
2,5
4,1
Sự nghiệp giáo dục
4,0
3,8
2,9
4,9
6,9
Trong chiến lược 1996 - 2000 yêu cầu bằng chi bình quân hàng năm của giáo dục đào tạo là 16,8%. Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục đào tạo đặc biệt trong đầu tư và trong các chế độ về tiền lương để nâng cao chất lượng của ngành, có 4 giải pháp để thực hiện chủ yếu là tăng cường các nguồn lực trong đó NSNN giữ vai trò quan trọng. Những thành tựu đạt được về mở rộng mạng lưới trường học lên tới 27.613 trường, tăng quy mô cả giáo dục mầm non, tiểu học, đại học, 91% dân số biết chữ, đội ngũ lao động được đào tạo cơ bản. Số lượng giáo viên chất lượng đào tạo tăng, phong trào toàn dân tham gia vào sự nghiệp giáo dục có tiến bộ đáng kể, có được những tiến bộ này là do có sự quan tâm đổi mới công tác quản lý giáo dục đào tạo. Chi NSNN trợ cấp, hỗ trợ đồng thời làm hoàn thiện củng cố và phát triển công tác giáo dục song với kinh phí hàng năm cho một trường phổ thông là 170 triệu đồng và 6 tỷ đồng cho một trường đại học, nhìn chung nguồn tài chính còn thiếu và yếu nên về cơ bản giáo dục, đào tạo nước ta còn thiếu và yếu nên về cơ bản giáo dục, đào tạo nước ta còn nhiều “bất cập về quy mô, cơ cấu nhất là chất lượng và hiệu quả, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực...” (Nghị quyết Trung ương II). Trước hết cần nâng tỷ trọng ngân sách chi cho giáo dục đạt 15% vào năm 2000 chiếm 5,4% sẽ góp phần giải quyết những vấn đề trọng yếu là:
* NSNN cho vay viện trợ phát triển để xây dựng cơ sở hạ tầng giáo dục - đào tạo, hiện đại hoá việc dạy và học, xây mới sửa chữa bổ sung các trường học, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, mua sắm trang thiết bị bàn ghế, nâng cấp các trường dạy nghề, đại học đặc biệt là những trường sư phạm để từng bước áp dụng phương pháp và phương tiện tiên tiến vào quá trình nghiên cứu giảng dạy. Đây là phần đầu tư cho cơ sở vật chất phấn đấu mức chi bình quân 290 triệu đồng/năm cho trường phổ thông và trường đại học cao đằng là 11 tỷ đồng/năm nâng tỷ lệ cho hoạt động giảng dạy lên 40%...
NSNN trên chi cho chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, không thu học phí đối với cấp học này tiến tới phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Hỗ trợ cho giáo dục mầm non.
Trợ cấp cho những vùng khó khăn và học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách hoặc có hoàn cảnh khó khăn (dưới hình thức tín dụng sinh viên, tín dụng đào tạo).
Chi NSNN đặc biệt ưu tiên đào tạo đội ngũ giáo viên, bồi dưỡng thường xuyên, ưu đãi lương trợ cấp cho giáo viên tạo điều kiện thu hút học sinh khá giỏi phẩm chất tốt vào ngành sư phạm, nâng cao chất lượng giáo viên chi NSNN hỗ trợ cho công tác đổi mới quản lý giáo dục “cùng với giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. CNH - HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ, Đảng và nn có chính sách đầu tư khuyến khích hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ” (Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH - HĐH) đây là chiến lược quốc gia, điều kiện để sánh vai với các cường quốc năm châu, nên sự tham gia của Nhà nước bằng nguồn chi ngân sách là nguồn lực chủ yếu, giải pháp quan trọng có vai trò to lớn trong phát triển khoa học công nghệ phục vụ CNH - HĐH đất nước. Trong ba nguồn đầu tư cho khoa học là Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức trong nước đặt hàng và nguồn từ nước ngoài vào thì nguồn đầu tư từ ngân sách tăng khá nhanh chiếm 80 - 90% chi phí thường xuyên của hoạt động này Nhà nước cấp tiền cho các hoạt động công nghệ không có nghĩa là bao cấp toàn bộ mà là tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của cả khoa học công nghệ trước tiên là ưu tiên đầu tư và áp dụng những công nghệ cần vốn thấp, tận dụng lợi thế sẵn có như công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng, tranh thủ hiện đại hoá ở một số khâu có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao trình độ công nghệ ở các ngành khác như công nghiệp cơ khí, điện tử, chú ý đặc biệt tới chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chi cho nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại và phụ tùng 39% tăng bình quân hàng năm 25%. Ngoài ra NSNN còn cấp vốn cho những dự án không thể trực tiếp thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ như các thiết bị phục vụ cho việc nghiên cứu, các xưởng sản xuất thử nghiệm tài trợ cho việc nghiên cứu, các xưởng sản xuất thử nghiệm tài trợ cho việc phát huy nưng lực của đội ngũ cán bộ khoa học, khuyến khích người làm công tác khoa học bằng những lợi ích chính đáng.
Mặt khác nâng cao năng lực khoa học công nghệ trong những năm tới nhu cầu về vốn rất lớn. Vì vậy cần đa dạng hoá các nguồn vốn xã hội đầu tư cho khoa học công nghệ, Nhà nước là nhà đầu tư chủ yếu vào các công trình thiết yếu trước mắt do điều kiện các nguồn vốn khác còn gặp nhiều khó khăn thì Nhà nước cần phải là nguồn bảo trợ chủ yếu, chi ngân sách cho khoa học công nghệ phải từ dưới 1% đến 2% tổng chi ngân sách (tương đương 0,2% GDP) có như vậy mới làm cho khoa học công nghệ trong lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá mà cả khoa học xã hội phát triển một cách toàn diện cả khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp, nông nghiệp, bảo vệ môi trường quốc phòng an ninh... Lấy hạnh phúc con người làm động lực chủ yếu để thực hiện mục tiêu của CNH - HĐH là “đời sống vật chất và tinh thần cao” tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, quốc phòng an ninh.... Lấy hạnh phúc con người làm động lực chủ yếu để thực hiện mục tiêu của CNH - HĐH là “Đời sống vật chất và tinh thần cao” tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường - đó cũng là những nội dung chính của chính sách xã hội chăm lo phát triển nguồn lực con người mà Nhà nước giữ vai trò nòng cốt thực hiện. Coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu cần phải tăng cường đầu tư, chi NSNN còn có vai trò đối với văn hoá, chăm lo sức khoẻ và các vấn đề xã hội khác như phân phối việc làm... trong sự nghiệp CNH - HĐH.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một môi trường văn hoá lành mạnh được xây dựng trên bản sắc dân tộc kết hợp với yếu tố thời đại nội dung chủ yếu là kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá sẵn có, truyền thống, củng cố tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2000 số huyện có trạm thu phát truyền hình là 100%, 80% số hộ được xem truyền hình trung ương và 95% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam, mỗi người dân được 3,16 bản sách, 5,4 số báo tạp chí. Để đạt được những chỉ tiêu này thời gian vừa qua và trong những năm tới phân bổ chi NSNN cho văn hoá, nghệ thuật thể thao là: 1998: 0,7%; 1989: 0,9%; 1990: 1,8%. Năm 1996 - 2000 cần 10656 tỷ đồng (trong đó 6656 tỷ đồng để chi thường xuyên và chi xây dựng cơ bản 4000 tỷ đồng) tốc độ tăng chi bình quân chi hàng năm là 30,9%. Mặc dù khả năng đáp ứng của NSNN được 70 - 80% nhu cầu đầu tư toàn ngành và nếu so sánh với nhu cầu của toàn dân để được cải thiện đời sống văn hoá tinh thần thì có lẽ là chưa đủ nhưng nó thể hiện nỗ lực ưu đãi của Nhà nước vào việc nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân ở mọi vùng đất nước, đổi mới cơ chế quản lý một cách dân chủ sáng tạo hơn, xây dựng gia đình no ấm bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc, con người mới có tri thức văn hoá và bản lĩnh chính trị góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, đấu tranh các hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi văn hoá độc hại.
Về y tế, thời gian tới nhu cầu đầu tư cho sự nghiệp y tế và chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nâng cao thể chất nhân dân là hơn 31000 tỷ đồng chiếm 1,6 GDP trong đó NSNN đảm bảo được 60% tập trung cấp phát kinh phí cho các hoạt động phòng chống dịch bệnh và đi đến xoá bỏ các căn bệnh hiểm nghèo. Thực hiện chương trình tiêm chủng quốc gia, thanh toán tiền chữa bệnh cho người nghèo có công với nước, hỗ trợ quỹ bảo hiểm y tế. Ngoài ra chi NSNN trong lĩnh vực y tế còn có nhiệm vụ sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở y tế theo hướng giảm bớt đầu mối, tăng thiết bị và điều kiện khám chữa bệnh, đãi ngộ cán bộ y tế, chương trình vệ sinh thực phẩm, môi trường, hỗ trợ kinh phí thực hiện chương trình quốc gia về dân số - kế hoạch hoá gia đình để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới một tuổi xuống dưới 30%, toàn bộ dân cư thành thị và 80% dân số nông thôn được cung cấp nước sạch, 100% số xã có trạm y tế và 40% số trạm y tế xã có bác sĩ tăng tuổi thọ bình quân lên khoảng 10 tuổi, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số xuống 1,8%/năm.
* Từ nhận thức đúng đắn quan điểm “công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý, tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Nhà nước đã hết sức cố gắng trong việc bố trí cho các hoạt động sự nghiệp và các nhu cầu đảm bảo xã hội thực hiện chức năng trọng yếu nhất của tài chính là phân phối dưới hình thức giá trị, phân phối tài chính được tiến hành qua nhiều hình thức trong đó có các khoản chi của ngân sách, chỉ trả lương cho cán bộ công nhân viên thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, an ninh quốc phòng nằm trong khoản chi tiêu dùng hiện tại, một mặt về phía người hưởng lương nó có vai trò tạo thu nhập đảm bảo đời sống, mặt khác nó đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội của Nhà nước, thể hiện: Trên phương diện lý luận tiền lương là một yếu tố của quá trình sản xuất và tái sản xuất do quan hệ sản xuất quyết định. CNH - HĐH đặc biệt chú trọng đến nhân tố con người khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường bằng việc Nhà nước quy định các hình thức, nguyên tắc phân phối và trực tiếp chi làm sao đảm bảo tiền lương của các công chức đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu hàng ngày của bản thân và gia đình chấm dứt tình trạng người hưởng lương. Phải làm thêm để kiếm sống, yên tâm với công việc của mình, dưới 8% chi tiêu dùng, việc phân phối quỹ lương của NSNN tuy chưa đáp ứng được nhu cầu song có vai trò quan trọng tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc đạt năng suất chất lượng và hiệu quả công việc đặt lên hàng đầu từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện sản xuất, đời sống. Thông qua đó điều hành loại trừ dần những hiện tượng tiêu cực trong phân phối chống bình quân chủ nghĩa, cải cách cơ cấu hành chính cồng kềnh kém hiệu quả.
Mục tiêu của CNH - HĐH là tiến tới một xã hội công bằng văn minh không chỉ thể hiện ở hình thức phân phối theo lao động tư liệu sản xuất lẫn kết quả sản xuất tới người hưởng lương mà NSNN còn giữ vai trò nòng cốt tham gia giải quyết những vấn đề xã hội. Một trong những nhiệm vụ đó là ra sức đầu tư, mở mang ngành nghề, cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm cho người lao động nằm trong khoản chi đầu tư phát triển của ngân sách, song lại hoàn toàn phù hợp với chính sách xã hội của Nhà nước qua đó tạo cơ hội cho người lao động, tự tạo và tìm việc làm, tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5% và nâng tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn lên 75% giải quyết việc làm cho 6,5 đến 7 triệu người.
Thực hiện chính sách trợ cấp cho người nghèo và các đối tượng xã hội chi ngân sách hình thành nên các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ dành cho các hoạt động nhân đạo, từ thiện.
Xây dựng nền kinh tế thị trường và sự điều tiết của Nhà nước cần có chính sách tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các tác nhân kinh tế đồng thời khác phục hạn chế những mặt tiêu cực - thực hiện chức năng này NSNN đảm nhận chi bù lỗ, bù giá và dự trữ quốc gia (nằm trong khoản chi nghiệp vụ) nhằm ổn định quá trình sản xuất kinh doanh và nền kinh tế, chống độc quyền, phát triển khâu trọng yếu, ngành then chốt mặt hàng chiến lược... Nhà nước cũng sử dụng các doanh nghiệp quốc doanh và duy trì hoạt động dù không có hiệu quả kinh tế cá biệt dưới hình thức cấp phát vốn để bù lỗ, các biện pháp này để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Ví dụ: bù giá cho hàng nông sản, các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu như điện, nước, giao thông... chi NSNN có vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ với lạm phát do (hiện tượng thừa tiền trong lưu thông) giá cả hàng hoá tăng, thiếu hàng hoá. Vì vậy khi lạ phát xẩy ra Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là cắt giảm các khoản chi tiêu của Ngân sách làm giảm tổng cầu cân đối với tổng cung.
Đảm bảo ổn định kinh tế xã hội đòi hỏi phải có dự trữ quốc gia hình thành bằng nguồn kinh phí cấp phát của NSNN để xử lý khi có hiện tượng thiên tai, dịch hoạ bất ngờ, hoặc bình ổn thị trường, điều hoà cung cầu về tiền tệ, ngoại tệ và một số mặt hàng chiến lược.
Ngoài ra trên 10% tổng số chi tiêu hàng nằm của NSNN còn được để bố trí các khoản chi cho duy trì củng cố lực lượng quân đội an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ mới là xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc kết hợp kinh tế với quốc phòng, CNH - HĐH với đảm bảo an ninh quốc phòng vững chắc.
Thực hiện chi ngân sách địa phương (1996 - 2000)
Nội dung chi
1996
1997
1998
1999
2000
1. Chi đầu tư XDCB tập trung
290.758
229.770
674.600
652.300
750.145
Trong đó
- Nguồn cân đối trong ngân sách
260.167
208.524
235.000
246.300
283.245
- Nguồn ghi thu ghi chi thiết bị
30.591
21.246
439.600
406.000
466.900
2 - Chi XD cơ sở hạ tầng từ nguồn thu cấp quyền SDĐ
130.315
241.179
206.000
190.000
218.500
3 - Chi phát triển nhà từ nguồn thu bán nhà
30.000
34.500
4 - Cấp bù lỗ, trợ giá
9.584
11.929
12.000
12.000
13.800
5 - Chi đầu tư chiều sâu
89
1.438
4.800
8.050
6 - Cấp VLĐ các DNNN
1.431
7 - Chi SN kinh tế
279.943
269.166
315.000
285.000
327.750
- Chi SNNL thuỷ lợi
20.241
21.856
25.000
30.000
34.500
- Chi SN giao thông
62.215
67.936
65.000
60.000
69.000
- Chi SN đô thị nhà ở
163.742
179.374
225.000
195.000
224.250
8 - Chi SNGD đào tạo
241.895
350.705
347.350
350.000
402.500
9 - Chi SN y tế
79.889
86.279
101.000
101.000
116.150
10 - Chi SN văn hoá TT - PTTH
35.987
37.228
40.000
45.500
52.325
11 - Chi SN TDTT
21.871
27.461
30.000
28.000
32.200
12 - Chi NC khoa học
15.212
13.064
18.000
18.000
20.700
13 - Chi đảm bảo xã hội
32.050
43.123
51.000
51.000
58.650
14 - Chi QLHC
240.800
255.413
200.000
184.000
215.000
15 - Chi an ninh - QP
71.385
78.505
61.000
61.000
70.150
16 - Chi khác
42.235
67.423
18.500
14.000
16.100
17 - Chi trợ cấp xã, phường
45.241
96.736
85.000
80.000
92.000
18 - Ghi thu ghi chi viện trợ
134.978
19 - Chi thoái trả tiền nhà và đất
-
-
25.000
30.000
34.500
20 - Dự phòng phí.
4.500
19.000
21.850
Tổng chi NSĐP
1.538.685
1.800.422
2.189.250
2.150.300
2.472.845
Từ thực trạng, tình hình chi NSNN cho đầu tư phát triển cũng như tiêu dùng trong thời gian qua cũng như phương hướng nhiệm vụ những năm trước mắt, xuất phát từ mục tiêu quan điểm, nội dung, yêu cầu của thời kỳ mới có thể khẳng định vai trò quan trọng của chi NSNN vừa là động lực vừa là công cụ để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội của Nhà nước phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH.
Chương 3
Một số giải pháp nâng cao vai trò của chi NSNN trong sự nghiệp CNH - HĐH
Chi NSNN có vai trò to lớn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào khoảng năm 2020. Vai trò đó thể hiện ở chỗ tập trung vốn đáp ứng cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của nền kinh tế quốc dân, phát triển sản xuất hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế, tăng cường an ninh quốc phòng mở rộng quan hệ đối ngoại. Vì vậy nâng cao vai trò chi NSNN sẽ đảm bảo được sự quản lý tập trung thống nhất có hiệu quả của NSNN, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thực trạng và yêu cầu có thể đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:
1-/ Xoá bỏ tình trạng bao cấp trong chi NSNN.
Tính chất bao cấp trong chi NSNN thể hiện ở chỗ Nhà nước đứng ra đảm nhận trang trải toàn bô các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các hoạt động xã hội. Với khả nang thu nguồn kinh phí và nguồn dự trữ hạn hẹp việc làm này không tránh khỏi nhiều tiêu cực. Chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước có chức năng và vai trò điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, thực hiện đổi mới chính sách tài chính quốc gia, xoá bỏ ngay tình trạng bao biện, bao cấp có như vậy mới khắc phục được những khó khăn bị động, tuỳ tiện và kém hiệu quả từ phía NSNN và các bên được NSNN cấp.
- Về kinh tế đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh cần chấm dứt trợ giúp thông qua cơ chế cấp phát vốn lưu động, cho vay ưu đãi, bù lỗ, bù giá, bù lương triền miên, chi thực hiện phân phối và sử dụng vốn theo hạch toán kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp tách riêng chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh, xoá bỏ bao cấp trong các hoạt động kinh tế phải đi đôi với việc ban hành các chế độ chính sách, tạo điều kiện kiểm tra các doanh nghiệp có thể huy động được các nguồn vốn không chi từ tín dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh, tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, cá nhân nước ngoài, phát hành trái phiếu..., NSNN có thể chuyển một phần vốn đầu tư thành hình thức tín dụng góp liên doanh bằng vật tư thành hình thức tín dụng góp liên doanh bằng vật tư tài sản vốn hiện có. Cải tiến cơ chế quản lý doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp của NSNN, có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau cho phù hợp với điều kiện thực tế, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp đáng chú ý.
- Đối với lĩnh vực xã hội nếu chỉ dựa vào nguồn chi ngân sách dẫn đến tình trạng tất cả các hoạt động đều phụ thuộc, ỷ lại một cách thụ động, song khó khăn về nguồn tài chính. Trong khi các nhu cầu chi về giáo dục, văn hoá, y tế... tăng lên làm cho kinh phí ít, phân tán. Giảm dần bao cấp của ngân sách góp phần giảm nhẹ gánh nặng, NSNN chi hợp lý hơn, tránh lãng phí. Vì vậy bên cạnh vai trò chủ yếu của NSNN; đa dạng hoá các nguồn huy động vốn, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư về mặt xã hội: Ví dụ: chủ trương gắn khoa học với sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế tự bỏ vốn để nghiên cứu triển khai công nghệ, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, thực hiện rộng rãi bảo hiểm y tế.
2-/ Cơ cấu lại chi NSNN, sử dụng nguồn vốn ngân sách hợp lý đúng hướng, có trọng điểm.
Trong quá trình CNH - HĐH thực hiện đổi mới chi ngân sách theo từng thời kỳ, chống bao cấp, đòi hỏi “Tập trung nguồn vốn, sử dụng thống nhất và kiên quyết chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán dàn trải” căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế việc phân phối vốn đầu tư trước mắt tập trung vào yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và một số công trình mũi nhọn. Đây là tổng thể các ngành và loại hình phục vụ quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế quốc dân. Vì vậy đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng như thông tin liên lạc, giao thông vận tải, bến bãi, kho tàng... các ngành điện năng cơ khí chế tạo, bến bãi, kho tàng..., các ngành điện năng cơ khí chế tạo, chế biến, điện tử, các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế của đất nước, kết hợp phục vụ những nhiệm vụ kinh tế - xã hội hiện nay và phát triển lâu dài cần tập trung vào các cơ sở khi khai thác tài nguyên thiên nhiên, ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các cơ sở sản xuất tạo ra và điều chỉnh cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phục vụ cho các chính sách xã hội, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Ưu tiên cho các dự án cần nhiều lao động, tăng cường đầu tư cho thiết bị, máy móc, giảm tỷ trọng chi cho xây lắp và kiến thiết cơ bản khác. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Hình thành các quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, quỹ đầu tư kiến thiết nông thôn, quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, quỹ quốc gia hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế, quỹ hỗ trợ quốc gia phát triển khoa học và công nghệ.
3-/ Đổi mới phương thức cơ chế cấp phát vốn đầu tư từ ngân sách, tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn.
Với năm phương thức cấp phát là “Chi thu - ghi chi”, gán thu bù chi, lệnh chi tiền, cấp phát theo hạn mức, cấp phát kinh phí theo uỷ quyền, song còn rườm rà khó quản lý việc hạch toán cân đối các khoản chi tiêu, do vậy chưa đồng bộ nghiêm túc. Hơn nữa phổ biến là hiện tượng nhiều kênh, nhiều nguồn cấp phát, nhiều cấp trung gian nên công tác quản lý và xác định hiệu quả nguồn kinh phí chậm chạp, khó khăn. Điều đó không tránh khỏi sơ hở và thất thoát lãng phí lớn nguồn NSNN mà không kiểm tra xử lý được. Chẳng hạn như thất thoát trong vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 20 - 30% đặc biệt trong thời kỳ 1976 - 1986 là 46%.
Để ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong quá trình chi NSNN thực hiện công bằng xã hội, chống lãng phí tham nhũng để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đã huy động được cần phải quy định chế độ cấp phát theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp theo hình thức khoán gọn, thủ tục nhanh chóng dễ dàng.
4-/ Nâng cao đội ngũ cán bộ làm công tác chi ngân sách Nhà nước.
Qua công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý chuyên môn, phẩm chất theo kịp với yêu cầu mới, áp dụng phương tiện làm việc hiện đại, tiên tiến.
Các giải pháp nâng cao vai trò của chi ngân sách chính là sự kết hợp đồng bộ hai chức năng phân phối và giám đốc tài chính trong quá trình sử dụng quỹ.
5-/ Tăng thu ngân sách Nhà nước.
Đảm bảo cân đối thu chi để kích thích tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội phải có nguồn vốn mà nguồn vốn đó là nguồn vốn từ ngân sách. Nếu khả năng, mức độ thu ngân sách lớn thì các khoản chi ngân sách mới thực tế điều hành ngân sách 10 năm qua để thực hiện rõ chủ trương ưu tiên chống lạm phát lên vị trí số 1; lấy kiềm chế lạm phát làm chính nên đã quá thắt chặt chi tiêu, giảm bội chi ngân sách, do vậy các hoạt động kinh tế không được kích hoạt và mất đi tính sôi động vốn có của chúng.
Trong điều kiện thực tế nước ta, Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng xuất phát điểm thấp về mọi mặt, nhất là về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, năng suất lao động, sức cạnh tranh,... thì chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn tới là hoàn toàn hợp lý vì chỉ có CNH-HĐH mới tạo đà cho nền kinh tế phát triển,... Nhưng muốn thực hiện CNH-HĐH thành công, đưa nước ta tiến thêm một bước phát triển mới thì nhất thiết phải có bước đột phá táo bạo áp dụng một chính sách tài khoá tích cực, phải chấp nhận tình trạng chi ngân sách nhiều hơn khả năng thu từ nội bộ nền kinh tế, chấp nhận có bội chi trong một thời gian không ngắn, với một mức độ hợp lý nhằm tạo ra tiềm năng tài chính để triển khai thắng lợi các chương trình lớn của đất nước, từng bước đưa năng suất lao động lên cao nhằm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó cho phép Nhà nước giảm bội chi ngân sách.
Trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ tới, chính sách tài khoá Việt Nam trước hết cần tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mức liên tục cao và ổn định trong một thời gian dài, tạm thời chưa nên đặt vấn đề cân bằng ngân sách cho đến khi nào, về cơ bản, nước ta là một nước công nghiệp phát triển ở trình độ trung bình tiên tiến của thế giới. Mức bội chi nên được xác định trong cân đối giữa quy mô thu và nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế, thực hiện CNH-HĐH đất nước; tỷ lệ bội chi thực tế dự kiến khoảng từ 6-8% GDP trong suốt những năm đầu tiêu của thế kỷ 21 là hợp lý hơn cả.
Phần kết luận
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói chung và tài chính nói riêng là quá trình chuyển đổi và phát huy không ngừng về mọi mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội,... Khai thác mọi tiềm năng để đổi mới toàn diện và đồng bộ, nâng cao tăng trưởng và hiệu quả kinh tế, đáp ứng các nhu cầu cần thiết đảm bảo công bằng xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Muốn vậy phải phân phối và sử dụng hợp lý, tiết kiệm đúng hướng, đạt hiệu quả cao. Quá trình thực hiện các nhiệm vụ trên đây cũng là quá trình khẳng định và nâng cao hơn nữa vai trò của chi ngân sách Nhà nước góp phần to lớn vào quyết định, vào sự thành công của quá trình phát triển kinh tế xã hội phục vụ CNH-HĐH vì “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn mình”.
tài liệu tham khảo
1-/ Đề cương bài giảng “Tài chính học” - NXB Trường ĐH Tài chính Kế toán - Hà Nội.
2-/ Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB - Chính trị quốc gia Hà Nội -1996.
3-/ Đổi mới ngân sách Nhà nước - NXB Thống kê Hà Nội - 1992.
4-/ Luật ngân sách Nhà nước - NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội - 1996.
5-/ Tài chính trong sự nghiệp CNH-HĐH - Viện nghiên cứu tài chính.
6-/ Đề cương bài giảng “Kinh tế chính trị” - Học phần II - NXB Trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
7-/ CNH-HĐH của Việt Nam - NXB Kinh tế Chính trị học.
8-/ Một số vấn đề về CNH-HĐH ở Việt Nam.
9-/ CNH-HĐH ở Việt Nam đến năm 2000 - Viện kinh tế thế giới.
10-/ Tạp chí tài chính tháng 1 - 2000.
11-/ Báo cáo xây dựng chiến lược tài chính đến năm 2010 - UBND Hà Nội - Liên ngành Tài chính Thành phố.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0268.doc